KỲ 7

NGƯỜI THỢ MỘC THÀNH NA-DA-RÉT

 

 

Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra dân số đầu tiên được thực hiện thời ông Qui-ri-nô làm tổng trấn xứ Xy-ri. Ai nấy đều phải trở về nguyên quán mà khai tên tuổi... (Lc. 2, 1-3)

 

Tiếng dậm chân hơi mạnh của con lừa làm Giu-se thức giấc, khi cùng Ma-ri-a cắm trại ngủ qua đêm trên đường đi về Bê-lem để khai tên tuổi theo chiếu chỉ của hoàng đế Rô-ma. Trời vẫn còn tối, bóng đêm vẫn còn dày đặc xung quanh; người ta không thể nhận ra vật gì rõ ràng ở cách xa chừng mươi bước. Nhưng bên trên thì ánh sao đêm mùa đông lờ mờ đủ cho thấy đôi vợ chồng trẻ đã dừng lại tại một nơi không xa làng mạc dân cư lắm. Gần đâu đó có ánh sáng yếu ớt hắt ra từ một cửa sổ không đóng. Giu-se dọn chỗ cho Ma-ri-a nằm cạnh một mô đất và vài cây cao có cành lá lơ thơ vì mới qua mùa lá rụng.

 

Nghe tiếng thở đều đặn của Ma-ri-a, Giu-se biết nàng đang ngủ say. Tự nhiên trong lòng chàng dâng lên một niềm thương cảm dạt dào khiến chàng xúc động đến ứa nước mắt. Nhớ lại lúc rời Na-da-rét, chàng đã phải năn nỉ lắm thì Ma-ri-a mới chịu lên ngồi trên lưng lừa để chàng dẫn đi. Ma-ri-a đã nói:

– Em khỏe lắm mà, đâu cần phải thuê lừa làm gì cho tốn tiền. Lần trước...

Xi-mong có mặt lúc đó, anh nói như gắt:

– Cô đừng có lặp lại cái câu ấy nữa. Tôi đã bảo là lần trước khác, bây giờ khác. Chính tôi đã nài ép chú ấy thuê con lừa đó. Thiếu bao nhiêu để tôi lo. Rồi còn phải trở về nữa chứ. Cô định cho cháu ra đời tại Bê-lem hay sao?

 

Ma-ri-a cảm động trước sự lo lắng của Xi-mong, người mà vợ chồng cô luôn kính yêu như một người anh. Trong khi Giu-se im lặng chuẩn bị hành lý cho chuyến đi thì chính Xi-mong là người đưa ra những lời khuyên mà Ma-ri-a coi như là những mệnh lệnh:

– Nhà cửa, xưởng mộc, không có gì phải lo cả. Hằng ngày tôi sẽ tạt qua đây coi ngó dùm cô chú. Điều cần là chú phải để ý đến việc ăn uống ngủ nghỉ dọc đường. Đừng hà tiện quá mà có hại. Phải mất ít nhất ba ngày cô chú mới tới được Bê-lem. Như vậy phải ngủ dọc đường ít nhất hai tối, phải ăn ít nhất năm bữa chính ở các quán ăn. Còn hai bữa sáng thì chắc cô đã chuẩn bị bánh mì, cá nướng... Nước uống thì vẫn mang theo nhưng khi dừng lại ăn trưa, tối ở đâu, nhớ lấy thêm cho đầy túi da... Còn gì nữa không? À, cô nhớ đừng quên là trời đang tiết đông, cần mang theo đầy đủ chăn áo để khỏi chết cóng ban đêm...

 

Giu-se vẫn còn như nghe văng vẳng bên tai những lời dặn dò của Xi-mong.Chàng tự hỏi không biết Xi-mong sẽ nghĩ gì khi biết rằng vợ chồng chàng đã qua đêm ngoài trời, giữa đồng vắng. Đêm đầu tiên, vợ chồng chàng đã nghỉ lại trong một quán trọ. Tuy là cái quán bình dân, nhưng thấy vẻ nghèo túng của đôi vợ chồng nhà  quê, chủ quán đã không ngần ngại đòi gấp đôi giá tiền phòng thường nhật. Do đó, khi ngày thứ hai sắp qua đi, Ma-ri-a nhất định đòi Giu-se cắm trại ngủ ngoài trời. Trước vẻ cương quyết của Ma-ri-a, Giu-se đành phải chấp nhận. Trong đêm tối, Giu-se nghĩ đến vai trò của mình. Bất giác chàng thở dài rồi quỳ xuống, phủ phục trước Đấng vô hình mà vợ chồng chàng luôn cầu khẩn mỗi khi có điều gì lo nghĩ hoặc quan trọng cần sự soi sáng. Giu-se thầm thỉ:

– Lạy Đức Chúa, con sẵn sàng vâng phục thánh ý của Ngài, thánh ý mà Ngài đã bày tỏ cho con chín tháng trước đây. Con sẽ làm tất cả những gì cần cho Ma-ri-a và thai nhi nàng đang mang mà con tin nhận là Cứu Chúa của con. Nhưng sao mà Ngài để cho chúng con phải sống cảnh đọa đày này? Đối với con thì chẳng sao, con chịu đựng được hết, nhưng còn nàng và đứa con sắp sinh của nàng, làm sao chịu nổi cảnh vất vả thiếu thốn đang chờ đợi chúng con... Và, lạy Chúa các đạo binh, dân tộc của con, đồng bào của con làm sao có thể nhận ra vị cứu tinh của họ nơi một con trẻ, nơi một người xuất thân từ những cha mẹ nghèo hèn như chúng con, từ một gia đình nhỏ bé không ai biết đến? Lạy Ngài, xin tỏ quyền năng của Ngài...

 

Một bàn tay nhẹ nhàng đặt trên vai Giu-se khiến chàng giật mình quỳ thẳng lên và nhận ra Ma-ri-a cũng đang quỳ bên cạnh. Nàng vui vẻ nói:

– Anh cầu nguyện gì say sưa vậy?

Giu-se không trả lời. Chàng quay người về phía Ma-ri-a và trước sự ngạc nhiên của nàng, chàng làm cử chỉ phục lạy. Ma-ri-a kêu lên và vừa nói nàng vừa đỡ Giu-se đứng dậy:

– Kìa, sao anh làm như vậy? May mà trời chưa sáng, không thì người ta cười cho...

– Anh... tôi... thờ lạy Cứu Chúa của tôi và Mẹ Người...

Nói xong Giu-se khóc nấc lên khiến Ma-ri-a hoảng sợ, tưởng chàng mất trí. Nàng lo lắng hỏi:

– Có chuyện gì vậy anh? Sao anh lại khóc?

Giu-se nói trong nước mắt:

– Ma-ri-a ơi, tại sao chúng ta phải sống trong cảnh cơ cực này? Chẳng phải cả hai chúng ta đều đã được cho biết rằng thai nhi mà chúng ta đang chờ đợi ngày sinh là Con Đấng Tối cao, là người sẽ cứu dân khỏi tội lỗi đó sao?

 

Ma-ri-a hiểu do đâu mà bạn mình buồn khổ và tủi thân như vậy. Nàng an ủi chồng:

– Em hiểu nỗi khổ của anh và em rất xúc động vì được anh chăm sóc ân cần hơn cả ước mơ của em. Nhưng như anh mới nói, và chúng ta không nghi ngờ lời của thiên sứ về hài nhi sắp sinh ra cho chúng ta, chúng ta được Gia-vê Thiên Chúa ủy thác một nhiệm vụ rất cao cả nhưng cũng rất nặng nề, đó là chuẩn bị cho sự ra đời của Giê-su, con chúng ta, nuôi dưỡng và bảo vệ cho đến ngày Giê-su đủ lớn để thi hành sứ mạng cứu thế. Nhưng tại sao Gia-vê Thiên Chúa lại ủy thác trách nhiệm đó cho những con người nghèo hèn là chúng ta, rồi lại để chúng ta phải trải qua thử thách khó khăn... thì đó là ý định nhiệm mầu của Ngài, đó là đường lối của Ngài. Mà chúng ta cũng đã đọc thấy trong Thánh vịnh rằng trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ngài cũng trổi cao như vậy trên những toan tính, những dự liệu của chúng ta. Em luôn tin rằng chỉ cần chúng ta chấp nhận tất cả những gì xảy đến cho chúng ta một cách ngoan ngoãn, trong yêu thương và hy vọng thì mọi sự sẽ trở nên nhẹ nhàng thôi vì có Gia-vê Thiên Chúa lo liệu mọi sự cho chúng ta...

 

Thấy mình đã nói hơi nhiều, Ma-ri-a ngừng lại và nhìn Giu-se. Lúc ấy chàng đã đứng lên, dựa mình vào một gốc cây và lắng nghe Ma-ri-a. Nhưng vì Giu-se không lên tiếng nói gì, Ma-ri-a lại tiếp tục:

– Khi nói lên tiếng “Xin vâng” với sứ thần tại Na-da-rét, em đã ý thức được điều này, là Gia-vê Thiên Chúa không còn dùng con đường sức mạnh như khi Ngài kêu gọi Mô-sê để cứu dân Ngài. Ngài sẽ theo đường lối nào thì em chưa hiểu được, chỉ thấy rằng một khi Ngài đã chọn em, chọn anh, là những con người bé mọn trong dân Ít-ra-en để làm việc cho Ngài, thì chắc chắn Ngài không còn muốn dùng quyền phép của Ngài để chinh phục như Ngài đã làm đối với dân Ai-cập xưa, mà trái lại Ngài muốn đến sống giữa dân Ngài, chia xẻ mọi thống khổ của chúng ta và biến những thống khổ đó thành phương tiện giải thoát. Em nghĩ rằng những gì chúng ta đang phải trải qua đây chắc chắn chưa thấm gì so với những cái sẽ xảy đến. Không phải em là một tiên tri loan báo điều dữ, nhưng em có cảm tưởng rằng còn nhiều thử thách đang chờ chúng ta ở phía trước. Do đó mà chúng ta hãy tin tưởng cậy trông nhiều hơn nữa vào Gia-vê Thiên Chúa, là đá tảng, là nơi trú ẩn của chúng ta.

 

Giu-se vẫn giữ im lặng, nhưng những tia sáng đầu tiên của một ngày mới chiếu vào người chàng cho thấy chàng đã bình tĩnh trở lại. Là con người ít nói, Giu-se lại tỏ ra thích nghe những lời từ miệng Ma-ri-a thốt ra. Và dù ánh nắng yếu ớt của một ngày mùa đông không đủ mang lại hơi ấm cho vạn vật, Giu-se vẫn cảm thấy lòng mình ấm lại vì những gì vừa nghe Ma-ri-a nói. Chàng vui vẻ thu dọn đồ đạc vào hai tay nải, lấy ít cỏ khô cho con lừa trong khi Ma-ri-a chuẩn bị bữa sáng cho hai người...

 

Mục Lục: Người Thợ Mộc Thành Na-Da-Rét
Trở Về Trang Nhà