ĐỐI THOẠI - TRUYỀN GIÁO
QUẢNG ĐẠI VÀ BAO DUNG
“Phải đối thoại bằng cuộc sống và bằng con tim. Khi
gặp gỡ và đối thoại, người môn đệ Đức Kitô phải có con tim dịu dàng và khiêm tốn của Thầy mình,
đừng bao giờ tự phụ, đừng bao giờ trịch thượng”. (GHTCA
31§3).
Thiên Chúa là
Tình Yêu, nên đường lối và cách hành động của Ngài luôn quảng đại và bao dung
đối với hết mọi hạng người. Chúng ta cũng hãy tiến bước theo lộ trình đó để đi
vào sứ mạng Truyền Giáo và Đối thoại. Nhờ đó, ta mới phong phú hóa cuộc sống
của chính mình, và góp phần để đưa cuộc sống này vào trong khung trời yêu
thương bất tận của Thiên Chúa.
I. QUẢNG
ĐẠI
1. Trong
suy nghĩ
Quảng đại là
mở rộng lòng để đón nhận những khác biệt của tha nhân. Trên phương diện hành xử
và giáo dục, ta dễ thất bại vì muốn nắn đúc người khác theo quan điểm và khuôn
khổ của mình. Điều tệ hại hơn nữa là dựa trên những tiêu chuẩn chủ quan để phê
phán, đánh giá và xếp loại người khác theo từng cấp độ: ai càng phù hợp với
khuôn của mình thì càng tốt; ai càng ít phù hợp thì càng xấu; ai càng giống
mình thì càng hay; ai càng khác mình thì càng dở. Đây là kiểu giảm thiểu tha
nhân xuống hàng các phạm trù tâm lý, hoặc là các mô hình dự báo về ứng xử. Nhận
thức chủ quan này sẽ dẫn ta từ sai lầm này đến sai lầm khác, là mầm mống của
kiêu căng và thống trị độc tài, phát sinh từ nhân cách nom kém và tâm trí non
nớt. Kinh nghiệm sống dạy cho chúng ta biết rằng, trong tương giao, đối thoại, gặp
gỡ, việc giống nhau giúp ta dễ hiểu nhau hơn, nhưng khác nhau mới làm cho ta
dồi dào phong phú hơn.
2. Trong
cách hành xử
Đối
thoại đòi ta phải quảng đại, nếu không, có thể hóa ra một thảm trạng buồn cười
như câu chuyện về chiếc giường Procuste trong thần thoại Hy Lạp: ai nằm vừa vặn
với chiếc giường, Procuste thả cho đi. Ai dài hơn, anh ta chặt bớt. Ai ngắn
quá, anh ta kéo ra cho bằng chiếc giường.
Đối
thoại và hành xử như vậy là làm què quặt và phế bỏ sự sống của tha nhân. Để
tránh được sự phế bỏ tai ác này, đòi ta phải phế bỏ định kiến, ra khỏi tháp ngà tự mãn của bản thân để can
đảm chỉnh đốn hoặc sửa đổi chính quan điểm và lối suy nghĩ của mình. Hơn nữa,
những xác tín của riêng mình cũng cần phải đặt lại vấn đề, nhất là cách thức
trình bày và sử dụng ngôn từ. Không thể cứng nhắc trong một hình thức nào đó,
làm mất đi tính chất linh hoạt và sinh động của sự hợp nhất trong đa dạng. Sự
bất đồng xảy ra nhiều khi không phải do nội dung mà ta muốn truyền đạt, nhưng
do cách thái trình bày không được uyển chuyển theo quan niệm của từng giới
người, trong từng vùng địa dư và sắc thái văn hóa khác nhau. Có những “phạm
trù” tư tưởng và ngữ nghĩa khác nhau, nhưng rồi lại diễn đạt một chân lý như
nhau.
Người khác
bao giờ cũng có những quan điểm riêng, những cách thái, ngôn ngữ và lối hành xử
khác biệt, có khi đi ngược với ta. Để đi vào đối thoại đòi ta phải quảng đại
đón nhận trước đã, đừng quá chú tâm vào những điểm tương khắc, nhưng là những
điểm tương đồng.
II. BAO
DUNG
1. Bao dung (la tolérance) và khoan dung (l’
indulgence).
Bao
dung là tôn trọng và chấp nhận sự khác biệt, sự đa dạng giữa người với người
trong đủ mọi chiều kích. Còn khoan dung là dễ dàng chấp nhận và tha thứ những
lỗi lầm hay khiếm khuyết của người khác.
Một
người có thể rất khoan dung mà lại không bao dung, nghĩa là rất dễ tha thứ,
thông cảm những lầm lỗi của người khác, mà không thể chấp nhận cho người khác
suy nghĩ hoặc hành động khác với mình.
Còn người bao dung thì thường cũng khoan dung, vì
chấp nhận được sự khác biệt của người khác nên cũng dễ chấp nhận những khiếm
khuyết hay lầm lỗi của họ. Do đó, khoan dung chỉ là một khía cạnh của bao dung.
Bao dung có ý nghĩa tổng quát, rộng lớn hơn khoan dung.
“Bá
nhân bá tánh”. Thiên Chúa dựng nên vũ trụ vạn vật muôn màu muôn vẻ, chắc chắn
Ngài không muốn con người biến nó trở thành một màu một vẻ. Do đó buộc tha nhân
phải giống mình, muốn mọi người phải đồng nhất với nhau trong tư tưởng, ngôn
ngữ, hành động là ảo tưởng, đi ngược lại đường lối của Thiên Chúa.
Điều Ngài muốn nơi con người không phải là sự đồng
nhất mà là sự hiệp nhất. Sự đồng nhất chỉ làm thế giới này nghèo nàn đi, chắc
chắn sẽ bất lợi cho con người và vũ trụ. Con người tuy khác biệt nhau mà vẫn
hiệp nhất lại với nhau được thì sẽ tốt đẹp hơn nhiều. Sự khác biệt giữa người
với người, giữa dân tộc này với dân tộc kia, giữa nền văn hoá này với nền văn
hoá nọ... là một hồng ân của Thiên Chúa cho con người. Chúng ta phải cảm tạ
Chúa về điều đó. Điều Ngài muốn là chúng ta tôn trọng và chấp nhận sự khác biệt
đó để xích lại gần nhau hơn, để bổ túc lẫn nhau, để giúp đỡ nhau, để xây dựng
sự hiệp nhất trong yêu thương.
2. Bao
dung tích cực
Không phải ta
chấp nhận bao dung vì “cực chẳng đã”,
“chẳng đặng đừng”, vì sợ gây đổ vỡ.
Nếu bao dung có nghĩa như thế, thì quả là tiêu cực, nói lên tính khiếp nhược và
nhát đảm, muốn trốn tránh sự nguy hiểm để được an thân. Bao dung không phải là
nói “Amen” với tất cả những gì mà
hoàn cảnh có thể cho phép nói và làm. Bao dung trước hết không có nghĩa là đồng
lõa, thỏa hiệp, xuề xòa cho qua, hoặc khỏa lấp chân lý để chọn lựa tính cách “Dĩ hòa vi quí”. Tuyệt đối không thể từ
bỏ những xác tín cá nhân để trở thành loại người lấp lửng, “ba phải”. Đừng làm
con tắc kè luôn thay màu đổi sắc với chiêu bài là để thích ứng với người khác.
Bao dung đích thực đòi ta phải có lập trường và xác
tín riêng, nhưng không áp đặt nó trên người khác. Trái lại, chấp nhận để người
khác có những tính cách và lối nhìn riêng. Theo một quan niệm tích cực, bao dung là đường lối xử thế chủ yếu để làm
sao người khác được tự do trình bày những quan điểm khác biệt của họ, và nhất
là để cho họ được sống theo những nguyên tắc và xác tín riêng. Với ý nghĩa đó,
bao dung là một cách thế nêu cao tự do, giải thoát cá nhân khỏi những định kiến
và thái độ giáo điều.
Đối thoại
luôn có sự hòa hợp giữa Tình và Lý. Hai phương diện này không lấn át và
xâm phạm lẫn nhau. Tình không được phép
bao che, phủ lấp cho những điều phi lý, và Lý cũng không được phép ngang nhiên
võ đoán hay lợi dụng sự chân tình. Cả hai song hành và bổ sung cho nhau để
hướng mình và người khác đến một tầm nhìn sâu rộng hơn trong sự hài hòa. Trong
hướng đó, tính khách quan luôn được đề cao, để người bao dung biết làm chủ quan
điểm và hạnh kiểm của mình.
Như vậy, bao
dung là một nhân đức của những người quân bình, biết uyển chuyển để tránh nóng
giận, biết phân biệt “của anh và của tôi”. Lòng bao dung ghê tởm những thứ độc
đoán, kỳ thị, hình thức, cũng như mọi tật xấu của tâm hồn, là hệ lụy của việc
phế bỏ lý trí. Nói cách khác, lòng bao dung là thắng lợi của lý trí đối với
tinh thần phe nhóm, không lập dị, bè phái, cũng chẳng ô hợp.
Một tinh thần
bao dung như vậy mở ra thái độ tiếp nhận,
vì bao dung hàm ngụ những phẩm tính căn bản của sự tiếp nhận cuộc đời và
tiếp nhận tha nhân: tâm trí cởi mở, quan điểm rộng rãi, con tim sáng suốt, tấm
lòng nhân hậu, nhất là kính trọng người khác về những gì không thể giản lược mà
cũng không thể phê phán được. Vì thế, hãy biết nhận ra nơi sắc thái đa dạng của
mỗi người để giúp ta đi vào quan hệ với họ một cách tốt nhất. Nhưng rồi cũng
phải xác định về chính mình: đường hướng và lý tưởng, khả năng và tính cách, vị
thế và vai trò, đang là ai, trong môi trường nào, đang tin gì và tin vào ai?
Cho dù mình có tầm ảnh hưởng và thế giá lớn lao tới đâu đi nữa, cũng không để
mình trở thành kẻ cao ngạo, hoặc bám trụ chết cứng vào những xác tín của mình.
Nhưng còn phải biết để cho người khác đi vào bên trong những tường lũy của
mình, để chính mình cũng được củng cố bởi sự tiếp cận của họ.
3. Bất
bao dung là hạng ác nhân
Sự bao dung trong đối thoại đòi ta phải biết khiêm
tốn, để tránh nguy cơ chìm đắm trong kiêu ngạo. Đó là sự kiêu ngạo của kẻ bị
bao bọc bởi những điều hiển nhiên và an toàn, một thứ kiêu ngạo làm phát sinh
kiểu niềm tin chiếm hữu chân lý, chôn vùi mọi thiện chí và nỗ lực vươn lên của
người khác, cũng như mọi khúc mắc có thể được đặt ra. Lịch sử từ xưa tới nay
cho thấy thái độ độc tôn chân lý, độc tôn niềm tin, độc tôn chủ nghĩa... đã gây
ra biết bao cảnh tương tàn, “nồi da xáo thịt”. Biết bao con người của nhiều thế
hệ đã trở thành nạn nhân thảm khốc của chiến tranh chủ nghĩa cuồng ngạo, niềm
tin cuồng tín, chân lý cuồng si, giáo thuyết cuồng dại. Thái độ độc tôn đã biến
niềm tin trở thành tuyệt vọng, chân lý trở thành tuyệt mệnh, giáo thuyết trở
thành tuyệt tự. Quốc gia, chế độ, chủ nghĩa hay giáo hội nào có thể rửa tay
tuyên bố mình vô tội trước những thảm trạng đã từng xảy ra cho đồng loại, vì
tính độc tôn vô nhân?
Ngay như Phật
giáo được coi là đạo từ bi hỷ xả cũng đã có những lần cưỡng chế các tôn giáo
khác, như trường hợp Trần Nhân Tông đi các nơi kêu gọi phá bỏ dâm từ[1],
hay như ở Nhật, chuyện Phật giáo vũ trang là một thực tại lịch sử. Cũng thế, đã
có từng mấy thế kỷ, các nhà Nho và các quan lại theo Khổng giáo đã chủ trương
loại trừ Phật giáo, còn triều Nguyễn thì chống báng Kitô giáo mạnh mẽ. Đó là
chưa nói đến chính sách dân tộc của Nho giáo về lệ “tru di tam tộc”, hay đường
hướng trọng nam khinh nữ, .v.v... Còn về các tôn giáo độc thần như Do thái
giáo, Kitô Giáo, Hồi giáo, thì thái độ tuyệt đối hóa và bất bao dung còn diễn
ra ở một mức độ cao hơn nhiều.
Đó là lý do mà Giáo hội Công giáo đã
từng đấm ngực ăn năn, đã công khai sám hối về những lỗi lầm trong quá khứ. Một
trong những lỗi lầm đó được nêu rõ là thái độ bất bao dung và bạo động chống
lại những người ly khai, chiến tranh tôn giáo, việc dùng vũ lực trong các chiến
dịch của nghĩa binh thánh giá, những hình thức tra tấn, cưỡng bức... Giáo hội
đã bày tỏ nỗi đau đớn sâu xa về những lần đã sử dụng bạo lực để bảo vệ chân lý,
một hành động hoàn toàn đi ngược với Tin Mừng. Bất bao dung chẳng giải quyết
được gì, mà còn tạo thêm hằn thù, phản loạn. Chính sách bất bao dung có thể có
những thành công tạm bợ bên ngoài, nhưng là một thất bại não nề, và là một vết
nhục mãi mãi trong cái nhìn của mọi người. Chính lòng nhân ái mới nâng cao tâm
hồn con người, chứ không phải tài năng chinh phục bằng những lý lẽ, hay giáo
thuyết cao siêu.
Trong tương quan đối thoại cá nhân
hay tôn giáo cũng vậy, ta dễ bị tính cao ngạo và thành kiến khống chế, nên cách
xử thế trở nên bất bao dung. Khi có những quan điểm bất đồng, ta dễ chụp mũ lên
người khác bằng những quyết đoán tiêu cực, hoặc “cả vú lấp miệng em”: áp đặt tính cách và quan niệm của mình để phủ
bỏ tính cách và quan niệm của họ.
Trong có vấn đề với nhau, ta cũng dễ
rơi vào thái độ “vạch lá tìm sâu” để
chứng minh mình có lý, là tốt, là đúng, là hơn kẻ khác. Cứ như vậy, trong tiến
trình đối thoại, người khác trở thành không,
để ta trở thành có. Đối thoại như
thế là xúc phạm đến nhân phẩm người khác, là biến họ thành cái phông để ta vẽ
vời theo ý mình. Đối thoại như thế trở thành độc thoại. Bất bao dung trong mọi trường hợp có thể đồng nghĩa với bất nhân, bất
nghĩa, bất chính, là một thái độ phi nhân hóa tha nhân.
4. Chiêm nghiệm lòng
thương xót Chúa
Chỉ có ai thật sự chiêm nghiệm và
tiếp cận đời sống Thiên Chúa mới có đầy Thần Khí Chúa, và kẻ đó mới có thể sống
ở mức độ cao nhất của lòng từ bi Chúa. Chiêm nghiệm là tấm gương cho ta thấy
được tấm lòng bao dung cao cả của Thiên Chúa. Đó cũng là cái bình lọc, qua đó
ta có thể nhận định được sự nghèo hèn và phẩm cách của mình. Người chiêm nghiệm
không tìm sự toàn hảo ngoài Chúa, vì biết sự nghèo hèn của mình, và cũng biết
rằng, chính sự nghèo hèn là nhu cầu cho mình khao khát và cảm nhận việc Chúa đến
để lấp đầy tâm hồn mình.
Nếu phải xét xử hay phân định một
người, cứ xem lòng bao dung của mình và của người đó mà xét thì không thể sai
lầm. Tiêu chuẩn tối hậu của ngày phán xét chung cũng là thế thôi (x. Mt 25,
31-46). Chân lý tiềm ẩn trong mỗi người, nơi mỗi tôn giáo. Không ai có quyền
giới hạn chân lý hay Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện diện trong mỗi hữu thể, và
ngược lại, mỗi hữu thể là một thành phần tham dự vào hữu thể thuần túy. Cứ
tưởng mình, hay đạo giáo của mình mới có chân lý, có Thiên Chúa, để dựa vào đó
mà “thay Trời hành đạo” thì quả là
tai ương.
Con người chỉ có thể theo Trời chứ
không thể thay Trời: “Thuận Thiên giả
tồn”. Chỉ khi luôn ý thức đặt mình dưới sự hiện diện của Thiên Chúa và
thuận theo ý muốn của Ngài, ta mới thấy Ngài đang lên tiếng khắp nơi, đang hành
động trong mọi lúc qua mọi người, để rồi nhận biết rằng chẳng ai là xa lạ,
không ai là thấp kém. Lúc đó, lòng bao dung trở thành ngọn lửa đốt cháy của
tình yêu mà Chúa Giêsu đã mang đến và đã nhóm trong lòng mọi người bằng Thánh
Thần của Ngài. (x. Lc 12, 49).
Người
ta có thể lý luận rằng, bao dung quá hóa ra dại khờ. Đúng thế, Đức Giêsu đã trở
nên dại khờ khi quá bao dung. Người Kitô hữu chúng ta dễ bị cám dỗ chạy theo lý
lẽ và khôn ngoan của thế gian, có mấy khi bình tâm đào sâu lý lẽ và khôn ngoan
của Thiên Chúa? Theo lối nhìn của người đời, Galeria cũng nói rằng: “Quá khoan dung với kẻ hung bạo thành ra bất công với người lương
thiện”. Hoặc như Napoléon khẳng định rằng: “Sự khoan hồng nào đối với kẻ có tội cũng biểu thị một sự đồng mưu”.
Nói vậy chẳng
lẽ Thiên Chúa bất công và đồng mưu với tội lỗi hay sự gian ác của con người? Dụ
ngôn cỏ lùng là sai lạc ư? (x. Mt 13, 24-30). Tận diệt bất công hay kẻ tạo ra
bất công? Khai trừ tội lỗi hay kẻ có tội? Cho dù sự bao dung có thể thực hiện
bằng nhiều phương cách cho mỗi trường hợp, nhưng không có trường hợp nào là
không thể bao dung. Sự bao dung khoan nhượng của Thiên Chúa đối với con người,
là để con người có cơ hội trở về với Ngài, để khơi động và phục hồi những trái
tim đã băng giá và hư hoại do sự bất bao dung của chính con người đối với nhau.
Đành rằng làm
như vậy là chấp nhận liều lĩnh, có thể có nguy cơ bị phản phúc và tình trạng sẽ
trở nên tệ hại gấp bội. Trái tim Chúa bị đâm thâu là vì thế. Nhưng nếu không
như vậy, ta sẽ trở thành người lãnh đạm, vô tâm, hoặc ngang nhiên tiêu diệt
cách bừa bãi sự sống và tự do của con người. Có ai đi vào con đường “cách mạng”
của lòng bao dung quyết liệt mà không phải trả giá như Đức Giêsu, như Mahatma
Gandhi, Martin Luther King... Ai dám cho mình khôn ngoan và tài giỏi hơn Thiên
Chúa? (x. Is 40, 13-14). “Hãy
về học cho biết ý nghĩa của câu này: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế.” (Mt
9, 13; x. Hs 6, 6).
Cái nhìn bao dung cho ta biết nhìn
thấy điều chính đáng ngay trong cái không xác đáng, thánh thiện ngay trong tội
lỗi, trong sạch ngay trong bợn nhơ, điều lành ngay trong sự dữ, may mắn ngay
trong rủi ro, thành công ngay trong thất bại, hạnh phúc ngay trong đau khổ. Chỉ
khi nào lòng bao dung rộng mở, mọi sự mới trở nên rõ ràng: không còn luật lệ
nào là tuyệt đối; không còn một tội nào mà không được tha; không còn một nhu
cầu nào mà không được coi trọng; không còn một đau khổ nào bị bỏ quên; không
còn yếu hèn nào mà không được nâng đỡ; không còn một phủ nhận nào mà không được
đón nhận.
III. ỨNG DỤNG LỜI CHÚA
1. Mc 9, 38-40 : Gioan ngăn cản một người lấy danh Thầy
trừ quỉ
Ông
Gioan nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy
mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta." Đức
Giê-su bảo: "Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà
làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không
chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.
- Khuynh hướng bè phái và muốn độc
quyền của các tông đồ
Một trong những khuynh hướng rất thông
thường nơi con người, đó là óc bè phái và ham muốn độc quyền. Khuynh hướng này
được biểu lộ nơi các môn đệ Đức Giêsu trong bài Tin Mừng trên. Theo quan niệm
của các ông, chỉ những ai ở trong nhóm 12 như mình mới có quyền nhân danh Thầy
để làm phép lạ, trừ quỉ, chữa bệnh… Nếu có ai khác làm điều ấy được, lập tức
các ông nhận thấy độc quyền của mình bị xâm phạm. Các ông cảm thấy bực bội vì
điều ấy nên đã cố ra tay ngăn cản họ. Đức Giêsu rõ ràng không tán thành khuynh
hướng bè phái và muốn độc quyền của các ông. Trái lại Ngài có cái nhìn lạc quan
và tích cực: “Ai không chống lại chúng ta
là ủng hộ chúng ta”.
- Cám dỗ mang tính bè phái và độc quyền nơi người Kitô hữu
Nhiều khi chính chúng ta cũng bị cám
dỗ bởi não trạng bè phái và ham muốn độc quyền như các tông đồ xưa. Chẳng hạn
những người cùng tin vào Đức Giêsu và cùng nhận Ngài là Cứu Chúa, theo thời
gian, bị phân thành nhiều giáo phái khác nhau. Việc bị phân hóa như thế theo
một cái nhìn nào đó là một việc tự nhiên. Vì tất cả mọi tôn giáo, mọi trường
phái tư tưởng, nghệ thuật, v. v… đều bị phân hóa theo thời gian theo định luật
đa dạng hóa của tự nhiên.
Tuy nhiên, cái đáng tiếc và đáng
trách là giáo phái nào cũng tự cho mình là đúng đắn nhất, là gần với chân lý
nhất. Thực tế dù có khác nhau – chủ yếu là trong tiểu tiết – các giáo phái vẫn
hết sức giống nhau trong đại thể. Giáo phái nào cũng đều tin và tuyên xưng Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Giáo phái nào
cũng coi Kinh Thánh là chân lý hướng dẫn toàn thể cuộc sống mình. Giáo phái nào
cũng chủ trương: “Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa thì sẽ được cứu
thoát” (Rm 10,13). Nhưng giáo phái nào cũng muốn độc tôn chân lý, và hăng say
chiêu mộ các tín hữu mới theo giáo phái của mình.
Quả là gương mù đối với những người
ngoài Kitô giáo, khi mà: – một đằng Đức Giêsu – Đấng mà các Giáo hội và mọi
giáo phái Kitô đều tôn thờ, đều nhận là Chúa, là Thày – đã tuyên bố: “Người
ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau»
(Ga 13, 35). – đằng khác, lại coi nhau như là ngoại đạo! Lịch sử cho thấy các Giáo
hội và các giáo phái nói xấu lẫn nhau, mạt sát lẫn nhau, kết án lẫn nhau, một
vài trường hợp khủng bố lẫn nhau! Nhiều giáo phái Kitô phủ nhận khả năng được
cứu rỗi của những người thuộc giáo phái khác, cho dù tất cả đều tin và tuyên
xưng những điều căn bản y hệt như nhau! Dường như giáo phái nào cũng muốn hạn
chế hoặc chỉ dành riêng sự cứu rỗi cho những ai theo giáo phái của mình!
Đây quả là một gương xấu vĩ đại, một
điều mỉa mai cho Đức Giêsu và cho tất cả chúng ta, vì gương xấu này là một phản
chứng nặng nề đối với những người ngoài Kitô giáo, khiến họ thất vọng về con
đường đưa tới Đức Kitô! Ước gì chúng ta đều đọc và suy nghĩ câu Chúa Giêsu vẫn
nói: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì
thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn”.
- Mở rộng quan điểm
Sở dĩ Đức Giê-su không đồng ý cho ông Gioan ngăn cản
người lạ mặt đã nhân danh Thầy mà trừ quỷ, là vì ông nghĩ rằng quan điểm của
Thầy cũng giống như ông và như bao nhiêu người: rất khó chịu khi thấy người
khác hơn mình và phải độc quyền bá chủ.
Thiếu lòng quảng đại và bao dung khiến ta luôn đi ngược
đường với Chúa Giêsu và gây ra chia rẽ, loại trừ. Để tránh điều đó, ta nên đón nhận chân lý bất cứ từ phía nào
tới, vì mọi chân lý phát đều xuất từ Thiên Chúa (x Mt 23,8-10). Thực tế,
ai trừ được quỷ, ai rao giảng hay, là người ấy ủng hộ và cộng tác vào chương
trình cứu độ mà Đức Giê-su đã trao cho Hội Thánh, là tiếp tục công việc của
Ngài là đánh bật satan ra khỏi lòng người (x Mc 16,17). Đó là ơn nhận được từ
nơi Chúa Giê-su Phục Sinh (x Mt 28,18 ; Ga 20,19t). Đúng là không ai có thể
lãnh nhận điều gì mà không do từ Chúa ban cho (x Ga 3,27), nên chẳng có gì để
vênh vang với ai (x 1Cr 4,7). Ai làm
điều tốt cũng được, miễn là điều tốt đó có người làm, thì Đức Kitô được rao
giảng! (x Pl 1,12-18).
2. Lc 9, 51-56: khắt khe là hủy diệt và giết chết
“Họ lên đường và vào một làng người Samari
để chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang
đi về hướng Giêrusalem. Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Giacôbê và ông Gio-an
nói rằng : "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống
thiêu huỷ chúng nó không ?" Nhưng Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông. Rồi
Thầy trò đi sang làng khác”.
Hai dân tộc Do Thái và Samari thù ghét nhau nặng nề. Vì
thế, không lạ gì nhà người Samari cửa đóng then cài không đón tiếp các khách
hành hương Do Thái. Phản ứng nóng nảy của Giacôbê và Gioan muốn thiêu hủy cả
làng để trả thù cũng là lẽ thường tình. Đức Giêsu đả phá ý hướng nông nổi của
hai ông. Ngài đòi các môn đệ vượt lên trên cách ứng xử tầm thường đó, để có một
tâm tình cao thượng. Tâm tình này có thể được tóm tắt qua hai chữ: bao dung.
Bao dung là mở rộng tình yêu thương bao la, có thể dung
chứa và bao gồm hết mọi loại người, mọi kiểu cách, mọi thái độ, mọi cá tính,
mọi quan niệm sống … của người khác cách bình thản mà không dị nghị, dị ứng,
không câu nệ vào những hình thức và tiểu tiết bên ngoài, nhưng trước tiên luôn
cố gắng hiểu biết và đồng cảm với người khác từ bên trong.
Sống đời Kitô hữu là tập luyện cho mình có được tâm tình
bao dung như Đức Giêsu. Có được tâm tình này, chắc chắn ta sẽ cảm thấy cuộc đời
an vui và hạnh phúc hơn nhiều. Hơn nữa, lý tưởng của chúng ta là nối tiếp sứ
mạng của Đức Giêsu, nên phải có khả năng đón nhận hết mọi hạng người, hầu trao
ban bình an và hạnh phúc cho họ bằng tấm lòng bao dung, và thực tế là những anh
chị em đang sống chung quanh chúng ta hằng ngày.
Lòng bao dung đã được Chúa Giêsu nêu
cao trong 3 dụ ngôn: Con chiên lạc, Lúa
và cỏ lùng, Người cha nhân hậu. Lòng bao dung chính là thước đo sự cao cả
của một con người. Lòng bao dung càng lớn càng biểu hiện sự hiện diện sống động
của Thiên Chúa nơi bản thân mình. Đời sống thì không toàn hảo, và con người
cũng không hoàn hảo. Chỉ có lòng bao dung mới mới làm cho chúng ta hoàn thiện
như Cha trên trời.
Khi nhân danh đạo đức hay lẽ phải mà
ta thiếu lòng bao dung, thì việc nhân danh ấy trở thành vô nghĩa và hành động
trở thành vô nhân. Lòng khoan dung bị bỏ quên thì tôn giáo bị lầm lạc, lẽ phải
bị thất lạc, đức hạnh bị sai lạc. F.Voltaire
nói thật chí lý: "Sự khoan dung là
một vị thuốc duy nhất để chữa những lỗi lầm đang làm bại hoại con người khắp vũ
trụ". Đó là đức tính mà sẽ cứu thế giới này khỏi mọi thảm họa.
Càng không thể nhân danh luật lệ, nguyên tắc, quyền bính,
chức vụ, để hành xử trái ngược với lòng bao dung. Nếu chúng ta là những người
biết chiêm nghiệm và tiếp cận với đời sống của Thiên Chúa, là những người có
Thần Khí Chúa, thì chúng ta cũng phải sống ở mức độ cao nhất của lòng từ bi
Chúa. Cũng như lời Thánh vịnh: “Nếu Chúa
chấp tội nào ai đứng vững…”.
Chính vì vậy mà ta thấy ân ban lớn lao nhất của Thiên
Chúa cho loài người chúng ta được cứu độ là lòng thương xót của Ngài. Cũng vì
vậy lễ vật lớn lao nhất mà chúng ta có thể dâng lên cho Thiên Chúa chính là
lòng bao dung của mình đối với mọi người. Nhờ của lễ đó mà của lễ dâng trên bàn
thờ mỗi ngày trở nên hiện thực từ chính trái tim của chúng ta. Chúng ta cần chiêm nghiệm lòng thương xót Chúa mỗi ngày trên
cuộc đời mình, để mình cũng biết sống lòng thương xót đối với tha nhân như vậy.
(x. 1Cr 13,7).
Lm. Thái Nguyên
[1] Dâm từ: các từ đường thờ
các thần dâm dục như một thứ tín ngưỡng dân gian, vì coi đó như nguồn phát sinh
sự sống. Được ghi nhận trong Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch của Cao Huy Giu,
tập II, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972.