Những người được Thiên Chúa yêu thương
* THIÊN CHÚA CHA ĐÃ
GIEO LỜI CỦA NGƯỜI VÀO LÒNG ĐẤT TÂY NGUYÊN và được các VỊ THỪA SAI CHĂM SÓC NHƯ
THẾ NÀO?
* ĐÂU LÀ HƯỚNG ĐI KHẢ DĨ TRONG
TƯƠNG LAI ĐỂ làm toả sáng
vẻ đẹp của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được tỏ lộ trong Đức Giêsu Kitô Chịu
Chết và Phục Sinh cho NHỮNG CON NGƯỜI ĐƯỢC THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG
trong một thế giới đang đổi thay nhiều mặt?
“Tất cả chân lý mặc khải đều bắt nguồn từ Thiên Chúa
và phải tin tất cả với cùng một lòng tin, nhưng có một số quan trọng hơn số
khác vì trực tiếp diễn tả tâm điểm của Tin Mừng. Trong cái cốt lõi cơ bản
này, cái tỏa sáng chính là vẻ đẹp của tình thương cứu độ của Thiên
Chúa được mặc khải nơi Đức Kitô đã chết và sống lại từ cõi chết…" (ĐGH
Phanxicô, Tông huấn Niềm
vui của Tin Mừng (EVANGELII GAUDIUM), số 36).
Xin giới thiệu bài
nghiên cứu của Linh mục GIOAKIM NGUYỄN HOÀNG SƠN về PHƯƠNG THỨC LOAN BÁO TIN
MỪNG TRÊN VÙNG ĐẤT TÂY NGUYÊN - KONTUM.
***
NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC THIÊN CHÚA
YÊU THƯƠNG
Thiên
Chúa độ lượng gieo Lời Chúa trên mọi mảnh đất. Người Tây nguyên nói
chung, dân tộc Bắc Tây nguyên – Giáo phận Kontum- nói riêng là một mảnh đất
được Thiên Chúa gieo Lời của Người, là hạt giống cứu độ từ lâu đời đã tồn tại
nơi đó, trước khi tiếp xúc nền văn minh cận đại. Chúng tôi xin mạn phép dựa
trên dụ ngôn “NGƯỜI GIEO GIỐNG” (Mt
13, 3-23; Lc 8,5-15) như sợi chỉ đỏ xuyên suốt gợi nhớ lại
quá trình Hạt Giống Lời Chúa phát triển như thế nào nơi người dân tộc thiếu số Tây Nguyên
này.
Trong bài nguyên cứu
ngắn này, chúng tôi xin chia ra 4 phần sau đây:
I – TÂY NGUYÊN ĐƯỢC THIÊN
CHÚA YÊU THƯƠNG, LÀ MẢNH ĐẤT ĐƯỢC THIÊN CHÚA GIEO LỜI CỦA NGƯỜI TỪ LÂU ĐỜI.
II – NHỮNG CÔNG VIỆC
CÁC VỊ TRUYỀN GIÁO CẦN LÀM ĐẦU TIÊN KHI ĐẶT CHÂN LÊN VÙNG
DÂN TỘC TÂY NGUYÊN.
III – PHƯƠNG THỨC NÀO CÁC VỊ THỪA SAI VUN TRỒNG ĐƯỢC MỘT CÁNH ĐỒNG
LÚA BỘI THU NHƯ HIỆN TẠI.
IV – MỘT VÀI SUY NGHĨ NHƯ PHẦN KẾT LUẬN
I – TÂY NGUYÊN ĐƯỢC
THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG, LÀ MẢNH ĐẤT ĐƯỢC THIÊN CHÚA GIEO LỜI CỦA NGƯỜI TỪ LÂU
ĐỜI
Chúng tôi xin dựa vào
tài liệu “NHỮNG BƯỚC CHÂN TRUYỀN GIÁO TÂY NGUYÊN” (Thế kỷ XVII–XIX)[1]và “DÂN
LÀNG HỒ”[2] và một số tư liệu khác.
Trong bài khảo luận
lịch sử các dân tộc thiểu số, ông Bernard Bourotte
có viết : “Hiểu biết các người dân tộc: Các bản đồ địa
dư Âu châu không đề cập đến các dân tộc thiểu số vào trước thế kỷ XVII, nói cho
chính xác hơn trước năm 1645. Nhưng chính các vị thừa sai mới
nói đến sự có mặt của họ. Các ngài là những người đầu tiên nói đến các
người “mọi” ghi trong bản đồ của mình: nói cho người Âu châu biết các cư dân
bản địa này, và những vị thừa sai đặt cho họ một “tên”[3].
Các
vị thừa sai thử tìm hiểu về họ, học hỏi các phong tục tập quán cũng như lối
sống của họ. Cha RHODES cũng có nói đến những “KEMOI”, hay “RUMỌI”[4],
những con người hoang dã sống trên những dãy núi phái Tây Việtnam được ngài ghi
trên bản đồ của ngài[5].
Vào năm 1680, Cha de
COURTAULIN, M.E.P có nói: “Thấy các người
dân tộc miền núi năng xuống Đàng Trong, tôi cũng nhận xét họ là những con người
có bản tính rất thuần thục, và họ không có đình miếu, không thờ ngẫu tượng…
Ngày đêm tôi lo lắng tìm mọi cách đem Tin Mừng đến với họ (…)”[6].
Đức Cha PIGUEL, Vị Đại
Diện Tông Tòa khi ở Campuchia đưa ra dự án truyền giáo cho những người dân tộc,
có ghi trong thư đề ngày 10 tháng 07 năm 1765 gởi cho Bề trên Chủng Viện MEP.
Ngài viết : “Có những dân tộc sống giữ
Campuchia, Lào, Annam và Bắc Kỳ, là những người không thờ ngẫu tượng; có một số
được gọi là người STIENG, người khác được gọi là PRODE (RAĐÊ), QUERAIE (Jrais),
PENONG (Pnong) v.v… Nhất là người PENONG tâm tính đơn sơ dễ thương, và họ tỏ ra
thiện cảm đối với tôn giáo chúng ta… Nếu tôi có số linh mục
thừa sai nhiều hơn, tôi sẽ gởi vài vị trong họ đến rao giảng đức tin cho các cư
dân đó”.
Đức cha Bá Đa Lộc qua
đời ngày 09 tháng 10 năm 1779 và vua Gia Long qua đời ngày 03 tháng 02 năm
1820. Chính lúc đó là bắt đầu một thời kỳ những cơn bắt hại dữ dội dưới các
triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và nhất là Tự Đức đã làm cho biết bao người công
giáo phải hy sinh chết vì đạo. Từ năm 1825 trở đi, bao nhiêu
sắc chỉ cấm đạo của nhà vua được ban hành chống lại người tín hữu và các thừa
sai trong ba triều đại vua kế tiếp nhau. Đó là những
cuộc bách hại khủng khiếp và cũng là nguyên nhân cho một cố gắng mới truyền
giáo vùng Cao Nguyên.
Sau những lần thất bại
kế tiếp nhau, Đức Giám mục CUÊNOT THỂ, Đại Diện Tông Tòa Đông
Đàng Trong, Đấng đã tử đạo chết rũ tù ngày 14 tháng 11 năm 1861 không ngã lòng,
đã gởi thầy SÁU DO tìm kiếm và khám phá con đường truyền
giáo và hai vị thừa sai vừa mới đến là cha COMBES và FONTAINE được chỉ định lao vào
công việc khám phá mạo hiểm đó. Công việc khai sáng này đạt được là xây dựng VÙNG
TRUYỀN GIÁO KONTUM.
Năm 1851: Đoàn truyền
giáo đã đến vùng đất người dân tộc Cao Nguyên và thành lập 4 trung tâm :
1/ Vùng truyền giáo cho
người dân tộc Bahnar Jơlơng (nay là vùng Hà Tây, huyện
Mang Yang). Cha Bề Trên Combes Bê đảm nhận.
2/ Vùng truyền giáo cho
người dân tộc Bahnar – Rơngao (thành phố Kontum ngày nay), do cha Degouts và
thầy Sáu Do phụ trách.
3/ Vùng truyền giáo cho
người Sơdăng tại Kontrang (nay thị trấn Đak Hà), cha Dourisboure chăm sóc.
4/ Vùng truyền giáo cho
người dân tộc Jrais (vùng giáp phụ lưu Pơkô và sông Đak Bla), do cha Fontaine
đảm trách.
Ngày
16 tháng 10 năm 1853, các cha rửa tội cho hai dự tòng đầu tiên người Sơđăng.
Ngày 28 tháng 12 cùng
năm, cha Bề Trên Combes rửa tội ông Hmur chủ làng Kon Kơ xâm, người tín hữu
Bahnar-Jơlơng đầu tiên.
Trong
năm 1854, cha Dourisboure rửa tội them 4 em nữa. Như vậy, số tân tòng
tại Kontrang là 6 người.[7]
Từ năm 1854 – 1855:
khoãng 20 người dân tộc trở thành con cái Giáo hôi.
Năm 1901, số giáo dân Bahnar : 8.000 người.
Năm 1932, năm thiết lập
Giáo phận Kontum, tách từ Giáo phận Qui Nhơn: có 3 linh mục bản xứ người Bahnar
(Cha Hiau (+1949); cha Châu (+1955), cha Đen (1987). Số giáo dân
: 23.000 tín hữu kinh và dân tộc; 24 linh mục.
Năm 1936
: Giáo phận Kontum : 22.812 tín hữu (17.683 dân tộc); 27 linh (3 linh
mục dân tộc, 12 kinh), 22 địa sở và 203 giáo họ.
Cuối năm 2013: Diện
tích: 25.225 Km2 (Gia Lai: 15.536 Km2, Kontum: 9.689 Km2)
Dân số 2 tỉnh Gialai và
Kontum: 1.775.200 (năm 2012)
Số giáo dân: 300.649 (+ Kinh: 96.941, +Dân
tộc: 203.708)
Dòng Ảnh Phép Lạ: 28
cộng đoàn; 141 nữ tu;
Địa sở: 78; giáo họ (làng): trên 465; Dự tòng:
2.570 (gần 2/3 là dân tộc).
II – NHỮNG CÔNG VIỆC
CÁC VỊ TRUYỀN GIÁO CẦN LÀM ĐẦU TIÊN KHI ĐẶT CHÂN LÊN VÙNG
DÂN TỘC TÂY NGUYÊN
Trong
suốt thời gian 160 (từ 1853 – 2013), số địa sở cũng như số tín hữu đặc biệt tín
hữu người dân tộc gia tăng mạnh. Lịch sử của các vị thừa sai lên vùng Tây
Nguyên phải trả một giá rất đắt với muôn nghìn khó khăn, anh hùng được cha
Dourisboure thuật lại trong tác phẩm của ngài có tựa đề “Les sauvages Bahnars” và được cha
Simonet ghi lại trong quyển có tựa đề “La
Mission des Grandes Plateaux”.
Chúng ta tìm hiểu các
vị thừa sai nhận định người dân tộc, nhất là khi đón nhận Lời Chúa họ chuyển
hóa đời sống tâm linh như thế nào?. Chúng
tôi xin dựa vào tài liệu của cha Dourisboure để tìm ra chất
đất tốt để Lời
Chúa phát triển trên vùng Truyền giáo Tây nguyên này.
1 – Cha Bề trên Combes
phụ trách loan báo Tin Mừng cho cư dân Bahmar Jơlơng tại Kon Kơxâm tả ngạn sông
Đăk Bla (xã Hà Tây, tỉnh Gialai bây giờ) trong thư của ngài giử cho các cha
trong ban Giám
đốc Chủng viện Hội Thừa sai, ngày 29 tháng 09 năm 1853 như sau (xin trích) :
“Con rất muốn miêu tả thật chi tiết về những vùng
đất mà cho đến nay chưa một ai biết đến. Nhưng vì quá bận bịu trong việc học
thổ ngữ để dịch kinh nguyện và các bài giáo lý; đàng khác, bị cắt ngang bỡi
những cuộc viếng thăm thường xuyên của anh em dân tộc, vì thế hôm nay con cũng
không thể cung cấp cho quí cha điều gì khác ngoài những cái nhìn khái quát nhất
và vô trật tự về sắc dân mà con đang rao giảng Tin Mừng, cũng như các bộ tộc
sống chung quanh”[8]
a. Học thổ ngữ. Việc
các vị thừa sai học thổ ngữ là ưu tiên hàng đầu. Đây
là phương tiện để tiếp xúc với cư dân bản địa, là chiếc cầu nối giữa người với
người trong đời thường, giữa hai tâm hồn trong đời sống giáo dục và tâm linh.
Vấn đề học thổ ngữ không có thông dịch, không có tự điển giúp đỡ thật là vất
vả!
1/ Để
có thể truyền giáo cho người sắc tộc thì phải biết ngôn ngữ của họ.
Việc
trước tiên phải làm là học tiếng. Cha Dourisboure, tác giả cuốn Dân
Làng Hồ, kể lại kinh nghiệm như sau: “Trên đời này, ít có điều gì khó hơn là học một ngôn ngữ mà không có
sách vở, không có tự điển, không có sách ngữ pháp, không có người thông dịch;
và nhất là những người nói ngôn ngữ đó lại là những người dân khốn khổ, hiểu
biết hạn chế, trí khôn chậm phát triển”[9]. Vậy phải bắt
đầu từ đâu? Cha Dourisboure viết tiếp: “Chúng tôi lên nhà rông để học vài ba từ Bahnar. Mỗi
người cầm bút chì và một mảnh giấy, ngay khi tưởng là đã nắm được nghĩa của một
từ thì vội ghi lại”.
“Đến lúc anh em dân tộc đã đi rẫy hoặc đi ngủ, thì
ba anh em chúng tôi họp lại để so sánh những điều đã ghi lại, và thống nhất những điều mà
chúng tôi đã học được, hoặc tưởng là đã hiểu được” (Sđd trg 79). Việc học tiếng Bahnar chỉ là bước đầu, về sau, với các Trung
Tâm truyền giáo cho các sắc tộc khác nhau, các vị thừa sai cũng phải học cho
biết các thổ âm khác nữa.
2/ Chữ
viết với nhu cầu truyền giáo
Cha
vị thừa sai tại Vùng Tây Nguyên dần dần lập ra tự điển bằng ký hiệu chữ Latinh. Riêng
cha Dourisboure đã tạo được quyển từ điển “DICTIONNAIRE BAHNAR-FRANÇAIS”, NXB. Hồng-Kông 1889.
Sứ
mạng chính yếu của các vị thừa sai là rao giảng Lời Chúa, nền luân lý công
giáo. Do đó, các vị thừa sai cần thấu hiểu ngôn ngữ nói và tạo ra ngôn
ngữ viết như phương thế tối cần thiết cho sứ vụ của mình. Cha Dourisboure xác
định điều đó như sau:
“Thế mà rao giảng Đạo, để giải thích tín lý cao siêu
trong một thổ âm nghèo nàn thì phải biết tường tận thổ ngữ đó. Cho nên một
trong những phận sự thiết yếu của người thừa sai là học cho rành ngôn ngữ mà
ông phải dùng để giảng dạy, ban phép giải tội, hành xử nhiệm vụ thừa tác (…) Một trong những phương tiện đầu tiên là phải nói
thông thạo ngôn ngữ của những người mà mình muốn rao giảng Tin Mừng”[10].
Với
cố gắng vượt mức trong thời gian ngắn, các Ngài đã đủ để nghe để nói, để giảng
dạy.
Đồng thời các ngài ổn cố lại được lối phiên âm cho tiếng nói
dựa trên một số nguyên tắc ngữ học, hoặc trên thực tế, dùng âm sắc của tiếng
nói. Các Ngài vừa học vừa nghiên cứu cách phiên âm ra
chữ viết tiếng Bahnar.
Khi linh mục
Dourisboure lên ở KONTRANG một mình vào năm 1852 giữa những anh em dân tộc, với
thổ ngữ xa lạ, Ngài cảm thấy một nỗi buồn da diết. Lúc đó
Ngài bắt đầu học tiếng Sơđang rất cần cho giao dịch và dạy giáo lý. Tạm
trú tại nhà ông LAM, được sự giúp đỡ tận tình của ông, con cái, và người nhà, Ngài biết vừa đủ thổ ngữ.
Năm
1853, tức là sau 2 năm mày mò học tiếng, các thừa sai đã có những bản kinh và
giáo lý cho các dự tòng đầu tiên. Tác giả Dân Làng Hồ cho biết: “Tôi đã bắt đầu biết kha khá thổ ngữ thông dụng ở Kon Trang. Còn Cha Combes đã soạn xong tập giáo lý nhỏ bằng tiếng Bahnar và đã
dịch xong các kinh mà mỗi Kitô hữu phải biết và phải đọc. Đến lượt mình,
tôi dịch lại công trình nhỏ bé của ngài sang tiếng Sơđăng”[11] . Và cứ như thế, các
cộng đoàn kitô giáo dần dần phát triển trên Miền Truyền Giáo Tây Nguyên.
3/ Dạy
đọc và dạy viết cho người dân tộc.
Sau
một thời gian ở vùng Sơđang-Rơngao, cha Doursiboure trở lại vùng Bahnar. Ngài
có dịp nghiên cứu tiếng Bahnar với mục đích phiên âm tiếng Bahnar cho chuẩn như
chữ phổ thông cho cả vùng truyền giáo. Ngài cố gắng
trong thời gian dài để hoàn thành một quyển TỰ ĐIỂN BAHNAR – FRANÇAIS dựa trên
những nguyên tắc ngữ học rất khoa học. Trong khi đó cha Bề Trên COMBES
cũng tạo chữ viết cho tiếng Bahnar theo một hướng khác :
phiên âm tiếng nói theo cách phát âm nói.
Trong
quyển tự điển Bahnar –Français, cha Dourisboure đã hiệu chính được nhiều tiếng
dân tộc bahnar và tìm thấy ý nghĩa thích hợp dùng trong việc soạn giáo lý và
trong phụng vụ [12].
b.Về mặt tôn giáo của người dân tộc
“Về mặt tôn giáo, người
Bahnar tin vào rất nhiều thần linh, có lợi hay gây hại cho con người. Theo họ,
mỗi ngọn núi, mỗi con sông, mỗi tảng đá, mỗi cây to, tắt một lời, mỗi loại đều
có thần linh riêng của mình. Còn ý nghĩ về một Đấng cao cả, Đấng tối thượng và
là Đấng tạo dựng muôn loài, thì dường như không có, hay ít ra con không nhận
thấy điều đó. Nếu hỏi họ con người bỡi đâu mà có, thì họ chỉ có thể trả lời
rằng đó là một vị cha chung của nhân loại được cứu khỏi một trận lụt lớn nhờ
chui vào một cái thùng (…) Linh hồn thì bất tử, khi lìa khỏi xác nó sẽ đi lang
thang một thời gian quanh các mồ mả và các núi đồi lân cận. Nó thường hiện ra
ban đêm làm người ta khiếp sợ, rồi biến mất hút vào vực sâu tăm tối ở phương
III – PHƯƠNG THỨC NÀO
CÁC VỊ THỪA SAI VUN TRỒNG ĐƯỢC MỘT CÁNH ĐỒNG LÚA BỘI THU NHƯ HIỆN NAY
Chỉ có hiện tại
là điều thu hút toàn bộ tâm trí người dân tộc Tây
Nguyên. Người dân tộc Tây Nguyên mộc mạc thiếu những kiến
thức trừu tượng, không có áng văn chữ viết, thường bị coi là hoang dã, rừng rú
và có một thời gian dài bị gọi gán cho một tên “MỌI”. Nhưng các vị thừa
sai lên vùng dân tộc đã nhận định và đánh giá họ là con cái cùng một Cha trên
trời, là con người tốt lành, có nhiều điểm đáng tôn trọng, là một mãnh đất tốt
để Hạt Giống Tin Mừng là Lời Chúa sẽ trỗ sinh nặng trĩu những hạt lúa cho Thiên
Chúa.
Họ có ĐÔI
TAI “DON” để nghe, có MIỆNG “BƠR” để cầu khẩn và ĐÔI TAY “TI” BÀN TAY “KƠPANG TI” đểcúng tế: Ai cũng có, nhưng ở đây là con đường tuyệt hảo
Thiên Chúa đã thương ban riêng cho người dân tộc như MẢNH
ĐẤT TỐT để Lời
Chúa cắm rễ sâu trong lòng họ và tồn tại đến ngày hôm nay. Họ cầu khẩn, cúng
vái các thần linh chung quanh họ để xin được an thân,
thoát những điều không may trong cuộc sống của họ. Cho nên,
TAI người dân tộc nghe những lời các linh mục thừa sai DẠY
ĐẠO nhằm trừ khử
những “cây gai, đá sỏi, xua đuổi chim
trời” làm chết nghẹt Lời Chúa trong lòng họ. Mặt khác các ngài củng cố niềm tin cho họ dựa vào tâm
thức cầu khẩn cúng bái của họ. Họ
lắng TAI “DON” nghe những câu chuyện về Đạo; MIỆNG“BƠR” họ cầu khẩn với Đấng mà họ được biết là Cha chung
yêu thương của mọi người và họ dâng cúng của lễ lên Đấng có thể cứu vớt họ khỏi
khổ đau trần tục để đưa họ về nơi mà họ cho rằng thời Hoàng kim sẽ đến.
Trong phần III, chúng
tôi xin chia ra 3 phân đoạn :
♦ Phân đoạn thứ nhất: KINH BỔN: Dạy Đạo luôn kèm theo dạy CẦU NGUYỆN
♦ Phân đoạn hai: KINH SÁCH: Những kinh được qui định đọc chung
♦ Phân đoạn ba: HIẾN LỄ: Thánh lễ.
Phân đoạn thứ nhất:
KINH BỔN
Dạy Đạo luôn kèm theo dạy cầu nguyện.
Người
dân tộc có ĐÔI TAI (DON) được thiên phú cách đặc biệt. Sau
một ngày làm việc đồng áng vất vả, và cơm tối xong, nhất là vào mùa đông gió
rét, dân làng dần dần qui tụ trước sân nhà rông, quanh đống lửa vừa mới nhóm
cháy. Những người đàn ông ngậm ống điều phì phà trên
miệng, các bà người thì bì bập điếu thuốc lá quấn kèn, kẻ đang cho con bú, các
trai trẻ ngồi từng nhóm nghe cụ già trong làng kể chuyện cổ tích. Mỗi
người tự tìm một chỗ ngồi, ngồi trên thân cây, ngồi trên hòn đá gần đó, ngồi
bệt dưới đất không sao, miễn gần đống lửa có khí ấm, nghe ngọn lửa kêu lách tách,
xít lại gần để nghe cụ già kể chuyện rõ hơn. Họ có thể ngồi suốt đêm để nghe cụ
già kể chuyện anh hùng của bộ tộc, những câu chuyện cổ tích về tình yêu của đôi
trai gái đời xa xưa được truyền lại, gọi là KHAN. Họ không có
chữ viết ở ghi lại, nhưng họ có một trí nhớ, một “DON” TÂM HỒN ĐỂ IN SÂU. TAI “DON”
của họ để nghe, cũng là “DON” TẤM LÒNG của họ để ghi khắc và cảm nghiệm bài
học của tổ tiên truyền lại bằng MIỆNG “BƠR” từ nhiều thế hệ, vượt thời gian.
Họ có văn chương bình dân có giá trị. Chính vì ý thức
tầm quan trọng của việc KỂ TRUYỆN (KHAN), ĐÓN NHẬN
QUA TAI (DON) và THẤM NHẬP VÀO CON TIM (MUT LÂM DON) mà được các linh
mục theo quá trình đó để DẠY ĐẠO, CẦU NGUYỆN và CHUYỂN HÓA TÂM LINH.
Trong
phân đoạn thứ nhất này chúng tôi xin đề câp việc học KINH
BỔN. Chúng tôi xin trình bày
việc họcBỔN, học GIÁO
LÝ luôn kèm theo học KINH đã sẵn có, nhất là dạy cho họ biết CẦU
NGUYỆN, kết hợp với Chúa trong mọi lúc và mọi nơi. Người dân tộc cũng đã quen cúng tế, cầu vái cùng thần linh trong
đời thường của họ. Khi vào rừng
trước khi đốn một cây mang về làm nhà, họ khấn vái xin thần rừng cho một cây
mang về làm chỗ nương thân. Vái xong mới chặt cây mang
về. Trước khi gieo trồng đem gà ra cúng, xin Trời chúc
phúc rồi mới trồng tỉa. Nói vài câu với con sông trước khi lấy nước, nói
vài câu trước khi hái một trái rừng gọi là xin phép thần linh (Yang). Trong tâm tưởng họ nghĩ rằng cái không phải của mình khi muốn dùng
phải xin.
Chúng tôi cho rằng điểm
hội nhập văn hóa cho người dân tộc Tây Nguyên, là những con người luôn sống
trong không gian tôn giáo: thần linh chi phối cuộc đời của họ và họ quen cầu
vái các thần linh, vong hồn, vong linh.
1 – Tâm
thức cầu khẩn cúng bái các thần linh là MẢNH
ĐẤT TỐT để gieo Lời
Chúa vào tâm
tưởng của người dân tộc. Do dó, việc “dạy Đạo và dạy Kinh” cho người dân
tộc gắn liền nhau như cá với nước. Họ ngồi nghe dạy
ĐẠO, không có vấn đề thời gian vì họ đã quen ngồi nghe các cụ
làng kể KHAN.
Cha Bề trên Combes cho
biết cách và môi trường dạy bổn cho dân tộc Bahnar Jơlơng như thế nào; ngài cho
các Bề trên biết :
“Phần con, con tự buộc
mình phải đến đó (nhà rông) một hay hai lần trong ngày khi điều kiện cho phép.
Thế là, con kể cho họ nghe một vài câu chuyện hấp dẫn bên trời Âu hay ở nơi
khác để lôi cuốn sự chú ý của họ. Họ chăm chú lắng nghe những gì đang diễn ra
vì đã đánh trúng trí tưởng tượng của họ, và thỉnh thoảng con cố gắng lồng vào
đó những suy tư có thể mang lại hoa trái của ơn cứu độ, nếu Thiên Chúa đoái
thương chúc lành”[14]
Với
thời gian, việc dịch các kinh thường đọc hằng ngày là một yêu cầu cấp bách được
các cha thừa sai cần quan tâm để cho các người có đạo gắn kết với nhau trong
gia đình, trong cộng đoàn tín hữu. Những kinh này dịch từ những
kinh trong địa phân Đông Đàng Trong (Địa phận Qui-Nhơn) và phần lớn còn tồn tại
đến này hôm nay đúc kết trong Hlabar Khop Tih hoặc Hlabar Iẽ. Cha Dourisboure cũng thuật lại trong quyển “Les Sauvages Bahnars”
nói đến việc dạy đạo cho Ngui và Pát.
“Mỗi lần Ngui đến gặp
tôi, sau một hồi nói chuyện linh tinh, tôi hướng dần câu chuyện những chân lý của đạo chúng ta. Nhất là khi dạy cho
biết có hỏa ngục, ý nghĩa đó đã gây ấn tượng rất mạnh nơi em. Tôi dậy cho em một vài ba kinh mà tôi đã dịch. Ngay khi nhớ
những kinh đó, em liền có thói quen đọc thường ngày. Cuối cùng, suốt gần 2
tháng, hầu như chiều nào tôi cũng thấy em đọc như thế và Chúa đã ban cho em ơn
Đức tin. Em tin vững vàng mọi chân lý mà tôi đã dạy cho em”[15].
Về phía người Bahnar: “Cha Combes đã chỉ cho ông Hmur biết phương thế
tốt nhất để giải thoát tâm trí ông khỏi những sợ hãi vô lối này: “Ông hãy cầu
nguyện nhiều và xin Chúa thương xót ông” – Ông đã ngoan ngoãn nghe theo lời khuyên này. Dù ở đâu, nơi công cộng hay chỗ riêng
tư, sáng hay chiều, ông đều trịnh trọng làm dấu Thánh giá và lớn tiếng đọc
những câu kinh mà ông đã thuộc lòng…”[16] .
Nhờ được dẫn dắt ý
nghĩa Đạo, nhờ cầu nguyện, đọc kinh sáng chiều, ông Hmur vượt qua những nỗi sợ
hãi đã từng áp chế tâm trí ông do sức ép của dân bản địa, do sợ hãi để được một
nội tâm an bình. Cha Dourisboure thuật tiếp:
“Ông càng vượt thắng và
không thấy tai ương nào xảy đến với mình, đức tin của ông càng nảy nở nên vững
vàng hơn và ảnh hưởng của mê tín đã dần dần phai mờ tâm trí ông”[17].
Đức tin của ông Hmur
trở nên công cụ của Chúa để đưa nhiều dân bản xứ của ông xin tòng giáo [18].
2-
Có nhiều lời kinh cá nhân
tự phát trong nhiều trường hợp cụ thể.
Thiết
nghĩ đây là điểm được các thừa sai nhấn mạnh và dạy trong giờ giáo lý.
Chúng ta thấy rất nhiều
trường hợp cầu nguyện tự phát, cá nhân theo nhu cầu.
a/ Cha Dourisboure nói
về đời sống em Ngui khi được học đạo và cầu nguyên đã thay đổi lối sống trở nên
người tốt lành. Cha thuật lại: “Từ lúc đó, mỗi khi vô ý bị thương, chân vấp phải
đá, hoặc bị một tai nạn gì khác, em luôn nói những lời tốt đẹp sau: “Lạy Chúa, con xin dâng cho Chúa sự đau đớn nhỏ bé
nầy”[19].
Lời kinh nguyện đã thay
đổi cuộc sống tâm linh của Ngui, cha thuật tiếp : “Nếu có lần nào nổi giận, em thường chạy đến thuật
lại cho tôi nghe chuyện đó, và có khi còn rưng rưng nước mắt nữa”[20]
“Con ngồi bên dòng nước này để lần chuỗi. Vừa đọc
kinh vừa nghĩ đến việc rước Mình Thánh Chúa sáng nay. Con cũng nghĩ đến tất cả
những tội lỗi mà con đã phạm trong đời. Con thấy Thiên Chúa quá tốt và thấy con
quá xấu. Ấy thế mà Chúa lại thương yêu con, nghĩ đến đó nước mắt con cứ tuôn
trào. Có lẽ sự ăn năn xám hối đã làm cho con khóc,
nhưng tại sao nước mắt lại làm con vui mừng, sung sướng? Từ lúc con khóc, con
không thấy buồn nữa. Thưa Cha, xin Cha giải thích cho con. Có
lẽ Cha đã thường gặp những việc này. Phần con, chưa giao giờ khóc khi
cầu nguyện. Vì vậy, con xin thưa với Cha, không biết nước mắt của con là nước
mắt của sự vui mừng hay đau khổ?”[21].
b/ Suốt dọc lịch sử Loan báo Tin Mừng tại Tây nguyên này, dạy
Đạo luôn kèm theo dạy cầu nguyện tự phát theo nhu cầu hoàn cảnh. Cha Nicolas dạy giáo lý bằng tiếng Jrais tại vùng
Habâu có soạn kinh cho các em hoặc cho dự tòng vào những năm 1910- 1920. Xin xem bài nguyên cứu có đường dẫn
vào Trang truyền thông Giáo phận Kontum[22].
Trong Hlabar Tơbang,
một nguyệt san dành cho các chú
“Sau đó, con kêu cầu Danh
thánh Chúa và cầu xin với Mẹ Maria như sau:
“Ớ Mẹ Maria ! Mẹ luôn đoái thương những người bệnh!
Hôm nay con cầu xin Mẹ đang ngự bên Thiên Chúa; xin Mẹ thương người mẹ của con,
cho người mẹ con được an lành. Mẹ luôn là Đấng thương
những bệnh nhân!. Sau đó, mẹ con được lành bệnh thật sự”.
Năm 1913, số 33, trang
85, ghi lại hoàn cảnh buồn: Cha Bảo qua đời, một linh mục khác lâm bệnh nặng,
một lời cầu nguyện tự phát rất cảm động dựa vào lòng phó thác như ông Job xưa:
“Thiên Chúa đã ban cho chúng ta hạnh
phúc, chúng ta xin tạ ơn Ngài; Mà Ngài ban cho chúng ta khổ đau, chúng ta cũng
xin tạ ơn Ngài như vậy!”
Năm
1913, số 35, trang 100 – 103 nói đến cuộc đời của chú NƠT và ghi lại lời cầu
nguyện của chú dâng mình cho Mẹ Maria.
Năm 1914, số 36, trang
2, ghi lại lời cầu nguyện với Chúa Hài Đồng Giêsu:
“Ớ Đức Giêsu, ớ Hài
Đồng Giêsu,
Chúng con yêu mến Chúa
hết tâm hồn,
Chúa là Đấng toàn năng,
Sinh hạ làm người khó
nghèo,
Nằm trong hang lừa máng
cỏ,
(…)”.
Trong Hlabar Tơbang năm
1914, số 38, trang 21 có ghi lại một lời cầu nguyện nhân ngày Chầu Mình Thánh
Chúa cách trọng thể của địa phận:
“Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu ! Chúng con kính thờ yêu mến Ngài,
Ngài đã yêu thương vùng
đất chúng con quá đỗi!
Ngực của Ngài đã xé nát
ra, chúng con xin chân tình cảm ơn.
Khi nghĩ đến những tội
lỗi chúng con, chúng con đau đớn thật trong lòng,
Xin biến đổi tâm hồn
chúng con nên giống tâm hồn của Ngài
Trong sạch thật, nhân
hậu, hay thương ban ơn cứu rỗi”.
Trong
nguyệt san Hlabar Tơbang năm 1915, có lời cầu nguyện kính các thiên thần. Sau đây là đoạn thứ
nhất trong 7 lời kinh:
“Lạy Thiên thần, Đấng
gìn giữ chúng con,
Ngài ở bên chúng con là
con cái của Thiên Chúa,
Bây giờ tại trần gian
này, xin ngài gìn giữ chúng con ngày đêm,
Và sau này trên Thiên
quốc xin để chúng con ở bên Ngài”.
Với thời gian, địa phận
cũng quan tâm đến nhu cầu đời thường, theo tâm thức
cầu kinh của người dân tộc và gom lại một số kinh đưa vào Hlabar Kop Tih. Điều
đó, chúng ta có thể gọi là “Hội nhập
văn Hóa” trong cuốn Hlabar Khop Tih có một phần với tựa đề : KHOP PHŎ PHŎ DIK (theo sách hiện hành, trang 94-106).
Những kinh nguyện trong những chuyện thường ngày như GAH
BƠ MIR (Làm rẫy,
từ trang 94 đến trang 96); GAH AH CHOI (Trồng trĩa, từ trang 97 đến
trang100); GAH AH KECH BA (Cắt gặt, từ trang 100 đến trang101);GAH BƠ HNAM NAO (Làm nhà mới, từ trang 102 đến trang
103); KHOP TƠ TONGLANG DAK, TƠ TƠNÊM,
(Kinh cầu cho giọt nước, lò rèn, trang 104); AH
JI JĂN (cầu cho
người bệnh, trang 104). Đây là những hướng dẫn và lời nguyện được đề nghị cho
những hoàn cảnh, công việc thường ngày ở nhà cũng như ngoài nương rẫy… theo
phong tục xưa, người Sắc Tộc Thiểu Số có thói quen cầu cúng các thần linh trong mọi hoàn
cảnh sống.
Người
dân tộc được gọi là “BƠNGAI KHOP”
(NGƯỜI ĐỌC KINH. NGƯỜI CÓ ĐẠO); PLEI
KHOP (LÀNG ĐỌC KINH, đồng nghĩa người CÓ ĐẠO)
c/ Có thể nói đời sống
đạo của các chú
Quyển sách giáo
lý nhỏ này cắt nghĩa về Thánh lễ, có hình ảnh minh họa, trình bày từng nghi
thức, và kèm theo lời cầu nguyện. Trong trang 5 có
minh họa hình ảnh Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể, có ghi bằng tiếng Bahnar:
“Pơiup minh don păng bok
soi, inh gô plang kơ Bă Iang. Tơdrong soi akâu pham Jesu”.
Trang kế tiếp (trang 6)
có hình minh họa một em bé quỳ gối trước bàn thánh, có ghi lời cầu nguyện:
“Ơ Jesu, inh kup kơ Ih, Inh
duh băt kơ Ih. Tsơ, Jesu dei khan: “Bê, iem lê de haioh tơkan truh tơ Inh mơi,
“. Kơna, ơ Jesu, Inh tơkan tơ Ih”.
Tập giáo lý về Thánh lễ
này có hình minh họa gồm 62 trang A6, mỗi trang có hình minh họa, câu
giải nghĩa nghi thức và lời cầu nguyện kèm theo. Đường lối
dạy giáo lý và nhiều trường hợp khác đều có kèm lời cầu nguyện, không chỉ kiến
thức suông.
Chúng ta cũng gặp thấy
những quyển sách chuẩn bị những khóa “cấm
phòng” như “Hlabar
Tơnhăk de kup Hapong kơ XANTÔ XAKRAMENTÔ Păng Hapong kơ XANTA MARIA (Nhà
in Trường Cuênot năm 1962), 160 trang A6. Nội dung sách giúp
tĩnh tâm cấm phòng, chầu Thánh Thể, viếng Đức Mẹ Maria, và luôn kèm theo lời kinh cầu nguyện sau mỗi đoạn suy gẫm.
Quyển sách có tựa đề :
“HLABAR KHEI MARIA”,
NXB Cuenot Kontum năm 1962 trình bày nhiều đoạn suy gẫm về Mẹ Maria và liền sau
mỗi đoạn có lời cầu nguyện.
Lời Chúa, Bí Tích Thánh
Thể được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện tự phát với một tâm hồn luôn gắn bó với
đời sống tâm linh như vừa trình bày sinh nhiều hoa trái như dụ ngôn Người Gieo
Giống đã được Chúa khẳng định xưa.
Phân đoạn hai: KINH SÁCH:
Những kinh được qui
định đọc chung.
Cha Jacques Dournes cho
chúng ta thấy phần nào “Một Lời Cầu
Khẩn” mang tính tập thể như thế nào, xin trích đoạn trong quyển
sách “Dieu aime les Paiens” sau đây:
“MỘT LỜI CẦU KHẨN được
dâng lên do một người cầu nguyện chuyên nghiệp, hướng mặt về phía đông đang khi
liệt kê đạo binh các Thần Linh, hoặc do người chủ gia đình chỉ để xin phúc lành
cho gia đình; một vài người tham dự sẽ nói lại những công thức quen thuộc nhất
và được lặp lại lúc uống rượu ghè. Tất cả những yếu tố của các lời cầu kinh đó
đều thuộc truyền thống, ám chỉ đến phần căn bản của nghi lễ”[24].
Thật
thế, người dân tộc Tây Nguyên sống tập thể. Trong khi cúng vái,
một người xướng, những người khác họa lại một tâm tình chung
qua lời cầu. Để gắn bó mọi người trong gia đình, trong buôn làng có đạo, cần “KHOP” (ĐỌC KINH) chung với nhau . Cần có kinh để đọc chung, chúng tôi tạm gọi là KINH
SÁCH, kinh được qui định và dùng trong cộng đoàn có linh
mục dâng lễ hoặc không có linh mục do chú yao phu chủ tọa, xướng kinh cho mọi
người đọc. Qua mọi biến cố thăng trầm trong Giáo phận do chiến tranh, hoặc vì
làm ăn hay dời làng, cộng đoàn tín hữu – nôm na gọi là “PLEI KHOP” vẫn còn chất nối kết
nhau nhờ KHOP, ĐỌC KINH.
Từ
trước đến nay có nhiều sách ghi lại các kinh bằng tiếng Bahnar được dùng cho
mọi sắc tộc. Sau đây là vài quyển KINH
SÁCH tiêu biểu
được dùng cho đến ngày nay.
1 – Hlabar Khop Iĕ, Hlabar Khop Tih.
Chúng
tôi không tìm lại được những văn bản ghi lại những sách KINH (KHOP) thời các
thừa sai đầu tiên. Tuy nhiên trong văn khố của TGM Kontum có ghi lại một số thư mục, trong đó có thư mục về những sách bằng tiếng
Bahnar xuất bản tai Làng Sông hoặc tại Nhà in Trường Cuênot. Chúng
tôi gặp thấy quyển kinh lâu đời từ năm 1909 có tựa đề “HLA MAR KHOP”, dày 265
trang, in tại Làng Sông. Nhân dịp nầy chúng tôi xin đính kèm một phần
danh sách sau đây :
Cuốn Hlabar Khop Iĕ (sách kinh nhỏ, đơn giản, vắn tắt)
xuất bản năm 1957 được phổ biến rộng rãi trong giáo phận cho các làng tiện dùng
dạy đọc kinh cho dân làng. Ngoài ra, con có cuốn sách kinh lớn Hlabar Khop Tih
bằng tiếng Bahnar, Đây là tác phẩm do nhà in Trường Cuênot xuất bản 1965 và
được hiệu chính và tổng hợp với các kinh hôm sớm, Kinh ngày Chúa nhật, kinh cầu
nguyện theo nhu cầu, về Bí tích, sách hát, Thánh Lễ v.v…, và hiện nay vẫn còn
dùng nhiều nơi.
Nội dung:
♦ Cuốn Hlabar Khop iĕ (năm 1957) sách
kinh nhỏ, ngắn gọn gồm 7 chương:
I- Kinh sáng tối ngày
thường (KHOP RIM NAR)
II- Kinh ngày Chúa Nhật
(KHOP NĂR NĂR B.I)
III- Kinh khi xem lễ
(KHOP LƠM NĂNG SOI)
IV- Rước Mình Thánh
Chúa (OĂ IOK STÔ STÔ)
V- Xưng tội (OĂ HNHÂM
TƠNGLA)
VI- Các “Kinh cầu”
(KHOP SƠDRING)
(Trái tim Chúa Giêsu – Đức Bà Maria – thánh Giuse – các thánh)
VII. Đàng Thánh Giá
(KHOP BOI TRONG LONG PƠGLANG)
♦ Cuốn Hlabar Khop tih (700 trang, xb 1965), đóng gộp với Hlabar Hat
(456 trang, xb 1959).
Riêng cuốn Hlabar
Khop tih này tập hợp 3 cuốn sách:
+ Phần đầu là 1 cuốn
sách Kinh gốc có từ lâu trước (Tr 1-351).
+ Phần cuối là cuốn
nghi thức tuần thánh về các ngày lễ trọng in đối chiếu tiếng Latin với bản dịch
tiếng Bahnar. Hai phần này trước kia đánh liền với
nhau. Cùng loại chữ, cùng một cách trình bày.
+ Hai phần trên bị tách
đôi và cắt bỏ 63 trang không rõ nội dung là gì để ghép một cuốn sách hoàn toàn
mới là Hlabar Bơr Bă Yang-sách Lời Cha, gồm thánh thư và Phúc Âm các ngày Chúa
Nhật cũng như lễ trọng, dầy 224 trang có mục lục riêng.
Ba phần riêng này đóng chung lại và có 1 mục lục chung.
Chúng tôi không có bản
gốc quyển “HLA MAR KHOP” từ năm 1909 in tại nhà
in Làng Sông. Nhưng thiết nghĩ đa phần những kinh trong sách
này in lại trong phần kinh của Hlabar Khop tih.
♦ Sau Công Đồng Vatican II.
Xuất bản cuốn Kinh
Thánh trọn bộ Tân Ước, còn Cựu Ước chuyển dịch theo
Bible de la jeunesse (1969). Sách lễ Phụng Vụ các bí tích theo
nghi lễ Rôma, cũng được dịch và xuất bản (1970).
♦ Sách HLABAR-KHOP-HAT, hiện nay đang xử dụng được Đức Cha Paul Seitz
Kim, Giám mục Giáo phận Imprimatur năm 1973, in tại nhà in Saint-Paul (Pháp),
ngày 17 janvier 1977, loại giấy mỏng (giấy bible) cỡ giấy lớn hơn A5, dày 750
trang, do cha Rannou đảm trách hiệu chính.
♦ Sách HLABAR-KHOP-HAT này được in photo nhân ra theo cỡ giấy nhỏ
(lớn hơn A6) tại Nhà Xuất Bản Âm Nhạc, Hà Nội năm 1999, giấp phép, mã số
78-781/AN-98/ 02/I-25-98.
Nội dung quyển
Hlabar-Khop-Hat gồm 2 phần chính:
I/ Phẩn Hlabar Khop
(Phần Kinh sách): từ trang 07 đến 229.
II/ Phần Hlabar Hat
(Phần Hát): từ trang 230 – 730
Sau cùng là phần mục
lục
Bắt đầu thập niên 80
thế kỷ trước, giáo phận thường xuyên xử dụng quyển sách Hlabar Khop-hat này
trong cộng đoàn tín hữu khắp buôn làng và đồng thời các linh mục dùng trong
nghi thức các Bí tích cho đến ngày nay. Dù loạn lạc hay di dời các buôn làng và
nhất là khi thiếu vắng linh mục, anh em tín hữu qui tụ đọc kinh,
hát Thánh ca trong gia đình hay nơi công cộng. “Chỗ nào có hai ba người hợp nhau lại nhân Danh Chúa
mà cầu nguyện, chỗ đó có Chúa”. Nhờ vậy,
người tín hữu dân tộc giữ vững đức tin trong hiệp thông cầu nguyện với nhau.
♦ Ngoài ra, còn có sách kinh (có dấu nhạc) cầu cho người chết,
xử dụng khi không có linh mục, nhà in Trường Cuênot năm 1960. Nội dung sách có 2 phần : một phần cho
người lớn và phần khác dành cho trẻ em.
2 – Ngôn ngữ – phong
tục tập quán.
Kinh Sách nhiều, “quá
đầy đủ”. Các kitô hữu thường xuyên đi nhà thờ, đọc kinh rất nhiều, rập
ràng, rất hay, là một điều mới mẻ đối với người Sắc Tộc Thiểu Số. Sách Công Vụ
thuật lại việc các tín hữu ở Antiôkia được gọi là kitô hữu (Cv11,26). Sách Công
Vụ cũng cho biết số người khỏi Do Thái Giáo được gọi bằng một từ: ĐẠO(Cv
9,2;18,26;19,9-23;22,24;24,14-22) …Ở Kontum không có chữ Đạo, nên có lẽ những
người ngoại đã lấy các sinh hoạt nổi bật của nhóm là KHOP mà gọi chăng?. Các làng tin thờ Chúa
được gọi là “Plei Khop”-
Vậy một từ không có trong sách vở, nhưng lại thông dụng trong bà con Sắc Tộc: LUI-KHOP (Lui
là tin- Khop là cầu cúng)
Ih
hâm wă lui khop? (Bạn có muốn theo
Đạo không?)
Ih lui khop lơm xơnăm dôm? (Bạn theo Đạo từ năm nào?)
Từ “khop” Lui-Khop này
có lúc chỉ cùng nghĩa như “Lui”
tức là tin: Inh lui khop kơ Bă Yang, kơ Giêsu Kritô..(Tôi tin Chúa Cha, Chúa Giêsu Kritô …): Tin nhận Thiên
Chúa là Cha và Đức Giêsu chết trên khổ giá, cứu chuộc nhân loại.
Phân đoạn ba :
HIẾN LỄ : Thánh lễ.
1 – Tầm
quan trọng của Thánh Lễ, Thánh Thể trong đời sống truyền giáo.
Cuối năm 1850 đầu năm
1851, 4 linh mục thừa sai đã qui tụ tại Kon Kơlang có một nhà đa năng, dành
rieng một phần để cầu nguyện dâng Thánh Lễ. Cha Dourisboure thuật lại hoàn cảnh
lúc đó như sau:
“Trong những ngày ở Kơ Lang, nhiều lần sau khi tiến
lên bàn thờ, tôi đã phải bỏ ngang trước phần kết lễ, thậm chí có lần tôi đã đột
quỵ ngã ngửa. Tuy nhiên, tôi phải luôn ngợi khen Chúa Quan Phòng vì chưa bao
giờ tôi buộc phải ngưng Thánh lễ sau khi cử hành nghi thức truyền phép. Các cha
khác cũng thế, chính các ngài, hơn một lần, đã phải bỏ Thánh Lễ giữa chừng,
nhưng chưa bao giờ buộc phải bỏ khi có hiện diện của Bí Tích Cực Thánh”[25].
Sức
sống của các vị thừa sai chính là Thánh Lễ, Bí Tich Thánh Thể, nhờ đó các ngài
vượt thắng mọi thử thách chông gai trong công cuộc truyền giáo.
Thánh
Thể là trọng tâm của việc dạy Đạo, của lời cầu nguyện cho các dự tòng. Các
ngài đã gặp được một dân tộc thực hành một tôn giáo “cầu
cúng Thần”, nghĩ rằng đó là con đường đưa họ gặp được nguồn
nuôi dưỡng Đức tin. Cha Bề Trên Combes khi sống tại Kon Kơ Xâm cũng có
một vài nhận xét dù chưa toàn diện như ngài viết thư ngày 29 tháng 09 năm 1853
trình cho các Bề Trên Chủng viện Hội Thừa sai liên quan đến niềm tin của họ,
trong thư có ghi như sau:
“Tất cả các cử hành thờ phượng của người dân tộc bao
gồm việc cúng tế, thề nguyền và tuân giữ vô số luật lệ hảo huyền mà họ
thực hành với mục đích duy nhất là nguyền rủa những điều bất hạnh, xoa dịu
những đau khổ và trì hoãn giờ chết. Vì, cũng như mọi lương dân, nền tảng tôn
giáo là sự sợ hãi và ích kỷ. Mỗi người chủ gia đình đương nhiên cũng là người
lo việc cúng tế”[26].
Như chúng tôi đã trình
bày ở trên, người tân tòng dù còn nhỏ tuổi cũng đã ý thức được nhu cầu dâng
Thánh Lễ, và Mình Máu Thánh Chúa: “Con
ngồi bên dòng nước này để lần chuỗi. Vừa đọc kinh vừa nghĩ đến việc rước Mình
Thánh Chúa sáng nay”[27].
2- Thông
dụng trong bà con Sắc Tộc: LUI-KHOP (Lui là
tin- Khop là cầu cúng).
Người dân tộc thiểu số
nuôi sống mình bằng TI (TAY), KƠPANG TI
(BÀN
Các
sắc tộc thiểu số Tây Nguyên miền Trung Việt
Họ
thường dùng gà, heo và trâu để tế lễ. Nhỏ nhỏ theo kiểu ăn
cắp vặt, xin cầu phúc thì cúng con gà. Vừa vừa như xin tẩy uế
để hết bệnh, chúc lành cho vợ chồng mới cưới thì dùng heo cũng được. Nhưng những việc hệ trọng, ảnh hưởng đến cả làng cả dòng tộc thì
buộc phải cúng trâu.
Có nhiều ý nghĩa trong
việc cúng tế và khấn vái Yang trong nghi thức lễ tế và một con vật bị sát sinh
thay mạng người.
Cha
Kemlin phân tích chiều sâu mối tương quan giữa người với người, giữa người với
Yang, đó là KẾT NGHĨA [28].
Giữa người với người (không kể hôn nhân), có 5 loại kết nghĩa :
1/ krao pô (kết nghĩa bạn bè); 2/ krao kon bă (kết nghĩa cha con); 3/ xêp (kết
nghĩa bằng máu); 4/ krao kon ŭ tuh (kết nghĩa mẹ nuôi); 5/ krao ban (kết nghĩa
với các vong hồn).
Giữa người và Yang thần linh.
Trong tất cả nghi thức
kết nghĩa đều có lời cầu kinh, rượu, con vật sát tế và ăn của lễ sát tế .
Linh mục Jacques
Dournes cũng đã nghiên cứu phân tích lễ cúng của người Jrai cho thấy nhiều yếu
tố trong nghi thức tế lễ: “GIẾT CHẾT
một con vật, với việc ĐỔ MÁU là trung tâm nghi thức”. Ngài tìm
ra mối tương quan trong lễ cúng của người Jrai những yếu tố ăn khớp với Thánh
Lễ. Ngài viết trong Dieu
aime Les Paiensnhư sau:
“Tìm lại trong lễ cúng của người Jrai những yếu tố
ăn khớp với Thánh Lễ – như trong tất cả hình thức tôn giáo – giúp tôi hiểu nghi
lễ của tôi, lối giải thích và những hậu quả của nó, nhưng không thúc đẩy tôi
chút nào đến việc biến đổi phụng vụ của tôi thành phụng vụ của họ, và càng
không biến đổi niềm tin căn bản trong đó. Và người Jrai thì
ngược lại. Lật ngược những tình huống có thể là tốt để thấy được những
gốc cạnh của vấn đề”[29].
Những trang kế tiếp
linh mục nói đến nhiều chiều kích của nghi lễ:
1/
Nghi lễ diễn tả cuộc tìm kiếm một BẢO ĐẢM cho mọi rủi ro. Những
nghi thức đồng áng để bảo đảm mùa gặt; nghi lễ gia đình để bảo đảm sức khỏe (…)
(Jacques Dournes, sđd, trang118).
2/ Khi cảm thấy các
thần bảo vệ đã bỏ họ và bị các ác lực đeo đuổi và Trật
Tự bị quấy phá,
họ liền dâng cúng để tất cả trở lại trong trật tự nhờ một việc ĐỀN
BÙ. Mọi bệnh tật đòi ĐỀN
BÙ. Lỗi phạm trước tiên phải được đền
tạ, tất cả vấn đề ở chỗ đó.
3/ Cách riêng, việc ĐỀN
BÙ tội loạn luân đặc biệt gây ấn
tượng – loạn luân ở đây là sự chung sống giữa một người nam và một người nữ có
cùng họ, bất kỳ mấy đời. Sau đó, linh mục Jacques Dournes
trình bày diên tiến nghi thức diễn đền bù về tội loạn luân như thế nào (Jacques Dournes, sđd, trang119).
4/ Cha cũng cho biết
thêm: “Nhìn sâu hơn vào các sự vật, tôi
tin rằng cốt yếu của nghi lễ là một sự TRAO ĐỔI. Tôi tìm thấy một dấu chỉ của
việc trao đổi trong các câu chuyện truyền thống”.
“Nơi bất cứ người Jrai nào cúng tế, không chỉ có một
con người nô lệ cho Trật Tự thế giới, mà – tuy hư hỏng đến đâu – vẫn có một
người con của Thiên Chúa NHẬN BIẾT nguồn gốc cao cả của bất cứ ơn nào, bất cứ của ăn nuôi sống nào”[30].
Cũng
có thể cho rằng việc GIẾT TRÂU TẾ TRỜI luôn luôn liên quan đến chuyện tẩy uế
rộng rãi. Có ba trường hợp gần như là bắt buộc phải tế trâu:
Người mắc tội loạn luân phải Giết Trâu Tế Thần (Yang), vì tội loạn luân sẽ
làm Yang nổi giận và hậu quả là cả làng có thể bị tiêu diệt bởi bị nhuốc nhơ ô
uế.
Sau khi làm xong ngôi
nhà chung phải Giết Trâu Tế Thần (Yang), vì trong quá trình làm nhà, có thể có
những người ô uế chưa được tẩy uế lên làm hay đến chơi, và nhất là những
vật liệu sử dụng có thể đang ở trong tình trạng cần tẩy uế.
Sau một trận chiến trở
về thì phải Giết Trâu Tế Thần (Yang) , vì các chiến binh đã
hạ sát người, cho dù đó là kẻ thù đi nữa thì họ đã bị máu người làm cho nhiễm
uế.
Trong trường hợp Giết Trâu Tế Trời (Yang) sau trận chiến, cha Combes Bê
cho chúng ta nhìn một khía cạnh độc đáo khác: “Những con trâu, hiện thân quân thù bại trận, phải gánh lấy sức nặng
của sự thù hận mà nó gợi lại và được nhân cách hóa việc bại trận bằng cái chết
thật sự dã man (…)”.
“Sau khi giao chiến,
bây giờ đến lúc làm hòa. Đối với việc này, những người trung gian khôn khéo sẽ
dàn xếp các khó khăn giữa đôi bên để đi đến chỗ thỏa thuận và hòa hợp. Người ta
ấn định ngày ký hiệp ước hòa bình, ngày này phải được đánh dấu bằng một lời thề
long trọng: hai làng sẽ tụ họp tại nhà rông của làng muốn thương lượng, và mỗi
bên chọn một bậc kỳ lão để hành động nhân danh cả làng. Bên này chọn một ông
thì bên kia chọn một bà. Sau đây là cách thức mà các
đại biểu tiến hành: họ dùng một con dao cắt máu ở một ngón tay của mình và cho
máu chảy vào một cái chén rồi trộn thật kỹ; kết thúc việc trộn máu đầy ý nghĩa
này, mỗi bên còn phải đọc một số công thức nữa, khi ấy việc nối kết được hoàn
tất. Ít ngày sau, người ta phê chuẩn hiệp ước bằng cách lặp lại chính những
nghi lễ ấy tại nhà rông của làng bên kia ”[31].
Hòa
ước này được gọi là “kết nghĩa bằng
máu” (Xêp) được
cha Kemlin trình bày khá chi tiết trong tài liệu nghiên cứu của ngài được trưng
dẫn ở trên (Cha Kemlin, sđd, trang 16-17).
Thiết
nghĩ nghi thức đâm trâu sau cuộc chiến với lời cầu cúng nói lên ý nghĩa triệt
hạ tận gốc đối phương. Nhờ lời cầu cúng của Bơdâu (phù thủy, người cúng), các hồn
(Pơngol) của bên bại trận nhập vào con trâu tựa như nhập vào cái khung và con
trâu nay là hiện thân và thật sự quân thù cần triệt hạ như trong trận chiến, để
các hồn bên bại trận không chỗ nương tựa.
Tuy nhiên, kết ước hòa
giải sau trận chiến là kêu đến Thần Linh (Yang) chứng giám hai bên giữ hòa khí
bằng lời thề XÊP (bằng máu) và bên nào lỗi phạm sẽ bị Yang làm đổ máu như thế.
Cho
nên, việc Giết Trâu Tế Thần và hòa giải ký kết giữa hai
bên lâm chiến sau trận chiến không phải là một lễ hội vui, mà là
một lễ nghi thuần tuý tôn giáo bản địa. Đây là niềm tin liên quan trực tiếp đến
Yang, đến thực tại trận chiến, đến trận chiến kéo dài và sự tồn vong các buôn
làng; do vậy, theo tập tục cũng phải làm công khai cho bàn dân thiên hạ
được tỏ tường và hiệp thông, chứ không được làm cách trùng lén. Trong trường
hợp diễn lại những nghi thức này như Lễ Hội mà gạt bỏ khía cạnh
niềm tin sẽ vô nghĩa và trở thành tình trạng man rợ trong thời kinh văn minh,
tựa như xem trận đấu quyền quyết sinh tử vậy .
Qua nghi thức cầu khẩn,
cúng vái, nhất là nghi thức tế trâu và hòa ước sau trận chiến của người dân tộc
phần nào nói lên hình ảnh con dê thế mạng trong Cựu Ước sau khi đổ mọi tội lỗi
của dân lên nó và đuổi nó chạy vào hoang địa. Nhớ lại lời khẳng định của Thánh
Phê-rô về vai trò hiến tế, xá tội và giao hòa của Đức Kitô trong thư thứ nhất
câu đoạn 2, câu 24a như sau: “Tội lỗi
của chúng ta, chính Đức Ki-tô đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để
một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính”.
Phải chăng nhờ tâm thức
tôn giáo trong nghi lễ cúng vái tế sinh nói chung của người dân tộc mà người
dân tộc cảm nghiệm dễ dàng khi tiếp cận với Thánh Lễ và Thánh Thể ?
3 – Âm nhạc- múa trong đời thường và tôn giáo của người dân tộc.
a. Hát bằng hai lần cầu
nguyện.
Người
dân tộc sống giữa cảnh thiên nhiên. Họ luôn hòa nhập tâm tình
mình với nhịp điệu thiên nhiên qua tiếng chim hót trên ngàn, với dòng suối chảy
róc rác, gió rì rào quanh rừng, trong vườn… tạo nên khung cảnh âm nhạc sâu ấn
trong mọi tâm hồn người dân tộc. Trong đời thường,
việc đánh chiêng chinh, múa xoang hát tập thể là tập quán lâu đời của người dân
tộc bản địa. Giáo hội Kontum đã tôn trọng những loại hình văn hóa bản
địa này từ đầu cuộc Loan báo Tin Mừng[32]. Trong dịp phong Giám mục cho
cha Bề trên trường Cuênot năm 1933, khi rước quan khách đến Trường Thánh
Giuse (nay là Nhà Mẹ Dòng Ảnh Phép Lạ, đối diện Nhà thờ Chính Tòa) đoàn rước
gồm các yao phu trường chào mừng quan khách với những câu ca tiếng hát dân tộc
làm cho nhiều người thán phục. Trường Cuênot cũng tổ chức đêm
canh thức diễn nguyện về “Cuộc Thương Khó Chúa Giêsu”, với nhiều bài hát dân
tộc thâm thúy.
Hát
bài thánh ca bằng tiếng dân tộc cũng đã được đưa từ khá lâu vào sinh hoạt đạo
đức bình dân như trong giờ kinh vào dịp kính Đức Trinh Nữ Maria. Chầu Mình Thánh Chúa,
có quyển sách tựa đề: HLAMAR HAT AH JOL SANTÔ SAKRAMENTÔ, (nhà in trường Beatô
Cuênot Kontum, năm 1944, số trang 105).
Một quyển sách hát:
“Hlabar Hat”, (xuất bản năm 1955). Nội dung dựa theo
sách Kinh. Đây là các bài hát bình ca trong Paroissien Romain hay trong
Cantiques des Cantiques lời được dịch ra tiếng Bahnar.Tiếng Bahnar được các Thừa sai chọn làm
“tiếng phổ thông” cho các sắc tộc thiểu số trong Giáo Phận, dùng trong phụng
vụ, nhà trường Cuênot và các báo chí, sách Đạo.
b- Chương trình đào tạo
Chúng tôi xin trình bày
qua vấn đề dạy nhạc trong trường đào tạo
Trong phần I chia ra 12
đề mục: từ dòng nhạc, dấu nhạc. khuôn nhạc, chìa khóa
sol, khóa Fa, dấu thăng, dấu giảm…. Nói tóm lại, sách dạy đủ để xướng âm, tập
hát, sáng tác nhạc tân thời. Nhờ vậy, các
c- Âm nhạc vào Phụng vụ
Nhưng đưa âm nhạc vào
Phụng vụ Thánh Thể trong thời điểm muộn hơn, theo tinh thần địa phương hóa của
Công Đồng Vaticanô II vào thập niên 60 của thế kỷ trước.
Linh mục Jacques
Dournes nói lên khía cạnh âm nhạc trong buổi cúng tế của người Jrai như sau:
“Tôi đã tìm hiểu lý do
đưa âm nhạc vào bất cứ buổi cúng tế nào. Một ngày kia, tôi nghe một người Jrai
nói với tôi : “Chúng tôi đánh chiêng và trống để tôn vinh các Yang đã cho chúng tôi
thịt để ăn và chiêng để đánh”. Âm nhạc cũng được hiến tế, trước khi được thưởng
thức. Ở đó có một ý nghĩa ca ngợi, không được diễn tả bằng
công thức, mà bằng hành động. Nói đúng ra, đó là một “hành vi tạ ơn”. Đàng khác, ai xin cái gì, đối với người Jrai cũng là cách nói lên
lòng biết ơn với người ấy. Ai cho, người ta còn xin
thêm, vì lòng biết ơn” [33].
Sau năm 1975, từ Pháp
chuyển về cuốn Hlabar Khop: chỉ in một số Kinh, một số bài hát, những phần 150
thánh vịnh thì thấy mới. Và điều quan trọng là giữ lại phần
Khop Phǒ Phǒ Dik trong cuốn Hlabar Khop Tih. Hơn nữa điểm đặc biệt ta gọi là Hội Nhập Văn
Hóa, trong cuốn này là có
in bộ lễ Hat Xoi (Hri Bahnar)-bộ lễ Kontum.
d- Về bộ lễ Hat Xoi (Hri Bahnar) – bộ lễ Kontum,
Từ
khi có Công Đồng Vaticanô II, trong trường Cuênot, đã có phong trào học Tôh
Ching Ching. Anh em muốn hát theo những làn điệu cổ
truyền của người dân tộc thiểu số. Rồi năm 1965, được cha Bề Trên Hoàng khích
lệ, 3 Thầy đã hợp tác sáng tác bộ lễ:
Thầy Laurent Ngip, sinh
1929, vào trường Cuênot khóa 1942-1948, bok Thầy vào năm 1964, hiện sinh
sống tại Pháp.
Thầy Đôminik Hun sinh
1926 thuộc Giáo xứ Chính Tòa, vào Trường Cuênot khóa 1948-1953, bok Thầy vào
1957 và nay đã qua đời.
Thầy Micae Wer (người
làng Kon Rơbang, sinh năm 1937, học trường Cuênot từ năm 1950-1957, đi giúp ở
Kon Kla. Năm 1962 thầy được cha Phêrô Nguyễn Hoàng đưa về làm văn phòng trường
Cuênot.
Trọn
Bộ Lễ tiếng Bahnar thông dụng đến ngày nay và là nền tảng cho những Bộ Lễ sau
này.
- Thầy Luca Ngip:
Ơ Yang Bă (Kyrie)
Thui Ư Ang (Gloria)
Bok Lơng Keh (Sanctus)
Kon Chin Bă Yang (Agnus
Dei)
- Thầy Dom
Hun: Inh Lui
(Credo)
- Thầy Micae Wer:
Ơ Bă Nhôn (Pater). Thầy còn sáng tác bộ lễ tang rất
truyền thống.
Các
năm 1967-1968 bộ lễ đã được phép hát trong các nhà thờ. Hát
với Tôh Ching và múa. Đây là công trình của các Yao Phu: Thầy Hun đã về
với Chúa. Thầy Luca Ngip đang ở Pháp. Thầy Micae Wer
còn ở Kon Rơbang vẫn hết lòng tập Ching Ching cho các dân làng trong Giáo Xứ và
luôn luôn vẫn sáng tác nhạc “Kon Kông”.
Có thể tìm hiểu thêm đề tài này trong Trang Mạng của Giáo
phận Kontum [34].
Có nhiều Bộ Lễ cũng như
những bài thánh ca bằng tiếng Jrai, Sơđăng… theo phong
cách dân tộc với số lượng tăng và mang tính tập thể sinh động nồng thắm hơn.
Hiện nay, trong các
Thánh Lễ trọng cũng như trong các tháng kính Đức Trinh Nữ Maria như tháng năm,
tháng mười nhiều giáo xứ tổ chức tôh chieng, xoang múa hát theo tiếng nói riêng
và cung cách từng bộ tộc. Giáo dân người dân tộc tham gia rất
tích cực loại hình truyền thống này. Nhiều cụ bà 65, 70 tuổi cũng ao ước
trước khi chết được xoang múa hát dâng hoa trong tháng hoa năm 2006 tại Giáo xứ
Kon Rơbang, Kontum. Nói như thế, việc đạo đức bình dân rất
được người dân tộc quí chuộng.
IV – MỘT VÀI SUY NGHĨ
NHƯ PHẦN KẾT LUẬN
Chúng tôi khai triển
những giai đoạn: KINH BỔN (học ĐẠO, CẦU NGUYỆN) – KINH
SÁCH (KINH dùng cho cộng đoàn) – PHỤNG
VỤ THÁNH THỂ trong việc HỘI
NHẬP VĂN HÓA BẢN ĐỊA TÂY NGUYÊN. Thành quả công cuộc truyền
giáo của Giáo phận ngày càng phát triển dù gặp biết bảo thử thách, bị chèn ép
do thời thế, nhưng lòng tin của người tín hữu nhất là người dân tộc kiên vững,
nhờ Hạt Giống là Lời Chúa được gieo vàoMẢNH ĐẤT TỐT. Các vị thừa sai cố
công ngăn chặn các loài sâu bọ, chim chóc đến cướp Lời Chúa khỏi lòng người dân
tộc; phát hoang gai gốc che phủ làm chết ngạt Hạt Giống Lời Chúa nơi họ, đem
đất tốt vun vào gốc, thêm chất bón, tưới nước và Hạt Giống trổ hoa, đậu hạt
thơm ngát đến mùa gặt lúa bội thu dâng lên Chúa.
MẢNH ĐẤT TỐT làm trổ sinh Hạt Giống là LỜI CHÚA, chính là LÒNG
ĐƠN SƠ CHÂN TÌNH VỚI TÂM THỨC TÔN GIÁO CẦU KINH, CÚNG BÁI CÁC THẦN LINH của họ.
Nhưng thử hỏi hôm nay
khung cảnh tôn giáo truyển thống của người dân tộc Tây Nguyên, nói chung, Giáo phận Kontum nói riêng còn giữ được như xưa
chăng? Trừ một số buôn làng vùng sâu vùng xa hy vọng còn giữ được nét cổ
truyền, nhưng vì ảnh hưởng của nền giáo dục vô thần, do truyền thông đại chúng
của một thế giới hưởng thụ, sống theo loại luân lý tương đối, phần đông giới
trẻ người dân tộc mất gốc, mất tính ban sơ tốt đẹp của cha ông họ. Do đó, cần
có tầm nhìn về TƯƠNG LAI
trong việc LOAN BÁO LỜI CHÚA một cách khác. Chúng tôi xin mạo muội
đề nghị HƯỚNG VỀ TƯƠNG LAI như sau:
I-
Đào tạo nhân sự
Vấn đề nhân sự để phục
vụ Lời Chúa, phục vụ Giáo Hội: Ðây là vấn đề hàng đầu: đào tạo người tông đồ
giáo dân và đào tạo các linh mục, tu sĩ. Giáo phận Kontum đã
có một truyền thống đào tạo người giáo dân ngay từ những ngày đầu của Miền
Truyền giáo Tây Nguyên. Chính các câu biện đã đi hàng
đầu và dẫn các đoàn truyền giáo đi tìm đường lên miền cao. Giáo phận đã
được thừa hưởng 2 tổ chức đào tạo người tông đồ giáo dân: Hội Yao Phu và Hội
dòng Ảnh Phép Lạ. Chương trình “người người hầu việc Chúa, nhà nhà hầu việc
Chúa, xứ xứ hầu việc Chúa, và cả giáo phận hầu việc Chúa” vẫn là ước nguyện
khôn nguôi của giáo phận. Nhiều nơi trong giáo phận hiện
không linh mục, không nhà thờ, không phụng vụ thánh lễ nhưng luôn có những tông
đồ giáo dân hiện diện.
+ Đức Giám mục ưu tư
đào tạo linh mục trong giáo phận tăng về số lượng, nhất là chất lượng, trong đó
quan tâm đặc biệt đào tạo linh mục người dân tộc. Ngài cổ võ,
mời gọi và tạo mọi điều kiện để cho các Dòng tu gởi linh mục tu sĩ đến phục vụ
trong vườn nho là giáo phận Truyền giáo Kontum. Số lượng linh mục trong
giáo phận tăng đáng kể
+ Các
Hội Dòng được Đức Giám mục không ngại bỏ công sức đến từng Hội Dòng từ các Giáo
phận khác mời gọi và tạo mọi điều kiện để phục vụ tại Giáo phận. Ngài
trình bày những thuận lợi và khó khăn khi dấn thân sống đời tu sĩ tại Giáo phận
Kontum còn nhiều thách đố. Các Hội Dòng gởi thêm số tu
sĩ và các Hội Dòng chưa có mặt tại Giáo phận vui vẻ đến hiện diện tại nhiều
điểm truyền giáo trong giáo phận.
So sánh thống kê năm
2003 và 2013 thấy rõ nét về tăng số lượng linh mục tu sĩ trong 10 năm qua.
Năm |
Linh mục |
Tu sĩ |
Giáo dân |
Giáo xứ |
Chủng sinh |
Giáo lý viên |
Giáo phu |
12/2002 |
35 |
198 |
197.206 |
GX Ghọ: 68 |
ĐCS: 27 |
3387 |
|
12/2003 |
46 |
194 |
203.723 |
Có Lm: 21 Khg Lm: 27 |
ĐCS: 27 |
3.515 |
|
12/2006 |
Lm: 65 phó tế:12 |
352 |
244.432(dt:197.859) |
Địa sở: 48G.họ:
249 |
ĐCS: 38 |
2508 |
1210 |
12/2012 |
Lm: 109 |
518 |
291.063 |
Địa sở: 48G.họ:
249 |
ĐCS: 63 |
4.297 |
|
12/2013 |
Lm: 121+Triều:
71+Dòng: 50 |
538 |
300.649 |
GX: 89 |
ĐCS: 69Hviện: 9Dự bị:
170 |
2.569 |
2.006 |
+ Việc đào tạo ơn gọi
linh mục, tu sĩ thánh thiện cũng như những tông đồ giáo dân đích thật, cần được
quan tâm chăm sóc cách đặc biệt. Gia đình là nền tảng.
Gia đình đã và đang giữ vai trò vô cùng to lớn trong việc duy
trì và phát triển đời sống lòng tin của đoàn Dân Chúa. Cho nên, Đức Giám
Mục đã tổ chức Hội Thánh Phanxicô Xaviê và Gia đình Ơn Gọi chẳng những nhằm mục
đích hỗ trợ mặt tài chánh trong việc đào tạo Ơn Gọi linh mục tu sĩ mà còn tạo
môi trường gia đình nhờ lời cầu nguyện, giáo dục con cái thiết tha ơn gọi linh
mục tu sĩ để dấn thân vào đời sống tu trì. Việc đào tạo được phân chia thành
từng giai đoạn: trong môi trường gia đình, môi trường giáo xứ giáo hạt, môi
trường giáo phận chuẩn bị thành viên ứng sinh vào Đại Chủng Viện.
+ Đào tạo giáo phu:
bước theo đường lối độc đáo của giáo phận trong vấn đề
đào tạo giáo phu có những hoa trái dồi dào. Năm Thánh Yao Phu (2007 – 14.11 –
2008) kỷ niệm 100 năm thành lập trường giáo phu Cuenot nói lên thành quả Chúa
Thánh Thần ban cho Giáo phận trong suốt 100 năm qua. Tuy nhiên, mỗi giai
đoạn thời đại có những hoàn cảnh mới khác nhau, nên việc đào tạo giáo phu cần
xem xét và thích hợp cho việc củng cố nếp sinh hoạt của các chú giáo phu trong
họ đạo và ra đi loan báo Tin Mừng có hiệu năng hơn.
+ Đào tạo người tín hữu
Loan Báo Tin Mừng trong những lãnh vực: tâm linh, văn hóa và văn hóa. Người tín
hữu đặt nền tảng sống đạo và loan báo Tin Mừng nơi Đức Kitô Phục Sinh: Đức Kitô
hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một. Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, qua Ngài đến cùng Thiên Chúa là Cha,
trong Thần Khí của Ngài. Do dó, người cán sự Loan Báo Tin Mừng sống đời sống
nhân bản với anh em đồng loại, thể hiện tinh thần và con người Đức Kitô trong
môi trường xã hội, trong mầu nhiệm hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi, dưới sự
hướng dẫn của Vị Đại Diện Giáo hội địa phương và hoàn vũ.
Và phải chăng vấn đề
truyền giáo cho người dân tộc đã đến lúc trở thành vấn đề lớn không chỉ của
riêng Giáo phận Kontum! Ðâu đâu trên đất Việt đều có anh chị
em dân tộc khao khát đi tìm Lời Chúa. Vấn đề hội nhập
văn hoá, đưa tinh thần Tin Mừng vào chính nền văn hoá là một thách đố lớn cho
tất cả những ai đang phục vụ trên cánh đồng truyền giáo.
Sau những ngày mừng lễ
sốt sắng, giáo phận Kontum trở lại với thực tế đầy cam go thử thách, nhưng cũng
nhiều hy vọng chứa chan. Số linh mục, tu sĩ không nhiều, tuy có phần gia tăng
cần đáp ứng nhu cầu mục vụ và nhu cầu loan báo Tin Mừng ngày càng cao. Số anh
chị em tìm về với Giáo Hội càng nhiều, không chỉ anh chị em dân tộc, nhưng còn
có cả anh chị em người Kinh, nhiều vấn đề đặt ra cho giáo phận.
II- Nâng cao đời sống
của người dân
Học vấn là chìa khóa
thành công trong cuộc sống: nâng cao phẩm giá nhân bản con người, biết quí
trọng môi trường thiên nhiên, đời sống phục vụ, …
Trong Giáo phận, mỗi giáo xứ, mỗi cộng đoàn tu sĩ trở nên môi trường phát huy
“CHỮ VÀ NGHĨA” cho các con em học sinh, nhất là các giới trẻ người dân tộc. Giáo
phận cũng gặp nhiều cản trở trong việc nâng cao năng lực TRÍ THỨC, ĐẠO ĐỨC cho
con em học sinh trong những năm qua.
Dù sao đi nữa, nâng cao
GIÁO DỤC nói chung, HỌC VẤN nói riêng là BỔN PHẬN ĐẦU TIÊN VÀ TRỰC TIẾP của CHA MẸ TRONG VIỆC LỰA CHỌN MÔI TRƯỜNG THUẬN LỢI CHO
CON CÁI. Do đó, nâng cao tầm hiểu biết toàn diện cho cha mẹ, đặc biệt đối với
người dân tộc ” THĂNG TIẾN PHỤ NỮ” rất cần thiết và
cấp bách.
Hàng ngũ
hóa trong công cuộc giáo dục. Giáo dục con tim, giáo dục lương tâm đạo đức của
con người trong một thế giới tục hoá và hưởng thụ hôm nay lại càng cấp thiết
hơn: lo sao giúp cho con người, cách riêng lớp trẻ được phát triển hài hoà giữa
khối óc và con tim để có khả năng biết yêu thương và dấn thân phục vụ hết tình,
để cùng nhau xây dựng môi trường sống trên nền tảng sự thật, công bình và
thương yêu. Công việc giáo dục giới trẻ đang bị những phương tiện truyền thông
ảnh hưởng xấu, sống trong tình trạng thất nghiệp cần kết hợp nhiều mặt: gia
đình, học đường, xã hội và tôn giáo. Giáo xứ vạch ra chương trình giáo dục toàn
diện cho giới trẻ, bằng nhiều nhân tố: gia đình, giáo xứ và đoàn thể biết kết
hợp hài hòa với chương trình đoàn ngũ hóa giới trẻ
trong việc học tập giáo lý, giáo dục nhân bản tại giáo xứ, tại bản làng. Nhờ
đó, công tác giáo dục mới hy vọng đi sâu đi sát cuộc sống của giới trẻ được nhờ
hàng ngũ hóa này, giáo lý viên không rơi vào tình trạng “giáo lý viên công
chức”, cha xứ không bị động vo tròn trong nhà xứ.
Phục vụ người nghèo
cũng là một vấn đề lớn! Nhiều anh chị em xung quanh vẫn còn nghèo! Phải làm gì
để anh chị em hằng ngày “được dùng đủ” được có cuộc sống xứng với phẩm giá con
người. Ðó là điều giáo phận luôn trăn trở.
III- Xây dựng cơ sở tôn
giáo
Tôn
giáo nào cũng cần có nơi qui tụ và nơi thờ tự. Đây
là một nhu cầu tối thiểu và cần thiết. Tuy nhiên, dù luật Pháp Việt nam
chấp nhận Công giáo là một tôn giáo hợp pháp và được bảo trợ sinh hoạt theo tôn chỉ được Giáo luật của Giáo hội và truyền thống
giáo phận qui định. Nhưng thực tế, việc xây dụng cơ sở tôn giáo như nhà thờ nhà
nguyện, nơi qui tụ sinh hoạt tôn giáo trong Giáo phận theo cơ chế: “XIN – CHO”. Nên, cơ chế nhà nước quản
lý người có đạo vượt ra ngoài khuôn khổ quyền thế tục cần thiết, muốn biến tôn
giáo là cơ quan trần tục dưới quyền điều hành của ủy ban. Do đó, khung
quản lý tôn giáo không tôn trọng đường lối đặc thù tôn giáo, tạo nên khó dễ
việc hành đạo người có đạo. Tuy nhiên, dù trong trường hợp nào, người tín hữu
luôn nhắc nhở cho nhau câu của Thầy Chí Thánh đã nói xưa kia cho các môn đệ : “con chim có tổ, con chồn có hang, Con Người không có
chỗ gối đầu”, nên việc xây dựng nơi thờ tự dù có khó khăn hoặc bị từ chối nại
ra nhiều lý do cũng không thay đổi Đức tin mà còn làm mạnh mẽ đời sống
Đức tin của người tín hữu nữa.
Và miền đất truyền giáo
Kontum vẫn vẫy gọi tất cả những con người thiện chí dấn thân phục vụ để các anh
chị em dân tộc ngày càng được phát triển xứng với phẩm giá con người, những
người con của Chúa và được sống hài hòa với tất cả các thành viên của một cộng
đồng đang có diễm phúc sống trên miền đất đỏ hiền lành hôm nay.
Ngày Lễ Thánh Têrêxa
Hài Đồng Giêsu
Kontum, ngày 01 tháng
10 năm 2014
Linh Mục GIOAKIM NGUYỄ
HOÀNG SƠN
-------------------
[1] Lm Boutary (bản đánh máy) “Les
Missionnaires et Les Montagnards”.
[2] Cha
Dourisboures, nguyên tác “Les Sauvages Bahnars”,
Paris 1929, bản dịch của Tòa Giám mục Kontum : ”Dân Làng Hồ” NXB. Đà Nẵng, 2014.
Chúng tôi sẽ trích dẫn
sách “Dân Làng Hồ” theo bản dich 2014 này
[3] Bulletin de la Socciété des Estudes
Indochinoises (BSEI), q. 30, Ier trimestre 1955.
[4] Theo tự
điển “ANNAM-LUSIATAN-LATIN”, in tại
Chúng tôi tìm hiểu thêm
cột 354, từ “rustico : rufticusia, vm. quê mùa.
Cột 479: “mọi, rợ
mọi” gente do mato: fylneftres homines, quê mùa: villão: rufticus, i.
Cột 486 cùng nghĩa : quê mùa : ruftico rufticus, a, vm.
Cột 652 :”rợ mọi” : mato brauo fylua incula. Đứa rợ mọi : homen do mato; fylue tris homo.
Vào thế kỷ XVIII, các bản đồ của người Tây phương có ghi
giữa vương quốc Chàm và Campuchia có Kemoi. Danh xưng này kéo dài cho đến đầu
thế kỷ XX, một số sách của người Pháp cũng có phiên âm kiểu Pháp các cư dân
trên vùng núi Trường Sơn là “Mois”. Trong Đại Nam Thục Lục, tập I, tr.
172, Viện Sử học, Hà Nội 1962, có ghi vào năm 1711, vùng Nam Bàn và Trà Lai
(Jrai) thuộc Hoả Quốc. Năm 1751, Thuỷ Xá và Hoả Xá triều cống cho triều đình.
Mãi cho đến năm 1848, các vua này được phong phẩm tước, không được
coi như “Mọi, Rợ”…
Những
danh xưng “Mọi” được định nghĩa và hiểu như thế nào?
Pierre Pigneau de
Béhaine – Bá Đa Lộc Bỉ Nhu, Tự vị
Theo Lm. Anthony Trần
Văn Kiệm, Giúp đọc Nôm và Hán Việt, NXB Thuận Hoá, Huế 1999, trong từ
“Mọi” được định nghĩa: “tiếng xưa gọi dân thiểu số Trung Việt”.
Để hiểu rõ hơn, xin đối
chiếu từ “Man Di”.
Bá Đa Lộc, sđd, từ Di,
tr. 115: Di: rợ mọi, rừng rú, từ Man di: rợ mọi (sđd, tr. 283).
Lm. Anthony Trần Văn
Kiệm, sđd, tr. 611: Từ “Man” có nghĩa là “tên Nam Man (dân miền nam ngoài biên
giới Trung Hoa”; từ “Di”: tên người Trung Hoa ngày xưa gọi các dân ở Tây Nam
bên ngoài biên cương Trung Hoa: Man di”; “Tiếng xưa gọi người ngoại quốc”.
[5] Maitre (H) Les Jungles,
[6] Launay: “Histoire de la
Mission de Cochinchine. Documents Historiques”, Tome I, trang
244.
[7] Dourisboure, sđd , chương
XVII, trang 157-166
[8
Dourisboure, sđd, trang 278
[9]
Dourisboure, sđd, trang 77
[10] Dourisboure, sđd chương
VIII, trang 78
[11]
Dourisboure, sđd trg 122
[12] Xem thêm trong Trang Mạng Truyền thông
Giáo phận Kontum, địa chỉ :
[13] Dourisboure, sđd, trang 302-303.
Xin xem thêm : “Les Sacrifice du Bufle chez les Bahnars de la
Province de Kontum – Fête”, par P.P. GUILLEMINET – Bulletin des Amis du
Vieux Hué , XXIX Année, N0 2, Avril-Juin 1942.
[14] Dourisboure, sđd trang 291
[15] Dourisboure, sđd. Trang123
[16]
Dourisboure, sđd.trang 128
[17] Dourisboure, sđd trang 129
[18] Dourisboure, sđd. trang 130
[19] Dourisboure, sđd, trang 125-126
[20]
Dourisboure, sđd trang 126
[21]
Dourisboure, sđd, trang 179.
[22] https://gpkontum.files.wordpress.com/2012/07/giao-ly-bang-tieng-jrai_doc3.pdf
[23] “ HLAMAR DE
HAIOH JESU”, Imprimatur : Kontum, die 26 octobris 1956, Paul Seitz
Vicaire Apostolique.
Nhà in Saint-Paul, 184, Avenue de Verdun, Issy-Les Moulineaux (Seine), imprimé
en France, 4è trimester 1967.
[24] Jacques Dournes, nguyên tác “Dieu aime
les Paiens”, bản dich của Tòa Giám mục Kontum, Nhà xuất bản tôn giáo
2011, trang116.
[25] Xem Dourisboure, sđd, trang 52.
[26 Dourisboure,
sđd, trang 303-304.
[27] Dourisboure, sđd, trang
179
[28] Xin xem J.E. Kemlin, “Alliances Chez
Les Reungao”, 1910.
[29] Jacques Dournes, sđd, trang 117
[30]
Jacques Dournes, sđd, trang 121.
[31] Dourisboure, sđd, trang
301-302.
[32] Xin xem Hlabar Tơbang năm 1912, số 15
trang 22-24.
[33] Jacques Dournes, sđd, trang 121 -122.
[34] http://gpkontum.wordpress.com/2013/10/16/hoi-nhap-van-hoa-ban-dia-trong-phung-vu/
Lm. Gioakim Nguyễn
Hoàng Sơn
Nguồn: gpkontum.wordpress.com/