CHÚA NHẬT
5 MÙA CHAY B
VINH QUANG
NƠI THẬP GIÁ
+++
A. DẪN NHẬP.
Con người có nhu cầu cần phải yêu và được
yêu, chỉ trừ khi chết mới hết yêu. Sống
mà được yêu thương là hạnh phúc. Con người mà được Thiên Chúa yêu thương thì còn
hạnh phúc nào bằng. Giao ước ký kết giữa Thiên Chúa và loài người là một giao ước
tình yêu, nhưng nhiều lần loài người đã phá vỡ giao ước ấy, nghĩa là chối bỏ,
không chấp nhận tình yêu ấy nữa. Nhưng
Thiên Chúa vẫn không nản lòng, Ngài đã nhờ các tiên tri loan báo cho loài người
biết là Ngài sẽ ký kết một giao ước mới và vĩnh cửu. Và để cho ai nấy được rõ,
Ngài đã muốn giao ước được ký trong máu Con của Ngài đổ ra trên thập giá. Chính
Đức Giêsu đã nói:”Không có tình yêu nào lớn hơn mối tình của kẻ chết vì người mình yêu”. Ngài đã chết cho chúng ta. Giờ khổ nạn của Chúa
là giờ của tình yêu mà Ngài đã loan báo trước, đồng thời cũng là giờ Ngài được
tôn vinh.
Phụng vụ hôm nay nhắc cho chúng ta phải
thi hành giao ước tình yêu mà Chúa đã ký kết với chúng ta trong máu Con của Ngài
trên thập giá. Đáp lại tình yêu cao vời ấy, chúng ta hãy đón nhận “giờ” của Chúa là giờ của ta chúng ta,
nghĩa là chúng ta sẵn sàng đón nhận những
gian nan thử thách, thi hành thánh ý Chúa, chu toàn giữ lề luật Chúa như lời Chúa
nói qua miệng tiên tri:”Ta sẽ đặt lề luật
Ta trong lòng chúng, Ta sẽ ghi khắc luật đó vào trái tim chúng”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Gr
31,31-34.
Khi dân Do thái thoát ách nô lệ của Ai
cập, Thiên Chúa đã ký kết với dân một Giao ước ở chân núi Sinai, qua trung gian
ông Maisen. Theo đó, Thiên Chúa sẽ là Chúa của họ và bảo vệ họ, còn họ là dân
riêng của Ngài, họ phải trung thành phụng sự Ngài là Chúa tể duy nhất. Giao ước đó đã được khắc lên hai bia đá.
Nhưng qua thời gian, dân Chúa đã phản
bội Ngài, phá bỏ Giao ước đã ký kết, và kết quả là họ bị quân địch đến tàn phá đất
nước, dân chúng phải đi lưu đầy ở Babylon.
Tuy thế, Tiên tri Giêrêmia loan báo
cho họ biết Thiên Chúa sẽ lập một giao ước mới với dân Ngài. Giao ước đó sẽ không
còn ghi trên bia đá nữa, mà khắc ghi ngay trong lòng họ. Giao ước này là giao ước
tình yêu. Để cho ai nấy được rõ, Ngài đã muốn cho giao ước này được ký kết
trong máu của Con Ngài đổ ra trên thập giá. Giao ước mới và vĩnh cửu này nói lên
tình thương lớn lao và sự tha thứ không bờ bến của Ngài:”Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lầm lỗi của chúng nữa”(Gr
31,34).
+ Bài đọc 2 : Dt
5,7-9.
Đức Giêsu Kitô với thân phận làm người
đã hoàn toàn tuân phục thánh ý Chúa Cha, Ngài đã sẵn lòng chịu đau khổ đến mức
tận cùng để cứu chuộc loài người bằng chính máu mình đổ ra trên thập giá. Tác
giả thư Do thái hiểu rằng cuộc chịu nạn của Đức Giêsu là “căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai tùng phục Ngài”.
+ Bài Tin mừng : Ga
12,20-33.
Nhân cơ hội có sự hiện diện của mấy người
ngoại giáo gốc Hy lạp muốn gặp Đức Giêsu để tìm hiểu về Ngài, hoặc muốn trình bầy
điều gì đó, nhân dịp này Ngài nói với họ về“Giờ của Ngài”. Giờ của Ngài tức là
lúc Ngài bị treo trên thập giá, giờ mà Ngài được tôn vinh.
Nói theo ngôn ngữ người đời thì đó là
một điều nghịch lý, nhưng với cái nhìn đức tin, thì đó lại là một niềm vinh dự
vì qua cái nhục trong một thời gian vắn, một cái nhục vô lý, Đức Giêsu sẽ chiến
thắng vẻ vang nhờ cuộc phục sinh của Ngài,
cũng như hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi mới sinh được nhiều hạt khác:”Phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt
đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Ta”(Ga 12,33).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Vinh quang trong khổ nhục
I. ĐỨC GIÊSU ĐƯỢC TÔN
VINH.
Đức Giêsu nói:”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”(Ga 12,22). Ngài được tôn vinh
như thế nào ? Đức Giêsu được tôn vinh không phải bằng sự giầu sang, danh vọng,
quyền thế, vinh quang thế gian, Ngài được tôn vinh chính lúc bị treo trên thập
giá vì Ngài đã vâng theo thánh ý Cha Ngài, Ngài chiến thắng vẻ vang trong khổ
nhục .
1. Giờ của Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã cầu nguyện cùng Cha:”Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng
chính vì giờ này mà con đến”. Giờ
này là giờ nào ? Phải chăng là lúc ký giao ước mới trong máu của Ngài đổ ra trên thập giá? Đúng như vậy !
Lịch sử cứu độ qua các mối tương quan
giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại, ta thấy có nhiều giao ước đã được thay đổi
: Từ giao ước Adong (St 3,15), với Noe (St 9,1-17), với Abraham (St 17,1-27) đến
lời hứa giao ước mới mà Thiên Chúa dùng tiên tri Giêrêmia loan báo (Gr
31,31-34) : tất cả những lời giao ước đó đều thấy thực hiện viên mãn trong GIỜ
của Đức Giêsu. Giao ước mới quả đã thực hiện lời Thiên Chúa hứa với nguyên tổ
(St 315) đem lại chiến thắng cho con người, và tái lập tương quan mật thiết giữa
Thiên Chúa và loài người.
Đức Giêsu nói:”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Những lần khác, Đức Giêsu nhắc
đến “Giờ chưa đến”(Ga 2,4 ; 7,30 ; 8,20),
nhưng ở đây Ngài lại nói đến “Giờ đã đến”.
Vậy “Giờ” ở đây không phải là giờ
vinh quang cho bằng là “Giờ hiến tế” đem
lại vinh quang cho Ngài : Giờ vinh quang của Con Người là giờ tử nạn và phục
sinh của Ngài.
2. Sự vâng phục của Đức Giêsu.
Khi chấp nhận mục nát như hạt giống gieo vào lòng đất
với cuộc Vượt Qua trên thập giá, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn mầu nhiệm tự hủy nơi
bản thân mình. Mầu nhiệm này đã bắt đầu bằng việc Nhập Thể và kéo dài trong suốt
cuộc sống của Ngài. Sự tự hủy này trước hết, hệ tại ở sự vâng phục hoàn toàn của
Đức Giêsu trước thánh ý của Chúa Cha. Tâm tình tuân phục đó của Đức Giêsu cũng được
tỏ lộ cách cụ thể qua lời Ngài thưa với Chúa Cha, mà chúng ta vừa nghe trong bài
Tin mừng hôm nay:”Đã đến giờ Con Người được
tôn vinh. Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến
trong giờ này. Lạy Cha, xin làm vinh danh Cha”
Mặc dù luôn đặt ý Cha trên hết mọi sự,
nhưng trong bản tính của một con người, đứng trước con đường thập giá, Đức Giêsu
cũng không khỏi sợ hãi, xao xuyến, ngần ngại. Ngài sợ hãi vì trước mắt, thập giá
chính là “một điều điên rồ đối với dân ngoại, là cớ vấp phạm cho người Do thái”(1
Cr 1,23). Vì thế, khi biết rằng sắp đến “giờ”
của Ngài, Đức Giêsu đã phải thốt lên:”Bây
giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì ? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”.
Lắng nghe lời tâm sự tha thiết tự đáy
lòng của Đức Giêsu, chúng ta thấy rằng : sống vâng phục không phải là một điều
dễ dàng. Sự vâng phục này đòi hỏi Đức Giêsu
một sự cố gắng, kiên trì để vượt qua bản thân, sẵn sàng đón nhận các biến cố
vui buồn Thiên Chúa gửi đến từng ngày trong cuộc sống ; hay nói cách khác , Đức
Giêsu cũng đã phải học để có thể sống vâng phục, như lời tác giả thư Do thái viết:”Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài (Đức Giêsu) đã học
vâng phục do những đau khổ Ngài chịu”.
Thế nhưng, chính nhờ sự vâng phục trọn vẹn đó mà Đức Giêsu khi hoàn tất”Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời
cho tất cả những ai tùng phục Ngài”.
3. Đức Giêsu chấp nhận thập giá.
Với tư cách là con người như chúng ta,
Đức Giêsu cũng cảm thấy sợ hãi trước đau khổ. Trong vuờn Cây Dầu Ngài cũng đã
xao xuyến (x. Mt 26,38) và phải kêu xin cùng Cha:”Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy,
xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý
Cha”(Mt 26.39). Theo tính tự nhiên, Đức Giêsu muốn trốn tránh sự đau khổ,
nhưng Ngài lại muốn tuân theo thánh ý Cha để cho Cha định liệu. Và ý của Chúa
Cha là muốn cho Con Ngài chịu chết trên
thập gia để cứu chuộc nhân loại.
Bài Tin mừng hôm nay cho ta thấy rõ
quan niệm của Chúa đối với đau khổ, đối với mọi thánh giá trên đời.
Đức Giêsu dùng cây thánh giá như bậc
thang tới vinh quang “Per Crucem ad lucem”. Quan niệm đó mới nhìn qua là một
nghịch lý, song Ngài đã giải thích bằng một dụ ngôn vắn tắt và đầy ý nghĩa : dụ
ngôn hạt giống:”Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất,
mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình,
nhưng nếu nó thôi đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu mạng sống mình
thì sẽ mất và ai ghét mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời
đời”(Ga 12,24).
Cây thánh giá còn là phương tiện chinh
phục. Ngài cho biết, Ngài được giương lên cao thì cũng sẽ có nhiều người cùng được
lên cao với Ngài:”Phần Ta, một khi được
giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo
mọi người lên với Ta”(Ga 12,32). Lịch sử đã chứng minh cho lời Chúa. Biết
bao người đã tin theo Ngài vì cái chết đau thương đầy tình thương xót của Ngài.
Biết bao người đã bỏ tất cả và cảm mến tấm lòng thương xót của Ngài. Thập giá
Chúa đã in sâu vào trong lòng người ta.
Truyện : Ông đóng khố cởi trần.
Người ta kể rằng : Tin mừng Chúa được
gieo rắc tại Nhật bản từ hồi thế kỷ 16 do các vị thừa sai ngoại quốc đem đến. Giáo hội Nhật tuy còn non trẻ mà đã bị cấm cách
giết hại. Các vị thừa sai, vị thì bị giết, vị thì phải trục xuất, không còn một
vị thừa sai nào ở lại để tiếp tục dạy giáo lý, củng cố đức tin cho họ. Ai cũng
tưởng rằng Giáo hội Nhật bản đã bị xoá sổ vì suốt trong ba trăm năm không còn
ai đến dạy dỗ họ. Nhưng không ngờ, khi các nhà thừa sai được phép truyền giáo lại
ở Nhật, có người xưng mình là Kitô hữu. Khi được hỏi về giáo lý thì họ mù tịt,
chẳng hiểu biết gì. Nhưng khi được hỏi là họ thờ ai, thì họ đã mạnh dạn thưa
:”Thờ ông đóng khố cởi trần trên thập giá”!
II. CHÚNG TA SẼ ĐƯỢC
TÔN VINH.
Những người theo Đức Kitô sẽ được tôn
vinh, nhưng muốn được tôn vinh thì cũng phải có điều kiện, phải nói được như thánh
Phaolô : vinh quang của ta là thánh giá Đức Kitô. Chúng ta sẽ tìm được vinh
quang trong sự tự hủy, trong việc cho đi và chấp nhận thánh giá trong đời.
1. Sống theo con đường tự hủy.
Thánh Phaolô đã vinh tụng Đức Giêsu
trong bài thánh ca:”Đức Giêsu Kitô vốn dĩ
là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống
phàm nhân sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng
lòng chịu chết, chất trên cây thập tự”(Pl 2,6-8).
Đức Giêsu đã tự chọn lấy cái chết để
chiếm lấy sự sống. Mới nghe thì ai cũng cho là phi lý vì chết và sống trái ngược
nhau, làm sao có thể dung hòa được, nhưng chết và sống không hẳn là hai điều luôn
đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau : sự chết nuôi sự sống và
sự sống có thể sống được là nhờ sự chết. Ta có thể đưa ra vài ví dụ :
- Nơi
thực vật : những thứ được dùng làm phân bón phải chết đi thì mới trở thành chất
bổ dưỡng cho cây.
- Nơi
sinh vật : các thức ăn phải “tiêu” mới “hoá” thành lương thực.
- Trong
cõi nhân sinh : những người già chết đi để nhường đất và hoa mầu của đất
cho các thế hệ sau dùng đó mà sống.
- Ngọn
nến : sáp nến phải chảy ra và bị đốt thì ánh sáng mới bùng lên.
Đức Giêsu chết để cho con người sống.
Sự chết của Ngài là nguồn sự sống cho chúng ta.
(Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 165)
Theo như Flor McCarthy thì “Chết là một
phần của sống. Chúng ta sinh ra là để chết, hầu có thể sống sung mãn hơn”. Thực vậy,
- mỗi một hành vi khiêm tốn là một phần
tính kiêu ngạo chết đi.
- mỗi một hành vi can đảm là một phần
tính hèn nhát chết đi.
- mỗi một hành vi dịu dàng là một phần
tính hung hăng chết đi.
- mỗi một hành vi yêu thương là một phần
tính ích kỷ chết đi.
Con người tội lỗi chết dần đi thì con
người đích thực được dựng nên giống hình ảnh Chúa dần dần sống mạnh.
Nói một cách cụ thể để áp dụng vào cuộc
sống, chúng ta thử đưa ra vài trường hợp cho việc tự hủy, tức là bỏ ý riêng của
mình đi để theo ý Chúa :
- Giả sử cuộc hôn nhân của chúng ta bị
tan vỡ và chúng ta cần sự trợ giúp ở bên ngoài, nhưng vì quá kiêu căng chúng ta
không muốn yêu cầu điều ấy. Như vậy “bắt ý riêng chết đi” có nghĩa là bắt lòng
kiêu ngạo của ta chết đi và sẵn sàng tìm kiếm sự trợ giúp.
- Hoặc giả như chúng ta được bạn bè thân
tín cho biết chúng ta đang ngày càng bê tha rượu chè, nhưng chúng ta cứ tiếp tục
không nghe dù tình trạng bê tha gia tăng rõ ràng. Như thế “chết cho ý riêng”có
nghĩa là nhìn nhận vấn đề của chúng ta và tìm kiếm phương thuốc điều trị.
- Giả như một bạn bè hoặc một người thân
trong gia đình xúc phạm đến chúng ta một cách nào đó, khiến chúng ta cứ giữ mãi
mối ác cảm với người ấy. Thì “Chết cho ý riêng mình” có nghĩa là thật lòng tha
thứ cho người ấy và lại tiếp tục dùng tình thương cử xử với y. Không ai nói rằng
: Chết cho ý riêng mình là điều dễ dàng.
(M. Link, Giảng lễ
Chúa nhật, năm B, tr 97
2. Sống là phải biết cho đi.
Với con đường tự hủy, Đức Giêsu
đã chứng minh một chân lý xem ra có vẻ nghịch lý:”Cho là nhận” và “Chết là con đường
đưa tới sự sống”. Thật vậy, với kinh
nghiệm thường ngày, chúng ta cũng có thể nhận ra điều này. Mỗi khi chúng ta mở
bàn tay để cho là lúc chúng ta có thể nhận được, và sẽ trở nên phong phú. Còn nếu
chúng ta cứ nắm bàn tay lại để giữ cho chính mình, thì cũng đồng thời, chúng ta
không có thể đón nhận được bất cứ điều gì. Như thế chúng ta sẽ trở nên nghèo nàn
và cô đơn.
Tương tự, một người buôn bán
cứ phải bỏ tiền ra để mua hàng hoá khiến
tiền bạc bị hao hụt đi, nhưng nhờ vậy có hàng bán ra để thu tiền vào và có lời,
khiến tiền bạc ngày càng gia tăng và trở nên giầu có. Nếu người ấy không chịu bỏ
tiền ra để đầu tư, cứ giữ khư khư số tiền mình có, thì làm sao gia tăng số tiền
ấy lên được ? Vậy, điều cần thiết để có là phải cho ra hay cho đi.
Cảm nghiệm sâu sắc chân lý từ
mầu nhiệm tự hủy của Đức Giêsu, thánh Phanxicô Assisi, trong lời kinh Hoà bình,
đã ca lên :”Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc
gặp lại bản thân. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Truyện : Thánh Maximilien Kolbe.
Cha Maximilien Kolbe làm gương
cho chúng ta về cung cách sống của người môn đệ Chúa : Một buổi sáng cuối tháng
7 năm 1941 tại trại tập trung Oswiccim của Đức quốc xã, có một người vượt ngục,
10 người khác bị xử thay vào. Các nạn nhân run rẩy bước ra, đứng không vững,
khiếp đảm, không dám kêu la, trừ một người kêu ré lên “Ôi vợ và các con tôi”.
Hàng trăm dẫy tù nhân xếp hàng
dài im thin thít, hú hồn vì chưa phải tên mình, không một ai dám cựa quậy. Bỗng
từ dẫy tù nhân bên trái, một người gầy guộc rời hàng bước về phía viên trại trưởng.
Mọi người nín thở : chuyện chưa từng có ! Viên trưởng trại đặt tay lên súng :
- Anh muốn gì ?
- Tôi muốn chết thay một người
trong bọn họ.
Viên trưởng trại sửng sốt. Y
tưởng mình nghe lầm. Nhưng không, người kia thực sự xin được chết thay cho kẻ có
vợ và các con đang đợi ở nhà. Sau mấy câu
gượng gạo, viên trưởng trại nhượng bộ, chấp
nhận lời yêu cầu. Kẻ tình nguyện đo chính là Maximilien Kolbe, một Linh
mục công giáo. Cha đã được Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II phong thánh ngày
10.10.1982.
3. Chấp nhận thánh giá trong đời.
Đau khổ và hạnh phúc luôn gắn
liền và đi đôi với nhau. Bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta áp dụng định luật ấy
vào đời sống, vào cuộc hành trình đi đến hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của
ta. Đức Giêsu cho biết :”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Và
Ngài cho biết lý do nào khiến Ngài được tôn vinh. Hay nói cách khác, Ngài phải sống
hay làm thế nào mới được tôn vinh:”Thầy bảo
thật anh em, nếu hạt giống gieo xuống đất...” Ngài còn diễn tả chân lý ấy
theo kiểu khác:”Ai yêu quí mạng sống
mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được
cho sự sống đời đời”.
Qua những lời ấy, Đức Giêsu
cho thấy sự song đôi tất yếu của một cặp yếu tố trái ngược nhau : chết đi và
sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa có thể chết đi mới sinh ra những hạt khác.
Con người có đau khổ mới làm cho mình và người khác hạnh phúc. Thật vậy, nếu người ta cứ sống mãi không chết,
làm sao thế giới có đủ chỗ và tài nguyên cho các thế hệ con cháu sinh ra sau
? Do đó, chết là điều kiện tất yếu của sống,
và đau khổ là điều kiện tối yếu của hạnh phúc.
Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không được xây dựng trên đau khổ,
hoặc của chính mình, hoặc của người khác ?
Người ta nói không sai :
Có khó mới có miếng ăn,
Không
dưng ai bỗng đem phần chia cho.
(Ca
dao)
Trong Kinh thánh có rất nhiều
câu nói lên sự đi đôi giữa sống và chết, giữa đau khổ và hạnh phúc, trong đó có
vài câu chúng ta thường nghe như :
“Người đi trong nước mắt, đem hạt giống gieo trên ruộng đồng,
Người
về miệng vui ca , tay ôm bó lúa ngào ngạt hương”(Tv 126,6).
hoặc:
“Nếu ta cùng chết với Ngài, nếu chúng ta cùng chịu đau khổ với Ngài, ta
sẽ thống trị với Ngài”(2Tm 2,11-12; x. Rm 6,8; 8,17).
Truyện : Thập giá chỉ đường.
Phi trường quốc tế
Pensylvania là một trong những sân bay lớn nhất, hiện đại nhất trong các sân
bay của Hoa kỳ. Cách sân bay chỉ khoảng cây số có một ngôi thánh đường nằm đúng
vào hướng bay cuối một trong những phi đạo nhộn nhịp đón nhiều chuyến bay nhất.
Sợ tháp chuông có thể gây
nguy hiểm cho các máy bay mỗi lần đáp xuống phi đạo, toàn thể giáo dân ở đây đã
đồng lòng quyết định sẽ đặt trên đỉûnh tháp chuông một bóng đèn nê-ông lớn bằng
hình cây thánh giá. Từ đó, mỗi lần chuẩn bị đáp xuống phi đạo vào ban đêm, các
phi công đều dựa vào ánh sáng tỏa ra từ cây thánh giá như thể đó là một ngọn hải
đăng chỉ đường cho các con tầu cập bến an toàn.
“Lạy Chúa Giêsu, Thánh giá Chúa là một mầu nhiệm mà lý trí chúng con khó hiểu,
và đứng trước mầu nhiệm này, tình cảm chúng con hoảng sợ và khước từ. Xin Chúa
ban ánh sáng soi dẫn ý nghĩa cho chúng con. Xin ban cho chúng con nghị lực chấp
nhận nó với tất cả những đòi hỏi của nó. Xin ban cho chúng con vui sống mầu nhiệm ấy với Chúa, ngõ hầu Nước
Cha trị đến trong chúng con và khắp trần gian đến muôn thuở muôn đời”. Amen.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt