Kitô học trong Ánh Sáng Thánh Linh

6/18/2015 11:39:57 PM – Bày tỏ nguyện vọng, đôi lúc khẩn thiết, muốn thấy có được một khoa Kitô học đượm nhuần bản sắc “thần khí” và gồm hàm những yếu tố cần cho việc tìm hiểu về Đức Kitô trong tương quan với Thánh Linh, là một sự kiện thường gặp thấy trong thời đại ngày nay. [2]

Bởi vì, hễ đã đọc  Kinh Thánh, thì không ai mà không nhận ra ngay rằng đó  là một mối tương quan cốt tủy; tuy thế, thần học cũng  vẫn chưa quan tâm cho lắm đến việc khai triển mầu nhiệm  của nó. Theo thánh Baxiliô, thì Thần Khí là “người  bạn keo sơn của Đức Kitô” [3]  ; dù vậy, cho đến nay, Kitô học và Thánh Linh học thường tiến  theo những đường hướng trái ngược nhau, không quan tâm  đối chiếu với nhau, gây thiệt thòi cho cả đôi bên.

I. Một Khoa Kytô Học Vắng Bóng Thần Khí

Có một thời, suốt nhiều thế kỷ dài, đã từng  thấy thịnh hành một nền thần học về ơn cứu độ trong đó,  không một vai trò nào đã được dành cho Thần  Khí. Công trình cứu độ chỉ được coi như là tác phẩm của một con người- Chúa, có sức tự bởi thiên tính của  mình, mang lại cho mỗi một hành động mình làm, một  giá trị vô cùng. Và như thế, con người-Chúa có khả năng đền đáp thỏa đáng cho những gì công lý  của Thiên Chúa đòi hỏi, và mang lại cho loài  người, ơn tha thứ tội lỗi cũng như quyền được hưởng sự sống vĩnh cửu. 

Nếu nhận thức như vậy, thì công trình cứu độ không còn  được hiểu như là một mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa được giới thiệu qua diện mạo của một  nền công lý vô biên, cần phải được giảng hòa,  chứ không phải với diện mạo của một người Cha  đã sinh Con mình ra trong thế gian cho chúng ta, qua Thánh  Linh, cũng như đã đưa dẫn người Con ấy đi qua con đường sống và chết để tiến bước vào trong  niềm viên mãn vĩnh phúc của đạo làm Con. Và  theo nhãn quan ấy, Đức Giêsu được giới thiệu như là  một con người mang thiên tính, có khả năng trả  đủ giá để “tậu” ơn cứu độ, chứ không phải  là như người Con đã được thụ thai trong Thánh Linh,  và đã hướng theo tác động của Thần Khí mà  ưng thuận đi qua con đường sống và chết đúng theo tôn  ý của người Cha sinh mình ra. Thần Khí đã không  được đích danh nhắc tới. 

Nặng nề với tính chất pháp lý khe khắt và quá nặc mùi  lý tính, nền thần học kia đã không thể mở lối đưa  đường hầu dẫn tới gần mầu nhiệm cứu độ hơn được.  Vì không biết nhận ra cho đúng mức vai trò của Thần  Khí, nên nền thần học kia cũng đã lãng quên luôn  tầm trọng yếu cứu độ của sự việc sống lại; mà không  có sống lại, thì như Phaolô đã từng khẳng định, việc  chết đi cũng chẳng có được một ý nghĩa cứu độ nào  cả (1Cr 15, 17).

Nếu không được đính chính lại để hiểu cho đúng, thì nền thần  học kia có thể trở thành nguyên cớ gây ra nhiều sai  lạc. Bởi vì, nếu mọi sự đều được giải quyết bằng  sự chết có đủ sức đền đáp thỏa đáng cho công lý,  thì tại sao lại cần phải có Giáo Hội với các bí tích,  tại sao lại cần phải có nổ lực dấn thấn của từng  cá nhân qua “các việc lành” (xem Ep 2, 10) làm  chi? Chẳng phải chỉ cần tin rằng Đức Kitô đã trả  xong hết nợ cho chúng ta, và chỉ cần tín thác vào công  lý của Thiên Chúa đã được giảng hòa nhờ  giá chuộc ấy, là đã đủ lắm rồi đó sao? Tại sao  còn phải nhất thiết cần đến việc sống hiệp thông  với Đức Kitô?

Khi chỉ được nhận thức một cách riêng lẻ, tách rời  ra khỏi mối tương quan với Thánh Linh, thì chẳng những  công trình của Đức Giêsu không thôi, mà cả mầu  nhiệm về cá nhân con người-Con Thiên Chúa cũng sẽ  không được nhận thức cho đầy đủ theo toàn bộ chiều  kích ba ngôi (trinitaire) của nó. Để lên án lạc  thuyết Nestôriô (cho là trong Đức Giêsu Kitô, có hai chủ  thể) và lạc giáo nhất tính (monophysisme : chủ  trương rằng Đức Giêsu Kitô chỉ có một bản tính duy nhất  là thiên tính), thì Công đồng chung Canxêđônia chỉ cần  khẳng định rằng nơi Đức Kitô, có hai bản tính -- tức  là nhân tính và thiên tính -- phối kết chặt chẽ  với nhau trong cùng một ngôi vị Thiên Chúa duy nhất, tức  là Ngôi Hai. Cho dù có dùng những khái niệm  không mấy quen thuộc đối với Kinh Thánh, lời minh định  ấy cũng hoàn toàn phù hợp với các dữ  liệu tìm thấy trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, ai cũng biết  rằng không một tín điều nào có thể gói trọn hết mọi  chiều kích phong phú của mầu nhiệm vào trong công thức  có tính cách khái niệm của mình được. Tín điều do Công  đồng chung Canxêđônia minh định, cũng không thể thoát khỏi  vòng giới hạn của định luật ấy được.

Đúng thế, nếu để ra ngoài vòng liên hệ với Thần  Khí, thì tín điều về một ngôi vị duy nhất trong hai bản  tính vừa nhắc tới trên đây, chỉ mang được có một tính  chất tĩnh định, tức là không nói rõ lên vị trí của  Đức Kitô ở trong lịch sử, không mở đường cho  tâm tư nghĩ tới tình trạng khác biệt -- dĩ nhiên là  chủ yếu-- giữa cuộc sống dương thế và cuộc  hiện hữu trong vinh quang của Đức Giêsu, cũng như  không hấp thu được đà năng động đã từng thúc  đẩy Đức Kitô bước vào cuộc sống và đi qua con đường  chết để đạt tới niềm viên mãn của những gì làm  nên bản chất của Người ngay từ đầu: làm  Con Thiên Chúa, làm Đấng mang lại ơn cứu độ cho nhân thế.  Và như thế, tín điều không nêu rõ khía cạnh cứu độ  của mầu nhiệm Đức Kitô. Cho dù Công đồng có tuyên  bố rõ là Đức Kitô “đồng bản tính với Thiên  Chúa Cha theo thiên tính”,  [4] thì công thức minh định cũng không nêu rõ tính chất  “làm Con” của Đức Giêsu, tức là mối tương  quan cốt tủy Ngài có đối với Thiên Chúa xét theo  tư cách “làm Cha.” Và do đó, công thức tín điều  không nói gì tới tính chất ba ngôi của mầu nhiệm Nhập  Thể, mà chỉ nhắm bắn cho trúng vào đích, tức là  vào các lạc thuyết cần phải triệt hạ, chứ không  nhằm biểu đạt trọn vẹn toàn bộ mầu nhiệm cứu độ.

Còn các học tuyết thịnh hành nhất về Thiên Chúa Ba  Ngôi trong thần học, thì không soi sáng được gì nhiều cho mối  tương quan giữa Đức Kitô và Thần Khí. Thậm chí, còn  có thể ngờ là chính chúng đã thực sự tiếp tay  để đào cho sâu thêm hố ngăn cách giữa Kitô học và  Thánh Linh học. Học thuyết chủ trương cho rằng Thiên Chúa  Cha một đàng sinh ra Chúa Con, và đàng khác “thở  ra/thổi nên” (spire) Thần Khí, không nhất thiết phải  giả định bất cứ một mối liên hệ nào ở giữa  sự việc sinh ra Ngôi Con và sự việc nhiệm xuy (spiration)  nên Thần Khí. -- Theo một học thuyết khác, thì Thần Khí  nhiệm xuất(procéder) từ Ngôi Cha và Ngôi Con  như thể là từ cùng một nguyên lý duy nhất không  phân hóa (indifférencié ), cũng không nhất thiết  đòi phải có một mối liên hệ cốt tủy nào  giữa Ngôi Con xét theo tư thế cá thể, và Thánh Linh  cả, bởi lẽ Ngôi Cha và Ngôi Con “thổi nên”  (nhiệm xuy) nên Thần Khí, không phải theo tư thế riêng  là Cha và là Con (mà là theo địa vị làm  nguyên lý duy nhất không phân hóa).  [5] -- Trong cách  thức diễn dịch bằng biểu đồ đường thẳng, theo đó,  Ngôi Cha sinh ra Ngôi Con, và qua Ngôi Con, “thổi nên”  Thần Khí, cũng chẳng nhận ra được hoặc là cũng  chẳng nhận ra được mấy bản chất của mối liên hệ  giữa Ngôi Con xét theo tiến trình phát sinh, và Thánh  Linh xét theo tiến trình nhiệm xuất.

Các học thuyết trên đây đều hiểu rằng theo suy luận lôgíc  của trí tuệ con người, thì sự việc sinh hạ Ngôi Con  xảy ra Àtrước' hành động nhiệm xuy nên Thần Khí. Rồi,  cả ở nơi Ngôi Cha trong chính tư thế là Cha, lẫn  ở nơi Ngôi Con trong chính tư thế là Con, đều không  thấy ghi dấu vết ấn tín của Thần Khí. Còn tiến trình  hoạt động trong Thiên Chúa Ba Ngôi thì làm như đã đạt  tới cùng đích ở nơi Thần Khí, và ngừng lại  ở đó. Và như thế, người ta đã không mấy lưu  tâm tới mầu nhiệm về thực trạng Ba Ngôi ở trong nhau (périchorèse/circumincession= tương tại tính ), cho dù  đó chính là mầu nhiệm mà mọi khoa thần học về Thiên  Chúa Ba Ngôi có bổn phận phải coi trọng; theo mầu nhiệm  ấy, những gì nằm ở nơi cùng đích -- tức là  Thánh Linh -- thì cũng có mặt ngay cả ở nơi khởi  điểm. Các nổ lực tổng hợp và các cuộc tranh cãi  đối chọi lẫn nhau giữa các học thuyết thần học kia  cho thấy rằng để minh chứng cho tính chất chính đáng và  chính thống của mình, hình như các học thuyết này cũng  chẳng có thể tìm ra được những yếu tố cần thiết ở  trong các dữ liệu Kinh Thánh liên quan đến Thánh Linh, [6] cũng như trong mầu nhiệm mà Kinh Thánh xác  nhận là chủ yếu: tức là mầu nhiệm Vượt Qua của  Đức Kitô, trong đó, Thiên Chúa Cha sinh ra Con của mình  trong Thánh Linh.[7]

II. Đức Kitô Trong Quan Hệ Với Thần Khí

Giáo Hội đã, đang và không ngừng được sinh ra từ  mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô; rồi cũng chính từ  đó, đức tin kitô đã được sinh ra, và đó chính là  cội nguồn phát xuất sự hiểu biết về mầu nhiệm của Thiên  Chúa. Các văn bản Tân Ước đã truyền lưu lại cho chúng  ta những biểu đề đức tin cổ cựu hơn cả chính các văn  bản ấy; mà các tín biểu (symboles de la foi) lại  tổng kết toàn bộ chân lý đức tin bằng lời xác quyết  về sự kiện Đức Giêsu đã chịu chết và đã sống  lại: “Nếu anh em tin thật rằng Đức Giêsu đã chết và  đã sống lại” (1Tx 4,14; xem 1Cr 15,3-5).[8]   Hoặc là bằng một tổng lược đơn giản  hơn với lời đơn thuần tuyên xưng Đức Kitô đã sống  lại: “Nếu bằng miệng, bạn tuyên xưng rằng Đức Giêsu là  Chúa, và nếu tự trong đáy lòng bạn tin rằng Thiên  Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết, thì  bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10, 9). Hay là ngay cả  bằng cách tuyên xưng quyền chủ tể của Đấng Phục Sinh:  “Không có thể tuyên xưng: ÀĐức Giêsu là Chúa' mà  lại không phải bởi sức Thánh Linh” (1Cr 12,3; xem  Cv 2,36; Pl 2,11). Lời xác quyết Đức Kitô đã sống lại,  thu tóm trọn cả toàn bộ nội dung đức tin.

Vậy, nếu mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô là mầu  nhiệm trung tâm, chủ yếu, thì làm sao mà thần học  lại không có bổn phận phải lấy đó làm khởi điểm  cho tiến trình suy tư của mình? Mà Đức Kitô, Đấng đã  tự mạc khải mình ra qua cuộc tử nạn và phục sinh,  lại được ghi dấu ngay ở trong con người và ở  nơi công trình của mình, bằng ấn tín của chính Thần  Khí.

1. Khi làm cho Người sống lại, Thiên Chúa đã trao  ban cho Đức Kitô “danh tước trổi vượt mọi danh tước,”  danh tướcKyrios , tức là Chúa : một danh tước  chỉ được dành riêng cho một mình Thiên Chúa quyền năng  vô biên (xem Pl 2,9-11) mà thôi. Mọi quyền năng trên trời  và dưới đất đã được trao ban cho Người (xem Mt 28,18).  Nhưng khi làm cho sống lại, Thiên Chúa đã làm cho  Người sống lại trong Thánh Linh. Tông đồ Phaolô xác định  điều đó một cách mặc nhiên mà chắc chắn qua những  gì viết ở trong câu Rm 8,11. Ngài cũng nói lên  điều đó trong một cách thức tương tự khi viết: “Đức Kitô  đã chịu đóng đinh vào thập giá vì lẽ xác phàm  yếu đuối, nhưng Người đang sống bởi quyền năng Thiên  Chúa” (2Cr 13,4), bởi vì, đâu đâu trong toàn bộ  Kinh Thánh, Thần Khí cũng xuất hiện dưới hình thái quyền  lực toàn năng không ngừng hoạt động của Thiên  Chúa: “Anh em sẽ nhận được quyền lực của Thần  Khí đến trên anh em” (Cv 1,8; Lc 24,49). Thánh Phaolô cũng  nói đến sự kiện đó ở trong Rm 6,4: “Đức Kitô đã  sống lại từ cõi chết nhờ bởi vinh quang Thiên  Chúa Cha,” vì lẽ, vinh quang của Thiên Chúa mà  Kinh Thánh nói tới, tức là sự “tỏa rạng chói  lọi của bản thể Thiên Chúa”, [9] hay là tình trạng biểu hiện của  quyền lực toàn năng trong Thiên Chúa -- “Vào  buổi sáng, các ngươi sẽ xem thấy vinh quang của Thiên  Chúa” (Xh 16,7) -- được gắn liền với Thần Khí Thiên  Chúa ngay từ trong Cựu Ước (xem Is 63,8-14); còn trong  Tân Ước, thì vinh quang ấy được đồng nhất hóa với Ngôi Ba  Thiên Chúa; thực vậy, Thần Khí chính là quyền lực tỏ  hiện của Thiên Chúa, là “Thần Khí vinh quang, Thần  Khí của Thiên Chúa” (1Pr 4,14). Thánh Linh, quyền lực  và vinh quang cấu thành một nguyên lý duy nhất qua  đó, Thiên Chúa Cha đã làm cho Đức Giêsu sống lại.  Cũng hệt như vậy đối với việc các tín hữu sống lại:  “trong quyền năng” và “trong vinh quang,” họ  sống lại “với xác thần thiêng (khí)” (1Cr 15,43...).

Với cuộc sống lại, Đức Kitô nắm giữ quyền lực của  Thiên Chúa: Ngài là “Chúa Tể vinh quang” (1Cr  2,8), là Chúa Tể-thần khí (2Cr 3,18), là “thần khí  tác sinh” (1Cr 15,45), bởi vì Ngài sống bằng Thần  Khí của quyền lực và vinh quang; chính trong Thần Khí  ấy, Ngài đã sống lại. [10]

Nếu thế, thì không thể đề cập đến Đức Kitô-Chúa Tể mà  không bàn tới Thần Khí, bởi vì, chính ở trong Thần  Khí ấy, Đức Kitô Sống Lại sinh tồn và hoạt động. Nếu  không có quyền lực và vinh quang, nghĩa là nếu không  có Thánh Linh, thử hỏi làm sao Đức Kitô có thể  làm Chúa Tể của quyền lực và vinh quang được?  Mà cuộc sống lại chính là sự kiện vén mở cho  thấy rằng qua sự chết, Đức Kitô đã được biến đổi từ  trong gốc rễ của bản thể mình. Chúa Tể vinh quang,  Đức Kitô-thần khí chính là Đức Giêsu muôn thuở ở  trong trạng thái triển dương trọn vẹn của ân sủng  Ngài vốn có từ ban sơ.

Cho dù tông đồ Phaolô có nhấn mạnh đến thực trạng khác  biệt giữa sự yếu đuối xác phàm nơi Đức Giêsu tại  thế, và quyền lực vinh quang của Ngài, thì ngay  trong cuộc sống dương thế của Ngài, Thần Khí cũng  đã biểu dương sự có mặt đầy quyền lực của mình ra:  Đức Giêsu hành động với “quyền lực của Thần Khí”  (Lc 4,4.18); Ngài trừ quỷ bằng ngón tay của  Thiên Chúa (Lc 11,20): theo Matthêu 12,28, ngón tay ấy là  không gì khác hơn ngoài chính Thánh Linh. Có nhờ Thần  Khí thì mới cắt nghĩa và thấu hiểu được cuộc sống của  Đức Giêsu (xem Cv 10,38), vì Thần Khí đã được ban xuống  cho Ngài một cách khôn lường vô hạn (Ga 3,34).

2. Với cuộc sống lại, cùng với danh xưng Chúa Tể, Đức  Giêsu cũng nhận được danh tước Mêsia : “Thiên  Chúa đã đặt Đức Giêsu mà các ngươi từng đóng  đinh, làm Chúa Tể và làm Đấng Mêsia” (Cv 2,36).  Cuộc tiến bước vào trong vinh quang là “một cuộc  xức dầu hoan lạc” (xem Dt 1,9). Nhưng, Đức Giêsu có được  hiển vinh, là hiển vinh trong Thánh Linh. Cuộc xức dầu  tấn phong làm Đấng Mêsia qua sự việc sống lại là  do Thần Khí thực hiện. Từ thời sống nơi dương thế,  Đức Giêsu đã được “xức dầu bằng Thần Khí và quyền  năng” (Cv 10,38); bắt đầu rao giảng công khai, là  Ngài tuyên bố ngay rằng: “Thần Khí Chúa ở trên  tôi, bởi Người đã xức dầu cho tôi” (Lc 4,18).

Là Chúa Tể, Đức Giêsu cũng là Đấng Mêsia, bởi  lẽ Ngài đã được xức dầu bằng Thánh Linh. Không  thể nào có được Đấng Mêsia (Đấng được Xức dầu, Đấng  Kitô) mà lại không có việc xức dầu, mà lại không  có Thánh Linh.

3. Bản chất làm Con Thiên Chúa và quyền  Chúa Tể theo chức vụ Mêsia thì chặt chẽ gắn liền với  nhau (Mt 16,16; 26,63; Lc 4,41; Ga 1,49). Một công thức cổ cựu,  có trước các văn bản của Phaolô, ghi rằng: “Tin  mừng (Phúc âm) của Thiên Chúa... (quan hệ đến) Con  của Ngài, Đấng xuất thân tự dòng giống Đavít theo  xác phàm, và đã được đặt làm Con Thiên Chúa  trong quyền năng, theo Thần Khí (hay là: thần trí) thánh  thiện, qua cuộc sống lại từ cõi chết” (Rm 1,3tt).  Đã có một thời, nhiều tác giả quan niệm một cách  sai lầm rằng “thần trí thánh thiện” ấy chỉ về bản  tính Thiên Chúa nơi Đức Kitô, tương ứng với bản tính loài  người nơi con người xuất thân từ dòng giống  Đavít. [11] . Phần đông các tác giả  hiện đại đều cho là từ ngữ ấy chỉ về Thánh Linh;  có tác giả lại nghĩ là từ ngữ ấy muốn nói  đến sự thánh thiện “tinh thần” (thiêng liêng) của  Đức Kitô, một sự thánh thiện thuộc tầm tác động của  Thánh Linh. [12] Dù sao, sự việc đưa Đức Giêsu lên ngôi làm  “Con Thiên Chúa trong quyền năng” đã thành hiện  thực trong Thánh Linh: việc ấy là kết quả của  “cuộc sống lại từ cõi chết” nhờ Thánh  Linh như chúng ta đã biết (xem Rm 8,11).

Hành động Thiên Chúa làm cho Đức Giêsu sống lại là  một hành động mang tính chất phụ tử, vì nó “đặt  Ngài làm ConThiên Chúa trong quyền năng”;  theo Cv 13,33, thì hàng động ấy là hành động sinh  hạ: “Thiên Chúa đã cho Đức Kitô sống lại, như lời  đã chép trong Thánh vịnh thứ hai rằng: ÀNgươi là Con  Ta; hôm nay, Ta sinh ra ngươi'.” Thánh vịnh này cũng  có thể được hiểu về một vì vua trần thế, hệt như lời  của tiên tri Natan (2Sm 7,14): “Ta sẽ là Cha nó,  và nó sẽ là con Ta.” Tuy nhiên, khi áp dụng  lời tiên tri này vào trường hợp của Đức  Giêsu, đức tin kitô đã hiểu câu 2Sm 7,14 theo nghĩa làm  Con theo thiên tính, làm Con Một (Dt 1,5), và đã  giải thích Tv 2,7 theo ý nghĩa của một hành động  sinh hạ thực sự ở trong nội giới của chính bản  tính Thiên Chúa (Dt 5,5). Hành động sinh hạ này đạt  đến mức hoàn thành vẹn toàn ở trong cuộc Đức  Giêsu sống lại từ cõi chết.

Là công trình của Thiên Chúa theo bản chất làm  Cha, và là công trình được thực hiện trong Thánh Linh,  cuộc Đức Giêsu sống lại vén mở cho thấy rằng Thiên Chúa  sinh ra Con của mình vào giữa thế gian, trong Thánh  Linh, và rằng Đức Giêsu là Người Con đã được  sinh ra trong quyền năng Thiên Chúa, tức là trong Thánh  Linh, vì quyền năng ấy chính là Thánh Linh.

Không thể có chuyện làm Con Thiên Chúa mà lại không  được vinh hiển giống như Thiên Chúa Cha [13] ”Chúng tôi đã được ngắm nhìn vinh quang của  Ngài, vinh quang như của Con Một tự nơi Cha” (Ga 1,14).  Danh tước Con đã được dùng đến trong các đoạn trình  thuật về những lần Đức Kitô hiển linh (christophanie): khi Ngài chịu phép rửa (Mt 3,17, và các đoạn song  song), lúc Ngài biến hình trên núi Tabor (Mt 17,5, và  các đoạn song song), trong cuộc thánh Phaolô trở lại, “khi  Người (Thiên Chúa) đã có nhã ý mạc khải   Con của Người cho...” (Gl 1,16) thánh nhân. Đó cũng  là danh tước dành cho Đức Giêsu trong giây phút Ngài  tái giáng ngày cánh chung: “Chúng ta trông đợi Con  của Người từ trời đến, Đấng mà Người  đã làm cho sống lại từ cõi chết” (1Tx 1,10);  “Thiên Chúa... đã đã kêu gọi chúng ta đến chung  phần hiệp thông với Con của Người, là Đức Giêsu  Kitô, Chúa chúng ta” trong Ngày của Người (1Cr  1,9). [14] ”Con Thiên Chúa” là một danh tước  vinh quang. Mà Thần Khí là vinh quang của Thiên Chúa;  chính trong Người, Đức Giêsu đã sống lại -- “Ngài  đã được vinh quang của Thiên Chúa Cha làm cho sống  lại” (Rm 6,4). Trong Thánh Linh, mầu nhiệm làm Con đạt  tới mức hiển vinh của niềm viên mãn phục sinh; nhưng,  cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu không gì khác hơn là mầu  nhiệm làm Con muôn thuở được triển khai và vén  mở đến tột độ: cuộc Vượt Qua ấy xác chứng rằng Đức  Giêsu là Người Con trong Thánh Linh, và Thiên Chúa  là Cha của Ngài.

Được soi chiếu bởi Đức Kitô vinh quang, không chút chần  chừ, các tín hữu đã tin nhận Đức Giêsu là  Con Thiên Chúa ngay từ giây phút bắt đầu cuộc sống làm  người, và từ thuở đó, đã được Thiên Chúa  sinh hạ ra trong quyền năng của Thần Khí: “Thánh Linh  sẽ đến trên bà, và quyền năng của Đấng Tối  Cao sẽ rợp bóng trên bà; vì thế , trẻ sắp  sinh sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên  Chúa” (Lc 1,35). Con trẻ sẽ mang danh tước ấy, bởi  vì được sinh ra do tác động của Thần Khí. Thần Khí là  quyền lực toàn năng đầy công hiệu của Thiên Chúa,  là vinh quang -- đám mây chiếu sáng -- rợp bóng trên  Đức Maria. Và như thế, Đức Giêsu là con người có  chính Thiên Chúa làm Cha.

Là thế nào lúc còn trong bào thai, thì Con Thiên  Chúa trong Thánh Linh cũng vẫn mãi mãi là  như vậy. Lúc chịu phép rửa, tiếng của Thiên Chúa Cha  tuyên bố công nhận con người được Thần Khí hiện xuống  với, chính là Con của Thiên Chúa (Mt 3,17, và các  đoạn song song); Gioan Tẩy Giả đã nhận ra Đức Giêsu  là Con Thiên Chúa, bởi vì Thần Khí đã lưu lại trên  Ngài (Ga 1,32-34). Dĩ nhiên là cũng nên nhắc tới  đám mây sáng chói đã “rợp bóng” trên Đức Giêsu  và hai vị tiên tri, Êlia và Môsê, đám mây mà  Kinh Thánh gọi là “vinh quang của Thiên Chúa.”  Từ trong đám mây, một tiếng nói đã vang lên, phán  rằng: “Ngài là Con chí ái của Ta” (Mt 17,5,  và các đoạn song song). Địa vị làm Con Thiên Chúa và  vinh quang thì không thể nào tách rời khỏi nhau  được; còn đám mây vinh quang thì thế tất làm cho liên  tưởng tới Thánh Linh. Các đoạn trình thuật trên đây về  Truyền Tin, về phép rửa chịu từ tay Gioan Tẩy Giả,  và về biến cố biến hình trên núi, đều quy hướng về với  mầu nhiệm Vượt Qua mà chúng tiên báo: tức là mầu  nhiệm về sự việc Thiên Chúa Cha làm cho Đức Giêsu sống  lại trong Thánh Linh, đưa dẫn Ngài đạt tới niềm viên  mãn của địa vị làm Con.

Thế mới rõ là nếu cứ đứng ngoài vòng quan  hệ đối với Thánh Linh, thì không thể nào quan niệm nổi  về bản chất làm Con Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Hệt  như mối tương quan với Thiên Chúa Cha, bản chất ấy là  cốt tủy đối với con người Ngài, bởi vì, Đức  Giêsu là Con Thiên Chúa trong Thần Khí. Và chính vì  là Con, nên Đức Giêsu mới là Chúa Tể-Mêsia. Vì vậy,  câu hỏi sau đây đã được đặt ra: Thần Trí liên hệ  như thế nào với bản chất làm Con Thiên Chúa trong  Đức Kitô?

III. Thánh Linh Trong Quan Hệ Với Con Thiên Chúa

Do bởi liên hệ với Ngôi Cha trong tư cách là Cha và  với Ngôi Con trong tư cách là Con, Thần Khí hằng mang tính  chất cá biệt đặc trưng thế nào, thì trong địa vị làm  Con Thiên Chúa, Đức Kitô cũng mang ấn tín của Thần  Khí như vậy.

1. Thần Khí của tính chất làm Cha và  của tính chất làm Con

Trong “sách ghi lại nguồn gốc của Đức Giêsu Kitô”  theo thánh Mátthêu (1,1), vai trò của các người  cha trong chuỗi gia phả được diễn tả bằng động  từ “sinh hạ/sinh ra”; còn vai trò của  các bà mẹ thì được biểu đạt bằng kết từ (giới từ)  “bởi”(ek ):

Giuđa sinh Pharê và Dara bởi Thamar...

Sanmôn sinh Booz bởi Rahab;

Booz sinh Giôbed bởi Ruth...

Đavít sinh Xalômôn bởi vợ của Uria...

Bởi Maria, Đức Giêsu đã được (Thiên Chúa) sinh  ra.

Trong khi đó, vai trò của Thần Khí trong việc sinh hạ  Đức Giêsu, đã được nói lên hai lần với cùng một  kết từ “ bởi ” (Mt 1,18.20).

Luca 1,35 ghi là: “Thánh Linh sẽ đến trên bà...  Vì thế , trẻ sắp sinh sẽ là thánh, sẽ  được gọi là Con Thiên Chúa.” Vai trò của Thần  Khí không phải là vai trò của một người  nam đối với bạn đời của mình: cũng như Mátthêu,  Luca cho thấy là con trẻ đã được chính Thiên Chúa  sinh hạ, và sẽ được gọi là Con Thiên Chúa, chứ  không phải là Con của Thần Khí. Thần Khí và  Đức Maria đóng giữ cùng một vai trò trong cùng  một công trình hiệp lực tuyệt hảo: một bên là theo  cách thức thiên giới, còn bên kia thì theo cách thức nhân  thế. Qua cách thức ấy, một con người đã sinh  ra, và người đó chính là Con của Thiên Chúa ,  vì lẽ Thiên Chúa đã sinh hạ con người ấy ra từ  bởi Thần Khí và bởi lòng dạ của Đức Maria.

Có người sẽ bảo: cần chi phải dồn dập chất  đống những khối ý nghĩa thần học nặng trĩu lên trên những  đoạn trình thuật hết sức đơn giản như thế! Có thể là  đúng thế. Tuy nhiên, các văn đoạn ấy chiếu phóng ra cho thấy  trước, cho thấy ánh sáng sẽ bừng lên từ mầu nhiệm  Vượt Qua, là một mầu nhiệm hàm súc những ý nghĩa  phong phú bất tận. Biến cố Đức Giêsu sống lại, cho thấy  rằng: Thiên Chúa là Cha; Đức Kitô được sinh ra trong niềm  viên mãn của địa vị làm Con; và chính trong Thánh  Linh, Thiên Chúa đã dùng quyền năng (2Cr 13,4) --  tức là Thần Khí -- cùng vinh quang của mình (Rm  6,4) -- cũng lại là Thần Khí -- mà làm  cho Đức Giêsu sống lại. Thần Khí là tựa như “lòng  dạ” (ai mà lại không cần dùng đến hình ảnh  để diễn đạt cho rõ ràng?), trong đó, Thiên Chúa  Cha đã làm cho Đức Giêsu sống lại, tức là trong  đó, Ngài đã sinh hạ Con của mình ra.

Vậy, mầu nhiệm Vượt Qua là mầu nhiệm đời đời  muôn thuở, nhưng đã được tháp nhập vào trong nội  cục của công trình tạo dựng, được mạc khải và  đồng thời đã được thực hiện ra ở giữa thế  giới loài người. Tự hậu, con người được biết rằng  Thiên Chúa là Cha, đã theo một cách thức vô tận,  sinh ra trong quyền lực của Thánh Linh, một Người Con  vô biên. Tựa như mặt gương sáng, biến cố Phục Sinh phản  ánh tỏ mầu nhiệm về Thiên Chúa ra trước mắt loài  người. [15]

Kể từ đó, Thiên Chúa mới được nhận biết là Cha của  Con Một; và các môn đồ mới bắt đầu tán dương rằng: “Chúc  tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”  (2Cr 1,3). Họ dành danh xưng Thiên Chúa để chỉ về Đấng  mà thần học sẽ gọi là Ngôi Nhất trong Thiên Chúa  Ba Ngôi (xem 1Cr 8,6)  [16] là Ngôi Vị mà bản  thể nhiệm mầu đặc trưng tiềm ẩn ở trong sự việc sinh  hạ Ngôi Con ra. Trong tư thế là Ngôi Cha, Ngài không  có sinh hoạt nào khác ngoài hành động sinh hạ  Ngôi Con (các hoạt động trong công cuộc tạo dựng là thuộc  lãnh vực của mối quan hệ giữa Ngôi Cha và  Ngôi Con). Thực thế, trong cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu,  bản chất làm Cha trong Thiên Chúa đã tự hiện thực  hóa và biểu hiện ra trong Thánh Linh. Chính ở trong  Thần Khí, Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô sống lại  (Rm 8,11), “đúng như lời đã viết trong thánh vịnh  thứ hai: Ngươi là Con Ta; hôm nay, Ta đã sinh ra ngươi”  (Cv 13,33).

Vì mầu nhiệm Vượt Qua là cánh cửa mở ra cho thấy  mầu nhiệm có từ đời đời trong Thiên Chúa, thế  nên, thần học có quyền căn cứ vào đó mà kết luận  rằng trong mầu nhiệm về Ngôi Cha sinh hạ, và Ngôi Con  được sinh ra, Thần Khí là quyền lực sinh hạ trong Thiên  Chúa. Ngài là Thần Khí của Ngôi Cha trong tư thế  làm Cha, và là Thần Khí của Ngôi Con trong địa  vị làm Con. Trong Ngài, được biểu đạt ra “những  gì (nơi Ngôi Cha) là chính Ngôi Cha nhất, [17] và đối với Ngôi Con, thì Thần Khí  cũng giữ một vai trò y hệt như thế.

Quyền lực của Thiên Chúa Cha là một tình yêu vô biên.  Là quyền lực ấy, nên Thần Khí chính là tình yêu (xem  Rm 5,5). Ngài là sức mạnh của khai mở (ouverture),  của lưu toả (effusion) chính mình.  [18] Yêu thương vô hạn, Ngôi Cha sống trong thể trạng  xuất thần chính mình trong Con của mình.  [19] Ngài sinh ra bằng con đường yêu thương:  “Ngôi Lời phát sinh từ con tim của Thiên Chúa  Cha”. [20] Do đó, thánh Âugutinô đã có thể viết  rằng: “Thế là có Ba Vị: Đấng yêu thương, Đấng được  yêu thương và Đấng là tình yêu”. [21] Chính trong Thần  Khí tình yêu ấy, Ngôi Cha (hiện hữu theo bản chất đặc  thù) là Ngôi Cha, và Ngôi Con (hiện hữu theo  bản chất đặc thù) là Ngôi Con.

Tuy có tùy theo mức độ riêng của mỗi cá nhân,  thì cũng vẫn giống như Đức Giêsu trong cuộc Vượt Qua  của Ngài, các tín hữu kitô tựa như mặt gương sáng,  phản ánh rạng ngời mầu nhiệm có từ đời đời  trong Thiên Chúa. Là Con Một, nhưng Đức Kitô lại có đông  đảo anh chị em (xem Rm 8,29) mà Thiên Chúa đã ôm  trọn vào trong cuộc sinh hạ duy nhất, bằng cách làm  cho họ được trỗi dậy trong “quyền năng sống lại của  Ngài ” (Pl 3,10). Thiên Chúa làm cho họ được sinh  ra trong cuộc sống làm con (xem 1Pr 1,3), không phải  bằng cách mãi mãi tái diễn hành động truyền  sức sống lại, nhưng là bằng cách làm cho họ “cùng  sống lại với” Đức Kitô (Cl 2,12), “cùng hồi sinh  với” Ngài (Ep 2,5...), và giữ vững họ lại  ở trong quyền năng của Thần Trí; chính trong cùng  một Thần Trí ấy, Đức Kitô đã sống lại. Trong Thần Trí,  các tín hữu kitô được “nghĩa tử hóa”: “Những  ai được Thần Khí Thiên Chúa ban sinh khí cho, thì đều là  con cái của Thiên Chúa” (Rm 8,14); chính nhờ Ngài  mà họ được thuộc về Đức Kitô (Rm 8,9), để cùng với  Đức Kitô, họ làm nên một thân thể trong Thần Khí duy  nhất (1Cr 12,13.27). Họ sinh ra từ Thiên Chúa “bởi  nước và Thần Khí” (Ga 3,5; Tt 3,5): nước là biểu  tượng của nữ và mẫu tính, cũng như tượng  trưng cho Thánh Linh. [22] . Đối với các tín hữu kitô cũng như đối với  Đức Kitô, Thần Khí là sức mạnh của Thiên Chúa  Cha: bởi sức mạnh ấy, Ngôi Cha sinh hạ ; và có thể  ví Thần Khí như là lòng dạ từ đó con cái Thiên  Chúa được sinh ra. Và như thế, Giáo Hội sum họp trong Thiên  Chúa Ba Ngôi, sẽ giúp cho thấy rõ hơn về mầu nhiệm  cao cả này. [23] .

Vậy, không thể quan niệm về mầu nhiệm Ba Ngôi theo một lược  đồ song cực được, tức là quan niệm rằng một đàng,  Ngôi Cha sinh hạ Ngôi Con, còn đàng kia, thì nhiệm xuy  nên Thần Khí. Nếu thế, thì hoặc là Thiên Chúa sẽ  cùng lúc là Cha cả của Ngôi Con lẫn của  Thần Khí -- bởi lẽ theo bản chất cá thể đặc  trưng của mình, Ngôi Nhất là Cha, là Thiên Chúa  trong cương vị đặc thù làm Cha -- : điều đó đi ngược  hẳn lại với chân lý đức tin về Con Một ; hoặc là  Thiên Chúa sẽ là Cha trong hành động sinh hạ Ngôi  Con, và sẽ không phải là Cha trong hành  động nhiệm xuy nên Thần Khí -- cho dù theo bản chất  đặc trưng của mình, Ngôi Cha vẫn là Cha -- : nhưng,  suy luận như vậy là tương phản, là tự lao mình vào  ngõ cụt phi lý. Đà sinh động trong Thiên Chúa Ba Ngôi  đi từ Ngôi Cha đến Ngôi Con, và đà sinh động ấy  chính là Thần Khí. Ngôi Cha sinh hạ Ngôi Con trong Thần  Khí; Thần Khí nhiệm xuất từ Ngôi Cha trong tư thế là  Cha, mà vẫn không phải là Con: vì Ngài là  quyền lực trong đó Ngôi Cha sinh hạ.

 Suốt dòng lịch sử, Thần Trí đã luôn luôn biểu  hiện như thế: như là hành động, như là quyền lực  hằng hoạt động. Ngài không phải là chủ thể,  và cũng chẳng phải là kết quả của  hành động; không phải là chủ thể phát ngôn,  và cũng chẳng phải là Lời nói ra: Ngài  là hơi thở/hơi thổi (xuy phất: souffle ) mang Lời  phát ra; Ngài là tiếng, là giọng qua đó, Lời  biểu đạt chính mình ra. Ngôi Cha mạc khải, và Ngôi  Con là hình ảnh được mạc khải ra của Ngôi Cha  (2Cr 3,18; Cl 1,15); còn Thần Khí là hành động mạc  khải (xem Ga 16,13). Thần Trí không phải là Đấng  làm cho vinh hiển, và cũng khộng phải là  Đấng được vinh hiển; Ngài là niềm vinh hiển trong đó,  Đức Giêsu đã được sống lại.  [24] Ngài không phải  là Đấng xức dầu, cũng chẳng phải là Đấng  được xức dầu; nhưng là hành động xức dầu. [25] Thiên Chúa là thánh,  Ngôi Con là thánh, và các tín hữu là thánh  trong Đức Kitô; còn Thần Khí là hành động thánh  hóa các tín hữu. Thiên Chúa “công chính hóa” Đức  Kitô bằng cách làm cho Người sống lại (1Tm 3,16), và  làm cho Người sống lại “nhằm công chính hóa chúng  ta” (Rm 4,25); còn Thần Khí chính là niềm công chính  đầy sức năng công chính hóa. Theo Kinh Thánh, kinh nguyện không  trực tiếp ngỏ lời lên cùng Thần Khí, bởi chính  Ngài là tiếng kêu lên của kinh nguyện (Rm 8,15;  Gl 4,6), là tiếng rên rỉ khôn tả. Ngôi Cha là Đấng  yêu thương, Ngôi Con là Đấng được yêu thương, và Thần  Khí là tình yêu (xem Rm 5,5). Luôn luôn Thần Khí được miêu  tả bằng những từ ngữ biểu thị hành động,  sức năng động. Mà sức năng động chủ yếu của  Ngôi Cha là sinh hạ: Ngài sinh hạ bằng cách yêu thương,  và sinh hạ ra trong tình yêu là Thần Trí.[26]

Vậy, thiết tưởng cũng có thể uốn nắn lại cách thánh  Âugu-tinô diễn đạt, mà chúng tôi vừa trưng  dẫn trước đây, để nói rằng: “Thế là có Ba Vị:  Đấng Sinh Thành, Đấng Phát Sinh, Công Tác Sinh Hạ.”  Thần Khí là sức mạnh, trong đó Ngôi Cha (hiện hữu  theo bản chất đặc thù) là Ngôi Cha, và Ngôi  Con (hiện hữu theo bản chất đặc thù) là Ngôi  Con. Thần Khí chẳng những là “người bạn keo  sơn” của Ngôi Con không thôi, mà còn là  Đấng ở trong chính nội cục của mầu nhiệm về Ngôi  Con nữa, giống hệt như đối với mầu nhiệm về Ngôi Cha  vậy. Ngài là con tim của Ngôi Cha và của  Ngôi Con.[27]

Trong Thần Khí ấy, Cha là Ngôi sinh hạ, Con là Ngôi  làm con: Thần Khí luôn đóng giữ vai trò ngôi vị  hóa (personnali-sant).Ngay từ đầu, Ngài đã  đóng giữ vai trò ấy trong công trình tạo dựng, và  đã từ từ đưa nó lên đến tột đỉnh của công  trình ấy, tức là ngôi vị con người, là nhân vị.  Và cũng chính ở trong Ngài, nhân tính nơi Đức  Giêsu đã được nâng lên đến mức thần linh do sự việc  được ngôi vị hóa qua Ngôi Con.

Cách quan niệm như thế có thể làm dấy lên những nghi  vấn nhiều loại. Trước hết, thứ tự (taxis) trong Ba Ngôi  có vẻ như bị rối loạn đi: Thần Khí đã không được đem  đặt chắn ngang ở giữa Ngôi Cha sinh hạ và Ngôi  Con phát sinh đó sao? Thần Khí cũng được đem đặt ngay ở  đầu, vì chủ trương cho rằng Ngôi Cha sinh hạ trong Thần  Khí!

Đây là câu trả lời cho vấn nạn đó: cũng không  nên coi Thần Khí là Ngôi Vị cuối cùng, làm như  Ngài là Kẻ đến sau, làm như Ngài chẳng  khác chi là ngõ cụt trong đà sinh động nơi Thiên  Chúa Ba Ngôi. Ngài không phải là Ngôi Vị “cằn  cỗi”; trong khi đó, Ngôi Cha sinh ra Ngôi Con, và  Ngôi Cha cùng Ngôi Con nhiệm xuy ra Thần Khí. [28] Đã đành,  Thần Khí không phải là ban sơ: danh dự này thuộc  về Ngôi Cha; tuy nhiên, Thần Khí cũng chẳng phải là  chung cục của đà sinh động trong Thiên Chúa, vì trong  đà sinh động ấy, Ngôi Cha hướng về với Ngôi Con: cả   ở nơi bước đầu lẫn ở nơi điểm kết, đều  có mặt Thần Khí, bởi lẽ chính ở trong Ngài,  Ngôi Cha sinh hạ, và Ngôi Con được sinh ra. Không Ngôi  Vị nào khác phát xuất từ Ngài, nhưng, chẳng những  không son sẻ, Ngài chính là sức năng sinh sản  trong Thiên Chúa. Ngôi Cha và Ngôi Con dù là một,  thì cũng vẫn diện đối diện nhau trong một tư thế khác  biệt vô biên (altérité infinie ): một bên là Cha  vô biên, và bên kia là Con, là Đấng thu nhận chính  bản thể của mình một cách vô biên; Còn Thần Khí  thì không đứng ở tư thế diện đối diện với Ngôi Cha, hay  là với Ngôi Con như thế: Ngài là ở chính  trong nội giới của Hai Vị , là Thần Khí của bản  chất làm Cha của Ngôi Cha, và là Thần Khí của  bản chất làm Con của Ngôi Con.

Trong thứ tự xướng danh Ba Vị, Thần Khí thường được đặt  sau hai Ngôi Cha và Con. Cũng có thể nói đến Ngôi  Cha và Ngôi Con mà không nêu danh Thần Khí, như Kinh  Thánh thường làm. Bởi vì, Ngài không phải  là Đấng yêu thương, cũng chẳng phải là Đấng  được yêu thương; không phải là Đấng Sinh Thành,  cũng chẳng phải là Đấng Phát Sinh: Ngài là  tình yêu, là sức năng sinh sản. Ngài cũng được  miêu tả như là lòng khiêm hạ của Thiên Chúa, [29] và được hiểu như là Đấng  hằng sẵn sàng phục vụ Ngôi Cha và Ngôi Con. Vì vậy,  trong thứ tự xướng danh, Ngài đứng ở hàng ba, ở  hàng sau cùng: bản chất làm Cha của Ngôi  Cha quy hướng trọn về với Ngôi Con, trong Thánh Linh.

Ngoài ra, không phải là Kinh Thánh (xem Kh 1,4...)  cũng như Thánh Truyền đã không biết tới đồ hình Cha-Thần  Khí-Con.  [30] Có một hình thái thần học mà tôi xin tạm gọi là  thần học tranh ảnh, đọc thấy ở trong trình thuật về  cuộc Đức Giêsu chịu phép rửa và trong những ảnh  tượng; trong đó, Thần Khí được minh họa như là xuất phát  từ Thiên Chúa Cha và lưu lại ở trên Ngôi  Con. Phụng vụ, đặc biệt là phụng vụ nghi thức Hy Lạp,  cho thấy là có nền tảng rất vững chắc khi ca ngợi  Chúa Cha và Chúa Con trong Thần Khí. Khi chúng ta  làm dấu thánh giá, động tác đi từ Ngôi Cha đến Ngôi  Con, còn Thần Khí thì được biểu thị bằng đường đi ngang  qua đường dọc chạy từ Ngôi Cha đến Ngôi Con. Thứ tự (taxis) không đồng nghĩa với loạt nối tiếp. Trọng yếu hơn   taxis ,còn có perikhoresis (tính chất  ở trong nhau/tương tại tính), theo đó, những gì có ở  chung cục thì cũng có ở ban sơ và trong khắp tiến  trình. Chính vì thế mà Thần Khí cùng hiện hữu từ  đời đời và ngang hàng với Ngôi Cha cũng  như với Ngôi Con; bởi lẽ, Ngôi Nhất có là Cha,  thì cũng chỉ là Cha ở trong Thần Khí, và cũng thế, Ngôi Hai có là Con, thì cũng chỉ là Con ở  trong Thần Khí.

Cũng còn có thể hỏi vặn lại như thế này:  lối nhìn trên đây áp dụng khái niệm ngôi vị cho Thần Khí,  theo một cách thức khác với trường hợp của Ngôi Cha  và Ngôi Con. Chính thế, khái niệm ngôi vị được áp dụng  cho Thần Khí theo một cách thức khác, bởi vì, mỗi một  Ngôi trong Ba Vị là ngôi vị theo một cách riêng biệt, đặc  thù: Ngôi Cha là ngôi vị sinh hạ; Ngôi Con là ngôi  vị làm Con, có sức năng thu nhận vô cùng; Thần Khí  là ngôi vị-sức năng sinh hạ, ngôi vị-tình yêu. Trong Thiên  Chúa, mỗi Ngôi mang một tính chất đặc thù, vô cùng  khác biệt so với hai Ngôi kia; và chính ở trong niềm  khác biệt vô biên ấy, Ba Ngôi là Một. Làm sao có  thể quan niệm về một mối hiệp nhất tuyệt đối được, nếu  mỗi Ngôi chỉ là ngôi vị theo một cách thức giống hệt  nhau?

Có lẽ có người lại vặn hỏi rằng: chính khái niệm  về ngôi vị đã không được tôn trọng đối với trường  hợp của Thánh Linh. Mọi ngôi vị đều mang một diện mạo:  chính từ Hy Lạp prosopon cũng hàm súc ý nghĩa  đó; vậy, nói rằng Thần Khí là hành động, là tình  yêu, là công tác sinh hạ, tức là không để cho Thần  Khí có được một diện mạo nào cả. Chính thế, trong  Kinh Thánh, Thần Khí “đã không mang một diện mạo nào  cả; ngay đến danh xưng, Thần Khí cũng chẳng có một  danh xưng nào khả dĩ gợi lên được một diện mạo nhân  dạng”.[31] . Ngài không phải  là Đấng phát ngôn, cũng chẳng phải là Lời,  nhưng là “Hơi thở/Xuy phất,” là điều không  nói ra, là những gì khôn tả: là những gì  làm nên mầu nhiệm trong Thiên Chúa; nhưng đồng thời  cũng chính Ngài là Đấng mà qua đó, Thiên Chúa  tự mạc khải mình ra. Ngôi Cha là diện mạo mà phản  ánh là chính Ngôi Con (Dt 1,3), nhưng những đặc nét  của hai Ngôi Cha và Con lại được hiện rõ lên ở  trong Thần Khí.

Người ta cũng sẽ hỏi rằng: một ngôi vị thì  luôn ở vị thế đối diện với một tha vị, trong quan hệ với  một đối cực. Vậy, nếu chủ trương theo cách thức trên  đây, thì Thần Khí không thể là một ngôi vị thuộc nội  giới của mầu nhiệm Ngôi Cha và Ngôi Con được. Nhưng,  dù Kinh Thánh không bao giờ đặt Thần Khí ở trong  vị thế đối diện với Ngôi Cha và Ngôi Con, và cũng  chẳng bao giờ vén mở cho thấy Ngài như là chính  nội giới của hai Ngôi ấy, thì thử hỏi thần học  chẳng có bổn phận phải nhận rằng tuy ở trong nội  giới của hai Ngôi kia, Thần Khí vẫn có thể là  một ngôi vị thứ ba: ngôi vị liên kết hai Ngôi Vị ấy ngay tại  trong những gì làm cho hai Ngôi này ở vào  hai đối cực khác nhau, hay sao? Không gì bí nhiệm cho bằng Thần  Khí của Thiên Chúa!

Tóm lại: nếu đúng Thần Khí chính là hiện thân của  quyền lực trong đó, Ngôi Cha sinh hạ, và của tình yêu  qua đó, Thiên Chúa xuất phát ra khỏi chính mình trong Con  của mình, thì ắt từ đó phải suy ra rằng Thần Khí  có một mối quan hệ toàn diện với Ngôi Cha trong bản  chất đặc thù làm Cha, và với Ngôi Con trong bản  chất đặc thù làm Con. [32]

2. Thần Khí và thiên tính của Đức Giêsu,  Con Thiên Chúa

”Thần Khí sẽ ngự xuống trên bà... Chính vì thế  mà con trẻ sinh ra bởi bà sẽ là thánh,  được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Thiên Chúa là  Thánh (1Sm 2,2); Is 6,3; 57,15; Tv 99,3.5). Đức Giêsu là “Đấng  Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24; Cv 3,14; Kh 3,7): “Chúng  tôi đã tin và nhận biết chính Ngài là Đấng  Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,69). Có lẽ danh tước  ấy là biểu thức cố cựu nhất nói lên niềm tin vào  thiên tính của Đức Giêsu; nó có liên hệ về ý nghĩa với  danh tước Con Thiên Chúa. [33] Theo Luca  1,35, cả hai danh tước ấy đều là danh tước riêng của  Đức Giêsu, vì lẽ Thánh Linh đã ngự xuống trên Đức  Maria. Đức Kitô là thánh bởi đã được Thần Khí  xức dầu: “Người Tôi Tớ thánh mà Ngài đã  xức dầu” (Cv 4,27), mà Ngài đã “xức dầu  bằng Thánh Linh” (Cv 10,38).

Để nói về thiên tính của Đức Giêsu, thần học thường  dùng khái niệm bản tính Thiên Chúa , được coi  như là một thứ khí cụ không thể thiếu được. Kinh Thánh  cũng cho phép và hợp thức hóa lối dùng từ  như thế, dù không đích thân dùng tới từ ngữ  ấy trong văn bản của mình. [34] Nhưng Kinh Thánh thừa nhận những gì thần  học nói về bản tính Thiên Chúa, và thừa nhận  với một danh nghĩa đặc biệt: với danh nghĩa của Thánh Linh,  là sự thánh thiện của chính Thiên Chúa.

Thiên Chúa thánh thiện ngự trên cõi trời cao: “Đây  là lời của Đấng cao vời thăm thẳm, Đấng ngự  trị muôn đời, Danh Người là thánh: ÀTa ngự cao vời  chí thánh'“ (Is 57,15). Thần Khí là thể cách biểu đạt  của tính chất siêu việt ấy. Để biểu hiện chính mình ra,  Ngài đã ngự xuống: Ngài đã đến trên các anh  hùng dân tộc Ítraen (Tl 3,10; 11,29; 14,6.9...), trên  Sa-un (1Sm 10,6), trên Đavít (1Sm 16,13), và từ đó về  sau sẽ lưu lại trên vị vua này (Is 11,2). Ngài “ngự  xuống trên” Đức Maria (Lc 1,35), trên Đức Giêsu (Mc 1,10,  và các câu song song). Đức Giêsu cần phải đi lên (cùng  Cha) ngõ hầu ban Thánh Linh xuống (Ga 16,7; 15,26). Thần  Khí được gửi từ trên cao xuống (Lc 24,49; 1Pr 1,12) và  đã ngự xuống trên các Tông đồ (Cv 1,8) “như thể tiếng  gió cuồng phong từ trời thổi đến” (Cv 2,2). Sinh  ra từ Thần Khí là sinh ra từ trên cao, và là  trở thành phần tử của Nước Trời (Ga 3,5)  theo cách thể của Đức Giêsu là Đấng thuộc thượng  giới (Ga 8,23). Thánh Linh và tất cả những gì là  “tinh thần” đều thuộc thiên giới.

Là thượng giới, Thần Khí ở thế đối lập với “xác  phàm.” Không hẳn là không có lý do -- tuy làm  thế là không đúng -- để thỉnh thoảng người ta  đồng nhất hóa nhị thức tinh thần và xác phàm với hai bản tính trong Đức Kitô, tức là thiên tính  và nhân tính ; như là khi giải thích đoạn Rm 1,3-4  chẳng hạn. [35] Xác phàm chỉ về hữu  thể thụ tạo xét theo tư thế tách rời ra khỏi mối  quan hệ đối với Thiên Chúa, và theo cương vị khép kín ở  trong vòng tự trị của riêng mình, ngụp lặn trong yếu  đuối và trong cả tội lỗi nữa. Đối lại với  thân phận phù du mong manh ấy, Thần Khí (và tất cả  những gì là “tinh thần”) biểu dương rõ quyền  lực và sự thánh thiện của mình. Ngài là thực  tại thiên giới: chân chính có một không hai, và duy nhất  sung mãn ý nghĩa. “Xác phàm thì chẳng ích gì,”  còn “những lời” của Đức Giêsu, tức  là các thực tại mà Ngài nói đến, “là  thần khí và là sự sống” (Ga 6,63). Các việc phụng  tự trần thế, nông cạn, sẽ nhường chỗ cho việc  phụng thờ “trong thần khí và sự thật,” bởi  vì “Thiên Chúa là thần khí” (Ga 4,24), là bản  thể siêu việt thần linh.

Thể đối ngẫu thánh Phaolô dùng để so sánh giữa  văn tự và thần khí là một thí dụ minh họa cụ thể  về thực trạng đối chọi giữa xác phàm và Thần  Khí (tinh thần). Người đọc Kinh Thánh với cặp mắt mờ  đục nhìn qua màn che, sẽ dừng lại ở nơi văn  tự, ở nơi những thực tại nông cạn mặt ngoài,  chóng tàn. Nhưng khi đã biết quay về với Chúa (Kitô),  thì màn che rơi xuống, người đọc sẽ nhận ra được  thần khí, chiều sâu vững chãi của lịch sử thánh,  “vì Chúa (Kitô) là thần khí”. [36]   Tiếp theo đó, tông đồ Phaolô đã lập luận dây chuyền,  bắt đầu từ Đức Kitô là thần khí, để đi tới cho đến  Thánh Linh: chiếc màn đã được vén lên, tầm nhìn được  tự do phóng rộng, vì “Thần Khí Chúa (Kitô) ở đâu,  thì tự do có ở đó” (2Cr 3,14-17). Do vậy, các từ  ngữ như: thần khí, thực tại vững chãi của lịch  sử, (tức là Đức Kitô) làm cho nghĩ ngay đến Thánh  Linh. Đức Kitô chính là thực tại sâu thẳm ấy, bởi  vì Ngài là “con người thuộc thiên giới,”  “thần khí tác sinh” (1Cr 15,45-47); trong Ngài, có  hiện diện niềm vinh quang rạng ngời của Thiên Chúa  (2Cr 3,18; 4,4-6), tức là Thánh Linh.

Theo Thư gửi tín hữu Côlôxê (1,19; 2,9), Thiên Chúa  làm cho “niềm viên mãn lưu ngụ trọn vẹn (ở  trong Đức Kitô) ”, “niềm viên mãn trọn vẹn của  thiên tính.” Có thể coi đó là cách chỉ về “bản  tính Thiên Chúa”; tuy nhiên, như bản dịch đại kết TOB  chú cước, niềm sung mãn (plérôma ) là một khái  niệm có liên hệ rất gần với khái niệm Pneuma (Thần  Khí).  [37]

Đối với Đức Giêsu, “con người theo xác phàm trước  kia, và nay toàn diện là Thiên Chúa”, [38] cuộc sống lại là một cuộc “thiên chúa hóa” toàn  diện. Từ nay, các tín hữu nhìn nhận Ngài là  “Chúa và là Thiên Chúa” của mình (xem Ga  20,28). Chính ở trong Thần Khí, Đức Đức Giêsu đã được  biến đổi -- “Ngài đã trở thành thần  khí tác sinh” (1Cr 15,45); và cũng chính Thần Khí  đã mạc khải Ngài ra trong thiên tính của Ngài.  Thần Khí là cách thể biểu đạt bản chất siêu việt  của Thiên Chúa. [39]

Thần học kể ra nhiều đặc tính của “bản tính Thiên  Chúa,” và coi chúng là chung của cả ba Ngôi.  Kinh Thánh cho thấy là các đặc tính cố hữu ấy của  Ngôi Cha và của Ngôi Con, thì cũng đều thuộc về  Thần Khí theo một danh nghĩa đặc biệt, đó là: chúng làm  như được ngôi vị hóa (hóa thành ngôi vị) ở trong Ngài. [40] 

Thiên Chúa là thánh , ba lần thánh; Thần Khí Thiên  Chúa là Thánh Linh; trong Ngài, sự thánh thiện của  mầu nhiệm Thiên Chúa chí thánh được biểu đạt ra. Ngài  được gọi “là sự thánh thiện đã hóa thành  ngôi vị”. [41]

Thiên Chúa là Đấng Quyền năng ; đó là Tên của  Ngài: “Đấng quyền năng đã làm cho tôi những  điều cao cả lạ lùng” (Lc 1,49); “Các ngươi sẽ  thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Quyền năng” (Mt  26,64). Không bao giờ Thần Khí được gọi là Đấng Quyền  năng, nhưng Ngài chính là quyền năng hiện thân của  Thiên Chúa Quyền năng, là hoạt động thần tính qua đó  Thiên Chúa thực hiện mọi công trình của mình.

Thiên Chúa là Đấng Hằng sống . Ngài nói: “Ta  hằng sống” (Tl 8,19; 1Sm 17,26.36; 1V 17,1; 2V 19,16; Ed đây  đó). Thần Khí là sự sống của Thiên Chúa hằng sống;  Ngài được gọi là “Thần Khí sự sống” (Rm 8,2).  Đức Kitô đã được tác sinh bởi Thần Khí (1Pr 3,18),  bởi quyền lực (2Cr 13,4) và vinh quang (Rm 6,4) của  Thần Khí. Nhờ bởi Thần Khí, Đức Kitô Phục Sinh cũng  đã trở thành “thần khí tác sinh” (Cr 15,45).  Các tín hữu sống và tiến bước trong Thần Khí (Gl 5,25).

Thiên Chúa là Đấng Vĩnh hằng (Vạn đại: St 21,33;  Đn 6,26; Rm 6,4), và chính “nhờ Thần Khí vĩnh hằng,”  mà Đức Kitô đã tự hiến thân mình dâng lên Thiên  Chúa Cha” (Dt 9,14).

Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4,8.16), Thần Khí cũng  thế: “Tình yêu Thiên Chúa đã được tuôn đổ xuống tâm  lòng chúng ta bởi Thần Khí từng được trao ban cho  chúng ta” (Rm 5,5). Theo một cách nói luôn luôn được Kinh  Thánh dùng tới, thì chính Thần Khí là Đấng đã được  “đổ xuống” (Ge 3,1-2; Is 32,15; 44,3; Dcr 12,10; Cv 2,18;  10,45; Tt 3,6); nhờ có tình yêu ấy hiện diện trong tâm  lòng, “lòng cậy trông sẽ không trở thành  tủi hổ” (Rm 5,5) cho chúng ta; và ấn tín Thần Khí  ghi sâu trong tâm lòng chúng ta chính là bảo chứng  của ơn cứu độ (Ep 1,13-14; 4,30). Còn nhiều đoạn khác  trong Kinh Thánh, tuy không nói rõ hẳn, nhưng cũng đều  gợi ý cho thấy tình yêu là một đặc tính cá thể của  Thần Khí: các cách nói: “trong Thần Khí” và “trong  tình yêu/lòng mến” có thể được dùng đổi lẫn  nhau;  [42] các tín hữu Côlôxê đã được ban khen  vì họ có “lòng mến trong Thần Khí” (1,8); lòng  mến ấy là hoa trái của Thần Khí (Gl 5,22); Thần Khí  là quyền lực của thông hiệp (2Cr 13,13) liên kết Giáo  Hội lại với Đức Kitô (Rm 8,9), để cùng với Ngài làm  nên một thân thể duy nhất (1Cr 12,13.27); mà trong ngôn  ngữ nhân loại, sức mạnh ấy được gọi là tình yêu.  Thần Khí thì chống lại xác phàm, hệt như tình yêu đối  ngược lại với hận thù (Gl 3,17-23). Đức Giêsu, chết cho  xác phàm yếu đuối (xem Rm 8,3), đã trở thành  “thần khí tác sinh” (1Cr 15,45), thành con người  được thần thiêng hóa, sống trong tình trạng tự hiến trọn  vẹn: Thần Khí là tình yêu; Ngài ban cho Đức Kitô được  trở thành tình yêu. [43]

Cuối cùng, Thiên Chúa là Một , là Duy  nhất . Việc phân biệt giữa các Ngôi Vị và bản  tính Thiên Chúa cho phép kết luận rằng Ngôi Cha và Ngôi  Con và Thần Khí là một do bởi bản chất duy  nhất của bản tính Ba Vị. Tuy nhiên, vì tính chất tam  thể giữa các Ngôi vị là thực tại huyền bí sâu thẳm  trong mầu nhiệm Thiên Chúa, cho nên bản chất duy nhất  của thiên tính cũng phải có nền tảng ngay ở  trong các Ngôi Vị. Không dùng đến từ ngữ “bản  tính Thiên Chúa/thiên tính,” Kinh Thánh chỉ nói đến “mối  thông hiệp của Thánh Linh” (2Cr 13,13); phụng vụ thì  chúc tụng Ngôi Cha và Ngôi Con “trong niềm hiệp nhất  với Thánh Linh”; [44] các Giáo phụ và các thần học gia ca ngợi Thần  Khí với tước hiệu là “mối giây hiệp nhất.” Trong  Đấng là Thần Khí chung của mình, Ngôi Cha và Ngôi  Con liên kết với nhau trong mối hiệp nhất đặc thù của  một ngôi vị duy nhất: mối hiệp nhất của Thần Khí, là  “một Ngôi Vị ở trong hai Ngôi Vị kia”. [45] . Mối kết liên nên một này là mối hiệp nhất  tuyệt đối, vì lẽ, ngôi vị thì bất khả phân liệt.

Các đặc tính ấy thuộc về Ngôi Cha cũng như Ngôi Con; [46] tuy nhiên, chúng được quy ủy cả cho Thần  Khí theo một danh nghĩa đặc biệt, và chúng nói lên bản  chất đặc trưng của Ngôi Vị Ngài. Đồng nhất hóa Thần  Khí với thực thể mà người ta gọi là bản tính  Thiên Chúa là một việc làm phản lý, bởi vì  theo định nghĩa, thiên tính thì phi ngôi vị (impersonnel).  Nhưng, việc các dữ liệu trên đây đồng quy về một mối,  cũng gợi ý cho hiểu rằng trong Thần Khí, những gì được  ngôi vị hóa cũng là những gì mà thần học quy  về cho bản tính Thiên Chúa. Vì vậy, không lạ gì thánh  Âugutinô đã tỏ ra có nhiều thiện cảm đối  với một ý tưởng do các tư tưởng gia thời ngài  đưa ra như thế này: “Một vài người đã có  can đảm nghĩ rằng mối hiệp thông giữa Ngôi Cha và  Ngôi Con, mà các tác giả Hy Lạp gọi là Theotês ,  là chính Thần Khí...: Vậy, họ chủ trương rằng thiên  tính ấy -- thiên tính mà họ cũng muốn hiểu đối  với tình yêu và tình mến hỗ tương giữa hai Ngôi  Cha và Con -- được gọi là Thần Khí”. [47]

Có một lãnh vực (lãnh vực cuộc sống các tín hữu)  trong đó, các Giáo phụ và thần học gia nhất trí với nhau  để nhận rằng được ban cho ân huệ lãnh nhận Thần Khí là  được thông dự vào thực thể họ gọi là bản tính  Thiên Chúa: “Làm thế nào để tạo vật của Thiên  Chúa được thông dự vào chính bản tính của Thiên  Chúa? Bằng cách lãnh nhận Thánh Linh.” “Họ thông  dự vào bản tính (Thiên Chúa của Đức Kitô) vì đã  nhận lãnh Thần Khí.” “Ngôi Lời...dẫn nhập  vào trong các thánh một hình thái quan hệ thân tộc đối  với bản tính của Người bằng cách ban Thần Khí cho  họ”. [48] Lời khẳng định ấy đã được nói lên trong  câu Ga 3,6, theo một cách diễn đạt có hơi khác: “Những  gì sinh bởi xác phàm là xác phàm, và những  gì sinh bởi Thần Khí là thần khí,” tức là mang  bản chất thiên giới, và thông dự vào bản  tính Thiên Chúa; đó là điều phù hợp với lời thánh  Phaolô phát biểu nói rằng: “Anh em không sống trong xác  phàm, mà là trong Thần Khí, nếu thực có Thần Khí  Thiên Chúa cư ngụ trong anh em” (Rm 8,9).

Trong những thế kỷ đầu, từng có một truyền thống  dựa trên cơ sở các chứng cứ vững chắc, đã song  song đối chiếu Thần Khí với thiên tính của Đức Giêsu:  “Thần Khí thường được quan niệm như là thực thể  vô hình, tiền hiện hữu, và một cách nào đó như  là phương diện thần linh trong Đức Kitô”. [49] Có một thời, người ta cũng đã  nói rằng: “Đối với Inhã (Ăntiôkia) cũng như  đối với các tác giả trong những thế kỷ đầu, pneuma (thần khí) trong Đức Kitô chỉ về bản tính Thiên Chúa của  Ngài”. [50] Thánh Irênê viết  rằng: “Ngài (Ngôi Con) đã hiện ra giữa dương  thế và đã sống giữa loài người, bằng cách  hòa nhập và nhào trộn Thần Khí Thiên Chúa Cha  với xác thể do Thiên Chúa nắn nên...”. [51] Cũng còn  nhiều chứng từ tương tự đọc thấy ở trong các bài  giảng về Phục sinh; thí dụ: “Nhờ máu đã đổ  ra, chúng ta được nhận Thánh Linh: bởi vì, máu và Thần  Khí đã được kết hợp với nhau ngõ hầu, nhờ máu  của bản tính chúng ta, chúng ta có thể nhận được Thần  Khí là Đấng trước đó, hằng xa lạ đối với chúng ta”. [52] Thánh Atanaxiô  hẳn đã lấy lại lối dùng ngôn ngữ như thế, khi  viết: “Vì thế, Ngôi Lời và Con của Thiên Chúa  Cha kết hợp với xác thể, đã trở thành xác thể,  con người toàn vẹn, để nhờ đó, những ai kết  hợp với Thần Khí thì cũng được trở thành thần  khí. Thiên Chúa đã hóa thành kẻ mang xác phàm (sarcophoros) để con người có thể trở thành người mang thần khí (pneumatophoros )”. [53]

Truyền thống ấy có thể được coi là đã đặt cơ sở  trên tính cách biểu trưng của máu và nước chảy  ra từ cạnh sườn Đức Giêsu trên thập giá. Đối với  phúc âm gia, biến cố ấy có một tầm hưởng trọng yếu  đến độ ngài đã cảm thấy cần phải nói lên  một lời long trọng đoan thệ nhằm xác minh về tính chất  trung thực của nó: “Người ấy (Đức Kitô) biết là  người viết nói thật để cả anh em nữa cũng  tin như thế” (Ga 19,34...), ngõ hầu anh em có được đức  tin. Thật thế, Phúc ân theo thánh Gioan đã được viết ra  “ngõ hầu anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô,  Con Thiên Chúa” (Ga 20,31).

Đức Giêsu là Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm  (Ga 1,14); máu xác minh cho bản chất thực sự nhân loại  của con người Đức Giêsu. Nhưng Ngài cũng là  một hữu thể thiên giới: “Ta thuộc thiên giới”  (Ga 8,23), nước xác minh cho điều ấy, vì nước là biểu tượng  của thế giới trên cao; bởi phép rửa, con người  được sinh ra từ trên cao (Ga 3,5); nước mà Đức Giêsu  trao ban, sẽ trào phún đến sự sống đời đời  thuộc thiên giới (Ga 4,14). Tuy nhiên, trong Kinh Thánh, nước  cũng là biểu trưng của Thần Khí Thiên Chúa: được  sinh ra từ trên cao là được cùng một trật sinh  ra từ Thần Khí, và nước tượng trưng cho Thần Khí (Ga  3,6; Tt 3,5). Đoạn Ga 7,37-39 cho thấy rằng nước hằng sống,  nước sẽ phún trào từ cung lòng Đức Kitô, đã  được hiểu là chính Thần Khí mà các tín hữu sẽ  lãnh nhận được, một khi Đức Giêsu đã được tôn vinh.  Và đây, Đức Giêsu đã được cất lên khỏi đất,  treo trên thập giá; đó là lúc, theo biểu trưng, Ngài  được tôn vinh trước tôn nhan Thiên Chúa: nước chảy ra  từ cạnh sườn, chỉ về Thần Khí sắp được ban ra, cũng  như chỉ về phương diện thiên giới của mầu nhiệm Đức Giêsu,  “ngõ hầu anh em tin.” Câu kết của đoạn trình  thuật tương ứng rất chỉnh với lời khẳng định ban đầu: “Chính  Ngài là Đấng thanh tẩy trong Thánh Linh ; còn  tôi, tôi đã xem thấy và xin đoan chứng rằng: chính  Ngài là Con Thiên Chúa ” (Ga 1,34).

Trong khi Phúc âm thứ tư đặc biệt nhấn mạnh đến thiên tính  của Đức Giêsu, thì Thư thứ nhất của cùng một tác  giả Gioan lại lưu tâm thật nhiều tới bản chất đích  thực nhân loại của Ngài (xem 1Ga 4,2): “Chính Ngài  là Đấng đã đến bởi nước và máu: Đức Giêsu  Kitô; không chỉ với nước mà thôi, nhưng là với nước  và máu” (1Ga 5,6). Nước và máu nói lên tính chất  đặc thù của sự việc Đức Giêsu đến trong thế gian,  và như thế cũng nói lên bản tính của con người  Ngài. Ngài không chỉ đến như một Đấng xuống từ  thiên giới mà thôi, nhưng còn đến ở trong thân  xác của một con người nữa. “Thần Khí chứng  giám về điều ấy, vì Thần Khí là sự thật” (1Ga 5,6).  Ngài làm chứng ở giữa lòng Giáo Hội (Ga  15,26) và giúp cho mọi người nhận ra rằng đó chính  là sự thật. Nhưng, theo Luật Môsê, cần phải có lời  khai ăn khớp nhau của hai hoặc ba nhân chứng thì mới đủ.  Vì vậy, tác giả Gioan đã xuất trình thêm hai nhân chứng  khác: “Vì có ba nhân chứng (về sự việc Đức Giêsu đến  bởi nước và máu): Thần Khí, nước và máu, và  cả ba đều nhất trí với nhau trong cùng một lời  chứng” (1Ga 5,8). Và lần này, nước và máu không  còn phải đơn thuần là những ẩn dụ nữa  -- những ẩn dụ gợi lên sự việc đến từ hai phía  đất và trời -- vì chỉ các thực tại mới có uy tín  để làm chứng: máu và nước đã lên tiếng khi tuôn  trào ra từ cạnh sườn của Đức Kitô, “ngõ  hầu anh em tin” vào Đức Kitô, là Đấng đã từng  đến bởi nước và máu.

Vậy, nước chảy ra từ cạnh sườn Đức Giêsu chỉ về  Thần Khí, là Đấng mà Ga 7,37-39 nói là sẽ phun  trào ra như nước, từ lòng Đức Kitô; nhưng nước  ấy cũng vén mở cho thấy phương diện thiên giới của  mầu nhiệm Đức Kitô. Thánh Linh và tính chất siêu việt  của Đức Giêsu đã được biểu đạt bởi cùng một  biểu tượng! [54]

Tuy nhiên, cũng đừng nên lẫn lộn. Một khi đã  xác định về sự việc Đức Giêsu đến bởi nước và máu,  như là Đấng vừa thuộc thiên giới vừa thuộc địa  giới, thì ngay sau đó, bức thư của Gioan cũng đã  viện dẫn chứng từ của Thánh Linh (1Ga 5,6-8). Như  vậy, Thánh Linh là khác với Đức Kitô xét theo phương diện  tính chất thiên giới. Thánh Phaolô cũng làm hệt như  thế: sau khi đã công bố “Chúa (Kitô) là thần khí,”  thánh nhân nhận định tiếp ngay là: “Ở đâu có  Thần Khí của Chúa (Kitô), thì ở đó có tự do” (2Cr  3,17). Ngôi Con xét về mặt thiên tính, và Thần Khí thì  không rời khỏi nhau được (bất khả phân ly), nhưng  vẫn là hoàn toàn khác biệt nhau.

Ngày nay, không còn có vấn đề trở lại đằng sau  với lối dùng ngôn ngữ thần học thời sơ khai, không  thể bỏ qua một bên được những giải thích chính  xác và rõ ràng về việc dành từ Pneuma để chỉ riêng về Ngôi Vị Thần Khí. Tuy nhiên, cũng nên  lưu ý tới sự kiện này là từ ấy đã từng  được dùng để chỉ về Thần Khí, cũng như về tính chất  thần linh của mầu nhiệm Đức Giêsu. Nếu từ ấy đã  được dùng như thế, thì chính là vì giữa hai Vị, hằng  có một mối tương quan mật thiết kết chặt.

Vậy, Kitô học có bổn phận phải chú trọng đến mối quan  hệ kia đối với Thánh Linh, cần phải coi đó là một  nhân tố cốt tủy trong mầu nhiệm Đức Giêsu. Chỉ cần lưu  ý đến sự kiện này không thôi, thì cũng đủ thấy  việc lưu tâm kia là điều tất yếu, đó là: mầu nhiệm  Đức Giêsu mang bản chất Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩa là  liên hệ đến cả Ngôi Cha lẫn Thần Khí. Đức Giêsu sống  trong một mối tương nhập tương tác lẫn (osmose /thấm  nhập vào nhau và có ảnh hưởng đối với nhau)  với Thần Khí, cũng như Ngài sống làm một với Thiên  Chúa Cha. Ngài là Con trong Thần Khí, và cũng  trong Thần Khí, Ngài là Thiên Chúa, vì Thần Khí là  sức năng sinh hạ trong Thiên Chúa, và tất cả những  gì lý trí con người có thể hiểu biết về bản tính Thiên  Chúa thì đều được ngôi vị hóa trong Thần Khí, thì đều là  chính Ngôi Vị Thần Khí. Được sinh hạ trong cung lòng Thần  Khí ấy, Ngôi Con được Ngôi Cha đem tất cả sự phong phú  vô biên của thiên tính mà bảo dưỡng cũng  tại trong cung lòng ấy. Có ở trong cung lòng ấy,  Đức Giêsu mới là Ngôi Con, mới là Thiên Chúa.

Đối với Đức Kitô, mối quan hệ với Thần Khí cốt tủy đến  độ có thể gọi Thần Khí là “Thần Khí của (Ngôi)  Con” (Gl 4,6), “Thần Khí của Chúa (Kitô)” (2Cr  3,17), “Thần Khí của Đức Kitô” (Rm 8,9), “Thần  Khí của Đức Giêsu Kitô” (Pl 1,19). Gọi như thế là  Phaolô muốn khẳng định về thiên tính của Đức Giêsu; nếu  không, thì sẽ hết sức tương phản, vì lẽ, cứ nói  Thần khí là của Đức Giêsu, mà lại không chịu tin  nhận Ngài có “niềm viên mãn trọn vẹn của  thiên tính ở trong Ngài” (Cl 2,9). Quả thế, Thần  Khí là niềm viên mãn trọn vẹn của thiên tính.  Nhưng trong Đức Kitô, niềm viên mãn ấy mang tính chất làm  Con trong Thần Khí: vì lẽ chính trong Thần Khí ấy, Đức Kitô  đã được sinh hạ.

Những gì vừa nhận định trên đây, có thể giúp soi sáng  để thấu hiểu thêm về chính Thiên Chúa. Nếu Thần Khí là  sức năng sinh hạ của Thiên Chúa, và nếu tất cả  những gì thần học nói về bản tính Thiên Chúa đều  được ngôi vị hóa, đều thuộc về Ngôi Vị Thần Khí, thì theo  bản thể, Thiên Chúa (chủ yếu) là Cha. Bản  thể của Ngài là thế, là ở trong việc sinh  hạ vô tận khai sinh ra Ngôi Con vô biên. Thần học gia Eckhart  đã nhận định rằng: “Khát vọng tuyệt đỉnh của Thiên  Chúa là sinh hạ”.[55] Không thể quan niệm mầu nhiệm Thiên  Chúa chỉ như là “một điều cao cả hơn tất cả  những gì con người có thể suy tưởng ra được”;  Thiên Chúa là Đấng tự trao ban chính mình, và đó chính  là hành động vĩ đại hơn tất cả những gì có  thể suy tưởng ra được. Ngài là Cha trong hành  động sinh hạ vô tận khai sinh ra Ngôi Con vô biên. Thiên tính  của Ngài là cốt tại ở nơi bản chất làm  Cha, hệt như thiên tính của Đức Kitô là cốt tại ở  nơi bản chất làm Con.

IV. Đức Kitô và Thần Khí Trong Công Trình Cứu Độ

Một mối thông hiệp mật thiết như thế với Thần Khí -- mối  thông hiệp đặc trưng của bản thể thần linh và  bản chất làm Con nơi Đức Kitô -- tất sẽ làm  cho tiên lượng được rằng công trình cứu độ dù chủ  yếu là thuộc về Đức Kitô, thì cũng đã được thực  hiện do một sự hợp lực chặt chẽ của cả hai Ngôi.

1. Thần học theo mô hình pháp lý, quan niện rằng nếu Đức  Kitô đã thủ đắc được ơn cứu độ cho loài người,  thì chính là nhờ Người đã dâng hiến các khổ  đau của mình để đền bù tội lỗi, chứ Thần Khí không  có can thiệp hay can dự gì vào đó cả. Nhưng, Đức Giêsu  không những đã thủ đắc ơn cứu độ cho chúng  ta mà thôi, Ngài còn “ trở thành ... chính sự cứu độ của chúng ta” (1Cr 1,30) nữa.  Không những Ngài đã chịu chết, mà Ngài  còn sống lại cho chúng ta nữa (xem 2Cr 5,15); một mình  cuộc tử nạn không thôi sẽ không có hiệu năng mang  lại ơn cứu độ: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại...thì  anh em vẫn còn ở trong tội lỗi của mình”  (1Cr 15,17). Cuộc tử nạn của Đức Giêsu chỉ có được  hiệu năng cứu độ khi được gắn chặt vào với cuộc sống  vinh quang: “Ta trao ban mạng sống của Ta, để rồi lấy  lại” (Ga 10,17). Thánh Âugutinô đã giải thích  về câu ấy như thế này: “Ta chết để mà sống lại”. [56] Đức Giêsu đã nguyện xin cho mình được vinh hiển, vì có  thế, Ngài mới có thể chu toàn sứ mạng “ban sự  sống cho mọi xác phàm” (xem Ga 17,1-3); “một khi  đã thành hoàn hảo (tôn vinh), thì Ngài trở  nên nguyên nhân cứu rỗi đời đời” (Dt 5,9).  Qua cuộc tử nạn để được tôn vinh nhằm mưu cầu vinh quang  cho mọi người, Ngài thật là Đấng Cứu độ của  toàn thể nhân loại: công cuộc cứu độ là mầu  nhiệm của cá nhânĐức Giêsu trong hành trình vượt  qua, đi từ thế gian này mà về với Thiên Chúa Cha.

Mà chính trong Thánh Linh, Đức Giêsu đã chết để đi  về cùng Thiên Chúa Cha, “đã hiến dâng mình trong  Thần Khí vĩnh cữu” (Dt 9,14); và cũng chính trong  Thần Khí ấy, Ngài đã được làm cho sống lại (Rm  8,11) nhờ bởi vinh quang Thiên Chúa Cha (Rm 6,4), tức  là Thần Khí, nhờ bởi quyền năng Thiên Chúa (2Cr  13,4), cũng lại là Thần Khí. Cuộc sống và cuộc  tử nạn của Đức Giêsu đều quy hướng trọn về với niềm  sống lại: “tất cả đều gia công để nhằm tới biến cố sống lại của Ngài,”[57] bởi vì “Ngài là Đấng được xức dầu bằng Thần  Khí và quyền năng” (xem Cv 10,38).

Công trình cứu độ là công trình của Ba Ngôi; trong  đó, mỗi Ngôi đóng giữ vai trò đặc thù của  mình. Ngôi Cha sinh hạ Ngôi Con ra trong thế gian, và đưa  dẫn Con mình đi qua sự sống và sự chết để đạt tới  tình trạng viên mãn của bản chất làm Con: “Ngài  đã làm cho Con mình sống lại, như đã viết trong  thánh vịnh thứ hai rằng: Ngươi là Con Ta, hôm nay Ta sinh  hạ ra Ngươi” (Cv 13,33). Vai trò của Đức Kitô là  làm Con, để sử dụng tự do con người của mình  mà ưng nhận Thiên Chúa làm Cha mình, và để nhờ  đó mà được Ngôi Cha đón nhận trọn vẹn: đó là điều  mà Kinh Thánh gọi là lòng vâng phục cho đến chết;  theo thánh Gioan, thì lòng vâng phục ấy là cách thức  biểu đạt bản chất làm Con của Đức Giêsu. Trong  cuộc tử nạn, Đức Giêsu đã đồng ý là không tiếp  tục sống (hiện hữu) nữa, nếu không phải là  nhờ bởi Cha mình; thực vậy, Ngài đã phó trọn  con người mình vào trong tay Cha mình, là Đấng đã  xác nhận rằng: “Ngươi là Con Ta, Ta sinh hạ ra Ngươi.”  Vai trò của Thần Khí là làm sức năng sinh hạ  của Thiên Chúa trong Ngôi Cha; và trong Ngôi Con, thì  làm “Thần Khí vĩnh hằng” trong đó, Đức Giêsu tự  hiến toàn thân cho Thiên Chúa Cha (Dt 9,14), cũng như  bởi đó, Ngôi Cha làm cho Đức Giêsu sống lại.

Đức Giêsu đã được Ngôi Cha sinh ra trong Thần Khí ngay từ  đầu (Lc 1,35), nhưng Ngài còn cần phải trở thành  thực thể trọn vẹn của con người mình trong quyền năng  của Thần Khí; cũng tương tự như trong trường hợp  của người kitô: suốt trong cả cuộc đời, người  kitô cần phải trở nên ngày càng đầy đủ  trọn vẹn hơn, những gì cấu thành bản chất của  mình ngay từ khi chịu phép thanh tẩy. Thật vậy, chính Thần  Khí, tác nhân của lịch sử thánh, [58] là sức năng động trong đà diễn  biến của tiến trình cứu độ. Hơn nữa, bước đường  tự hiện thực hóa của con người Đức Giêsu -- bước  đường đi ngang qua sự sống và sự chết như thế --  là một tiến trình ngôi vị hóa, trong đó, với tất cả  tự do của một con người dương thế, Đức Giêsu sẳn sàng  để cho mình được ngôi vị hóa toàn vẹn theo tư thế là  Con của Ngôi Cha, cho đến trạng thái viên mãn của  bản chất làm Con, tức là cho đến chết và sống  lại. Nhưng chính Thần Khí lại là nguyên lý của mọi  công trình ngôi vị hóa. [59] Trong Thiên Chúa, Thần Khí là thực thể trong  đó, Ngôi Cha hiện hữu theo ngôi vị làm Cha, và  Ngôi Con hiện hữu theo ngôi vị làm Con.

Không gì khác hơn là chính mầu nhiệm Đức Giêsu trong cương  vị làm Con, công cuộc cứu độ là công trình của  Ngôi Cha sinh hạ Ngôi Con ra trong thế gian, là công trình  của Ngôi Con ưng nhận Ngôi Cha làm Cha mình, và  là công trình được thực hiện do Thần Khí là sức năng sinh hạ trong Thiên Chúa.

2. Dù là thuộc riêng về Đức Kitô, mầu nhiệm ấy cũng  có hiệu năng mang ơn cứu độ đến cho toàn thể loài  người; bởi vì, ngay ở trong cách thức thực hiện  nó, Đức Kitô đã mở rộng mình ra và đã tự  trao ban chính mình cho hết cả thế giới loài người:  “Vì mọi người, Ngài đã chết và đã sống  lại” (2Cr 5,15) trong quyền năng của Thánh Linh.

Công thức “vì chúng ta” muốn nói rằng Đức Kitô đã  chết và đã sống lại nhằm mang lại ân huệ, nhằm mưu  ích cho chúng ta. Nhưng công thức ấy còn hàm súc những  ý nghĩa sâu rộng hơn nữa. Ý nghĩa của nó biểu  hiện rõ nhất là trong bối cảnh của việc lập  bí tích Thánh Thể: “Này là mình Ta, (sắp chịu hy  sinh) vì các ngươi” (1Cr 11,24). Để chỉ về sự việc mình sắp  chết, Đức Giêsu bẻ bánh ra và trao ban ; Ngài đã chịu hiến tế chính mình nhằm mưu ích cho loài  người, và trong cuộc hiến tế ấy, nhân loại đã  được đón nhận: “Bánh mà Ta sẽ cho, chính là  thịt Ta (hiến tế) vì sự sống thế gian” (Ga 6,51). Loài  người được nuôi dưỡng và sống mạnh nhờ chính  thịt ấy.

Được thực hiện qua cuộc tử nạn và phục sinh, nên  công trình cứu độ thuộc riêng về cá nhân Đức Kitô: chính  Ngài đã chết, và cuộc sinh ra trong thiên tính là  của riêng Ngài. Tuy nhiên, cũng như, nếu không  phải là một cuộc tiến vào trong vinh quang, thì  cuộc tử nạn sẽ không có ý nghĩa gì cho Ngài cả;  cũng thế, nếu trong công cuộc cứu độ được thực hiện  nơi con người Ngài, nghĩa là trong sự chết đưa tới  quang vinh, Đức Kitô đã không được trao ban cho chúng ta,  thì cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài sẽ  không có được một hiệu lực nào đối với chúng ta. “Vậy,  hãy cầm lấy mà ăn,” ngõ hầu các ngươi được  trở thành cùng một thân thể với Ta, qua việc chia  sẻ công ơn cứu độ đã được thực hiện trong Ta. Trong  cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài, Đức  Kitô là-vì-chúng-ta ; chính vì thế, Ngài thực sự  là ơn cứu độ của chúng ta: là Đấng đã chết  và đã sống lại vì chúng ta .

Tự bẩm sinh, Đức Giêsu là một con người vì người  khác, được dành, tự trong chính bản thân của mình,  để mưu cầu ơn cứu độ cho thế gian. Trong Ga 10,36, Ngài  tự giới thiệu mình là: “Người đã được Cha thánh  hiến và phái gửi đi .” Ngài là Người  Con đã được sinh ra trong thế gian và cho thế gian. Nhưng,  cần phải đi qua cuộc tử nạn đưa tới vinh quang, Ngài  mới toàn vẹn trở thành Người Con được phái  gửi đi, Đấng “tiền hiện hữu” ngay từ đầu.  Trước tiên, Ngài đã sống một cuộc sống “trong  xác phàm,” mang thân phận tôi đòi (xem Pl 2,7),  theo điều kiện giam hãm gò bó cố hữu của “xác  phàm”; Ngài đã làm người như mọi người,  sống giữa mọi người, tựa như một hạt giống (lúa mì)  đơn độc (xem Ga 12,24). Rồi Ngài đã chết và đã  sống lại theo bản chất trọn vẹn của địa vị làm  Con, trong niềm viên mãn của Thần Khí, và đã  đi qua một trạng thái triển dương vô biên, theo kích thước  của Thần Khí. Từ nay, Ngài được mệnh danh Là  vì ơn cứu độ của thế gian này , và đã trở  thành Chúa của vũ trụ (Pl 2,9-11), Đấng hướng-hiện  hữu phổ quát (pro-existant universel ), Con Thiên Chúa  cho mọi người. [60]

Bởi vì, Thần Khí mà Đức Kitô nhận được tràn đầy,  là tình yêu, là tự hiến. Vì thế, đã từng được  sinh ra từ Thiên Chúa, trong Thần Khí ấy (Lc 1,35), đã  từng được hướng dẫn bởi Thần Khí (Lc 4,1.14.18),  và không mảy may khép kín vị kỷ, thì bây giờ  Đức Giêsu được biến đổi trong Thần Khí để “trở thành  thần khí tác sinh” (1Cr 15,45), trở thành một hữu  thể-cội nguồn có sức năng ban sự sống mà mình đang sống,  bằng cách tự trao hiến chính toàn thân mình. Trong Thần  Khí với sức năng khai phát vô biên ấy, Đức Kitô có đủ  năng lực để tiếp nhận người người hằng hà vào  tận trong cõi lòng sâu thẳm của con người mình.  Được chính Ngài tác động một cách “thần khí,” người  kitô cũng mở lòng ra để đón nhận Ngài vào  tận trong con người (cái Tôi/bản ngã) sâu kín của  mình, đến độ có thể xác quyết được rằng: “Đức Kitô đang  sống trong tôi” (Gl 2,20). Thần Khí, trong đó Ngôi Cha và  Ngôi Con làm một và hiện diện ở trong nhau, là  chính Đấng ban cho Đức Kitô và các kitô hữu thực hiện  được điều mà lòng mến của họ mong ước, đó là  tình đoàn kết trong cùng một mối hiện diện hỗ  tương ngay nơi tâm lòng mỗi người: “Trong ngày  ấy, các ngươi sẽ biết được là... các ngươi ở trong  Ta, và Ta ở trong các ngươi” (Ga 14,20; 17,23). Để  chỉ về cùng một thực tại ấy, Thánh Phaolô đã có  thể tự do dùng thay thế cho lẫn nhau, các công thức:  “Anh em ở trong Đức Kitô,” và “Đức Kitô  ở trong anh em.” “Trong một Thần Khí duy nhất,”  hết thảy các tín hữu cùng làm nên một thân  mình duy nhất với Đức Kitô (xem 1Cr 12,13, giống như Ngôi Cha  và Ngôi Con là một trong Thánh Linh.

Bằng cách thức ấy, ơn cứu độ lan rộng dần ra. Không phải  là bằng cách “áp dụng” công trạng, hoặc là  “phân phát” những ân huệ đã được thu tích,  mà là bằng cách nhờ vào Đấng Cứu Thế, là  Đấng đã trao tặng chính con người mình. Đức Kitô-thần  khí tự thông truyền chính mình, và thông truyền Thần Khí  lai láng ra, vì trong Thần Khí, chính Đức Kitô được thông truyền  ra. [61] Các tín hữu thuộc về cả hai Vị: thuộc về  Đức Kitô và đồng thời cũng thuộc về Thần Khí:  “Ai không có Thần Khí Đức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc  về Ngài” (Rm 8,9); và họ vừa được thần khí  hóa vừa được làm cho trở thành những người  con (Gl 4,4-6). “Trong Đức Kitô” và “trong Thần  Khí” là hai cách nói đi liền, không tách rời nhau,  tuy vẫn khác nhau và không thể thay thế cho nhau được,  vì Phaolô không mảy may đồng nhất hóa Đức Kitô vinh hiển  với Thần Khí. Còn các khí cụ của ơn cứu độ --như:  Giáo Hội, lời dạy các tông đồ, các bí tích... -- hết  thảy, chúng đều mang ấn tín của Đức Kitô và của  Thần Khí.

Đức Kitô tự trao hiến chính mình và đồng hóa loài  người với chính mình ngay trong cuộc tử nạn qua đó,  Ngài được tôn vinh, nghĩa là ngay trong tiến trình  thực hiện công cuộc cứu độ . Chính tại đó, ở trong  sự chết dẫn đưa tới quang vinh, Ngài đã cùng  một trật, được vĩnh cữu hóa (éternisé) và trao  hiến, trong niềm viên mãn của Thần Khí: trong niềm  viên mãn ấy, Ngài đã đi qua cảnh chết hướng  về với Thiên Chúa Cha, và đã sinh ra trong Ngôi Cha.  Còn các tín hữu kitô thì được cùng-chết-với và  cùng-sống-lại-với (Đức Kitô) (Rm 6,3-8; Ep 2,5-6; Cl 2,12)  “nhờ bởi quyền năng sống lại của Ngài ”  (Pl 3,10), tức là nhờ bởi Thần Khí.

Còn có một vấn nạn khác: làm sao con người có  thể thông hiệp với Đức Giêsu trong cảnh chết, để rồi  sinh ra cùng với Ngài được? Không gì khó có thể chia  sẻ được với người khác cho bằng sự chết. Tuy nhiên,  sự chết của Đức Giêsu chính là Đức Giêsu “được  hiến dâng trong Thần Khí vĩnh tồn” (Dt 9,16) (= cuộc Ngài  tự hiến thân mình trong Thánh Linh); chính là Người  Con đang quy hướng về với Cha mình trong quyền năng vô biên  của Thần Khí mình, để nên đơn thuần là một với Cha  mình. Thần Khí sự sống, Thần Khí quyền năng vô biên, Thần  Khí sức năng của việc sinh hạ hằng hữu: chính Thần  Khí ấy là Thần Khí của sự chết mà Đức Kitô đã  ưng nhận trải qua, là hành động Ngài chết-quy-về-với-Thiên  Chúa Cha . Trong Thần Khí sự chết của Ngài, Đức Giêsu  đã sinh ra giữa niềm viên mãn của bản chất  làm Con; Ngài là Chúa-Cứu Tinh của mọi người,  có sức năng ôm trọn vào trong hành động chết  toàn năng của mình, hết thảy mọi người mang  thân phận làm-người-phải-chết , để làm cho  họ được cùng với Ngài, sinh ra trong sự sống của  Thiên Chúa.

Như vậy, Đức Kitô và Thần Khí khắng khít kết hợp với  nhau trong tiến trình hoạt động không thể nào phân cách  được, nhằm mang ơn cứu độ đến cho nhân thế. [62] Mối liên kết trong hành  động như thế là hệ quả của mối thông hiệp đâm  rễ từ trong nội giới sâu thẳm của ngôi vị, trong  đó, Ngôi Con và Thần Khí kết hợp keo sơn với nhau và  không thể nào rời nhau được: không làm sao quan  niệm được về Ngôi Con và Thần Khí, mà không phải  nhận là có một mối tương quan cốt tủy giữa hai  Ngôi Vị.

Đức Giêsu là người mà Thiên Chúa Cha sinh hạ  trong quyền lực vĩnh cữu của sức năng sinh hạ là  chính Thần Khí, và được Cha Ngài đưa dẫn đi qua cuộc  sống dương thế và cuộc tử nạn, để đạt tới tình trạng  viên mãn của bản chất làm Con, cũng trong  chính quyền lực Thần Khí ấy, ngõ hầu mọi người trong  nhân loại được thông phần vào địa vị làm Con Thiên  Chúa của Người (Đức Giêsu). Nhận định như thế là  xác nhận thiên tính của Đức Giêsu và nhân tính của  Người, xác nhận thiên tính làm Con của Người  và mầu nhiệm cứu độ, là mầu nhiệm làm nên lý  do cốt tủy trong cuộc hiện hữu của bản thân  Người. Vậy thì, Kitô học cần phải nhận rằng Thần  Khí thông hiệp chính là nguyên lý của công tác tổng  hợp mà mình ra sức tiến hành.

Gầy dựng lên cho được một khoa Kitô học dựa theo Thánh Linh,  không phải là chuyện dễ. Vì trong đó, lý trí sẽ  thường xuyên đối đầu với những thách đố hằng hà,  bởi lẽ, chìa khóa mở đường dẫn lối cho  trí tuệ là Thần Khí; mà Thần Khí là môi trường  hiện hữu cho Đức Giêsu, để trong đó, Ngài có được  bản chất làm Con và làm Đấng Cứu Thế; và  hơn nữa, Thần Khí là mầu nhiệm sâu thẳm trong Thiên  Chúa. Như thế, làm công tác nói trên có nghĩa là  cố gắng để suy giải về mầu nhiệm Đức Kitô bằng mầu  nhiệm sâu kín nhất trong các mầu nhiệm! Không ngơi, lý trí  sẽ văng vẳng nghe vọng lại lời nhắn nhủ hãy  sống thái độ khiêm hạ; bởi vì có thế, mới thấy rõ  rằng chỉ khi có được một lòng tin cúi đầu tôn thờ  để bước theo Thần Khí hướng dẫn, thì mới có điều kiện  mà tiến tới trên đường tìm kiếm. Cũng có thể  có lý để quan niệm như thế này: cứ bắt tay vào làm  công tác gầy dựng nói trên, rồi, nhờ ơn Chúa giúp và  nhờ được động viên bởi những đòi hỏi do  tiến trình nghiên cứu đặt ra, thần học sẽ tiến đến chỗ  biết để tâm chiêm niệm hơn là chỉ lý luận suông, tiến  đến chỗ hoàn thành được công tác dựng xây nên  một khoa Kitô học (mang bản sắc) thần khí thực sự.

Bài viết này không nhằm chủ đích trình bày  về một “khoa Kitô học dựa theo Thần Khí” (Kitô học  Thần Khí), mà chỉ muốn nêu lên vấn đề và khai mở  một vài hướng đi cho việc tìm tòi nghiên cứu. Mong  rằng những trang khảo luận này sẽ giúp hé  mở cho thấy là suy tư của trí tuệ có thể kín múc  ra được không biết bao nhiêu là ánh sáng soi dẫn,  từ nguồn phong phú bao la của việc chiêm ngắm Đấng  mà Gioan Tẩy Giả đã chỉ về, khi đoan chứng rằng:  “Tôi đã trông thấy Thần Khí tựa như chim câu đáp xuống  từ trời và đã lưu lại trên Ngài... Tôi  đã được xem thấy và xin đoan chứng: chính Ngài là  Con Thiên Chúa” (Ga 1,32.34).

F.X. Durrwell, C.ss.R [1]

[Người dịch: Nguyễn Thế Minh, HTTH SỐ 7, NĂM THỨ BA (1993)]

-------------------------------

[1] Đây là bài viết nguyên  văn Pháp ngữ của linh mục F.X. Durrwell, Dòng Chúa  Cứu Thế, mang tựa đề Pour une christologie selon l'Esprit  Saint , đăng trong tạp chí Nouvelle Revue Théologique ,  tập 114 (1992) 653-677. Tác giả hiện đang làm giáo sư  thần học tại Strasbourg, Pháp. Xin lưu ý: từ Esprit  Saint sẽ được dịch bằng từ Thánh Linh ; còn  từEsprit/esprit thì bằng từ Thần Khí/thần  khí

[2] Năm 1979, qua một loạt “Các câu hỏi  chọn lọc về Kitô học” (Questions  choisies de christologie),  đăng trong tập Văn bản và Văn kiện (Textes  et Documents), Ủy Ban Thần Học Quốc Tế đã nói lên  ước vọng muốn thấy “chiều kích Thánh Linh học trong Kitô  học” được đặt nặng nhiều hơn và coi trọng hơn nữa;  trong cuốn Jésus le Christ , Paris, Cerf, 1976, W. Kasper  cũng đã đề cao và cổ xúy cho chiều kích thần học  ấy; còn H.U. Von Balthasar thì đã bàn rộng về chiều  kích ấy trong tác phẩm Theologik, III Der Geist der Wahrheit ,  Einsiedeln, Johannes Verlag 1987.

[3] Th. Baxiliô, Traité  du Saint-Esprit , XVI, 39, SC 17, tr. 180.

[4] Denzinger-Schonmetzer=Dz-Sch 301

[5] Điểm nhận định  phê bình này không nhằm gì tới hoạt động của Ngôi  Cha và Ngôi Con trong hành động nhiệm xuy nên  Thần Khí, mà chỉ nhằm tới tính chất không phân hóa   của hoạt động ấy, trong đó, theo chủ trương của  một số học thuyết, cả Ngôi Cha lẫn Ngôi Con đều không  hành động theo tư thế cá thể của mình, tức là  theo tư thế làm Cha và làm Con

[6] Có những thần học gia đã phải thú nhận rằng cả  đến Kinh Thánh, họ cũng không tham khảo tới, ít nhất  là đối với những gì liên quan đến lãnh vực chủ  yếu ấy của thần học về Thiên Chúa Ba Ngôi, tức là  liên quan đến mối tương quan giữa Thần Khí và Chúa  Con; xin xem P. Evdokimov, Présence de l'Esprit dans la tradition  orthodoxe , coll. Foi Vivante, Paris, Cerf, 1977, tr. 49. M. A.  Chevallier cũng đã lấy làm tiếc mà ghi nhận  như vậy; xem L'Evangile de Jean et le Filioque , trongRSR   57(1963)93.

[7] Xin cho tôi được phép trích dẫn tác  phẩm của tôi : L'Esprit du Père et du Fils , Paris,  Médiaspaul, 1989, và bài viết của G. Rémy, Une  théologie pascale de l'Esprit Saint. À propos d'un ouvrage récent , đăng trong NRT 112 (1990) 731-734

[8] Các nhà  chú giải Kinh Thánh nhận định rằng 1Tx 4,14 là một  trong những tín biểu cổ cựu nhất. Đó là một biểu  đề đức tin có trước thời Phaolô viết các thư, cổ xưa  hơn bức thư 1Tx

[9] D. Mollat, từ  Gloire trong  Vocabulaire de théologie biblique, Paris,  Cerf, 1971, cột 505.

[10] J. Guillet, từ Esprit  de Dieu , ibid. cột 399: Thần Khí là “Àvinh quang của  Chúa Tể' phục sinh (2Cr 3,18). Ân huệ của Thánh Linh  chính là sự hiện diện của vinh quang Chúa Tể, Đấng  biến đổi chúng ta nên hình ảnh của Ngài”

[11] M.-J. Lagrange, Épitre aux Romains , coll. Études  Bibliques, Paris, Gabalda, 1916, tr. 8 (một cách uyển chuyển tinh  vi); J. Huby, Saint Paul. Épitre aux Romains , coll. Verbum  Salutis, Paris, Beauchesne, 1940, tr. 46

[12] Thường thì khó mà xác định cho rõ  được ý nghĩa của từ Thần Khí/thần trí (Esprit/esprit), và khó mà phân biệt được giữa ý nghĩa chỉ về  chính Thánh Linh hay là chỉ về một thực tại tinh thần/thiêng  liêng thuộc lãnh vực hoạt động của Thần Khí. “Ngôi  vị Thần Khí hay là phạm vi thần linh của Thần Khí...:  không phải lúc nào cũng có thể xác chỉ rõ  giới mức của một ngôn từ được; hay là cũng  chẳng có ích gì mà làm chuyện đó” (L. Cerfaux, Le  Christ dans la théologie de saint Paul , Paris, Cerf, 1951, tr.  223).

[13] Tuy nhiên, niềm  vinh quang và tình trạng giống nhau ấy không khuôn rập  theo tiêu chí “xác phàm”; cả thập giá Đức Kitô  nữa cũng chính là quyền năng và vinh quang (1Cr  1,24). Như thế là vì cuộc tử nạn và cuộc phục  sinh là hai bề mặt của cùng một mầu nhiệm duy  nhất

[14] L. Cerfaux, Le Christ ..., trưng dẫn trên kia,  tr. 330: “Khái niệm về tái giáng kéo theo danh tước Con  Thiên Chúa.

[15] ”Nhiệm cuc,” lịch sử cứu độ đã  thực sự mở lối dẫn con người tới chỗ nhận  biết mầu nhiệm sâu kín trong Thiên Chúa. Ai không đồng ý  về điểm đó, hoặc chủ trương ngược lại, tất có bổn phận  phải chứng minh làm sao để cho thấy là người  kitô có thể đạt tới chỗ tin nhận mầu nhiệm Thiên Chúa  Ba Ngôi, bằng một con đường khác với lối ngõ vừa  nói. Chúng ta nhận biết Thiên Chúa là Thiên Chúa Ba Ngôi,  và nếu chúng ta được biết như vậy, thì chính là nhờ  Đức Kitô Phục Sinh, Đấng làm trung gian cho đức tin chúng  ta (xem G. Rémy, Une théologie pascale ..., trưng dẫn  trên kia, tr. 735).

[16] Trừ một vài trường hợp:  tức là những khi họ gọi Đức Kitô bằng danh xưng Thiên  Chúa; tuy nhiên, các trường hợp này không làm  cho luật chung nói trên mất bớt giá trị đi; sở dĩ Đức  Giêsu được gọi bằng danh xưng ấy, là vì Ngài cùng  thông phần vào một thiên tính duy nhất của Thiên Chúa-Cha  Ngài; xem K. Rahner, Dieu dans le Nouveau Testament, Écrits  théologiques , cuốn 1, Paris, DDB, 1959, tt. 11-111. Cũng  xin xem F.X. Durrwell, Le Père, Dieu en son mystère ,  Paris, Cerf, 1987, tt. 13-18.:

[17] Ở đây,  tôi xin lấy lại một câu của J. Guillet viết trong bài  giải thích về từ Esprit de Dieu , ở cột 388  của cuốnVocabulaire de théologie biblique , trích dẫn  trước đây; tác giả đã thử đưa ra một cách hiểu  về ý nghĩa tổng quát của từesprit như sau: “Luôn  luôn, từ < khí nhằm tới ý nghĩa chỉ về yếu tố cốt  tủy và không thể nắm chắc được ở trong một hữu  thể... chỉ về những gì là chính hữu thể đó nhất.”  Phụ chú của người dịch: chúng tôi cố tránh những  cách nói như là: những gì làm nên...cấu thành ...  và chỉ dùng từ là , xét vì ở đây  đang nói về Thiên Chúa, là Đấng Ta có , là Đấng  tự hữu/hằng hữu (Xh 3,14), là Đấng Ta chính  là Ta, Ta là Đấng có (Đnl 32,39), là Đấng Chính  là Ta (Ga 8,24). Tác giả bài viết cũng dùng  động từ est.

[18] H. Schlier,  Der Roemerbrief , Freiburg, Herder, 1977, tr. 268: tác giả  giải thích về Thánh Linh như thế này: “Die Kraft  der Selbsterschliessung Gottes”, quyền lực khai mở của  Thiên Chúa.

[19] Th. Tôma, Tổng  Luận Thần Học , cuốn II, tập I, câu hỏi 28, đoạn 3 sed  contra ; thánh nhân đã lấy lại tư tưởng của Điônixiô  Mạo Danh, và viết: “Bởi yêu thương, nên Ngài  xuất thần.”

[20] Th. Ambrôxiô, De Fide , IV, 10, 132, CSEL 78, tr. 204.

[21] Th. Âugutinô,  De Trinitate , 8, 14, CCSL 50, tr. 2

[22] Cựu Ước cũng đã dùng nước  để tượng trưng cho Thần Khí: Is 32,15; 44,3; Ed 36,25-27; Ge 3,1...;  Dcr 12,10

[23] Xem Th. Xyprianô, De Orat. Dom .,  23, CCSL tập IIIa, tr. 10

[24] Th. Atanaxiô, Thư thứ  nhất gửi cho Xêrapiôn , 19 , SC 15, tr. 116...: “Ngôi  Cha là ánh sáng, Ngôi Con là ánh chói... Thần Khí  là hành động qua đó chúng ta được soi sáng” (được  Y. Congar trích dẫn ở trong cuốn Je crois en l'Esprit  Saint , tập III, Paris, Cerf, 1980, tr. 52). Ximêôn (với biệt  danh) Nhà Thần Học Mới, Catéch ., 33. SC 113,  tr. 257: “Cửa ra vào: là Ngôi Con...chìa khóa  của cửa ấy: là Thần Khí”.

[25] Th. Irênê,  Adv. haer ., III, 18, 3 SC 211, tr. 350: “Chính Ngôi  Cha là Đấng xức dầu; chính Ngôi Con là Đấng được xức  dầu trong Thần Khí, là chính hành động xức dầu... Như  Ngôi Lời đã nói lên điều ấy qua miệng của tiên  tri Isaia là: ÀThần Khí Thiên Chúa ở trên tôi, bởi  Người đã xức dầu cho tôi'; vì nói thế có nghĩa là  cùng một lúc muốn chỉ về Ngôi Cha là Đấng xức dầu,  và Ngôi Con là Đấng được xức dầu, và Thần Khí  là hành động xức dầu”.

[26] Dù  có hướng theo một viễn ảnh hơi khác, thì những  hàng viết sau đây cũng nói lên cùng một ý nghĩa  như thế: “Tình yêu dịu hiền ấy -lòng dạ Thiên Chúa  Cha - trong đó, Ngài đặt Ngôi Con của mình nằm, chính  là Thần Khí... Chỉ có một Cha sinh ra Con mình trong tình  yêu, rồi lấy tình yêu mà vấn bọc Con mình, và làm  cho Con mình lưu ngụ ở trong chính mình” (M.-J. Le Guillou,  Le mystère du Père , Paris, 1973, tr. 267). Tác giả  cũng đã nói đến “vai trò làm mẹ của  Thần Khí”.

[27] L. Bouyer, Le Consolateur , Paris, Cerf, 1980,  tr. 439: “Chính vì thế, Thần Khí là, như danh xưng cho  thấy, hơi thở/hơi thổi của sự sống trong Thiên Chúa,  hoặc, - nếu muốn và cũng không có gì là khác  cả, - là như con tim của thiên tính: con tim của  Ngôi Cha cũng như của Ngôi Con.”

[28] Về “nỗi  son sẻ hiếm hoi - chí thánh, thần linh ấy - của Thánh  Linh”, thử hỏi còn có gì mà người ta  đã không nói? Xem P. De Bérulle, Grandeurs de Jésus,  IV, 2; M. Dupuy, l'Esprit Saint et Marie dans l'École francaise ,  trong Études mariales26(1969) 2

[29] Theo tôi biết, thì người đầu tiên nói tới lòng khiêm  hạ của Thần Khí là Th. Preiss, Le témoignage intérieur  du Saint-Esprit, bài đăng trong Cahiers de l'actualité  protestante 13(1946) 26.

[30] B. Bobrinskoy, Le Mystère de la Trinité ,  Paris, Cerf, 1925, tr. 78; tác giả viết rằng: “Giáo Hội   luôn giữ thái độ ngập ngừng do dự , đặc biệt  là trong kinh nghiệm sống của mình và trong khoa  bí tích học, không biết phải chọn đồ hình nào trong  hai đồ hình về Thiên Chúa Ba Ngôi, tức là đồ hình Cha-Con-Thần  Khí, và đồ hình Cha-Thần Khí-Con” (chính tác giả đã  cố ý nhấn mạnh đến những điều ghi bằng chữ xiên).

[31] J. Guillet, từ Esprit de Dieu , trong tác  phẩm trưng dẫn trên kia, tr. 390

[32] Quan niệm này xem ra đang  ngày càng được giá trong giới các thần học gia. Đây  là một vài dẫn chứng: J.-M. Garrigues, La théologie  du Saint Esprit dans le dialogue oecuménique; Document Foi et constitution, số 103, Paris, Centurion et Presses de Taizé, 1981, tr. 168:  “Ý nghĩa duy nhất thực sự có tính cách tín lý, mà  từ ngữ Filioque có thể muốn nói lên trong lời  tuyên xưng đức tin của Giáo Hội dựa trên cơ sở của  Kinh Thánh cũng như của đoàn ngũ các Giáo Phụ,  là Thánh Linh xuất phát... từ Ngôi Cha trong tư  thế là Cha, nghĩa là trong tư thế là Đấng sinh hạ  Ngôi Con duy nhất “(chính tác giả đã cố ý nhấn  mạnh đến những gì ghi bằng chữ xiên); B. Bobrinskoy, ibid, tr. 158: “Ngôi Con (là)... Đấng trong Ngài,  Ngôi Cha và Thần Khí nghỉ ngơi”; trong cuốn Le Mystère  de la Trinité , tác giả còn nói rõ hơn rằng:  “Vậy, Ngôi Con sẽ là lý do hiện hữu của  việc nhiệm xuy Thần Khí, là Thần Khí của Ngôi Cha và  cùng lúc, cũng là Thần Khí của Ngôi Con”  (tr. 298). “Dù chỉ là thuộc lãnh vực quan niệm  hoặc là khái niệm, thì mọi hình thức du nhập tính chất  có trước (antériorité)của sự việc Ngôi Con sinh  ra vào trong quan hệ so sánh với sự việc Thần Khí nhiệm  xuất, cũng đều đưa tới tình trạng biến mầu nhiệm Thiên  Chúa Ban Ngôi trở thành một đối tượng nằm trong tầm  khả năng nhận thức của lý trí con người...”  (tr. 305).

[33] Xin thử so sánh các câu: Mc  1,24 và 3,11; cũng như Ga 6,69 và Mt 16,16.

[34] Từ ấy chỉ được dùng  tới ở trong một văn bản thuộc thời cuối trong  tiến trình hình thành Tân Ước (2Pr 1,4), và rất có  thể là do ảnh hưởng của tư tưởng Hy Lạp;  xin xem Grundmann, TWNT II, tr. 310; Koster. TWNT IX,  tt. 264-269.

[35] M.-J. Lagrange, Épitre aux Romains , bộ  Études Bibliques, Paris, Ga-balda, 1916, tr. 8; J. Huby, Saint  Paul. Épitre aux Romains, bộ Verbum Salutis, Paris, Beauchesne,  1940, tr. 46. Người ta cũng đã từng nghĩ rằng  “thần khí vĩnh hằng” nhờ đó Đức Kitô đã tự  hiến tế chính mình (Dt 9,14), là từ ngữ dùng  để chỉ về bản tính Thiên Chúa

[36] Trong câu Cl 2,17,  Đức Kitô chính là thân thể đã phóng xuất bóng hình  của mình trước xa, vào tận trong giao ước thứ nhất

[37] Xem chú cước của bản dịch đại kết Traduction  Oecuménique de la Bible về câu Cl 1,19. B. Bobrinskoy, Le  mystère de la Trinité , trưng dẫn trên kia, tr. 73 (cũng  xin xem các trang 77-81); tác giả viết: “Khi Phúc Âm  và các Giáo Phụ nói rằng Thần Khí lưu lại trên Đức Kitô,  thì điều đó cùng một lúc muốn chỉ về sự hiện diện theo  ngôi vị (hypostatique ) của Thánh Linh cũng như  về niềm viên mãn của thiên tính. Có một quan hệ tương  ứng sâu xa ở giữa các cách thức diễn đạt vừa  nói của Phúc Âm trong đó, Thần Khí được nêu đích danh,  và câu của Phaolô viết rằng: ÀCó ở trong Ngài  niềm viên mãn trọn vẹn của thiên tính'“ (Cl 1,19;  2,9). Về mối quan hệ tương ứng giữa Thánh Linh và “bản  tính chung của Ba Ngôi Vị”, xin đọc V. Lossky, À  l'image et à la ressemblance de Dieu , Paris, Aubier-Montaigne,  1967, tr. 70.

[38] Th.  Ambrôxiô, De excessu fratris sui Satyri , 91, CCSL 73, tr. 299: “Tunc secundum carnem homo, nunc per omnia Deus.”

[39] Tôi xin được phép trưng dẫn đoạn  sau đây, trích từ cuốn La Résurrection de Jésus, mystère  de salut , Le Puy-Paris, Mappus, 1950, tr. 152: “Vì là  người-thần khí, nên Đức Giêsu tỏ rõ mình là  Người-Chúa. Để biểu đạt bản tính Thiên Chúa, Kinh  Thánh dùng các từ Pneuma (Thần Khí) thánh, và doxa (vinh quang) của Đức Kitô; thực ra, doxa cũng mang ý nghĩa giống hệt như Pneuma .”

[40] E. Jacob, La Théologie de l'Ancien Testament, Neuchâtel,  Delachaux et Niestlé, 1955, tr. 100; tác giả nhận thấy rằng  trong Kinh Thánh, “Thần Khí làm nổi rõ đặc tính  của tất cả những gì mà từ Thiên Chúa hàm súc.”

[41] P. Evdokimov, Le mystère de l'Esprit Saint ,  Paris, Mame, 1968, tr. 92; B. Bobrinskoy, Le mystère de la  Trinité ,trưng dẫn trước đây, tr. 282: “Thánh Basiliô  cho rằng sự Thánh thiện là đặc tính cá thể của Thần  Khí”.

[42] Xin Thử so sánh Rm 8,4.14 và Ep 5,2; Rm 15,16  và Ep 1,4.

[43] Người Ta thường chất  vấn rằng: tình yêu không thể là một đặc tính thuộc riêng  ngôi vị Thần Khí được, bởi vì Thiên Chúa toàn thể  là tình yêu, như đã viết trong câu 1Ga 4,8. Nhưng, nên  lưu ý là trong câu sau đây, thánh Gioan cho thấy lời  khẳng định vừa nói có nghĩa là Thiên Chúa yêu  thương thế gian cho đến nỗi đã ban Con Một của  mình cho thế gian (xem Ga 3,16). Vậy, nếu Thiên Chúa yêu thương  dường ấy, thì câu văn trên đây vẫn có thể cho phép  hiểu rằng Thần Khí, con tim của Thiên Chúa yêu thương,  chính là tình yêu hiện thân trong một ngôi vị.

[44] Vinh tụng ca trong Kinh nguyện Thánh  Thể.

[45] Đó là  lối diễn đạt xem ra hơi lạ thường, nhưng lại được H.  Muehlen, ưa chuộng: Der Heilige Geist als Person,Muenster,  Aschendorff, 1963, tr. 164. Trong Thần Khí, mối hiệp nhất được  hiện thực, nhưng đồng thời tính chất khác biệt cũng  thành tựu: chính ở trong Thần Khi, Ngôi Cha sinh hạ,  và Ngôi Con hiện hữu trong tư thế là Con. Cũng  như tình yêu loài người đặt các nhân vị ở những  cương vị đối diện, nhưng đồng thời cũng liên kết chúng  lại

[46] Th. Âugutinô, De Trinitate , XV, 19, CCSL 50 A,  tr. 523...

[47] Th. Âugutinô,  De fide et symbolo , 1, 19 , CSEL 41, tr. 23.

[48] Th. Xyrilô thành Alêxanđria, Commentaire de  l'évangile de Jean , 14, 17; 15, 1, PG 74, tr. 260, 333.  - Thánh Irênê đã chẳng phát biểu tương tự như thế đó  sao, khi ngài viết: “Cũng chính vì thế mà Chúa  (Kitô) đã hứa phái gửi Đấng Bào Chữa Ủi  An đến, là Đấng sẽ làm cho chúng ta nên thích hợp  với Thiên Chúa” (Adv. haer ., III, 17, 2, SC 211,  tr. 332)?

[49] F. Bolgiani,  La théologie de l'Esprit Saint de la fin du premier siècle  après Jésus-Christ au concile de Constantinople (381),  trong Les quatre fleuves,9, Paris, Beauchesne, 1979, tr. 91.  - Ngay cả nền thần học thời hậu tông đồ cũng  đã từng bị nghi ngờ là “có tính cách thiên  về nhị vị nhiều hơn là tam vị,” vì đã đồng nhất  hóa Ngôi Lời với Thần Khí, làm như thể là chính  Thần Khí đã nhập thể. L. Bouyer, Le Consolateur, trưng  dẫn trên kia, tt. 137-140, trích dẫn những đoạn văn  thật không ngờ nổi, nhưng đã biết đặt chúng vào  trong bối cảnh chung của tư tưởng các tác giả,  và bối cảnh này cho thấy họ là những người  tin vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, L. Bouyer  đã có thể kết luận rằng: “Vậy, tuyệt nhiên không  phải là Ngôi Con không khác biệt và không được  phân biệt rõ với Thánh Linh, nhưng đơn thuần là, như  chúng tôi đã nói trước đây, Đức Giêsu chính là “thiên  tính” nhập thể, hay là “bản tính Thiên Chúa,”  hoặc nói một cách mơ hồ hơn, là Àsự sống Thiên Chúa'  nhập thể”.

[50] Th. Camelot, Ignace d'Antioche, SC 10, tr.  29. Xem Magn. 1, 2; Smyrn. 3, 2.

[51] Th. Irênê,  Démonstration , 97, SC 62, tr. 167

[52] Th. Irênê, In Pascha. Sermo 2, PG 59, 726.

[53] Th. Atanaxiô, De Incarnatione, 8, PG 26, 996.

[54] Xem cước chú 39 trước đây: La Résurrection  de Jésus ..., tr. 105.

[55] Sermo 11. Impletum est tempus  Elisabeth : “Gottes hoechstes Streben ist gebaeren”; xem   Meiter Eckhardts Predigten, cuốn 1, Stuttgart, Kohlhammer,  1958, tr. 177 và 472.

[56] Th. Âugutinô, In Joh. Tract. 47, 7, CCSL 36, tr. 407

[57] Th. Âugutinô, Sermo  Guelferb . XII, nhà xuất bản G. Morin, cuốn I, tr. 479.

[58] Baumgaertel, TWNT   IV, tr. 354: ”Ruah [tiếng Hy bá, giống như từ pneuma   trong tiếng Hy lạp=Thần Khí] của Giavê làm nên lịch  sử”; xem F.-X. Durrwell, L'Esprit Saint de Dieu, Paris,  Cerf, 1983, tt. 33-36.

[59] Xem ibid . tr. 54, 86, 109, 122,  139, 146, 151-153, 160...; Le Père, Dieu en son mystère , trưng dẫn nơi cước chú 18, tt. 73, 87, 91, 102, 121..., 145,  155, 158, 246

[60] M. Deneken, Pour une christologie de la  pro-existence , đăng trong RSR 62(1988) 266-290; tác giả  quan niệm rất hợp lý, cho là khoa Kitô học có thể được  canh tân, nếu biết nhìn theo nhãn quan của tính chất  hướng-hiện hữu nơi Đức Kitô. Nhưng tính chất ấy chỉ tìm  thấy được một lối minh giải thích đáng ở trong một  khoa Kitô học theo Thánh Linh (một khoa Kitô học Thần Khí).

[61] Mầu nhiệm Phục sinh mang tính chất quang lâm: đó là  mầu nhiệm của việc phái gửi vào trong thế gian  (Cv 3,25...), của việc đến (Ga 14,28) và hiện diện trong  thế gian (Mt 28,20); xin xem bài viết Mystère pascal  et parousie , của chúng tôi, đăng trong NRT   95(1973)  253-278

[62] Ngoài lịch  sử cứu độ ra, thần học cũng còn cần phải  thăm dò về mầu nhiệm công trình tạo dựng, trong đó, Thiên  Chúa hành động bằng Lời và hơi thở của  mình, như là bằng “hai bàn tay”: tức là bằng  Ngôi Con và Thần Khí; xem Th. Irênê, Adv. haer ., IV,  Praef. 4; 20,1; V, 1,3; 6,1; Dem ., 11, SC 100, tt. 391,  627; 153, tt. 29,73; 62, tr. 48.

 

 


Hướng Về Ðức Kytô | Về Trang Nhà