2. CHÚA CHA CHO TA TRỞ THÀNH NGƯỜI TỰ DO
( Lc. 1511-32)
Bài 2
Đoạn văn
Lc 15,11-32 có thể được coi như Tin Mừng về sự tự do, giúp ta khám phá khuôn
mặt của Chúa Cha, Đấng làm cho ta trở thành những con người tự do. Nó cũng giúp
ta tìm ra con đường tự do mà chúng ta phải đi qua, để có kinh nghiệm về sự tự
do này.
Người ta
quen gọi đoạn Tin Mừng trên đây là “dụ ngôn về người con phung phá”. Nhưng đúng
hơn, nên gọi là “dụ ngôn về người cha thương xót”. Quả thực, vai chính trong
câu truyện không phải là người con – hoặc các người con, nếu kể thêm người con
cả – mà là người cha.
Chúng ta
có thể dễ dàng nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa qua người cha mà Luca trình bày.
Đặc điểm chính của người cha này là khiêm nhường. Trước hành vi của người con
thứ muốn được tự do liệu lý cuộc sống của mình và sử dụng phần gia sản được
chia cho, ông không tỏ dấu phản đối. Ông để con mình ra đi, chấp nhận quyết
định của nó, sau đó chỉ còn biết mong ngóng nó.
Qua hình
ảnh người cha này, ta có thể thấy đặc tính thứ nhất của Thiên Chúa là khiêm
nhường. Chỉ mình Thiên Chúa có thể khiêm nhường thật sự. Ngài xoá mình đi để
làm cho ta hiện hữu. Các nhà thần bí do thái diễn tả thái độ này của Thiên Chúa
bằng kiểu nói “zim zum”, nghĩa là Thiên Chúa thu mình lại để cho tạo vật lộ ra.
Kiểu nói tuy hơi quá, nhưng lại cho thấy một thực tại phi thường: Thiên Chúa
nhường chỗ cho tạo vật. Nói khác đi, Thiên Chúa muốn tự giới hạn mình, để ta có
thể sống như những con người tự do. Ngài có thể làm mọi sự, nhưng không thể cứu
ta nếu ta không muốn.
Sự khiêm
nhường của Thiên Chúa là như thế. Là Đấng Toàn Năng, Vô Biên, nhưng một cách
nào đó đã hạn chế quyền năng của mình trước mầu nhiệm của con người đã được
Ngài tạo dựng. Không chỉ có con người trụt giầy ra trước mầu nhiệm Thiên Chúa –
vì chỗ con người đứng là nơi thánh – mà, qua câu truyện dụ ngôn, chính Thiên
Chúa cũng “trụt giầy ra” trước tạo vật, vì tâm hồn con người là nơi thánh.
Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của con người tới cùng. Ngài hành động như thế vì
khiêm nhường. Jean Tauler nói: “Sự khiêm nhường là nhân đức ẩn tàng nơi sự sâu
thẳm của Thiên Chúa”.
Đặc tính
thứ hai là hy vọng. Người cha hay Chúa Cha khiêm nhường đó, đã để cho con mình
ra đi sống cuộc đời tự do, cũng chính là người cha ngày ngày tựa cửa mong ngóng
con trở về. Câu 20 cho biết: “Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông
thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta … “. “Anh ta còn ở đàng xa”,
lời này muốn nói lên điều gì ? Muốn nói rằng người cha đã mòn mỏi đợi con. Nơi
Thiên Chúa, chúng ta có thể gọi thái độ này là sự hy vọng của Thiên Chúa. Hy
vọng là danh xưng khác của khiêm nhường. Nếu khiêm nhường là dành chỗ cho người
khác hiện hữu, thì hy vọng là mong muốn cho người đó hiện hữu.
Thiên
Chúa của Đức Giêsu là Thiên Chúa của hy vọng. Theo hai nghĩa : Ngài là Thiên
Chúa của lời hứa, và như vậy là cơ sở bảo đảm cho niềm hy vọng của con người;
Ngài vui sướng và ăn mừng vì một người con trở về. Do đó dụ ngôn cho thấy những
thái độ của Thiên Chúa, thể hiện qua những hành vi của người cha, có nguồn gốc
sâu xa từ đâu : từ sự khiêm nhường và hy vọng. Thiên Chúa theo quan niệm của
Aristote hẳn không thể chấp nhận những thái độ này, vì như vậy sẽ là một Thiên
Chúa bất toàn.
Do đâu mà
chúng ta có thể nói về sự khiêm nhường và hy vọng của Thiên Chúa ? Do đâu mà
người cha đã chạnh thương và chạy lại gặp con ? Đó là do tấm lòng của người
cha, của Thiên Chúa. Trong tiếng do thái, có thể dùng hai từ để chỉ tình yêu
của Thiên Chúa : hesed và rachamim. Hesed nói lên một tình yêu có mầu sắc nam
tính, cho thấy một Thiên Chúa uy dũng và tín thành, là sự bảo đảm cho ta;
rachamim, được Cựu ước sử dụng, có nghĩa đen là “lòng dạ người mẹ”, nói lên một
tình yêu có mầu sắc nữ tính, tình yêu của một người mẹ, không phải vì công
trạng nào của con, nhưng chỉ vì nó là con mình. (Có thể thấy điều này trong Is
49,14-16; 63,16; Gr 31,20; Tv 131).
Đặc tính
thứ ba là lòng trắc ẩn. Tình yêu phát xuất từ lòng dạ người mẹ là một tình yêu
đầy lòng trắc ẩn. Thiên Chúa đầy lòng trắc ẩn nên hằng chờ mong con cái trở về.
Ngài yêu thương như một người mẹ, bằng một tình yêu dịu dàng. Có thể suy nghĩ
về tình yêu của Mẹ Thiên Chúa để giúp ta hiểu hơn tình yêu của Thiên Chúa như
một người mẹ, vì tình yêu của Mẹ Thiên Chúa là hình ảnh của tình yêu này. Qua
cách diễn tả của Kinh Thánh và thần học về tình yêu của Mẹ Thiên Chúa, ta thấy
tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu nhưng không và toả rộng, một tình yêu
trung thành dù con người bất trung, một tình yêu chờ đợi tạo vật đáp ứng.
Cũng câu
20 còn cho biết đặc tính thứ tư là sự can đảm. Hãy nhìn cảnh người cha chạy lại
gặp con. Theo não trạng sêmít, hành vi này thật chướng, không xứng với địa vị
của người làm cha. Đúng lý ra, người con chạy lại và quỳ sụp dưới chân cha mới
phải. Đàng này, người cha lại cất công đi gặp con, còn chạy đến với con nữa.
Sao lại có chuyện như thế được ? Ở đây, chúng ta bắt gặp một người cha không sợ
mất thể diện, không ngại bị đàm tiếu, không e những điều xấu nào đó có thể xẩy
ra cho mình.
Uy tín
của người cha không ở chỗ giữ một khoảng cách đối với con cái, nhưng ở chỗ yêu
chúng và biết cách diễn tả tình yêu này. Có thể gọi đặc tính này là sự can đảm.
Tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu can đảm. Can đảm phá bỏ mọi thứ an ninh
giả tạo, để sống trong sự an ninh đích thực duy nhất do tình yêu mang lại. Can
đảm đến với người khác, khi biết vượt qua những khoảng cách thường được tạo ra
chỉ vì không có khả năng yêu thương. Quả thực, lắm người hành xử độc đoán, muốn
ra uy, nhất là khi có quyền, thường chỉ là vì không có khả năng yêu thương. Do
đó thấy cần phải bảo vệ uy quyền bằng cung cách hành xử đó.
Đặc tính
thứ năm là niềm vui. Khi thấy con trở về, người cha đã sung sướng như một đứa
trẻ. Ông ôm hôn anh ta, bảo đầy tớ mặc cho anh áo đẹp nhất, xỏ nhẫn vào tay
anh, xỏ dép vào chân anh, giết bê béo làm thịt ăn mừng anh. Những việc đó là
cách biểu lộ niềm vui của ông, một niềm vui đặc biệt. Đó chính là niềm vui trên
trời dành cho một người tội lỗi hối cải. Đó chính là niềm vui của Thiên Chúa,
một Thiên Chúa biết vui mừng sau khi đã phải đau khổ, cũng như người cha trong
dụ ngôn đã đau khổ vì có tấm lòng của người mẹ, tuy sự đau khổ này không được
nói rõ trong câu truyện.
Trong mầu
nhiệm thập giá, sự đau khổ của Thiên Chúa đạt tới tột đỉnh. Chúng ta tin vào
một Thiên Chúa chịu đau khổ, vì Ngài là một Thiên Chúa yêu thương. Do đã đau
khổ, người cha không thể không vui mừng khi thấy con trở về, và trở về chính
ngôi nhà mà anh ta đã tự ý lìa bỏ.
Tất cả
những điều trên giúp ta hiểu đặc tính cuối cùng là sự đau khổ của Thiên Chúa.
Người cha trong dụ ngôn là hình ảnh của một Thiên Chúa không thờ ơ trước những
thăng trầm và đau khổ của con người, một Thiên Chúa chịu khổ và biết chịu khổ
vì yêu thương tạo vật. Trong dụ ngôn, có một câu rất quan trọng, cho biết lý do
vì sao Thiên Chúa đau khổ và vui mừng. Chính là câu 24, được lặp lại ở câu 32:
“Vì con ta đây đã chết, mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Quả là
những lý do đáng suy gẫm lắm.
Lý do thứ
nhất làm cho người cha đau khổ là vì con ông “đã chết”, tức là anh ta đã tự huỷ
hoại đời mình. Lý do thứ hai là vì con ông “đã mất”, tức là đã lìa xa ông, đã
rời bỏ cha của mình. Hãy lưu ý thứ tự trước sau của hai lý do mà người cha đưa
ra. Thiên Chúa đau khổ trước hết vì con người đau khổ, sau đó Ngài còn đau khổ
vì con người rời bỏ Ngài. Một tình yêu “thật” phải là như vậy. Tiên vàn không
phải là nỗi đau riêng của mình, nhưng là nỗi đau của người khác, đau vì người
đó như “đã chết”.
Chính
tình yêu làm cho Thiên Chúa có thể chịu khổ theo cách ấy. Nếu Thiên Chúa không
thể yêu, Ngài cũng không thể chịu khổ. Mầu nhiệm đau khổ của Thiên Chúa là mầu
nhiệm về khả năng yêu thương vô hạn của Ngài. Nếu không như thế, chúng ta chỉ
là những con rối trước mầu nhiệm Thiên Chúa. Jacques Maritain đã không ngần
ngại khẳng định rằng đề tài về sự đau khổ của Thiên Chúa giúp ta hiểu vì sao
Lời Chúa đôi khi đã bị đánh giá thấp so với lời của Aristote, thay vì ngược
lại. Thiên Chúa của Aristote không thể chịu khổ. Nhưng Thiên Chúa của Kinh
Thánh thì khác. Ngài là một Thiên Chúa đau khổ vì yêu, vì chia sẻ những tình
huống nhân loại của ta, vì đã trở nên nghèo khó do lòng Ngài thương ta. Ngài là
một Thiên Chúa không đóng kín cửa lòng để chỉ biết có mình, nhưng đồng hành với
con người trong lịch sử của họ.
* Dụ ngôn
còn nói đến hai người con, và người con thứ được nói trước. Tội của người con
này, tự cơ bản, ở trong lời anh xin với cha: “Thưa cha, xin cho con phần tài
sản con được hưởng”. Và người cha đã chia tài sản cho các con. Lưu ý đến từ hy
lạp ”tôn bion” được sử dụng để chỉ tài sản. “Ton bion” có nghĩa là sự sống. Tài
sản là cái giúp anh ta sống. Như vậy, người con phung phá cương quyết không
muốn cha mình xen vào cuộc đời của mình. “Xin cho con những gì con được hưởng,
để con sống theo ý con”. Những ai có kinh nghiệm hoán cải đều biết rõ sống mà
coi như không có Thiên Chúa sẽ ra sao. Tội của người con phung phá, hình ảnh
của mọi tội lỗi, là thứ tội muốn tự liệu lý cuộc đời mình, không muốn phó thác
nó cho Thiên Chúa một cách vô điều kiện.
Tội ấy
đưa người con thứ đến chỗ “thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa … sống phóng
đãng, phung phí tài sản”. Trong bản văn hy lạp, những động từ, trạng từ, tính
từ được sử dụng diễn tả sự đi xa của người con, sự phung phí tài sản cũng như
những hệ quả đáng buồn.
Câu 16
cho thấy điều kiện sống tồi tệ của anh ta. Đọc câu này trong ngữ cảnh sêmít,
chúng ta thật sự cảm thấy ngao ngán.
Trước
hết, ăn uống với nhau có nghĩa là hiệp thông sự sống (một yếu tố rất quan trọng
trong bữa Tiệc ly). Dùng cùng những đồ ăn thức uống là đi vào hiệp thông sự
sống với các người dự tiệc. Hơn nữa, nơi dân Israel, heo được coi là con vật
nhơ bẩn nhất, biểu tượng cho sự xấu, sự tha hoá. Người con phung phá này còn
ước ao ăn đậu muồng dành cho heo nữa, mà chẳng ai cho. Chi tiết này cho thấy
anh ta không còn chút nhân phẩm nào, đến nỗi muốn hiệp thông với heo, muốn sống
điều kiện của heo.
Cách diễn
tả của dụ ngôn bày tỏ sự sâu sắc của bi kịch tội lỗi. Muốn tự liệu lý cuộc đời
của mình là không còn sống nữa, là đánh mất ý nghĩa, vẻ đẹp, sức mạnh và bản
chất của cuộc đời mình. Người con phung phá biết vậy. Tiếp theo, anh hình dung
trong trí lộ trình đi từ giầu có đến nghèo khó. Anh đã chọn sự giầu có, muốn
làm chủ cuộc đời, thì giờ đây anh đến trước mặt Thiên Chúa như một người nghèo
khó, xưng thú sự hư không của mình. Lộ trình này cũng là lộ trình của bất cứ
cuộc hoán cải nào, diễn ra trong năm bước được trình bày vắn tắt dưới đây :
Bước đầu
của hoán cải là cảm thấy mình đang sống xa cách, không thoải mái. Cuộc hoán cải
nào cũng khởi đầu bằng cách nghĩ tới mình : cảm thấy mình xấu và đương nhiên
muốn được tốt. Cần lưu ý đến câu 17: “Biết bao người làm công cho cha ta được
cơm dư gạo thừa, mà ta..” . Người con phung phá cũng cảm nghiệm nỗi cơ cực của
mình khi đối chiếu với những người làm công ở nhà cha. Như vậy, bước đầu trở về
nhà, trở về với Thiên Chúa, là nhận ra sự xa cách, sự tha hoá và sự lầm than
của mình.
Bước thứ
hai là nhớ về nhà cha khi thấy sự tương phản giữa cái đói mình đang phải chịu
và cơm dư gạo thừa mà những người làm công, những người không phải là con cái,
đang được hưởng ở nhà.
Bước thứ
ba là nhận ra sự lưu đầy trong chính nội tâm mình. Đây là kết quả của hai yếu
tố : nhận thấy mình khốn khổ và hồi tưởng sự sung túc đã mất. Nhận ra sự xa
cách chưa đủ đâu. Phải biết rằng cội rễ sâu xa của sự dữ là xa lìa Thiên Chúa.
“Thưa cha, con đã đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha
nữa”. Lưu đầy là xa lìa Đấng yêu thương ta vô vàn, là bỏ mất nhà cha vì phạm
tội.
Bước thứ
tư là hướng tới tương lai. Khi đã nhận ra sự lưu đầy trong chính nội tâm mình
thì quyết định từ bỏ quá khứ và hướng tới tương lai, muốn làm lại cuộc đời ở
nhà cha. Vì sao ? Vì ở đó có người cha tốt lành và yêu thương. Hoán cải mà
không có bước thứ tư này sẽ không có kết quả. Quả thực, sau khi đã nhận ra tình
trạng của mình, còn phải tin tưởng và hy vọng có thể làm lại cuộc đời. Bi kịch
của Giuđa khác với bi kịch của Phêrô là ở điểm này. Cả hai đều đã phản bội
Chúa. Tội của Phêrô thậm chí còn nặng hơn, vì ông đã nhận được nhiều hơn. Nhưng
Giuđa thì dừng lại ở bước thứ ba. Đau đớn vì lìa xa Chúa, Giuđa đã không dám đi
bước tiếp là tin tưởng và hy vọng vào Chúa. Ngược lại, Phêrô đã khóc lóc, nhưng
còn tin vào ơn tha thứ và thương xót.
Bước thứ
năm, bước cuối cùng, là đứng lên đi về cùng Cha. Tất cả những gì nói trong bốn
bước trên đây phải được thể hiện bằng một hành động cụ thể là đi về nhà Cha.
Hành động này được gọi là sự giao hoà bí tích, bày tỏ bên ngoài điều đang xẩy
ra bên trong tâm hồn. Thiếu quyết định dứt khoát này, sự hoán cải vẫn chỉ là
một ước muốn đạo đức, không thể hiện trong một đời sống mới làm thay đổi vận
mệnh một con người. Chính nhờ biết quyết định như vậy mà người con phung phá
tìm lại được sự tự do của mình, và trở lại làm một người nghèo. Anh ta thực sự
hoán cải là ở điểm đó. “Con chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như
một người làm công cho cha vậy”. Anh đã hoàn toàn để cho cha định liệu mọi sự.
“Cha muốn làm gì về con thì làm. Con không muốn liệu lý cuộc đời của con nữa,
mà để cha liệu lý cho con, vì cha là cha của con”.
Con đường
giải thoát là con đường đi từ giầu có đến nghèo khó, từ chỗ thoát khỏi Cha để
sống cho mình tới chỗ thoát khỏi mình để sống cho Cha, hướng về Thiên Chúa,
hoàn toàn và vô điều kiện.
* Sau
cùng, chúng ta nhìn tới người con cả, nhân vật thứ ba và cũng là nhân vật cuối
cùng của dụ ngôn. Anh là người luôn sống ở nhà, gần gũi bên cha. Nhưng chính sự
gần gũi này giúp cho ta thấy ngay một điều : gần gũi bên ngoài không nhất thiết
gần gũi bên trong. Người ta có thể sống cả đời trong một đan viện mà vẫn không
yêu mến Thiên Chúa. Nhà Chúa không phải là chỗ bảo đảm. Quan trọng là sự gần
gũi trong tâm hồn, yêu Chúa trong lòng.
Vậy điều
gì đã xẩy ra cho người con cả này ? Cũng có bi kịch. Ở ngoài đồng về gần đến
nhà, anh nghe có tiếng đàn hát và bắt đầu nghi ngờ, rồi hỏi han, rồi tức giận,
rồi không chịu vào nhà. Anh không chịu làm hoà với người cha đã tha thứ cho em
của anh. Tội của anh cũng giống như tội của người em, tức là muốn tự mình liệu
lý cuộc đời mình, coi mình như trọng tài phán xử điều tốt điều xấu. Đâu có khác
với việc làm của đứa em phung phá. Cho dù anh vẫn ở bên cha, nhưng lại xa cách
cha đến độ thuộc vào số những người đòi xét đoán cuộc đời và tâm hồn người
khác.
Trước
thái độ này, người cha đã làm gì ? Một lần nữa, ông lại khước từ địa vị của
mình. Ông ra ngoài, năn nỉ, xin anh bỏ qua cho tình yêu của ông. Những gì người
con cả nói với cha đều đúng hết. Nhưng trước thái độ có tính chất xét xử này,
ông mời gọi anh hoán cải : từ bỏ lôgích của công trạng để đi vào lôgích của
tình yêu. “Em con đây đã chết, nay lại sống, đã mất, nay lại tìm thấy. Vậy phải
ăn mừng hoan hỷ”. Ông cũng mời gọi anh trở về với sự nghèo khó, vượt qua sự
giầu có của người muốn xét xử mọi người và mọi sự, để đi tới sự nghèo khó của
người dành cho Thiên Chúa quyền hướng dẫn và xét xử mình.
Thái độ
của người con cả giúp ta hiểu rằng điều quan trọng là có một người xét xử trong
cuộc đời ta. Chúng ta đã đánh mất ý thức và vẻ đẹp của một Thiên Chúa xét xử.
Đó là một Đấng có thể cho ta biết ta thật sự là ai và như thế nào.
Chúng ta
cần được xét đoán. Nhưng chỉ có sự xét đoán của Thiên Chúa mới đúng về ta, chứ
không phải sự xét đoán của con người. Người con cả trong dụ ngôn là người không
cần Thiên Chúa làm quan án, vì chính anh làm quan án cho mình. Anh dành lấy cho
mình chỗ của Thiên Chúa. Nhưng cha anh lại mời gọi anh đi vào lôgích của sự cho
không. Đừng xét đoán theo lôgích của lý trí, nhưng đặt ưu tiên cho tình yêu.
Dụ ngôn
chấm dứt ở đây. Và chúng ta bước sang một vấn đề khác, vì dụ ngôn không cho
biết các sự việc kết thúc như thế nào. Chúng ta muốn biết người con thứ sống ra
sao sau khi trở lại, và điều gì sẽ xẩy ra cho người con cả. Có thể giả thiết
như sau : dụ ngôn không nói gì thêm, vì thực ra, nó phải tiếp tục trong cuộc
đời của mỗi người chúng ta. Nói cách khác, chúng ta phải tiếp tục sống điều Tin
Mừng đã dạy, điều mà dụ ngôn không đề cập. Một người đã từ chỗ giầu có đi tới
chỗ nghèo khó thì sẽ sống thế nào ? Ai là người chấp nhận để cho Thiên Chúa
hoàn toàn định liệu cuộc đời của mình ? Đó là điều chúng ta phải tìm kiếm trong
kinh nguyện và suy niệm.
(theo
Bruno Forte, Dans la mémoire du Sauveur,
éd. Paulines et Médiaspaul, 1991,
pp. 55-68)
Lm Micae
Trần Ðình Quảng
Ngày 8-4-2003