Tân Truyền giáo là gì?
(What Is the New Evangelization?)
Michelle K. Borras
(Lm. Đa-minh Trần đình Nhi, chuyển ngữ)
“Chúng ta đã tin vào tình
yêu của Thiên Chúa…” (1 Gio-an 4:16)
Một thế giới mong đợi Tình
yêu và Niềm vui
Họa hiếm người ta mới thấy lóe lên trong thế giới hôm nay
tia hy vọng đích thực và làm cho cuộc sống biến đổi. Thường thì ngày qua ngày người ta thỉnh thoảng
cũng có được một thoáng hạnh phúc, nhưng hầu hết đều thức dậy hay đi ngủ trong một
trạng thái tương đối chẳng có gì vui vẻ cả.
Ở Tây Âu hay Bắc Mỹ-châu, nơi người ta tự hào mình thịnh vượng và có những
truyền thống luật pháp bảo vệ quyền lợi con người, dân chúng đủ ăn đủ mặc. Nhưng lương thực, áo quần, nhà cửa và sự tôn trọng
quyền lợi căn bản vẫn chưa phải là tất cả những gì con người cần có để sinh tồn. Thử hỏi có bao nhiêu người không dám thú nhận
rằng mình thật khó mà sống, nếu họ cô độc hoặc ở một nơi họ không phải mang “bộ
mặt công cộng” lạc quan?
Thực khó cho bạn, một người trẻ mỗi ngày ở trường về ngôi
nhà gợi lại cảnh cha mẹ bạn, những người bạn yêu thương, không còn yêu nhau nữa
nên đã ly dị; khó cho bạn, một công nhân mỗi ngày phải trở lại nơi làm việc, ở
đấy con người đơn thuần bị coi như phương tiện sản xuất hoặc tham vọng của người
khác; khó cho bạn, một người ở tuổi trung
niên, khi có những mối tương quan đã đổ vỡ, đến nỗi bạn chỉ mong những ngày đời
còn lại ngồi ăn “một mình, hay là với con mèo” mà thôi;[1]
khó cho bạn, một người lớn tuổi, khi cảm thấy mình chẳng còn gì để đóng góp cho
xã hội và nửa như đã bị người thân quên lãng.
Thực khó khi chúng ta chẳng được yêu thương chút nào, hoặc mong muốn được
yêu thương chút nào hay chút ấy. Rồi thậm
chí chúng ta quá quen với tình trạng như vậy đến độ khó mà nhận ra được tình yêu
nữa, thì khi ấy dễ gì yêu thương người khác.
Không phải là dễ khi sống trong một thế giới thường như không
có vẻ đẹp đích thực và vững bền, vẻ đẹp không phải là ảo ảnh và có thể khiến chúng
ta sững sờ cũng như đưa chúng ta thoát khỏi cảnh nhàm chán của cuộc sống và của
bản thân chúng ta. Rồi hầu như không thể
chịu nổi khi chúng ta phải đối diện với một thái độ rõ ràng chối bỏ vẻ đẹp, chối
bỏ con người và tình yêu. Người ta đã có
cảm nghĩ giống như vậy khi xảy ra những cuộc tấn công khủng bố Hoa-kỳ ngày 11
tháng 9 năm 2001. Lúc ấy tờ Nữu-ước Thời
báo đã mô tả “những giờ phút kinh hoàng”
dân chúng Mỹ “đã chứng kiến một việc
không thể diễn tả, không thể hiểu và không thể nghĩ đến”.[2] Nhưng những giờ khắc kinh hoàng khác vẫn tiếp
tục xảy ra trong những khung cảnh nhỏ hẹp hơn, cá nhân hơn – đôi khi cũng ở phạm
vi toàn cầu – vào mọi lúc. Một đàng, thời
chúng ta đang sống dường như đầy hứa hẹn.
Đàng khác, hứa hẹn ấy thường lại vỡ tan, hoặc vì cuộc sống chúng ta chẳng
có gì thú vị và buồn tẻ, hoặc vì chúng ta bất thần phải đối phó với sự dữ ào ạt
hay ngấm ngầm có thể phát sinh từ lòng người mà hoành hành trong thế giới.
Khám phá tình yêu Thiên
Chúa giữa khổ đau
Cả Karol Wojtyla, người trở thành Giáo Hoàng Gioan Phaolô II,
lẫn Joseph Ratzinger, người trở thành Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, đều trưởng thành
trong một thế kỷ và thế giới dường như không chỉ có những xung đột kinh khủng,
mà còn có “một cuộc bùng nổ của sự dữ”[3]
lớn lao đã bóp chết mọi manh nha hy vọng và niềm vui. Wojtyla sinh năm 1920, chỉ lớn tuổi hơn ít
năm. Trong thời ngài, Ba-lan trước hết bị
Đức-quốc xã xâm lăng hồi Thế chiến II, rồi đến Cộng sản Xô-viết. Sau này ngài nói: “Tôi đã có kinh nghiệm cá nhân về những ý thức
hệ của sự dữ. Kinh nghiệm ấy không làm sao
xóa được khỏi ký ức của tôi”.[4]
Sau khi quân đội của Adolf Hitler xâm lăng quốc gia ngài vào
năm 1939, anh Karol, một sinh viên đại học đã trở thành một công nhân mỏ đá khi
chiến tranh bùng nổ. Một người đồng hương
của anh đã mô tả những năm chiến tranh và bị chiếm đóng như sau: “Công an lùng bắt, bị đưa tới những trại tập trung
và cưỡng bách lao động… bắn giết ngoài phố, tất cả những điều này đã thành một
phần đời sống thường ngày… Năm năm trời chúng tôi không ngừng bị đói ăn, mỗi
mùa đông là chúng tôi lạnh thấu xương”.[5] Khi Karol quyết định theo học để làm linh mục
Công giáo, anh đã được đào tạo lén lút trong một chủng viện bí mật. Một khi đã thành linh mục và sau làm giám mục,
ngài chứng kiến đất nước mình vừa mới thoát khỏi những kinh hoàng của Thế chiến
II lại phải chịu cảnh nhiều năm bị Liên bang Xô-viết đàn áp khi họ thiết lập những
chính phủ bù nhìn tại khắp Đông Âu.
Là một thanh niên, linh mục và giám mục, Karol đã thấy phẩm giá
con người bị đe dọa trầm trọng và không ngừng, khi đồng bào của ngài bị áp bức,
sát hại, cầm tù một cách bất công và người ta bảo họ không cần có văn hóa hay
Thiên Chúa. Tuy nhiên ngài cũng biết rằng
mình phải sống cuộc sống làm sao xứng đáng một con người. Đứng trước quá nhiều sức mạnh chối bỏ nhu cầu
căn bản của con người là yêu thương và được yêu thương, ngài đã phải chọn yêu
thương.
Người thanh niên thứ hai, Joseph Ratzinger, sinh năm 1927 và
lớn lên tại Đức-quốc ngay khi đảng Quốc xã của Hitler nắm chính quyền. Cha cậu, một người dám mạnh mẽ lên tiếng chống
đối chế độ Quốc xã, đã phải rời gia đình đi để họ được an toàn. Khi còn là một thiếu niên hồi Thế chiến II, cũng
như các thiếu niên tráng kiện khác tại Đức-quốc, Joseph cũng bị bắt buộc phải
chu toàn những công tác hỗ trợ cho nỗ lực của quân đội Đức-quốc. Cậu đã đào hầm hố bằng tay trong một buổi lao
động dưới sự canh gác của “những kẻ mang ý thức hệ cuồng tín đã không ngừng đối
xử như bạo chúa với chúng tôi”.[6]
Bị động viên vào ngành bộ binh hồi cuối cuộc chiến, Joseph đã
đào ngũ – một hành động có thể bị trừng phạt bằng cách hành quyết lập tức – và
đã tìm đường về gia đình. Vừa về tới nhà,
cậu thấy lính Mỹ đang chiếm đóng căn nhà của gia đình. Cậu trở thành tù binh chiến tranh trong hai tháng,
ngủ chung với hàng ngàn tù binh khác ngoài đồng không mông quạnh và ráng sống
sót “nhờ một muôi cháo và một cái bánh nhỏ mỗi ngày”.[7] Sau khi được thả ra, cậu lại vào chủng viện, được
động viên nhờ “ý thức mạnh mẽ về lòng biết ơn vì đã được trở về… từ đáy vực của
những năm cơ cực”.[8] Mặc cho những kẻ hô hào ý thức hệ Đức-quốc bảo
dân chúng rằng đất nước họ cần có sức mạnh và hãnh diện quốc gia chứ không cần Thiên
Chúa, và mặc dù những người khác đã tuyệt vọng, Joseph vẫn biết rằng mình phải
sống khác. Ngài phải sống nhân bản, phải
cảm tạ và hy vọng. Cũng như Karol, ngài
phải chọn sống yêu thương.
Cả hai người trẻ, những người sau này làm giáo hoàng, đều đã
sống trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn.
Nhưng các ngài đã vượt qua được những năm tháng đó nhờ điều mà các ngài sau
này sẽ cống hiến cho những ai khao khát vẻ đẹp và tình yêu vững bền: đó là khám phá ra rằng hy vọng là điều có thể,
những khát vọng sâu xa nhất của con người đều có một đối tượng đích thực, vẻ đẹp
vẫn hiện hữu và còn đi vào tận cõi sâu thẳm của đau khổ con người để làm cho chúng
được biến đổi, và chúng ta thực sự được sinh ra là để yêu thương và được yêu
thương bằng một tình yêu đầy đủ và tươi đẹp.
Một sứ điệp hy vọng cho
thế giới hiện đại
Như Đức Gioan Phaolô II đã viết vào lúc cuối đời ngài, tất cả
những kinh nghiệm khủng khiếp thời tuổi trẻ của ngài đã dạy ngài rằng có một “giới
hạn được áp đặt trên sự dữ trong… lịch sử” và giới hạn này liên quan đến lòng
thương xót của Thiên Chúa.[9] Mặc cho mọi sợ hãi chúng ta có thể có về khả năng
con người đứng trước sự dữ hoặc về sự yếu đuối và rối loạn của tâm hồn chúng
ta, chúng ta cũng đừng sợ, vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Quả thực, Thiên Chúa là Tình yêu: Người là Cha đã sai Con Một đến chịu chết và chiến
thắng sự chết vì chúng ta, để chúng ta “được cùng với con cái Thiên Chúa chung
hưởng tự do và vinh quang” (Rô-ma 8:21).
Đối với người trẻ Karol Wojtyla cũng như đối với con người sau này của anh,
thì Ki-tô giáo, tức sự mặc khải của một Thiên Chúa hết mực yêu thương nhân loại,
thực sự là Phúc Âm (evangelion = từ Hy-lạp nghĩa là “tin mừng”). Trong một thế giới khổ đau và chẳng có gì là vui
mừng, đầy chết chóc và áp bức, anh đã tìm được niềm vui. Niềm vui này lớn lao đến nỗi anh cảm thấy mình
bị giục giã mỗi ngày trong đời, bằng cách này hay cách khác, hãy cống hiến niềm
vui ấy cho tất cả những ai đang bị dày vò trong thiếu vắng niềm vui và hy vọng.
Trong những quốc gia Tây phương trù phú hiện nay, những mối đe
dọa đối với hạnh phúc con người có thể mang những hình thức tinh tế hơn là nỗi đau
khổ người trẻ Karol đã trải qua. Nhưng
ngay khi là một vị Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II vẫn biết rằng những nguy hiểm
tinh vi này còn đang có mặt và chúng đe dọa con người chẳng kém gì “một cuộc
bùng nổ của sự dữ”[10]
mà ngài đã chứng kiến hồi trai trẻ.
Cũng như Karol Wojtyla, chàng thanh niên Joseph Ratzinger có
thể dễ dàng thất vọng. Đất nước của anh đã
tan nát cả vể luân lý lẫn thể lý, rồi một người lớn lên trong bối cảnh ấy sẽ có
đủ mọi lý do để sợ tất cả những gì nằm trong trái tim con người. Tuy nhiên cũng như Đức Gioan Phaolô II, Ratzinger
sẽ có thể nói với tính cách là Giáo Hoàng Bênêđictô XVI rằng: “Đừng sợ!”
Bởi vì đã có một người biết được trái tim con người, một người cất đi sự
sợ hãi của chúng ta, một người yêu thương và giúp chúng ta yêu thương cũng như giúp
chúng ta hy vọng. Người ấy là Chúa
Giê-su Ki-tô.
Không phải ngẫu nhiên mà một trong những Tông thư đầu tiên của
Đức Bênêđictô XVI gửi cho Giáo Hội và thế giới đã nói về niềm hy vọng, hy vọng lớn lao và dứt khoát vào Thiên Chúa để đem lại
ý nghĩa cho cuộc sống con người.[11] Từ kinh nghiệm về bạo quyền Đức-quốc xã, ngài
đã biết điều gì đang xảy ra, không những trên bình diện những biến cố toàn cầu,
nhưng ngay trong tâm hồn con người, khi con người cố sống như là không có Thiên
Chúa. Một lúc nào đó, mọi sự có vẻ như bình
thường cho đến khi bất ngờ người ta ý thức rằng họ không thể ngăn chặn được những
đe dọa và bạo lực mà chính họ đã đưa vào thế giới. Họ mất đi niềm hy vọng và vô cùng khát khao một
điều gì chính họ không thể đem lại được.
Vì thế mãi sau này, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô đã nhấn mạnh đến việc thăm viếng
miền đông Đức-quốc ngày xưa thuộc về Cộng sản, nơi người ta hầu hết không còn
tin vào Thiên Chúa nữa, để nói cho họ biết rằng vẫn còn có Tin Mừng. Tin Mừng là đang khi người ta cố gắng sống mà
chẳng có lấy được một điều giúp cho họ được vui, thì đã có một Đấng làm cho hết
cơn khát thẳm sâu trong tâm hồn con người.
Trong chuyến viếng thăm Erfurt, Đức-quốc, năm 2011, Đức Giáo
Hoàng đã hỏi: “Con người cần Thiên Chúa
hay là chúng ta có thể sống hoàn toàn hạnh phúc mà không cần đến Thiên Chúa?” Rồi ngài nói:
“Thế giới càng tránh xa Thiên Chúa thì rõ ràng là con người càng dần dần
đánh mất sự sống của họ, trong ngạo mạn của họ về quyền lực, trong trống trải của
con tim và trong khắc khoải mong đợi được toại nguyện và hạnh phúc. Niềm khát khao đấng vô biên vẫn hiện diện trong
con người không thể phai mờ được. Con
người đã được tạo dựng để có một mối tương quan với Thiên Chúa; chúng ta cần đến Người”.[12] Chúng ta không thể ngừng khao khát những gì vượt
trên chúng ta, khao khát đấng vô biên, và đấng vô biên này là một Ngôi Vị hiến
thân cho chúng ta. Người yêu thương chúng ta và rất mong muốn có được tình yêu
của chúng ta đến độ chúng ta có thể nói rằng chính Người cũng khao khát tình
yêu của chúng ta.[13]
Chia sẻ niềm vui của Tin
Mừng
Đối với Ratzinger cũng như với Wojtyla, Ki-tô giáo không chỉ
là một mẩu “tin vui”, nhưng là chính Tin Mừng, tức một câu trả lời đầy đủ, vững
bền và vô cùng phong phú cho sự khao khát không ngơi của trái tim con người.
Đối với cả hai vị, sứ điệp Tin Mừng thực sự là bản tin cần thiết
cho con người đến nỗi người ta không thể giữ lấy nó cho riêng mình. Đó là một sứ điệp đem lại niềm vui sâu xa và rực
sáng, nó mạnh mẽ đến độ có thể biến đổi vực thẳm đau khổ của con người thành một
điều chẳng những chịu đựng nổi mà còn đẹp đẽ nữa. Nó có thể biến đổi từ thiếu vắng tình yêu thành
tràn đầy tình yêu, hoặc một cuộc sống tẻ nhạt và khó khăn thành một cuộc sống
thực sự đáng sống. Như chúng ta thấy nơi
các Ki-tô hữu thời ban đầu và cả trong thời chúng ta nữa, một niềm vui vĩ đại khiến
cho họ dù có phải chết mà tìm được nó thì cũng đáng.
Niềm vui đã giúp cho Wojtyla và Ratzinger vượt qua được những
lúc khó khăn và làm cho các ngài phấn khởi trong những năm tháng cuộc đời còn lại
cũng chính là niềm vui được thánh Gio-an, vị Tông đồ và môn đệ Chúa Giê-su, viết
lại trong Kinh Thánh.
Theo truyền thống cho rằng Gio-an là người trẻ nhất trong Nhóm
Mười Hai Tông đồ, ngài sẽ không thể viết xuống “tin mừng” này mà lại không tỏ
ra vui mừng bỡ ngỡ trước những điều ngài đã được đặc ân nghe, thấy và chạm đến trong
Chúa Giê-su, là Con Thiên Chúa làm người và là chính Thiên Chúa. Mở đầu thư thứ nhất, thánh Gio-an chỉ mô tả cảm
nghiệm chưa hề được nghe về vẻ đẹp vô hình của Thiên Chúa trở nên hữu
hình. Qua Nhập Thể, Thiên Chúa đã đến thật
gần với con người đến nỗi chúng ta có thể cảm nhận được tình yêu của Người bằng
mọi giác quan của chúng ta: “Điều vẫn có
từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng
tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống…” (1
Gio-an 1:1).
Bởi nơi Con Thiên Chúa, Đấng đã trở nên người phàm, đã chết và
sống lại từ kẻ chết, thánh Gio-an đã được đánh động do một điều gì đó hoàn toàn
bất ngờ. Ngài gặp gỡ một vẻ đẹp thật vĩ
đại đến nỗi khiến cho ngài xuất thần dường như được đem lên trời và đã biến đổi
cuộc đời ngài trên mọi phương diện. Ngài
đã có “một cuộc gặp gỡ” mà Đức Giáo Hoàng Bênêđictô khi chú giải về thư này nói
rằng cuộc gặp gỡ ấy nằm ở tâm điểm của Ki-tô giáo: “Chúng ta tin vào tình yêu Thiên Chúa… Là Ki-tô
hữu nghĩa là gặp gỡ với một biến cố, một con người đem lại cho cuộc sống chúng
ta một chân trời mới và một hướng đi quyết định”.[14]
Vì thánh Gio-an nhận thấy rằng điều đã đưa ngài thoát ra khỏi
chính mình để bước vào một đời sống mới trong tình yêu, đó là chính Tình Yêu, nên
ngài ý thức cuộc gặp gỡ này là một ân huệ cần phải đem chia sẻ với người
khác. Nếu Thiên Chúa mở sự sống của Người
ra cho chúng ta, đó là để lôi kéo chúng ta vào sự thông hiệp, hoặc sự sống được
chia sẻ, với Người và với nhau. Như thế,
thánh Gio-an tiếp tục trong thư của ngài:
“Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa,
để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông
với Chúa Cha và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người. Những điều này, chúng tôi viết ra để niềm vui
của chúng ta được nên trọn vẹn” (1 Gio-an 1:3-4).
Sự hiệp thông Chúa ban cho chúng ta trong Đức Ki-tô là “niềm
vui trọn vẹn”,[15]
một niềm vui lớn lao và mạnh mẽ hơn bất cứ ai có thể mong ước hoặc tưởng tượng được. Thánh Gio-an biết rằng niềm vui này được dành
cho mọi người và nó phải được công bố cho người ta biết. Từ ngữ các tác giả sách Tin Mừng và Giáo Hội sơ
khai đã sử dụng để diễn tả việc công bố này, thánh Gio-an cũng như các môn đệ
sau ngài, đó là rao giảng Tin Mừng – không
chỉ hoặc trước hết bằng lời nói, nhưng bằng tất cả đời sống của mình.
Thánh Gio-an biết rằng ngài phải thông đạt Tình Yêu ngài đã tin,
không phải vì ngài nghĩ mình tốt hơn những người chưa được gặp gỡ Tình Yêu ấy,
bởi ngài biết chính mình cũng không thuộc hạng người ấy, rồi chắc chắn cũng không
phải vì ngài muốn bắt ép người khác phải tin.
Trái lại, ngài cầu nguyện, viết xuống, rao giảng và chịu đau khổ vì
“Thiên Chúa đã yêu thế gian” (Gio-an 3:16), rồi vì yêu mến Thiên Chúa nên
Gio-an cũng phải yêu thế gian. Niềm vui là điều tự nhiên tuôn trào, thì tình
yêu cũng vậy, nhất là thứ tình yêu đã nhất quyết nhìn nhận sự tốt lành của thế
gian và của mọi cuộc sống con người.
“Hãy đi khắp tứ phương thiên
hạ loan báo Tin Mừng” (Mác-cô 16:15)
Tại sao chúng ta cần đến
Tân Truyền giáo?
Như cả Karol Wojtyla lẫn Joseph Ratzinger đều đã biết rất rõ,
nhân loại đang phải hết sức dứt khoát khẳng định rằng con người và toàn thể thế
giới này có tồn tại thì đó mới là điều tốt.
Chúng ta cần biết rằng phẩm giá con người có căn rễ tại một điều gì đó không
thể lay chuyển nổi, tức là mỗi người đã được yêu thương tự đời đời và được kêu
gọi hãy biết yêu thương. Cả hai vị này đều
cảm nghiệm trong cuộc sống điều gì xảy ra cho con người một khi ý thức về Thiên
Chúa bị che khuất. Vì thế Ratzinger, sau
khi trở thành Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, đã nói:
“Nếu lúc nào đó con người mất đi ý thức mình được Thiên Chúa chấp nhận
và yêu thương, thì khi ấy sẽ không có câu trả lời cho câu hỏi làm một con người
có phải là điều tốt hay không… Ở đâu có
sự nghi ngờ về Thiên Chúa thì ở đó sẽ không tránh khỏi nghi ngờ về nhân loại”.[16]
Vậy đâu là những hậu quả của nghi ngờ? Chúng có thể là kinh khủng, như “cuộc bùng nổ
của sự dữ” trong việc diệt chủng mà cả Wojtyla lẫn Ratzinger đã cảm nghiệm thời
thanh niên. Tuy nhiên thường thì những hậu
quả ấy giấu ẩn, bàng bạc trong cuộc sống tiện nghi của chúng ta giống như một loại
nhàm chán, một thứ bụi bặm độc hại: “Chúng
ta nhận thấy [sự nghi ngờ này] trong cái thiếu vắng niềm vui, trong cái buồn bã
nội tâm như người ta có thể nhận thấy trên khuôn mặt của rất nhiều người hôm nay”.[17]
Nói với các giáo lý viên năm 2000, Đức Hồng y Ratzinger nhắc
lại rằng Chúa Giê-su đã đến để “đem Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lu-ca
4:18). Rồi ngài nói đến một điều chúng ta
không ngờ: Chính chúng ta là những người nghèo khó. Mặc dù những quốc gia Tây Âu và Bắc Mỹ-châu giàu
có về vật chất, nhưng về mặt khác dân cư tại những nơi đó lại nghèo nàn không
thể tả được, vì thường họ đang đánh mất một điều giúp cho cuộc sống tươi đẹp. Sự nghèo nàn sâu đậm nhất không phải là thiếu
nơi ăn chốn ở hoặc áo quần, nhưng là “sự bất khả của niềm vui, sự tẻ nhạt của
cuộc sống bị coi là vô lý và mâu thuẫn. Sự
nghèo nàn này hiện nay đang lan rộng dưới rất nhiều hình thức khác nhau tại những
quốc gia giàu có vật chất cũng như những quốc gia nghèo đói. Bất khả của niềm vui đi trước và sinh ra việc
bất khả yêu thương, sự ghen tương, hà tiện.
Tất cả những hậu quả này hủy hoại cuộc sống cá nhân cũng như của thế giới…
Vì thế chúng ta cần phải có cuộc Tân Truyền giáo”.[18]
Chúng ta cần có một cuộc “Tân Truyền giáo”, một việc công bố
được đổi mới để rao giảng Tin Mừng mà thánh Gio-an, cũng như sau ngài là Wojtyla
và Ratzinger, đã ý thức ngài không thể giữ riêng cho mình. Khi kêu gọi phải sử dụng cách công bố được đổi
mới này, Ratzinger trích dẫn một số những khẳng định của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II là người đã nhìn rõ nhu cầu phải có một việc rao giảng Tin Mừng “trong niềm
hăng say mới, phương pháp mới và cách trình bày mới”,[19]
để có thể đem Tin Mừng của Chúa Giê-su Ki-tô đến cho mọi người trong thế giới
hôm nay.
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy những “buồn bã nội
tâm” như Đức Giáo Hoàng Bênêđictô đã diễn tả, nơi đó con người hình như ngày càng
bị dày vò “trong ngạo mạn của họ về quyền lực, trong trống trải của con tim và
trong khắc khoải mong đợi được toại nguyện và hạnh phúc”. Trước hết, chúng ta đang sống trong một thế giới
dường như đã quên rằng đằng sau giây phút chóng qua của hạnh phúc đôi khi chỉ
do may mắn, đó là niềm vui không thể chuyển lay. Trong một thế giới như thế, điều chúng ta cần
hơn tất cả mọi sự khác chính là cảm nghiệm được niềm vui là mình thực sự được yêu
thương và thực sự có khả năng yêu thương.
Rồi khi đã gặp gỡ được tình yêu như thế, chúng ta cần phải truyền đạt
tình yêu ấy cho người khác. Đây là ý
nghĩa của rao giảng Tin Mừng: bằng lời
nói và cuộc sống, bằng cầu nguyện và thinh lặng, bằng hành động và sự đau khổ,
truyền đạt một Tình Yêu vừa ôm ấp con người vừa tuyệt đối vượt trên con người,
và như thế là truyền đạt niềm vui. Niềm vui này đôi khi mang tính cách đòi hỏi
và khó khăn. Tóm lại, đó là niềm vui “lớn
lao hơn” cả con người, vì nó xuất phát từ Thiên Chúa. Nhưng cũng chính vì lý do ấy nên đó là niềm vui
duy nhất có thể thỏa mãn được cơn đói khát không ngừng của trái tim con người.
Tại sao lại là “Tân”?
Việc truyền đạt niềm vui này, tức là truyền đạt Tin Mừng về tình
yêu vững bền của Thiên Chúa đối với nhân loại được trở nên hữu hình nơi Chúa
Giê-su Ki-tô, đã là một nỗ lực của Giáo Hội ngay từ ban đầu. Sau khi Chúa Giê-su chịu đóng đinh và chết trong
sự bỏ rơi, các Tông đồ đã giam mình đằng sau cánh cửa khóa kỹ. Nhưng giữa lúc hãi sợ tê cứng ấy, họ bất ngờ gặp
được niềm vui: “Đức Giê-su đứng giữa các
ông và bảo: ‘Bình an cho anh em’” (Lu-ca
24:36). Các ông đã đối diện với một thực
tại phá tung mọi ranh giới, quyết liệt đến độ đem lại cho toàn bộ lịch sử “ý
nghĩa và mục đích tối hậu của nó”.[20] Chúa của họ, Đấng đã chết, đang đứng sờ sờ trước
mặt họ và mời gọi họ: “Cứ rờ xem… Vì mừng
quá, các ông vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng” (Lu-ca 24:36-41). Họ đã sờ và đã thấy, rồi họ đã biết rằng niềm
vui này không được giữ riêng cho họ.
Đang lúc các Tông đồ vẫn còn nghi ngờ không biết phải làm gì
khi đứng trước hành động sáng tỏ, khách quan và vui mừng của Thiên Chúa nhân danh
con người, Chúa Giê-su đã truyền lệnh cho họ:
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài
thọ tạo” (Mác-cô 16:15). Việc “sai đi”,
hoặc truyền giáo, nắn đúc cộng đồng các môn đệ Chúa Giê-su đã quy tụ. Thực vậy, việc truyền giáo này đã làm cho
Giáo Hội thành khuôn mẫu toàn hảo đến nỗi gần hai ngàn năm sau, một vị tông đồ
hiện đại, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, đã viết:
“Rao giảng Tin Mừng là… ân sủng và ơn gọi dành riêng cho Giáo Hội, là
căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội. Giáo
Hội tồn tại để rao giảng Tin Mừng”.[21] Từ khởi đầu Ki-tô giáo cũng như mọi thời, Giáo
Hội tồn tại để công bố bằng lời nói và hành động, cũng như trên hết bằng đời sống
và cái chết của tất cả những ai thuộc về Giáo Hội, rằng đời sống, sự chết và sống
lại của Chúa Giê-su Ki-tô là hành vi tối thượng của tình yêu Thiên Chúa. Giáo Hội hát lên trong Phụng vụ Phục Sinh về
niềm vui đã được ban cho chúng ta trong Người:
Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ
lại trở nên đá tảng góc tường.
Đó chính là công trình của Chúa,
công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.
Đây là ngày Chúa đã làm ra,
nào ta hãy vui mừng hoan hỷ. (Thánh Vịnh 118:22-24)[22]
Một đàng, Tin Mừng này cũng như sứ mệnh phải công bố nó không
khi nào thay đổi; luôn luôn và mọi nơi
cho đến ngày tận thế, Ki-tô hữu công bố Phúc Âm ngàn đời. Trong phụng vụ và bí tích của Giáo Hội; trong lời nói cũng như thinh lặng và cầu nguyện
thầm kín của các phần tử Giáo Hội; và có
lẽ nhất là trong việc tử đạo, chứng từ cao cả nhất của những người vì yêu mến “Thiên
Chúa là Cha của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (Ê-phê-xô 1:3) nên đã truyền đạt
Tình Yêu và Sự Sống họ đã nhận lãnh. Mặc
cho những sa ngã thường tình vì yếu đuối, Ki-tô hữu vẫn truyền đạt Lời Thiên
Chúa, và làm như thế, họ giúp đem sự sống đến cho anh chị em mình. Giống như các anh chị em, họ biết thế nào là có
tâm hồn không được toại nguyện ở bất cứ nơi nào, bởi vì họ không ngừng khao khát
Thiên Chúa, đôi khi không sao chịu nổi.
Vậy nếu việc công bố này không bao giờ thay đổi, tại sao Đức
Giáo Hoàng Bênêđictô XVI và các vị tiền nhiệm của ngài lại kêu gọi phải cấp bách
có một “Tân Truyền giáo”? Điều gì có thể
là “mới” về một sứ điệp đã qua hai ngàn năm tuổi? Lại nữa, Phúc Âm có khi nào bị coi là cũ rích
không? Chúng ta bắt đầu hiểu một chút về
điều các vị tông đồ thế kỷ 20 và 21 này muốn phát biểu khi chúng ta nghe Đức Gioan
Phaolô II nói về “sự say mê” cần phải được khuấy động lên một lần nữa trong tâm
hồn các Ki-tô hữu và trong những xã hội đã từng là Ki-tô giáo nhưng lại quên đi
niềm vui được ký thác cho họ.[23] Người tín hữu nào không thể chú tâm đến cơn khát
trong tâm hồn và không còn muốn nhìn, nghe và chạm đến Chúa phục sinh, thì sẽ để
cho Lời hằng sống bị chết mòn trong họ. Tâm
hồn họ trở thành mất hết đam mê, buồn thảm và cằn cỗi. Rồi dân tộc hoặc xã hội Ki-tô giáo nào không còn
muốn nhìn, nghe và chạm đến Chúa phục sinh, sẽ thấy mình đang tìm kiếm sự vô hạn
theo những đường lối càng ngày càng mâu thuẫn.
Những đường lối này dần dần mang đến một viễn ảnh kinh hoàng về một con
người không được bảo vệ do khẳng định tối hậu về phẩm giá hoặc giá trị của họ.
Cả người tín hữu lẫn xã hội mang một đức tin già cỗi và héo tàn
đều cần niềm đam mê, được hiểu khác với
cảm xúc hoặc một chút nhiệt thành nhất thời.
Theo lời của Đức Gioan Phaolô II, họ cần “lòng hăng say” hoặc “xác tín bừng
cháy” của những người đã bị hút hồn do một vẻ đẹp siêu phàm, những người đã được
yêu thương ngoài sức tưởng tượng và kỳ vọng của họ, và những người đang thực sự
yêu thương.[24] Lời kêu gọi hãy có Tân Truyền giáo là một lời
kêu gọi phải ý thức rằng hiện nay trong thời đại chúng ta và trong cuộc sống chúng
ta, Ki-tô giáo không phải đơn thuần là một mẩu thông tin hay một sự kiện lịch sử. Nhưng Ki-tô giáo là Lời được phán dạy cho từng
cá nhân chúng ta, và Lời này là Sự Sống, là một Tình Yêu cư ngụ. Lời này là tin thật mừng và thật cần thiết đến
nỗi không ai đã gặp gỡ rồi mà lại có thể giữ lấy cho riêng mình.
Vào cuối cuộc mừng kỷ niệm 2000 năm giáng sinh của Chúa Giê-su
Ki-tô, Đức Gioan Phaolô II viết: “Chúng
ta phải làm sống lại trong chúng ta niềm xác tín bừng cháy của thánh Phao-lô
khi ngài kêu lên: ‘Khốn thân tôi nếu tôi
không rao giảng Tin Mừng’ (1 Cô-rin-tô 9:16)”.[25] Cũng như vị Tông đồ vĩ đại Phao-lô, người đã thay
đổi toàn bộ cuộc sống khi bất ngờ gặp gỡ Chúa phục sinh (xem Công Vụ Tông Đồ
9:1-19), chúng ta cần phải gặp gỡ Lời hóa thành nhục thể và hãy để cho Lời ấy “bừng
cháy lên” trong chúng ta mà biến đổi chúng ta toàn diện. Chỉ khi ấy, vẻ đẹp của Lời mới có thể chiếu tỏa
qua tất cả những điều chúng ta nói và hành động, lúc chúng ta thinh lặng cũng như
đau khổ, và qua niềm vui cũng là niềm vui thánh Gio-an đã viết trong thư của ngài,
niềm vui giúp cho Karol Wojtyla và Joseph Ratzinger vượt qua lúc khó khăn tuổi
niên thiếu. Như Đức Giáo Hoàng Bênêđictô
nói, đây là cách duy nhất để một lần nữa đem niềm vui vào trong những trái tim
buồn chán của chúng ta, hoặc đem vẻ đẹp vào thế giới thường xấu xí và tuyệt vọng
của chúng ta. Vì không khi nào già cỗi
nên Tin Mừng là đường dẫn tới nền nhân bản duy nhất thực sự xứng đáng với con
người:
Các môn đệ Chúa Ki-tô được kêu gọi khơi dậy lại trong họ và trong
người khác niềm mong chờ Thiên Chúa và
niềm vui được sống với Người và làm chứng nhân cho Người, dựa trên căn bản những gì luôn luôn là một câu hỏi cá nhân sâu
xa: tại sao tôi tin?... Chúng ta phải thấy
điều này, là vẻ đẹp và thích hợp hiện
thời của đức tin đang được tái khám phá, không phải như một biến cố biệt lập, chỉ ảnh hưởng đến những thời điểm
đặc biệt nào đó trong cuộc sống chúng ta, nhưng là một hướng đi liên tục, ảnh hưởng đến ngay cả những chọn lựa đơn
giản nhất và thiết lập một sự duy nhất sâu
xa bên trong con người… Điều cần là phải đưa sự sống mới này vào lại trong đức tin để làm nền tảng cho một nền nhân bản
mới, nền nhân bản có khả năng phát sinh văn hóa và dấn thân trong xã hội.[26]
Nguồn gốc của Truyền
giáo
Trong một loạt những bài chia sẻ lời Chúa mùa Vọng 2011, cha
Raniero Cantalamessa, vị giảng tĩnh tâm cho những người giúp việc cho Đức Giáo Hoàng,
cảnh báo về hai mối nguy hiểm đe dọa Ki-tô hữu liên quan tới Tân Truyền
giáo. Nguy hiểm thứ nhất là sự lười biếng,
hoặc bỏ lại trách nhiệm cho người khác. Chúng
ta tự bảo mình: “Tôi nghĩ rằng rao giảng
Tin Mừng hoặc truyền bá Phúc Âm bằng cuộc sống chúng ta và trong thời đại chúng
ta là một ý tưởng hay, nhưng đó không phải là một lệnh truyền liên quan tới cá
nhân tôi”. Nguy hiểm thứ hai, một nguy
hiểm tinh vi hơn, đó là “lối hoạt động sôi nổi nhưng rỗng tuếch” khiến cho
Ki-tô hữu dần dần đánh mất đi “sự tiếp cận với nguồn gốc”, tức là Lời Chúa.[27]
Với cảnh báo gồm hai điểm này, cha Cantalamessa nêu lên vấn đề
về nguồn gốc của Tân Truyền giáo. Từ đâu
mà có niềm đam mê được đổi mới đã được Đức Gioan Phaolô II khẩn thiết gợi ra
cho chúng ta, hoặc thái độ “tái thức tỉnh” được Đức Giáo Hoàng Bênêđictô kêu gọi? Đâu là nguồn gốc tạo ra niềm vui nhằm mục
đích biến đổi chúng ta và chúng ta có bổn phận phải công bố nguồn gốc ấy bằng lời
nói và đời sống của chúng ta? Hiểu theo
một cách, nhận định nguồn gốc này có nghĩa là nhận định điều trước nhất và quan
trọng nhất mà mỗi phần tử của Giáo Hội đều phải thi hành để truyền đạt Lời
Chúa. Nguồn gốc của rao giảng Tin Mừng và
việc đáp lại căn bản nhất của Ki-tô hữu đối với việc rao giảng ấy đều khá đơn
giản. Một lần nữa, Tông Đồ và thánh sử
Gio-an sẽ chỉ cho chúng ta câu trả lời.
Khi thánh Gio-an viết để công bố niềm vui của ngài cho các Ki-tô
hữu sơ khai, ngài chỉ làm được điều đó là vì trước hết ngài đã nghe, thấy và chạm
đến: ngài đã cảm nghiệm Lời của Thiên
Chúa hóa thành nhục thể và đã ngưỡng mộ vẻ đẹp của Lời ấy. Ngài đã bị lôi cuốn vào sự hiệp thông với Thiên
Chúa hằng sống và đã khám phá ra rằng được “chia sẻ sự sống” của Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh Thần, Ba Ngôi tình yêu, đó là niềm vui trọn vẹn (xem 1 Gio-an 1:4).[28] Giống như một người yêu, ngài đã được đưa ra khỏi
chính mình. Từ điểm này tiến tới, ngài
biết rằng tất cả đời mình chỉ có thể là lời đáp trả đối với ân huệ kia. Qua kinh nghiệm máu-và-thịt, ngài ý thức được
chân lý mà Đức Giáo Hoàng Bênêđictô sẽ diễn tả sau này: “Nằm tại căn rễ của toàn bộ việc rao giảng Tin
Mừng không phải là một kế hoạch bành trướng của loài người, nhưng là ao ước chia
sẻ ân huệ khôn lường Thiên Chúa đã muốn ban cho chúng ta, cho nên ao ước ấy làm
cho chúng ta trở thành những kẻ chia sẻ sự sống của Thiên Chúa”.[29]
Tại nguồn gốc của việc rao giảng Tin Mừng, chúng ta thấy có cảm
nghiệm về một ân huệ: tình yêu nhưng không và siêu việt đã được Chúa
Cha tỏ ra cho chúng ta qua Con của Người là Chúa Giê-su Ki-tô, qua Chúa Thánh
Thần, Đấng đã được tuôn đổ xuống trên “mọi xác thịt” kể từ khi Chúa Giê-su sống
lại. Dù chúng ta có ý thức hay không,
thì ân huệ này của Thiên Chúa, Đấng mở sự sống của Người ra cho chúng ta, vẫn
là nguồn gốc của tất cả niềm vui đích thực trong thế giới. Khi Đức Gioan Phaolô II hỏi “Tin Mừng là gì?”,
ngài đã không do dự trả lời rằng “Tin Mừng là một khẳng định vĩ đại về thế giới
và con người, bởi vì đó là mặc khải chân lý về Thiên Chúa. Thiên Chúa
là nguồn gốc đầu tiên của niềm vui và hy vọng dành cho con người. Đây cũng là Thiên Chúa mà Đức Ki-tô đã mặc khải: Thiên Chúa là Đấng Tạo dựng và là Cha; Thiên Chúa là Đấng ‘yêu thế gian đến nỗi đã ban
Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời’
(xem Gio-an 3:16)”.[30]
Tin Mừng là nguồn gốc niềm vui, bởi vì Tin Mừng là ân huệ của
Thiên Chúa, tức Ngôi Lời của Thiên Chúa đã đến để gặp gỡ chúng ta. Tin Mừng là sự mặc khải đích thân của Thiên Chúa
vì Người là Tình Yêu. Lời này được phán
ra với mọi người đã hoặc sẽ được sống là lời chứa đầy tràn sự sống của Thiên
Chúa, sự sống Người muốn chia sẻ với con người.
Đó là Lời “sống động và hữu hiệu”,[31]
Lời có quyền lực, nhưng quyền lực của nó lại là sự khiêm nhường và tình yêu của
chính Thiên Chúa. Ủy ban chuẩn bị Thượng
Hội đồng Giám mục Thế giới 2012 về Tân Truyền giáo nhắc nhở chúng ta rằng “Chúng
ta đừng nghĩ Tin Mừng chỉ như là một cuốn sách hoặc một tập các giáo huấn. Tin Mừng còn hơn thế rất nhiều. Đó là một… Lời để hoàn tất những gì nó nói lên…
Đó là một… người: Đức Giê-su Ki-tô, Lời
diễn tả của Thiên Chúa đã trở nên người phàm”[32]
để ban cho chúng ta niềm vui vì được chia sẻ với tình yêu thông hiệp của Thiên
Chúa.
Nếu điều này là thật, hay nói khác đi, nếu rao giảng Tin Mừng
có nguồn gốc trong việc Thiên Chúa “công bố” khi Người sai Con của Người đến cứu
chuộc thế gian, thì trước khi làm bất cứ điều gì đối với Tin Mừng này, chúng ta
phải lãnh nhận Tin Mừng ấy đã. Giống như thánh Gio-an, chúng ta phải lấy con
mắt mà nhìn, lấy tai mà nghe và lấy tay mà chạm đến, rồi đáp lại lời mời gọi yêu
thương của Thiên Chúa. Chúng ta phải lắng nghe, và chỉ khi ấy – không một phút
nào ngừng lắng nghe Chúa! – chúng ta mới có thể công bố những gì chúng ta đã
lãnh nhận. Theo lời Đức Giáo Hoàng Bênêđictô,
chúng ta phải “trở nên dễ dạy đối với Thần Khí của Đấng Phục sinh, vì Người đồng
hành với tất cả những ai làm người rao giảng Tin Mừng và mở tâm hồn những ai
đang lắng nghe. Muốn công bố Lời Tin Mừng
cho hữu hiệu, trước hết người ta phải có một cảm nghiệm sâu xa về Thiên Chúa”.[33]
Nói khác đi, chúng ta phải cầu nguyện. Và một khi chúng
ta đã thực sự trở nên dễ dạy và gặp gỡ được vẻ đẹp ấy trong cầu nguyện, thì chúng
ta không thể không nói, trước hết là nói với Chúa bằng cách “chúc tụng” là “khởi
điểm cho mọi cách đáp trả của đức tin trước mặc khải của Thiên Chúa nơi Đức Ki-tô”,[34]
tiếp đến là nói với anh chị em là những người cũng đang khao khát Tình Yêu giống
như chúng ta vậy.
Các Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Gioan Phaolô II và Bênêđictô XVI,
hết thảy đều kiên quyết trong điều này: Ki-tô
hữu không thể truyền giáo nếu họ không được truyền giáo trước và liên tục,[35]
nếu họ không đón nhận Ngôi Lời nhập thể trong sự khiêm nhường và huy hoàng của Người,
không lắng nghe Người và không cảm nghiệm sự sống Người đem đến cho họ. Ki-tô hữu phải làm điều này trước khi họ dấn thân vào bất cứ hoạt động
truyền giáo nào, đồng thời cũng phải làm điều này liên tục, bởi vì niềm vui họ phải mang tới cho người khác sẽ được liên
tục ban cho họ từ một nguồn suối không hề cạn:
“Những người thi hành Tân Truyền giáo được mời gọi trước hết hãy đi theo
Con Đường là Đức Ki-tô, để giúp cho người khác biết được vẻ đẹp của Tin Mừng
ban sự sống”.[36] Họ chỉ có thể đem sự sống đến cho người khác nếu
họ ở lại trong nguồn sự sống giúp họ “chăm chú nhìn lên Đức Giê-su Ki-tô”, vì họ
biết rằng “nơi Người mọi khổ đau và khát vọng của tâm hồn con người được hoàn tất”.[37]
Mỗi khi công bố Tin Mừng bằng bất cứ hình thức nào trong cuộc
sống chúng ta, vẫn có một ưu tiên dành cho Lời của Thiên Chúa hóa thành nhục thể
nơi Đức Giê-su Ki-tô và được thông đạt cho chúng ta qua Kinh Thánh và các bí
tích. Không lời nào chúng ta có thể nói lên,
không việc nào chúng ta có thể hoàn tất, không sự sống nào chúng ta có thể sống
mà tất cả lại có được sức mạnh và hiệu quả nếu không ở trong sức mạnh và hiệu
quả của Lời ấy. Ki-tô hữu là các chứng nhân
cho anh chị em mình, đúng như vậy, nhưng đó chỉ vì trước hết bản thân họ đã làm
chứng rồi. Họ là những người thấy, nghe
và chạm đến Tình Yêu của Thiên Chúa, Đấng đã chết trên thập giá vì chúng ta, đã
được Chúa Cha cho sống lại và đã đổ tràn Thần Khí Người xuống trên tất cả nhân
loại.
Nguồn gốc của tất cả việc truyền giáo là chính Thiên Chúa, Đấng
mở ra sự sống của Người cho chúng ta qua Con của Người. Theo lời Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, “nền móng,
trung tâm và cao điểm” của truyền giáo luôn luôn là “Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên
Chúa làm người, Đấng đã chết và sống lại từ kẻ chết” để đem lại “ơn cứu độ… cho
mọi người như một ân huệ của ơn sủng và lòng Chúa thương xót”.[38] Khi viết điều này, Đức Phaolô VI chỉ làm vọng
lên điều thánh Phao-lô đã nói hai ngàn năm trước, khi ngài khẳng định cốt lõi của
việc ngài rao giảng, của đau khổ ngài chịu và dĩ nhiên là tất cả đời sống ngài,
đó là: “Hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không
muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-tô, mà là Đức Ki-tô chịu đóng
đinh vào thập giá” (1 Cô-rin-tô 2:2). Cũng
Đức Ki-tô ấy, Đấng mở ra cho chúng ta sự sống của Thiên Chúa, là Con Đường
chúng ta bước đi hầu “giúp cho người khác biết được vẻ đẹp của Tin Mừng ban sự sống”.[39]
“Nếu hạt lúa gieo vào lòng
đất không chết đi…” (Gio-an 12:24)
Ai là người rao giảng Tin
Mừng?
Cuộc hành trình của chúng ta trên Con Đường này không đơn độc,
vì vẻ đẹp chúng ta gặp gỡ trên Con Đường ấy
là một cuộc chia sẻ cụ thể sự hiệp thông với chính sự sống của Thiên Chúa. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô giải thích: “Trên Con Đường này, người ta không khi nào đi
một mình, nhưng là đồng hành, tức là một kinh nghiệm về sự hiệp thông và tình
anh chị em dành cho hết mọi người chúng ta gặp, để chia sẻ với họ cảm nghiệm của
chúng ta về Chúa Ki-tô và Giáo Hội Người”.[40] Rao giảng Tin Mừng không phải là một sinh hoạt
đơn độc, vì chúng ta không bao giờ lãnh nhận hoặc hiến tặng hồng ân Tin Mừng một
mình. Như thánh Gio-an đã nhắc nhở các Ki-tô
hữu sơ khai trong thư thứ nhất của ngài, Tin Mừng là sự “hiệp thông với Chúa Cha
và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người”.
Việc chia sẻ tình yêu và sự sống của Thiên Chúa lập tức phát sinh sự hiệp
thông giữa các tín hữu, một sự hiệp thông bắt đầu từ một nhóm nhỏ gồm những
Ki-tô hữu sơ khai yêu thương nhau mở rộng ra đến tận cùng trái đất: “Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi
loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi…
Những điều này, chúng tôi viết ra để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn”
(1 Gio-an 1:3-4).
Hiệp thông có nghĩa là đời sống được chia sẻ. Việc chia sẻ chính sự sống với Thiên Chúa và với
anh chị em quả thực là niềm vui mà Chúa Giê-su Ki-tô mời gọi các môn đệ Người hãy
đem đến cho thế giới. Như Đức Gioan Phaolô
II viết, chúng ta không “được cứu rỗi do một công thức, nhưng do một Người và
do lời Người ấy bảo đảm với chúng ta rằng:
Thầy ở cùng anh em!”[41] Đúng là Chúa Giê-su đang nói với chúng
ta: Thầy, cùng với Cha Thầy và Thánh Thần
của cả hai Chúng Ta, ở cùng các con, và Chúng Ta giúp các con ở với nhau trong một
sự thông hiệp để tiêu diệt mọi thiếu vắng tình yêu trong thế giới, vì tình yêu
mạnh hơn sự chết!
Giả như chúng ta có thể đơn độc nhận lãnh hoặc cho đi hồng ân
Tin Mừng thì đó chẳng phải là Tin Mừng của tình yêu Thiên Chúa đâu, vì chỉ tình
yêu này mới đủ mạnh mẽ để sinh ra sự kết hợp một nhân loại đã bị chia rẽ do tội
lỗi. Dù cho chúng ta không có được những
cảm nghiệm sống động về những hậu quả do sự thù hận của con người mà cả Karol
Wojtyla lẫn Joseph Ratzinger đã có hồi Thế chiến II, thì chúng ta cũng đều cảm
nghiệm về sự cô đơn, đổ vỡ và thiếu vắng tình yêu làm phát sinh sự cô lập. Tình trạng “không có niềm vui” và “buồn sầu nội
tâm”, những điều Đức Giáo Hoàng Bênêđictô cho là rất phổ biến trong những xã hội
chúng ta ngày nay, đi song song với cảm nghiệm không được yêu thương thực sự. Ít nhiều gì chúng ta hết thảy đều biết thế
nào là không thuộc về một sự hiệp thông
đem lại cho chúng ta sự sống, tức là không được tiếp nhận sự sống rút ra từ sự
hiệp thông hạnh phúc là chính Thiên Chúa.
Khi cảm nghiệm sự thiếu vắng hiệp thông này, tất cả chúng ta đều biết thế
nào là mong ước có một điều gì khác, thậm chí không thể dùng lời nói diễn tả được
mong ước này. Chúng ta mong ước được thông
hiệp trọn vẹn để có niềm vui.
Sự thông hiệp chúng ta mong đợi được ban cho chúng ta trong hồng
ân Lời Thiên Chúa, Đấng “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Gio-an
1:14) và đã sinh ra Giáo Hội là Thân Thể Người.
Chúng ta đang lãnh nhận và phải đích thân lãnh nhận Lời Chúa trong Kinh
Thánh, bí tích và cầu nguyện. Nhưng
chúng ta chỉ có thể làm điều này một cách hết sức hiệu quả, hoặc thậm chí chỉ
là tạm được thôi, trong một sự “thông hiệp” hay kết hợp bắt nguồn từ nơi Chúa. Tin Mừng về sự sống, cái chết và phục sinh của
Chúa Giê-su Ki-tô là một Lời tình yêu nói với toàn thể nhân loại và chúng ta chỉ
lãnh nhận được với tính cách là những phần tử thuộc về một nhân loại mới là
Thân Thể và Hiền Thê của Đức Ki-tô mà thôi.
Truyền thống diễn tả chân lý này bằng những hình ảnh đẹp và
phong phú, thí dụ như Giáo Hội nảy sinh từ cạnh sườn bị đâm thâu qua của Đức
Ki-tô chịu đóng đinh giống như E-và từ xương sườn của A-đam. Giáo Hội qua mọi phần tử của mình không khi nào
ngừng nảy sinh từ hồng ân Lời Thiên Chúa.
Đó là một Giáo Hội gồm tất cả những người lãnh nhận Chúa Thánh Thần, Đấng
đã lấy hình “lưỡi lửa” đậu trên các Tông đồ vào ngày lễ Ngũ tuần (Công Vụ Tông Đồ
2:3). Cũng chính Giáo Hội này đang lãnh
nhận lệnh truyền nói lên sự tồn tại của mình cho đến ngày tận thế: “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng…”
(Mác-cô 16:15). Giáo Hội tiếp tục lãnh
nhận Lời Chúa, suy đi nghĩ lại trong lòng (xem Lu-ca 2:19, và hiến tặng Lời Chúa
cho một thế giới đang đói khát Thiên Chúa.
Chỉ một mình, chúng ta không thể thực hiện được điều ấy. Lời Chúa quá vĩ đại và sức mạnh phát sinh sự hiệp
thông không thể bị giam hãm trong chúng ta.
Nhưng trong Giáo Hội, chúng ta có thể nhận được sự sung mãn của Tin Mừng,
để cho Tin Mừng biến đổi đời sống và mọi mối tương quan của chúng ta, đồng thời
chúng ta có thể đem Tin Mừng ấy đến với anh chị em mọi lúc, vì cũng như chúng
ta, những anh chị em đó không thể sống mà thiếu vắng tình yêu. Mỗi khi làm chứng cho Tin Mừng bằng cuộc sống,
lời nói và cầu nguyện thinh lặng, chúng ta đang thực hiện một hành vi dấn thân
vào “toàn thể Giáo Hội trong căn tính và hành động của Giáo Hội”.[42] Chúng ta đang trao tặng sự hiệp thông vui mừng,
đầy sức sống là bản chất của Giáo Hội,
và đó chính là việc chúng ta chia sẻ ngay tại đây và lúc này với những cuộc sống
cụ thể của anh chị em trong sự sống của Thiên Chúa. Cùng lúc ấy, chúng ta đang tham dự vào một “cuộc
canh tân nội tâm”[43]
cần thiết của Giáo Hội, vì trong phụng vụ và trong đời sống của mỗi chi thể, Giáo
Hội phải không ngừng trở về với những nguồn gốc của mình từ hồng ân Lời Chúa.
Theo các tài liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng họp về Tân Truyền
giáo cho chúng ta biết, “việc loan truyền đức tin không khi nào là một công việc
cá nhân và biệt lập, nhưng là một biến cố cộng đồng và mang chiều kích Giáo Hội”.[44] Truyền giáo luôn là hành động của Giáo Hội để
cùng một lúc ca tụng Thiên Chúa và đem đến cho con người niềm vui do “một cảm nghiệm
về sự thông hiệp và tình anh chị em”,[45]
là cảm nghiệm duy nhất mạnh mẽ hơn mọi sức mạnh của việc cô lập trong thế giới.
Nội dung của Tân Truyền
giáo
Giáo Hội, được liên tục nuôi dưỡng bằng lời Chúa qua phụng vụ,
biết rằng việc rao giảng Tin Mừng là “ân sủng và sứ mệnh…, là căn tính sâu xa nhất”
của mình.[46] Đối với Giáo Hội đang lãnh nhận và chiêm niệm
Lời Chúa, nội dung của việc rao giảng Tin Mừng đã rõ ràng. Trong cầu nguyện và công bố cũng như trong đời
sống của mỗi phần tử, Giáo Hội phải thông đạt vẻ đẹp và sự thánh thiện – nói khác
đi là thông đạt chính tình yêu – của
Thiên Chúa thể hiện trong Đức Giê-su Ki-tô.
“Vì Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào
Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Gio-an 3:16). Đức Gio-an Phao-lô II đã một lần nhận xét rằng
toàn bộ Tin Mừng được tóm tắt lại trong câu Kinh Thánh này, vì nó chứa đựng “khẳng định vĩ đại về thế giới và con người”.[47]
Để hiểu ý ngài muốn nói gì, chúng ta chỉ cần nghĩ tới sự cô đơn,
thao thức và tình trạng dễ bị tổn thương của con người nếu họ không có Thiên
Chúa. Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa
làm người, đến đem Tin Mừng về tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta. Làm như vậy, qua cuộc sống của Người, Người cũng
cho chúng ta thấy đâu là ý nghĩa làm con người trọn vẹn. Người cho chúng ta thấy chúng ta thực sự là
ai: là những người dứt khoát được yêu thương
và do đó là những người có thể yêu thương bằng tình yêu vô lượng của Thiên
Chúa. Chúa Giê-su mặc khải Thiên Chúa là một sự thông hiệp của Tình
Yêu. Làm như vậy, Người cũng mặc khải con người được tạo dựng cho Tình Yêu
này.
Tin Mừng Chúa Giê-su đem đến cho chúng ta không phải là một
mớ thông tin về Thiên Chúa, nhưng là chính Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta. Thiên Chúa đã làm cho mình trở thành Đấng chúng
ta có thể đến gặp gỡ bằng mắt, bằng tai và bằng bàn tay. Người lại còn sẵn sàng chịu chết và rồi đã chiến
thắng cái chết. Sự khiêm nhượng không thể
tin nổi của Thiên Chúa khi đến ở lại với chúng ta tại nơi chúng ta đơn độc nhất
chính là lý do tại sao hành động trước hết là vừa lãnh nhận vừa rao truyền Tin
Mừng lại luôn luôn là hành động của một đức tin biết nhận ra những kỳ diệu của
Thiên Chúa và một đức tin biết thờ lạy Người.
Theo Đức Bênêđictô XVI, việc thờ lạy Chúa cốt yếu là cầu nguyện, tức là
việc Giáo Hội đáp trả bằng cách lấy tình yêu trước nhất và thường hằng của mình
mà dâng lên cho Tình Yêu đã được mặc khải nhưng chưa hề nghe nói trước đây. Việc chúng ta đáp trả Thiên Chúa gồm có lắng
nghe, chiêm ngưỡng và thờ lạy, tất cả đều nằm ở tâm điểm của truyền giáo: “Chúa phục sinh đến giữa chúng ta. Để rồi chúng ta chỉ có thể cùng với thánh
Tô-ma kêu lên rằng: lạy Chúa của con, lạy
Thiên Chúa của con! Sự thờ lạy trước
tiên là một hành vi đức tin, một hành vi đức tin đích thực. Thiên Chúa không phải chỉ là một giả thuyết có
thể hay không có thể về nguồn gốc của mọi sự.
Người hiện diện. Vậy nếu Người hiện diện thì tôi sấp mình thờ lạy Người… Chúng ta bước vào thực tại chắc chắn là mình
có thể chạm được tình yêu Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng tình yêu hiện diện
trong tâm hồn chúng ta. Đấy là thờ lạy
và đấy cũng là khẳng định về cuộc đời chúng ta”.[48]
Tình yêu của Thiên Chúa và việc chúng ta đáp trả lời mời gọi
của tình yêu ấy đã khẳng định về cuộc đời chúng ta. Nói tóm lại, nếu Ki-tô giáo căn bản là về tình
yêu thì không thể đem thông đạt tình yêu đó như một ý tưởng hoàn toàn thuộc trí
óc. Ki-tô giáo phải được sống là vì tình
yêu cần được sống. Nếu tình yêu ấy muốn được
sống trong chúng ta và vì chúng ta thì tình yêu ấy cần phải mặc lấy máu thịt
chúng ta. Thiên Chúa biết rõ đều này nên
Người đã đích thân mặc lấy máu thịt trong Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa làm người. Cho nên kể từ đó, không còn cách nào khác để
chúng ta thông đạt Tin Mừng của Người ngoài cách hãy để cho Tin Mừng cũng được
mặc lấy máu thịt trong chính chúng ta. Đức
Giáo Hoàng Bênêđictô muốn chúng ta chú ý đến phương diện chính của Tân Truyền
giáo khi ngài nói: “Vì đức tin Ki-tô
giáo được thiết lập trên nền móng Lời hóa thành nhục thể là Đức Giê-su Ki-tô,
nên Tân Truyền giáo không phải là một ý niệm trừu tượng, mà là việc canh tân đời
sống Ki-tô đích thực dựa trên những giáo huấn của Giáo Hội”.[49]
Ngôi Lời của Thiên Chúa muốn đi vào và biến đổi chúng ta, nắn
đúc chúng ta thành Giáo Hội, thành mối hiệp thông vui mừng là chính Thân Thể và
Hiền Thê của Người. Người muốn giúp chúng
ta yêu thương, vì chúng ta được dựng nên để yêu thương. Người biết đời chúng ta không có ý nghĩa và tâm
hồn chúng ta chẳng được nghỉ ngơi cho đến khi chúng ta gặp được tình yêu và để
cho tình yêu thấm nhuần mọi chiều kích của cuộc sống chúng ta. Vì thế, nếu chúng ta để cho Người bước vào tâm
hồn và “sấp mình” trước sự hiện diện của Người thì Ngôi Lời hóa thành nhục thể
sẽ từ từ thay đổi chúng ta, để toàn bộ cuộc sống chúng ta sẽ bắt đầu chiếu tỏa
vẻ đẹp của Thiên Chúa là Tình Yêu.
Nếu chúng ta cầu nguyện, nếu chúng ta cảm nghiệm sự hiện diện
của Chúa phục sinh ở giữa chúng ta và cùng với Giáo Hội thờ lạy Người, thì khi ấy
chúng ta bắt đầu hiểu rằng: Người đang kêu
gọi chúng ta hãy quyết tâm và luôn luôn yêu thương trong tình yêu vững bền Người
yêu thương Giáo Hội là Hiền Thê của Người.
Lời kêu gọi yêu thương này mang những đường nét rõ ràng nhất khi chúng
ta hoàn toàn hiến thân trong hôn nhân hoặc sống theo những lời khuyên của Tin Mừng
mà theo chân Chúa Giê-su sống khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời trong đời sống
thánh hiến. Nhưng lời kếu gọi ấy cũng
xác định mọi khía cạnh trong lối sống của một tín hữu. Ki-tô hữu được kêu gọi hãy yêu thương không
chỉ đơn thuần bằng những cảm xúc hoặc lời nói, nhưng là hoàn toàn và cụ thể,
“trong việc làm và trong sự thật” (1 Gio-an 3:18). Những ai đang gặp gỡ Tình Yêu này đều được mời
gọi hãy để cho Tình Yêu ấy biến đổi mọi chiều kích cuộc sống của họ. Rồi bởi vì các tín hữu gặp được Tình Yêu này trong
Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa nhập thể, Đấng “đã yêu họ cho đến cùng” (Gio-an
13:1), nên họ mới hiểu được rằng vẻ đẹp họ đã đón nhận vào trong đời sống họ sẽ
nâng đỡ họ qua suốt cuộc đời.
Đối với Ki-tô hữu đã thực sự cảm nghiệm được Tin Mừng, thì
đau khổ và cái chết không phải là những thực tại sau cùng. Nhưng thực tại sau cùng là chính Tình Yêu cũng
là chính Thiên Chúa, một tình yêu được đặt làm ý nghĩa và mục đích đời sống con
người. Tình yêu này chứa đựng một quyền
lực còn mạnh hơn cả tội lỗi và mạnh hơn cả sự chết. Sự sống và tình yêu của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô
phục sinh thông truyền cho tất cả nhân loại chứa đựng một mầu nhiệm về cả việc
phán xét lẫn lòng thương xót cũng như về lời hứa ban phúc trường sinh.
Sự sống đời đời không là gì khác ngoài sự kiện chúng ta được
chia sẻ hoàn toàn và vĩnh cửu với Tình Yêu Chúa Giê-su đã đem đến cho chúng ta,
Tình Yêu là bản chất của Ki-tô giáo. Sự sống
đời đời là sự biến đổi cuối cùng để chúng ta trở thành những người con yêu dấu
của Chúa Cha, Đấng đã mời gọi chúng ta chia sẻ vào sự sống của Thiên Chúa. Đồng thời sự sống đời đời còn mời gọi chúng ta
hãy tham dự vào “mầu nhiệm cao cả” (Ê-phê-xô 5:32) mà chúng ta gặp thấy trong
Kinh Thánh: Tiệc Cưới của Con Chiên với
nhân loại đã được cứu độ, hoặc với Giáo Hội là Thân Thể và Hiền Thê của Người
(xem Khải Huyền 19:9). Con Chiên này, tức
Chúa Giê-su Ki-tô, là sự sống của Thiên Chúa được mở ra cho chúng ta. Khi mặc lấy xác phàm, chết và sống lại từ kẻ
chết để ban Thần Khí Người xuống trên chúng ta cũng như dẫn chúng ta về với Chúa
Cha, Đức Ki-tô là tất cả niềm vui trong thế giới – và Người cũng chính là nội
dung của Tin Mừng vậy.
Phương pháp truyền giáo
Một “Tân Truyền giáo” là điều hết sức khẩn thiết trong thời chúng
ta, vì có rất nhiều người đang vô cùng khao khát niềm vui được người khác yêu
thương và có thể yêu thương người khác. Tuy
nhiên, “phương pháp” truyền giáo cũng như nội dung tự căn bản đã không thay đổi
chút nào. Kể từ ngày Chúa Ki-tô phục
sinh đứng giữa các Tông đồ đang hãi sợ và “họ vẫn chưa tin vì mừng quá” (Lu-ca
24:41); kể từ khi Thánh Thần của Người
đã “lấy hình lưỡi lửa” ngự xuống trên họ (Công Vụ Tông Đồ 2:3), ban cho họ lòng
can đảm mới và ơn soi sáng mới để hiểu mầu nhiệm của Chúa; hoặc kể từ khi thánh Gio-an viết bức thư thứ nhất
cho một số những Ki-tô hữu tiên khởi, thì phương pháp duy nhất việc rao giảng Tin
Mừng có thể áp dụng đó là phương pháp của tình yêu nhập thể. Tình yêu phải được hóa thân và truyền đạt dĩ nhiên
bằng lời nói, nhưng trên hết vẫn là bằng tất cả cuộc sống.
Việc truyền giáo là chứng
từ được thể hiện qua tất cả cuộc sống của người công bố Tin Mừng. Khi thánh Gio-an viết về Chúa Ki-tô, ngài đã viết
như một chứng nhân. Ngài chỉ công bố những
gì ngài đã thấy, đã nghe và đã chạm đến Đấng là cánh cửa để ngài và chúng ta bước
vào niềm vui. Ngài đã chiêm ngưỡng “Lời
sự sống… được tỏ bày” (1 Gio-an 1:1-2) với thái độ sửng sốt và yêu mến có thể cảm
xúc được như người ta thấy trong thư của ngài.
Dường như ngài vẫn còn thấy hiện ra trước mắt mình hình ảnh Chúa Giê-su
trên thập giá, yêu thương chúng ta tới cùng, hoặc Chúa Giê-su phục sinh tỏ ra
những vết thương vinh hiển của Người, yêu thương chúng ta vô bờ. Tình Yêu ấy đã đưa Gio-an đến yêu thương –
yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, yêu mến cộng đồng tín hữu là Giáo Hội, và
yêu thương mọi người như anh chị em mình.
Ngài biết rõ điều các Ki-tô hữu sau ngài cần phải biết: anh chị em không thể làm chứng cho Lời hóa thành
nhục thể nếu không để cho Lời hóa thành nhục thể trong chính anh chị em.
Lời Thiên Chúa là một Lời hoàn toàn cam kết với mọi người đã
sống và sẽ sống. Lời ấy là sự cam kết của
Con Thiên Chúa, Đấng đã đến để chết cho chúng ta được sống, không còn là sự sống
nhỏ bé và giới hạn lệ thuộc vào cái chết, nhưng là chính sự sống của Thiên
Chúa. Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho chúng
ta trong tình yêu. Lời của Người đã trở nên
nhục thể, “hạ mình” (Phi-líp-phê 2:8) hoàn toàn để đem tình yêu Thiên Chúa đến
cho chúng ta khi Người chết trên thập giá.
Làm như vậy, Người đã đặt nền móng cho điều mà Đức Hồng y Ratzinger gọi là
điều kiện thứ nhất của mọi việc rao giảng Tin Mừng: Hiến thân cho “Đức Ki-tô vì sự cứu rỗi nhân loại
là điều kiện căn bản của việc dấn thân đích thực cho Tin Mừng… Truyền giáo không
chỉ là một cách nói, nhưng là một lối sống”.[50]
Thiên Chúa đã hoàn toàn hiến thân trong tình yêu, nên con người
cũng không thể làm chứng cho tình yêu này một cách đáng tin cậy nếu họ không hiến
thân hoàn toàn. Theo cách đó, việc truyền giáo là một hình thức làm chứng bằng
một cuộc sống toàn diện và một cuộc sống chiếu tỏa tình yêu. Giống như một người yêu đích thực, một chứng nhân
không tìm kiếm gì cho mình; họ hiến thân,
hướng tất cả cuộc đời mình cho những gì họ đã thấy.
Hơn nữa, vì Ki-tô hữu đã được gia nhập vào “sự hiệp thông” hoặc
kết hiệp để lãnh nhận Lời Chúa, suy niệm và thực hành, nên họ không làm chứng một
mình. Trong tất cả sự yếu đuối và khó
khăn của mình, họ được đem vào một sự kết hiệp lớn lao hơn chính bản thân họ. Làm chứng cho một Đấng khác, cho một vẻ đẹp đã
đưa bạn thoát ra khỏi con người mình, như Ratzinger nhắc nhở chúng ta, đó là “nói
lên trong sứ mệnh của Giáo Hội”.[51] Vì Giáo Hội có nguồn gốc nơi Thiên Chúa và phản
ánh đời sống của Người, nên “cộng đồng Ki-tô không khi nào tự đóng kín”.[52] Mọi sự trong Giáo Hội và mọi sự Giáo Hội thực
hiện, ngay cả đến đời sống cầu nguyện âm thầm nhất, “chỉ mang đầy đủ ý nghĩa khi
trở nên một chứng nhân”, hay một chứng từ về tình yêu: “Toàn thể Giáo Hội lãnh nhận sứ mệnh rao giảng
Tin Mừng, và việc làm của từng cá nhân cũng đều quan trọng cho toàn thể cộng đồng
ấy”.[53]
Kết luận: Hạt lúa mì
Mặc dù mọi sự trong thế giới và tất cả óc sáng tạo của con người
đều nhắm mục đích phục vụ cho tình yêu Thiên Chúa, việc truyền giáo không phải
là một chương trình có thể được đảm trách hay hoàn hảo hóa nhờ những kỹ thuật mới
mẻ nhất. Trái lại, phương pháp truyền
giáo luôn luôn và không thể tránh né, đó là phương pháp làm chứng nhân cùng một
lúc vừa thuộc về chúng ta vừa thuộc về
toàn thể Giáo Hội. Đó là việc một người cam kết sẽ trung thành và
kiên trì, chờ đợi hạt lúa là Lời Chúa mang lại hoa trái. Đôi khi phải chờ đợi lâu và đôi khi cũng khó chờ
đợi, nhưng đó là chờ đợi trong hy vọng. Đó
cũng là chờ đợi trong cầu nguyện, bởi vì chỉ
nhờ nhìn thấy, lắng nghe và chạm tới Lời, chúng ta mới bắt đầu hiểu được
sự lớn lao của ân huệ mình đã lãnh nhận.
Trong phụng vụ của Giáo Hội và trong việc thinh lặng chiêm ngắm,
chúng ta biết là mình đã được yêu thương vô bờ và như vậy là chúng ta gặp được
niềm vui. Nhưng tình yêu và niềm vui này
không chỉ dành riêng cho một mình chúng ta;
mà đó là một sức mạnh hướng ngoại tiến sang anh chị em chúng ta. Theo lời Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, “Phát
xuất từ việc chiêm ngắm, với tất cả sức mạnh nội tại, ý thức cấp bách về truyền
giáo, một bổn phận đòi hỏi chúng ta “thông đạt điều chúng ta đã thấy và nghe” để
mọi người được thông hiệp với Chúa (1 Gio-an 1:3). Thinh lặng chiêm ngắm dìm chúng ta trong nguồn
suối Tình Yêu, Đấng dẫn chúng ta đến với người khác để chúng ta cảm nghiệm được
nỗi đau của họ mà đem đến cho họ ánh sáng Chúa Ki-tô, thông điệp sự sống của
Người và ân huệ cứu độ của tình yêu sung mãn.[54]
Có lẽ đây là một nghịch lý, nhưng chính là trong những khi thất
vọng, dường như mọi hành động hay lời nói của chúng ta đều không mang lại hoa
trái, thì cuối cùng chúng ta mới phải đối diện với “phương pháp” truyền giáo
đích thực: Chúng ta không phải là nguồn
gốc của Lời sinh hoa trái. Tất cả sự sống
và mọi “thành quả” của truyền giáo đều phát
sinh từ nơi Người. Chúng ta chỉ là các
tôi tớ của Người, vì Người cần có những ai biết yêu thương. Người cần những ai biết hiến thân và cầu nguyện. Những người như thế, thí dụ như thanh niên Karol
Wojtyla và Joseph Ratzinger, giữa bóng đêm của thế giới đều chú ý nắm bắt được
vẻ đẹp của Thiên Chúa. Khi làm như vậy,
họ ý thức được rằng Lời Chúa có phương pháp riêng của nó để sinh hoa trái dồi
dào.
Bàn về Tân Truyền giáo, Ratzinger đã nói: “Chúa Giê-su không cứu chuộc thế giới bằng những
lời hoa mỹ, nhưng bằng đau khổ và cái chết của Người. Cuộc Thương khó là một nguồn sống không hề cạn
dành cho thế giới; cuộc Thương khó đem lại
sức mạnh cho lời của Người. Chính Chúa đã
thiết lập luật hữu hiệu tính trong dụ ngôn hạt lúa mì gieo xuống đất phải chết đi”.[55]
“Luật hữu hiệu tính” này tự nó áp dụng cho mọi công cuộc rao
giảng Tin Mừng: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng
đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt
khác” (Gio-an 12:24).
Chứng nhân, người đã thấy, nghe và chạm tới Lời – như
Gio-an, Karol, Joseph và có lẽ chúng ta nữa – cần phải biết luật này về hạt lúa
chết đi để sinh được hoa trái bất ngờ và dồi dào: “Chúng ta không thể đem sự sống đến người
khác mà lại không hy sinh mạng sống mình”.[56] Chúng ta cũng có thể mô tả điều này đơn thuần
như là luật của tình yêu Thiên Chúa. Có vẻ
đây là một phương pháp kỳ cục và một luật khó khăn đối với Tân Truyền giáo, nhưng
việc làm chứng bằng cách cho đi sự sống của chúng ta, đó là cách duy nhất để thực
sự lấy tình yêu đáp lại Tình Yêu. Đó là
cách duy nhất để thực sự đạt được niềm vui.
Như Gio-an, Karol và Joseph từng ý thức, đó là cách duy nhất để sứ điệp
Ki-tô trở thành Lời của Tình Yêu sống động và đầy tràn dành cho mọi người trong
thời đại chúng ta.
Trích dẫn
[1] Marina
Corradi, “On
[2] N.
R. Kleinfield, “
[3] Gioan
Phaolô II, Memory and Identity (
[4] Ibid., 13.
[5] Mieczyslaw
Malinski, trích dẫn do George Weigel, Witness
to Hope: The Biography of John Paul II (New York: Harper Collins, 1999),
55.
[6] Joseph
Ratzinger, Milestones: Memoirs: 1927-1977,
chuyển ngữ do Erasmo Leiva-Merikakis (San Francisco:
Ignatius, 1998), 33.
[7] Ibid., 37-38.
[8] Ibid., 41-42.
[9] Xem
Memory and Identity, 13.
[10] Ibid., 3.
[11] Thông
điệp Spe salvi [Hy vọng cứu rỗi], ban
hành tháng 11 năm 2007.
[12] Bênêđictô
XVI, Diễn từ buổi cầu nguyện hiệp nhất tại
[13] Xem
Bênêđictô XVI, “Họ sẽ nhìn Đấng họ đã đâm thâu qua”, Sứ điệp mùa Chay
2007: “Trên thập giá, chính Thiên Chúa là
Đấng van nài tình yêu của tạo vật Người dựng nên: Người khao khát tình yêu của từng
người chúng ta”.
[14] Thông
điệp “Thiên Chúa là Tình yêu”, 1.
[15] Xem
Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini
[Lời Chúa], 2: “Chia sẻ đời sống của
Thiên Chúa, Ba Ngôi tình yêu, là niềm vui
trọn vẹn (xem 1 Gio-an 1:4)”.
[16] Bênêđictô
XVI, Buổi nói chuyện nhân dịp chúc mừng Giáng Sinh cho những người giúp việc Đức
Giáo Hoàng trong giáo triều Rôma, 22-12-2011.
[17] Ibid.
[18] Jospeh
Ratzinger, “The New Evangelization: Building the Civilization of Love,” Buổi nói
chuyện nhân dịpmừng kim khánh các giáo lý viên, 10-12-2000.
[19] Gioan
Phaolô II, Diễn từ trong Đại hội XIX của Liên Hội đồng giám mục châu Mỹ La-tinh
(CELAM), 09-03-1983.
[20] Xem
Gioan Phaolô II, Tông thư Novo millenio
ineunte [Bắt đầu thiên niên kỷ mới], 5.
[21] Phaolô
VI, Tông huấn Evangelii nuntiandi [Truyền
giáo trong thế giới hiện đại], 8-12-1975, 14.
[22] Đáp
ca trong phụng vụ Thánh lễ Chúa Nhật Phục Sinh.
[23] Xem
Novo millenio ineunte, 30.
[24] Ibid., 40.
[25] Ibid.
[26] Bênêđictô
XVI, Bài giảng Tạ ơn Thiên Chúa và Kinh Chiều Vọng lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa,
31-12-2011.
[27] Raniero
Cantalamessa, “The First Wave of Evangelization,” Bài giảng mùa Vọng cho những người
giúp việc Đức Giáo Hoàng trong giáo triều, 2-12-2011.
[28] Bênêđictô
XVI, Verbum Domini, 2.
[29] Bênêđictô
XVI, Tông thư Ubicumque et semper [Mọi
nơi mọi lúc], dịp thành lập Hội đồng Giáo Hoàng Cổđộng Tân Truyền giáo,
21-9-2010.
[30] Gioan
Phaolô II, Bước qua ngưỡng cửa hy vọng,
20.
[31] The New Evangelization for the Transmission
of the Christian Faith: Lineamenta,
Tài liệu chuẩn bị làm việc cho cuộc họp Thượng Hội đồng giám mục XIII, 11.
[32] Ibid.
[33] Bênêđictô XVI, Ubicumque
et semper.
[34] Gioan
Phaolô II, Novo millenio ineunte, 4.
[35] Xem
Phaolô VI, Evangelii nuntiandi, 15.
[36] Bênêđictô,
Bài giảng Thánh lễ cầu nguyện cho Tân Truyền giáo, 16-10-2011.
[37] Bênêđictô
XVI, Tông thư Porta fidei, 13.
[38] Phaolô
VI, Evangelii nuntiandi, 27.
[39] Bênêđictô
XVI, Bài giảng Thánh lễ cầu nguyện cho Tân Truyền giáo.
[40] Ibid.
[42] Lineamenta, 2.
[43] Bênêđictô
XVI, Ubicumque et semper.
[44] Lineamenta, 2.
[45] Bênêđictô
XVI, Bài giảng Thánh lễ cầu nguyện cho Tân Truyền giáo.
[46] Phaolô
VI, Evangelii nuntiandi, 14.
[47] Gioan
Phaolô II, Bước qua ngưỡng cửa hy vọng,
20.
[48] Bênêđictô
XVI, Buổi nói chuyện nhân dịp chúc mừng Giáng Sinh cho những người giúp việc Đức
Giáo Hoàng trong giáo triều Rôma, 22-12-2011.
[49] Bênêđictô
XVI, Diễn từ cho các giám mục thuộc Liên Hội đồng giám mục Thái Bình dương và Tân
Tâylan, dịp viếng thăm “Ad limina”, 17-12-2011.
[50] Joseph
Ratzinger, “The New Evangelization: Building the Civilization of Love,” 2.
[51] Ibid.
[52] Phaolô
VI, Evangelii nuntiandi, 15.
[53] Ibid.
Giáo Hội tuyên phong thánh Têrêxa Lisieux là đấng bảo trợ công cuộc truyền giáo. Thánh nữ là nữ tu dòng kín Carmêlô, qua đời
năm 24 tuổi và chưa từng rời khỏi tu viện.
Nguyên sự kiện này minh chứng cách
hùng hồn lối Giáo Hội hiểu thế nào là truyền giáo.
[54] Bênêđictô
XVI, “Silence and Word: Path of Evangelization,” Sứ điệp nhân ngày Truyền thông
Thế giớí thứ 46, 20-5-2012.
[55] Joseph
Ratzinger, “The New Evangelization: Building the Civilization of Love,” 1.2.
[56] Ibid.