LỄ TRUYỀN TIN

MỘT ĐỜI  XIN VÂNG

+++

I. NGÀY LỄ TRUYỀN TIN

 

          1. Việc chọn ngày lễ

 

          Lễ Truyền Tin được kính vào ngày 25 tháng 3, tức là 9 tháng trước lễ Giáng Sinh, là khoảng thời gian Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu.

 

          Lễ này trước kia được mừng kính ở Giáo hội Đông phương với tước hiệu lễ “Ngôi Lời nhập thể” từ khoảng năm 550. Giáo hội Rôma mãi đến thế kỷ thứ 7 mới chấp nhận thánh lễ này.

 

          Ngày nay, Lịch Phụng vụ Rôma lấy lại danh xưng “Lễ Truyền Tin” vì có lý do chính đáng, nhưng trước sau vẫn là lễ chung của Đức Kitô và Đức Trinh Nữ : Lễ của Ngôi Lời làm “con Đức Trinh nữ” và lễ Đức trinh nữ là “Mẹ Thiên Chúa”.

 

          Ngay từ đời đời, Thiên Chúa đã có ý định tái lập tất cả những gì đã hư mất bởi tội lỗi, và phác họa một công trình cứu chuộc mà Chúa Kitô là trung tâm, với sự cộng tác cần thiết của một người nữ thánh thiện. Cả hai sẽ là Adong và Evà mới thay thế cho Adong và Evà cũ đã phạm tội.

 

          Người nữ ấy không ai khác hơn là Mẹ Maria, Đấng đầy ân phúc, trổi vượt hơn mọi phụ nữ. Mẹ đã được tiên báo qua lời hứa tại vườn Địa đàng xưa :”Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người nữ. Người sẽ đạp nát đầu mi, còn mi sẽ rình cắn gót chân Người”(St 3,15). Mẹ đã được chọn làm Evà mới thực hiện lời hứa xưa kia tại vườn Địa Đàng.

 

          2. Quang cảnh Truyền tin

 

          Trong toàn bộ Thánh Kinh, chỉ có Tin mừng theo thánh Luca (1,26-38) ghi lại biến cố truyền tin. Sứ thần Gabriel đến với một thiếu nữ đã đính hôn tên là Maria tại làng Nazareth để loan báo tin vui về việc hạ sinh Đấng Được Xức Dầu được đợi trông từng bao đời.  Sứ thần loan tin cho thiếu nữ : “Này đây, bà sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, và bà sẽ đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”.

 

          Tin báo này làm Đức Maria ngỡ ngàng, vì Ngài đã quyết chí giữ đức khiết tịnh. Sứ thần đã giải thích về cách thức Thiên Chúa sẽ làm cho sự kiện mang thai lạ lùng xẩy ra :”Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể”.

 

          Mặc dù đã có lời trấn an của sứ thần, nhưng chắc chắn Đức Maria cũng hoảng hốt vì Ngài không biết đến việc vợ chồng. Tuy nhiên, Maria đã can đảm và suy phục thánh ý Chúa  nên đã thưa với sứ thần :”Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền”.

 

          Sau câu trả lời dứt khoát của Maria, Ngôi Lời đã nhập thể làm người và Maria đã trở thành Mẹ Thiên Chúa.

 

Truyện : Thị kiến của thánh Catarina Emmerrich

 

          Một hôm, Chúa cho bà thánh Catarina Emmerrich được xem thấy quang cảnh ngày lễ Truyền Tin.

 

          Theo bà thuật lại : Ngày 23 tháng 3, tôi thấy Đức Mẹ quỳ  ngay ở chỗ phòng tôi, đầu và mặt phủ một khăn trắng mỏng, hai tay búp măng chắp trước ngực, đôi mắt đăm đăm nhìn về phía góc trời, rồi tôi thấy một luồng ánh sáng đổ xuống bên tay hữu Đức Mẹ; và trong luồng sáng trong tốt đó, tôi thấy Thiên thần Gabriel, y phục trắng toát, tóc hoe hoe và phất phới. Đoạn một tiếng chào của Thiên thần làm tan làn không khí im lặng.

 

          Nghe tiếng chào mình, Đức Mẹ có vẻ sợ sệt, hơi nghiêng về phía tả, song con mắt vẫn đăm đăm nhìn về góc trời, chứ không quay hẳn về phía tiếng chào, và cầm trí nghe lời thiên thần - mỗi lời thiên thần nói như nhả ra  từng dòng chữ lửa.

 

          Sau khi đã hiểu ý câu truyện, Đức Mẹ xoay mình lại, mở hé khăn trùm, khiêm tốn trả lời rằng :”Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền”.

 

          Quang cảnh tới đây hạ màn.

 

II. VÀI SUY TƯ TỪ LỄ TRUYỀN TIN

 

          1. Thiên Chúa là Đấng toàn năng.

 

          Trước việc sinh con mà vẫn còn đồng trinh, Maria thắc mắc và hỏi lại sứ thần :”Việc ấy xẩy ra cách nào được, vì…”?  Sứ thần liền đáp :”Đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể” (Lc 1,37).

 

          Câu trả lời của sứ thần nói lên quyền năng của Thiên Chúa, Ngài sáng tạo muôn vật từ hư vô, quyền năng Ngài không giới hạn.  Quyền năng của Thiên Chúa cũng đồng nghĩa với yêu thương, nên trong lịch sử cứu độ, Ngài luôn đi bước trước trong sáng kiến yêu thương con người.  Chỉ với bài Tin mừng hôm nay thôi cũng đủ thấy  sáng kiến táo bạo của Ngài.

 

          Thiên Chúa lại muốn trở thành một con người, đó là sang kiến táo bạo thứ nhất. Hơn thế nữa,  không muốn đột nhiên xuất hiện cách phi thường mà lại muốn làm người con bình thường sinh ra bởi một người nữ như bao nhiêu người khác. Đây chẳng phải là sáng kiến táo bạo thứ hai sao ?

Táo bạo và kỳ diệu hơn nữa đã làm phát sinh sáng kiến thứ ba thật tuyệt vời và mầu nhiệm, đó là : người phụ nữ ấy lại đồng trinh trước và sau khi sinh con. Thực ra, không có gì Thiên Chúa không làm được. Một Vị Thiên Chúa mà còn làm con người được, thì chuyện bảo vệ sự đdồng trinh cho Đức Maria trước và sau khi sinh thì có nghĩa lý gì đâu ?

 

          Cũng vậy, nếu sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra cho các Tông đồ trong lúc cửa vẫn đóng kín, thì việc Ngài hạ sinh mà tấm lòng băng trinh của Mẹ Maria vẫn còn nguyên vẹn lại không được chấp nhận sao ? Quả thật, không có gì Thiên Chúa không làm được. Điều đó mời gọi chúng ta  tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa.

 

          Thiên Chúa cũng có thể có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động nơi chúng ta.

 

          2. Thiên Chúa cần con người cộng tác

 

          Nhưng có một điều mà “Thiên Chúa không làm được”, đó là “Thiên Chúa không thể cứu độ con người nếu con người không cộng tác với Ngài”.  Lời quả quyết này có vẻ nghịch thường, nhưng nội dung bàiTin mừng hôm nay là như thế. Thiên Chúa không làm được không phải vì quyền năng Ngài bị giới hạn, nhưng vì yêu thương, tôn trọng tự do của con người nên Ngài không làm được những điều mà con người không cộng tác.

 

          Mặc dù Thiên Chúa đã ban cho con người sự tự do, nhưng Thiên Chúa vẫn có thể ép buộc Maria phải làm theo ý định của Ngài vì Ngài có khả năng làm như vậy.  Tuy nhiên, Thiên Chúa không muốn. Điều Ngài muốn là  thấy Maria tự nguyện đáp lại ý muốn của Ngài vì Thiên Chúa yêu thích những ai cho một cách vui lòng.

 

          Ôi ! Thiên Chúa nhân từ dườg nào ! Một Thiên Chúa quyền năng tuyệt đối mà lại phải đi hỏi ý kiến của một thiếu nữ nhỏ bé, quê mùa, và lo lắng chờ đợi  trước quyết định của cô, dù nó là một đặc ân cao cả, mà nếu chấp nhận thì sẽ có lợi cho toàn thể nhân loại và riêng cho thiếu nữ nữa.

 

Truyện : Chiếc đồng hồ báo thức

 

          Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm một chỗ ở xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ.  Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp :

          - Chiếc đồng hố ấy hoàn toàn vô dụng đối với con.

          - Nó vô dụng là vì con không dùng nó. Mẹ anh đáp.

 

          Qua câu truyện trên, chúng ta thấy rằng trong cuộc đời chúng ta, Thiên Chúa ban cho chúng ta muôn vàn ơn, nếu chúng ta không biết sử dụng thì nó cũng trở nên vô dụng đối với chúng ta.

 

          3. Lời Fiat của Đức Maria

 

          Bấy giờ bà Maria nói :”Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.

 

          Bình luận về câu trả lời trên, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong bài giảng tại Vương cung Thánh đường Mexicô  City đã nói :”Virgo fidelis : Đức Nữ trung tín thật thà. Đức trung tín của của Maria nghĩa là gì ? Trung tín bao gồm chiều kích gì ?

 

          - Chiều kích thứ nhất là tìm kiếm. Trước hết, Maria tỏ ra trung tín khi Ngài bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa sâu xa của chương trình Thiên Chúa nơi mình và cho thế giới. Quomodo fiet ? Sự việc xẩy ra như thế nào ? Ngài hỏi sứ thần Truyên Tin (  … ).

 

          - Chiều kích thứ hai của trung tín gọi là tiếp nhận, chấp nhận. Lời Quomodo fiet ? trên môi Maria chuyển thành một lời fiat : Xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền, tôi sẵn sàng, tôi chấp nhận. Đây là giờ phút hệ trọng của đức trung tín, giờ phút mà con người cảm thấy mình sẽ không bao giờ hiểu thấu được từ “như thế nào”; trong kế hoạch của Thiên Chúa có các khu vực mang tính nhiệm mầu nhiều hơn là tính sáng sủa rõ ràng; cho dù có ra sức phấn đấu đến đâu chăng nữa thì cũng chẳng tài nào  lĩnh hội đầy đủ sự việc ( … )

          - Chiều kích thứ ba  của đức trung tín  sự kiên định, kiên trì sống theo nhừng điều mình tin tưởng, sẵn sàng điều chỉnh cuộc đời mình cho phù hợp với mục tiêu mình theo đuổi. Sẵn sàng chấp nhận bị hiểu lầm, bắt bớ  còn hơn là ngôn hành bất nhất, tin một đàng mà làm thì một nẻo, điều này gọi là tính kiên định.

 

          - Tuy nhiên mọi sự trung tín đều phải trải qua cuộc thử thách khốc liệt nhất : sự thử thách của thời gian. Do đó,  chiều kích thứ tư là tính thủy chung như nhất. Kiên trì ngày một ngày hai thì dễ. Kiên trì trong suốt cuộc đời thì khó và đây mới là điều quan trong. Kiên trì đang khi hào hứng, hồ hởi phấn khởi thì dễ, còn vẫn giữ được sự kiên trì trong cơn thử thách khốn quẫn mới khó. Và chỉ có sự kiên trì kéo dài cho đến suốt  đời  mới là tín trung.. Lời thưa “Fiat” : xin vâng của Đức Maria trong buổi truyền tin trở nên viên mãn trong tiếng fiat xin vâng âm thầm mà Mẹ lặp lại dưới chân Thập giá (Đức Gioan Phaolô II, Bài giảng tại Vương cung Thánh đường Mexico City, 26 tháng 01 năm 1979).

 

          Đức Maria đã tận hiến làm tôi tớ Chúa, phục vụ cho thân thế và sự nghiệp của Con Ngài, và nhờ ân sủng của Thiên Chúa toàn năng, phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc dưới quyền  và cùng với Con Ngài.  Bởi vậy, các thánh Giáo phụ đã nghĩ rất đúng rằng : Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại.

 

Truyện : Tờ giấy và cây viết

 

          Nhắc đến ông Leonard de Vinci, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phát minh khoa học và những bức họa tuyệt diệu của ông. Nhưng để giải trí, ông còn sưu tầm những truyện cổ tích, hay đặt ra những truyện mới, như câu truyện sau đây về cuộc đối đáp tưởng tượng của tờ giấy trắng và cây viết.

 

          Có tờ giấy trắng nọ nằm ù lì trên bàn viết với bao đồng bạn khác từ nhiều năm tháng qua. Nhưng rồi một hôm nó được chọn đem ra  trước bàn  chịu cảnh cây viết với mực đen vẽ lên nó không biết bao nhiêu là những dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Tờ giấy phàn nàn với cây viết như sau : “Tại sao anh lại làm thế, anh vẽ trên mình tôi những dấu làm tôi mất đi sự trắng sạch ban đầu, anh làm nhục tôi thế này sao ? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi”.

 

          Nhưng cây viết trả lời :”Không, anh giấy hiểu lầm tôi rồi, tôi không làm dơ anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, những dòng chữ và kể từ nay, anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, mà mang trên mình một sứ điệp, anh trở thành kẻ cộng tác với con người lưu giữ những tư tưởng cao siêu của con ngưởi, và vì thế  sẽ được con người nâng niu bảo vệ; anh được sống mãi để trợ giúp con người”.

 

          Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết, thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay con  người quơ lấy những tờ giấy trắng đồng bạn của nó  mà nay đã trở thành vàng đục, già cỗi và đầy bụi bặm mà quăng vào ngọn lửa bên cạnh.  Bấy giờ tờ giấy trắng đầy chữ viết  mới hiểu được hành động vừa rồi của cây viết và lấy làm sung sương vì được trở thành kẻ cộng tác và lưu giữ kho tàng trí khôn của con người.

 

          Cuộc đời mỗi người chúng ta có thể được so sánh như tờ giấy trắng kia, nếu không chấp nhận để cho bàn tay Thiên Chúa viết vào đó những dòng chữ, những chương trình hành động, thì sẽ không được hạnh phúc  trở thành người cộng tác với Thiên Chúa, trở thành kẻ lưu truyền sự khôn ngoan của Thiên Chúa, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tờ giấy không hiểu được những hành động của cây viết vẽ những dấu lạ trên mình nó, con người cũng chắc chắn không thể nào hiểu được ý định của Thiên Chúa là ý định khôn ngoan, hợp lý nhất để đưa con người đến hnạh phúc.

          Thật vậy, Đức Maria đã tự nguyện trở thành tôi tớ của Thiên Chúa để cộng tác vào chương trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã trở nên một dụng cụ tuyệt vời của Thiên Chúa, hoàn toàn đặt mình dưới quyền sử dụng  của Thiên Chúa như như một tờ giấy trắng trước cây viết.

 

          Thánh Irênê nói :”Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại”. Và cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng :”Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria.  Điều mà Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, Đức Maria đã tháo ra nhờ lòng tin; và so sánh với Evà, các ngài gọi Đức Maria  là “Mẹ kẻ sống”, và thường quả quyết rằng :”Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống” (Lumen gentium, số 56).

 

                  

Lm Giuse Đinh lập Liễm

Giáo xứ Kim phát

Đà lạt