NHỮNG CHUYỂN BIẾN ĐANG THAY
ĐỔI BỘ MẶT XÃ HỘI VIỆT
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TRÊN ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN CỦA CÁC
TÍN HỮU
(Tóm lược sách “Huấn giáo phục vụ cho công cuộc tân Phúc-âm-hóa để
thông truyền đức tin” của UBGLĐT/HĐGMVN, tt. 10-23)
(gpquinhon.org) Thứ tư - 24/09/2014 05:53
Tôi hân hạnh được chia sẻ tại Hội thảo Giáo lý toàn quốc lần thứ IV
này đề tài 1, trong đó có hai vấn đề:
I. Những chuyển biến đang thay đổi bộ mặt xã hội Việt
II. Ảnh hưởng của nó trên đời sống đức tin của các tín hữu.
Hy vọng khi nhận thức được hai vấn đề này, các vị hữu trách về Giáo
lý sẽ tìm ra đường lối, phương cách giúp cho việc thông truyền giáo lý được
hiệu quả hơn cho GHVN trong giai đoạn hiện tại.
I. Những chuyển biến đang thay đổi bộ mặt xã hội Việt
Đất nước Việt
- Chủ nghĩa thế tục (sécularisme) đang thấm nhập
vào cách suy nghĩ và cách sống của người tín hữu. Nó là thách đố lớn cho công
cuộc Phúc âm hóa vì hoàn toàn nghịch lại tinh thần phúc âm, nghịch lại đức tin
và luân lý kitô giáo, khi tìm cách loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống cá nhân,
gia đình và xã hội. Thế tục hóa là chỉ coi trọng con người, đặt niềm tin vào
con người chứ không vào thần linh nào (chủ nghĩa vô thần), chủ trương tách lìa
đạo ra khỏi đời, thu hẹp hoạt động tôn giáo vào nhà thờ, loại tôn giáo ra bên
lề xã hội, khống chế không cho tôn giáo tham gia vào các hoạt động xã hội (như
giáo dục, y tế, nhân đạo)... Chủ nghĩa tục hóa kéo theo
sự coi thường GH, công kích GH, chỉ trích những khuyết điểm, lỗi lầm của các
phần tử trong GH như linh mục (vd nạn ấu dâm).
- Chủ nghĩa duy vật (matérialisme): chỉ nhìn nhận vật
chất, quan niệm vật chất trên hết, chết là hết. Vật chất có giá trị, vì có
thực, có thể nắm bắt, chạm được… Chủ thuyết này loại bỏ giá trị của tâm linh,
thiêng liêng, không nhìn nhận thần thánh, tôn giáo…
- Chủ nghĩa cá nhân (invidualisme): nhấn mạnh đến sự độc
lập của con người và tầm quan trọng của tự do và tự lực của mỗi cá nhân. Những
người theo chủ nghĩa này chủ trương không ai được phép
hạn chế mục đích và ham muốn của cá nhân. Họ phản đối sự can thiệp từ bên ngoài
lên sự lựa chọn của cá nhân - cho dù sự can thiệp đó là của xã hội, nhà nước,
hoặc bất kỳ một nhóm hay một thể chế nào khác. Chủ nghĩa cá nhân đối lập với
chủ nghĩa tập thể, cộng đồng, tức là đối lập với những chủ thuyết nhấn mạnh đến
việc công, nhóm, xã hội, hoặc các mục đích quốc gia cần được đặt ưu tiên cao
hơn các mục đích của cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân cũng đối lập với quan điểm
truyền thống, tôn giáo, tức đối lập với bất cứ quan niệm nào cho rằng cần sử
dụng các chuẩn mực đạo đức hay luân lý ở bên ngoài, khách thể, để hạn chế sự
lựa chọn hành động của cá nhân. Liên quan đến chủ nghĩa cá nhân là quan niệm tự
do tư tưởng, muốn nghĩ sao cũng được, không phải tuân theo
quan niệm của tôn giáo. Chủ trương này sẽ đưa đến chỗ mất
lòng kính trọng, vâng phục huấn quyền GH và các nhà hữu trách trong GH.
Chủ nghĩa này tai hại cho việc giữ đức tin, giữ đạo,
không nghe ai nữa, tự lấy mình làm tiêu chuẩn cho mọi việc.
- Chủ nghĩa tương đối (relativisme): coi mọi sự đều tương
đối, không gì có tính tuyệt đối. Về tôn giáo thì coi mọi tôn giáo đều ngang
nhau, không có tôn giáo nào là tối ưu cả ; luân lý
cũng không có tính tuyệt đối, chỉ cần theo tiếng lương tâm của mình. Quan niệm
này dẫn đến chủ trương tự do luân lý, tự do kết hôn, tự do ly dị, tự do tái
hôn, tự do quan hệ tính dục, tự do phá thai, tự do
chọn lựa giới tính, tự do chọn cái chết… Đó là những nhức
nhối mà GH đang phải đối diện. Người giáo hữu có quan
niệm này sẽ coi thường việc hành đạo, giữ đạo.
- Chủ nghĩa hưởng thụ
khoái lạc (hédonisme):
chủ trương hưởng thụ tối đa khoái lạc, mặc sức hưởng thụ những gì mình thích…
Ngay trong lòng GH, chủ nghĩa hưởng thụ dẫn đến việc ngại Thánh giá, ngại khổ,
ảnh hưởng đến cả các linh mục tu sĩ khiến tìm hưởng thụ, sống giàu sang, an
nhàn, ngại dấn thân đi rao giảng Tin Mừng…
Những chủ nghĩa trên có ảnh hưởng toàn cầu, và xã hội Việt
- Tư duy:
Những giá trị xưa nay vẫn được xã hội VN tôn trọng nay bị lung lay, thậm chí
đảo ngược như lòng trung thực, tính hiền hòa, lễ độ, nhường nhịn, tốt lành, yêu
thương, đùm bọc nhau… nhường chỗ cho giả dối, bạo lực, vô lễ, tranh giành, hung
dữ, ghét bỏ loại trừ, dửng dưng (mackeno)… Tệ nạn xã hội (xì ke, ma
túy, HIV, mại dâm, buôn lậu, giết người, ly dị, phá thai,
đồng tính…) ngày càng leo thang. (Tư tưởng đưa đến hành
động).
- Tôn giáo:
Việt
- Kinh tế:
Với việc gia nhập WTO, kinh tế Việt Nam phát triển, đời sống vật chất đi lên,
tuy chưa cao lắm, nhưng đủ để dẫn đến sự hưởng thụ (quán ăn nhan nhản đủ loại,
nhà nghỉ mọc lên như nấm), duy vật chất, đưa đến sự chênh lệch giàu nghèo rất
lớn: “Kẻ ăn không hết, người lần không ra”. Hiện trạng này tạo ra nhiều bất
công và tệ nạn trong xã hội như “con ông cháu cha” nắm quyền lực, nạn tham
nhũng, hiện tượng di dân kinh tế, gia đình mong manh dễ tan vỡ, môi trường bị ô
nhiễm… Việt
- Văn hóa:
Truyền thống văn hóa lâu đời của Việt
- Luân lý: Luân lý bị xuống dốc theo sự băng hoại các giá trị văn hóa, tôn giáo, kinh tế, tư
duy nói trên. Không ngờ trong một quốc gia tự hào có 4000 năm văn hiến, nay
cũng leo thang về tội ác (phá thai, giết người, tham
nhũng, bóc lột người yếu thế, học đường không còn đạo đức).
- Giáo dục:
Có những bước tiến như phổ cập văn hóa, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài,
chính sách xã hội về giáo dục đang có hiệu quả, chất liệu giáo dục có chuyển
biến (trường học, kể cả đại học, cao đẳng nhiều) …, nhưng đang tồn tại những
yếu kém như: chất lượng còn thấp, phương pháp lạc hậu, chậm đổi mới, người
nghèo, đồng bào dân tộc bị thiệt thòi, các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục
như dạy học thêm, mua bằng giả, bệnh thành tích…
II. Ảnh hưởng của nó trên đời sống đức tin của các tín hữu
Xã hội thay đổi kéo theo sự thay đổi não trạng về tôn giáo, khiến
đặt ra nhiều vấn đề nan giải cho đời sống đức tin của các tín hữu, đòi hỏi các
hoạt động mục vụ, việc dạy giáo lý, việc sống đạo cũng phải thích nghi với tâm
thức và nhu cầu của con người Việt Nam hiện nay. Đổi mới, cập nhật hóa là qui
luật (cũng như nguyên tắc “aggiornamento” của ĐGH Gioan XXIII khi canh tân GH
với công đồng Vatican II…) Những đổi thay của xã hội có thể có ảnh hưởng tốt
nhưng cũng có thể xấu trong đời sống đức tin của người công giáo Việt Nam hôm
nay.
- Đời sống vật chất được nâng cao, phúc lợi của dân được
cải thiện, nhưng ngược lại, người dân bị chi phối về vật chất, lo làm giàu, rồi
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu ảnh hưởng nặng nề trên nền kinh tế Việt
- Đời sống luân lý cũng bị xuống dốc: đạo đức bị coi là
mối đe dọa cho các hành vi thao túng và hạ thấp phẩm giá con người ; hôn nhân
và gia đình bị đe dọa bởi nạn ly dị, ngoại tình, đồng tính luyến ái; tệ nạn xã
hội gia tăng: phá thai, bạo lực, giết người... Sống trong lo
âu và sợ hãi, người dân trở nên phòng thủ và tự vệ, che đậy và giả hình, thiếu
tin tưởng và ít cộng tác với người khác.
- Đời sống tôn giáo cũng bị kéo xuống, tuy hiện tại người
tín hữu vẫn còn dự lễ đông, các cuộc hành hương như ở La vang vừa qua, các
trung tâm hành hương Đức Mẹ khắp nơi vẫn đông đảo, các dịp lễ lớn vẫn đông
người đi xưng tội... nhưng có dấu hiệu cho thấy đức tin đang bị đi xuống bởi sự
đổi thay về đời sống vật chất. Con số giáo dân thờ ơ, dửng dưng với niềm tin
tôn giáo, sống xa cách, giả dối, thoái thác cộng tác, giữ đạo vừa chừng, không
gắn bó đang tăng dần. Thường khi đời sống vật chất đi lên, thì tinh thần đạo
đức, lòng tin đi xuống ! Tuy nhiên, đời sống vật chất
được nâng cao cũng có thể đem lại nhiều hướng thuận lợi như giúp cho người công
giáo có thời giờ rảnh rỗi hơn, không còn “đầu tắt mặt tối” lo miếng cơm manh áo
(có thực mới vực được đạo), để có thể đào sâu đức tin, sống đạo, đóng góp tích
cực vào sinh hoạt giáo xứ, xây dựng các cơ sở vật chất của Giáo Hội, không còn
phải trông chờ tiền nước ngoài để xây nhà thờ, mà tự lực.
Có thể kể thêm một số dấu hiệu về lòng đạo đi xuống: nhiều giáo dân
không còn siêng năng lãnh nhận bí tích hòa giải ;
nhiều tín hữu, nhất là giới trẻ dễ dàng bỏ lễ, hoặc dự cho có, chẳng sốt sắng. Số người kết hôn khác đạo gia tăng, và nhiều người sau đó bỏ đạo
nữa. Số ly dị gia tăng. Số
tân tòng gia nhập đạo ít, chứng tỏ nỗ lực truyền giáo. Ơn gọi tu trì vẫn còn nhưng đã ít dần, nhất là ở thành thị. Phẩm chất của người kitô hữu cũng kém xưa, ít lưu tâm đến việc làm
chứng tá cho Tin Mừng. Việc học giáo lý chỉ nơi trẻ em, hết lứa tuổi này thì
không còn mấy ai chịu khó tìm tòi, đào sâu. Sự hiểu biết về giáo lý nơi
giáo dân Việt
Kết luận
Có thể xem cuộc Hội thảo này là một chặng dừng chân để kiểm điểm,
lắng nghe, xem xét, trao đổi và tìm ra những phương cách hữu hiệu, cập nhật,
thích ứng với thời đại hiện nay. Chúng ta nhìn vào Giáo Hội
Hàn Quốc để ngưỡng mộ và thèm muốn được như họ. Để được như vậy, thiết
tưởng cần động viên toàn thể GHVN, từ các vị lãnh đạo Giáo Hội, đến các linh
mục, tu sĩ, và giáo dân. Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng hiện
diện trong lòng GHVN để nâng đỡ, hướng dẫn chúng ta. Giữa lòng Hội Thánh
Việt Nam hôm nay vẫn có những con người năng động, nhiệt huyết với sứ mạng loan
báo Tin Mừng, rao truyền chân lý của Đạo Chúa, vẫn có những người muốn nghe và
đón nhận chân lý đó. Gíao Hội Việt
+ Anphong Nguyễn Hữu Long
Giám mục Phụ tá Hưng Hóa
Nguồn: Ban Giáo lý Toàn quốc 2014