CHÚA
NHẬT 5 PHỤC SINH C
GIỚI LUẬT
YÊU THƯƠNG
+++
A. DẪN NHẬP
Yêu thương ! Đây là một đề tài rất
quen thuộc và rất phổ biến đối với thời đại chúng ta. Người ta hay thảo luận,
quảng cáo, ca ngợi tình yêu dưới nhiều hình thức như tiểu thuyết, phim ảnh, truyền
hình, báo chí… Nhưng thứ tình yêu mà người ta bàn đến là thứ tình yêu nào ? Thật
là hàm hồ không thể xác định được.
Tình yêu thương mà chúng ta bàn đến hôm
nay là thứ tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa, một thứ tình yêu cao quí giúp cho
con người vươn tới Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8). Tình yêu này là cốt lõi
trong Đạo và đã trở thành giới luật :”Ngươi
phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi… Ngươi phải yêu mến tha nhân như
chính mình”(Mt 22,37-39). Giới luật này đã được ghi trong sách Thứ luật và sách
Lêvi..
Nếu giới răn yêu người đã có sẵn trong
sách Lêvi, tại sao hôm nay Đức Giêsu lại còn đưa ra một giới răn mới về giới luật
yêu thương :”Các con hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương các con”(Ga 13,34) ? Sở dĩ giới răn Đức Giêsu đưa ra
được gọi là mới vì nội dung của nó
phong phú hơn, và nó đã được đổi mới. Nó phong phú không tại chữ “yêu”
mà tại chữ “như”. Như vậy là Ngài có ý nói : chúng ta phải yêu thương nhau
như Ngài đã yêu thương. Ngài đã làm thế nào chúng ta phải làm như vậy.
Hãy sống với nền văn minh tình thương
mà Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhiều lần nói tới. Giới răn yêu thương của Đức Giêsu đòi hỏi chúng
ta phải có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện. Thực ra, Đức Giêsu đã làm gương, đã
thực hiện trước, chúng ta chỉ việc dấn bước theo gương Ngài. Đây là một việc khả
thi, không vượt quá sức chúng ta. Với sự trợ lực của Chúa cùng với sự cố gắng của
chúng ta, chúng ta sẽ thực hiện được, và qua đó, người ta sẽ nhận ra chúng ta là
môn đệ của Ngài (Ga 13,35).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài
đọc 1 : Cv 14,20-26.
Bài đọc này chấm dứt hành trình truyền
giáo đầu tiên của thánh Phaolô và Barnabê. Trước khi ra đi, hai vị Tông đồ củng
cố các giáo đoàn mới thành lập, khuyên nhủ họ giữ vững lòng tin trong cơn thử
thách gian nan, nếu muốn cho Nước Chúa được mở rộng.
Sau khi cắt đặt các chức việc phụ trách
các cộng đoàn, hai vị trở về cộng đoàn đã sai mình đi, báo cáo thành quả của việc
rao giảng.
+ Bài
đọc 2 : Kh 21,1-5.
Đây là thị kiến cuối cùng của thánh
Gioan. Bài này mở ra một thế giới mới và một trật tự mới các sự việc do Đức Giêsu
bắt đầu.
Điểm tới mà Thiên Chúa muốn đưa nhân
loại về là “trời mới đất mới”, như bài
Khải huyền trình bầy một cách thần bí : đó là được sống mãi mãi với Thiên Chúa,
trong niềm vui hạnh phúc vững bền. Chính niềm tin này nâng đỡ khích lệ các tín
hữu, đặc biệt các nhà truyền giáo, trung kiên trong sứ mạng.
+ Bài
Tin mừng : Ga 13,31-33a.34-35.
Lời từ biệt của Đức Giêsu được diễn ra
trong phòng tiệc ly, sau khi Giuđa đã ra đi vào đêm tối. Lời từ biệt nhắc tới giờ Ngài bị treo trên thập giá. Đức Giêsu cho
biết, bằng cuộc tử nạn, Ngài làm vinh quang cho Thiên Chúa Cha, và ngược lại,
Thiên Chúa Cha lại tôn vinh Ngài.
Ngài sẽ ra đi, và trong lúc chờ đợi Ngài
trở lại, họ còn có anh em đồng loại để yêu thương, họ phải sống theo một giới răn
mới. Giới răn yêu thương – và tiêu chuẩn của giới răn này là “Như Thầy đã yêu thương các con”. Thế
gian sẽ biết rằng các Tông đồ là môn đệ của Đức Kitô bởi lòng trung tín của họ đối
với giới răn này.
B. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Các
con hãy yêu thương nhau.
I. GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG.
1. Trong Cựu ước.
Phải chăng tình yêu đích thực phải bắt
nguồn từ Thiên Chúa (1Ga 4,7) ? Sách Khởi nguyên cho ta thấy nguồn gốc của tình
yêu đích thực. Nguồn gốc ấy chính là Thiên Chúa, Đấng luôn sáng tạo và giải phóng
để mọi vật hiện hữu theo kế hoạch yêu thương của Ngài. Từ ban đầu, Ngài đã dựng
nên ánh sáng, mặt trăng giữa hoàn vũ, trong đó có trái đất với mọi thứ cây cỏ và
súc vật. Những thứ ấy đều tốt nhưng Thiên Chúa không thể yêu thương chúng, vì yêu
thương đòi phải có đáp trả. Vậy cuối cùng Thiên Chúa đã dựng nên con người giống
hình ảnh Ngài… Ngài ban cho họ có tình yêu, có tự do. Đó là món quà quí giá Ngài
ban cho con người.
Khi Thiên Chúa chọn Israel làm dân riêng
của Ngài, Ngài đã ký kết với họ một giao ước qua trung gian ông Maisen, theo đó, họ phải tin theo, yêu mến , trung thành với
Ngài, với lề luật của Ngài. Trong lề luật đó, ta thấy có hai khoản luật căn bản
và quan trọng nhất, đó là :”Ngươi phải yêu
mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó
là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống
điều răn ấy, là : ngươi phải yêu mến tha nhân như chính mình””(Mt 22,37-39 ; Mc
12,28-34; Lc 10,25-28).
2. Trong Tân ước.
Đọc đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta liên
tưởng đến lời cụ Phan bội Châu viết trong “Lưu cầu huyết lệ tân thư” rằng :”Con chim sắp chết hót tiếng bi thương, con
người sắp chết nói lời tâm huyết”.
Sau khi Giuđa ra đi vào đêm tối, chỉ còn lại Đức Giêsu và mười một môn đệ,
trong bầu khí yêu thương và nhuốm mầu bi ai, Ngài đã nói những lời tâm huyết trối
lại cho các ông những lời cuối cùng:”Thầy
truyền cho các con điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương các con”(Ga 13,14).
Kitô giáo vừa là đạo mới vừa là đạo cũ.
Cũ là vì đạo đã có từ thời tổ phụ Abraham. Mới là vì Đức Kitô đến đổi mới lại đạo
cũ. Đấng Cứu Thế đến thiết lập một giao ước mới không phải phê chuẩn bằng máu
chiên bò, nhưng bằng chính máu của Ngài đổ ra trên thập giá.
II. MỘT GIỚI RĂN MỚI.
Khi Đức Giêsu nói với các môn đệ :”Thầy
ban cho các con một điều răn mới” thì thực sự, đó không phải là điều răn mới
theo nghĩa Đức Giêsu là người đầu tiên ban bố. Dân Chúa trong Cựu ước đã nghe
biết về giới răn yêu thương. Và giới răn yêu thương đã được viết trong sách Lêvi
:”Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính
mình”(Lv 19,18). Vậy tại sao Đức
Giêsu lại gọi giới răn yêu thương là giới răn mới ?
Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy điểm mới mẻ
mà Đức Giêsu muốn nói không nằm ở chữ “yêu”,
vì Ngài đã từng nói:”Nếu các ngươi yêu những
kẻ yêu mến các ngươi, thì các ngươi có công gì ? Há những người thu thuế cũng
không làm thế sao”? (Mt 5,6), nhưng
cái mới ở đây nằm ở chữ “như”, Đức
Giêsu nói:”NHƯ Thầy đã yêu thương các
con, các con cũng hãy yêu thương nhau”.
Yêu như Đức Giêsu đã yêu là một thứ
tình yêu vô vị lợi, không đòi đáp trả như một thứ đổi chác : Có đi có lại mới toại lòng nhau. Tình yêu
rộng mở cho hết mọi người, kể cả kẻ thù, như cảm nghiệm của thánh Phaolô trong
thư gửi cho tín hữu Rôma:”Đức Kitô đã chết
vì chúng ta ngay lúc chúng ta còn là
tội nhân”(Rm 5.8b). Đức Kitô đã chết cho chúng ta ngay lúc chúng ta còn là tội nhân, nghĩa là
ngay lúc chúng ta ở trong tình trạng thù
địch với Thiên Chúa. Yêu như Đức Giêsu đã yêu còn là một tình yêu dám hy sinh
tính mạng vì người yêu, chịu chết trên cậy thập giá vì tội lỗi nhân loại.
Trở lại với bài Tin mừng hôm nay, chúng
ta biết rằng trước khi ban cho các môn đệ giới răn mới này, thì trước đó, ngay
trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Đức Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể để lại
chính Mình và Máu Ngài làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Kế đó, Ngài lại còn dùng chính Máu của mình để lập nên
một giao ước mới thanh tẩy tội lỗi chúng ta. Mặc dù là thân vô tội, nhưng vì yêu
thương chúng ta, Đức Giêsu đã chấp nhận trở nên con Chiên hiền lành bị đem đi sát
tế vì tất cả tội lỗi chúng ta (x. Ga 1,29).
Tắt một lời, cái mới trong giới răn yêu
thương của Đức Giêsu không nằm ở nguyên một chữ “yêu”, nhưng nằêm ở chữ “như”.
Yêu như Ngài đã yêu chúng ta, đó là một tình yêu dành cho hết mọi người, hoàn
toàn vị tha, luôn hướng về người mình yêu, một tình yêu không tính toán hơn thiệt,
tình yêu chỉ có cho đi mà không hề đòi đáp trả, một tình yêu không có giới hạn.
III. SỐNG YÊU THƯƠNG
VÀ PHỤC VỤ.
1. Thư Mục vụ của HĐGMVN năm 2006.
Thư mục vụ năm 2006 chọn chủ đề “Sống đạo
hôm nay” để mời gọi mọi người sống niềm tin
bằng những hành động cụ thể, như thánh Giacôbê viết:”Đức tin không có hành động thì quả là đức
tin chết”(Gc 2,17). Quả thực, đời sống đạo vừa cần gắn bó với Thiên Chúa, vừa
phải đi đến với anh em, như Chúa Giêsu, Ngôi lời nhập thể và nhập thế đã nêu gương
cho chúng ta.
Chúng ta có thể nói được ý chính của bức
thư mục vụ này được tóm gọn trong công thức “Yêu thương và phục vụ”. Thư mục vụ
nói :”Con người mới theo gương Chúa Giêsu phải là con người “dấn thân phục vụ”.
Nếu việc phục vụ tha nhân có thể giúp cho người khác nhận ra sự hiện diện của
Thiên Chúa nơi Kitô hữu, thì chính việc phục vụ đó cũng có thể giúp Kitô hữu cảm
nghiệm tình yêu Thiên Chúa cách rõ nét hơn…
Như thế, dấn thân phục vụ con người là
đòi hỏi tất yếu của đức tin Kitô giáo. Đời sống đạo luôn luôn phải được đặt trên
nền tảng bác ái yêu thương, vì đây là điều răn quí trọng nhất (x. Mt 22,37-39)
và là dấu hiệu rõ ràng nhất khẳng định chúng ta thuộc về Chúa Giêsu:”Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của
Thầy ở điểm này : là anh em có lòng yêu thương nhau”(Ga 13,35) (Trích thư Mục vụ
số 6).
2. Sống và yêu thương.
Yêu thương vẫn là lẽ sống của con người.
Ai mà không biết yêu thương ? Nếu một người chẳng muốn yêu ai, và cũng không muốn
ai yêu mình thì có thể kể như không phải là con người nữa. Nói thế chắc không
quá đáng ? Ta hãy xem từ một kỳ công cho
đến một công việc bình thường thôi, có ai lại không làm do động lực yêu thương
? Dù là vị kỷ, chỉ yêu chính mình đi nữa – chứ nếu tuyệt nhiên không yêu thương
đến cả bản thân mình – thì hầu chắc là trạng thái của người tâm thần mà thôi.
Trong cuộc sống hằng ngày, theo nguyên
tắc thì ai cũng phải yêu, nhưng chúng ta thấy người ta có thể ở một trong ba trạng
thái này :
a) Không yêu thương và không được yêu
thương, điều này xem ra giống hỏa ngục trần gian.
b) Yêu thương nhưng không được yêu thương
đáp lại, nhưng vẫn tốt hơn tình trạng trên.
c) Yêu thương và được yêu thương – đây
là tình trạng được chúc lành mà Đức Giêsu đã vui hưởng:”Như Cha Thầy đã yêu mến Thầy, cũng thế Thầy đã yêu mến anh em”.
3. Yêu bằng tình yêu nào ?
Ngày nay người ta nói nhiều đến tình yêu,
nghiên cứu tình yêu, ca ngợi tình yêu, nhưng là thứ tình yêu nào ? Eros hay Agapè
? Tình yêu bản thân hay tình yêu kẻ khác ?
Theo từ ngữ Hy lạp ta thấy hai từ Eros và Agapè diễn tả hai thực tại yêu
thương đối nghịch nhau :
a) EROS : là thứ tình yêu vị kỷ, chỉ biết thu vào, tìm mình
trong người khác. Đó là tình yêu lợi dụng kẻ khác đến hủy hoại họ.
Viết về kinh nghiệm của mình ở
Auschwitz, Elie Wiesel nói rằng người Đức đã nỗ lực làm cho các tù nhân quên hết
người thân và bạn bè mà chỉ nghĩ đến mình và chỉ nhắm đến các nhu cầu của mình
hoặc họ phải chết. Điều đó khiến họ nói đến các nhu cầu ấy cả ngày lẫn đêm. Nhưng
điều ngược lại đã xẩy ra. Những người nào chỉ sống cho mình, ít có cơ may sống
sót, trong khi người nào sống cho người thân, bạn hữu, anh em, một lý tưởng đã
có cơ may tốt hơn để sống còn. Người ta sống nhờ những gì người ta cho đi
(McCarthy).
Truyện : chàng Narcisse cô đơn.
Huyền thoại kể rằng Narcisse là một vị
thần rất đẹp trai. Nàng tiên Echo (Tiếng Vọng) yêu chàng nhưng bị chàng cự thuyệt,
đã biến thành tượng đá. Một hôm Narcisse đi lang thang, tình cờ đến bên bờ một
giếng nước, chàng nhìn thấy bóng mình trong lòng giếng và đâm ra ngây ngất say mê. Chàng cố sức nắm bắt cái bóng của
mình, nhưng không cách gì bắt được, nên sinh ra buồn bã và chết, biến thành bông
hoa thủy tiên bên bờ giếng.
Mỗi người chúng ta ít nhiều đều là anh
chàng Narcisse đáng buồn ấy, bởi vì ai cũng yêu mình thái quá, ai cũng khoe rằng
mình hay, mình giỏi, mình đẹp… Và ai cũng muốn mình là trung tâm vũ trụ, người
khác sinh ra là để phục vụ mình, để cuối cùng nằm chết bên bờ giếng hư vô, chả
biết có hóa thành hoa thủy tiên không.
b) AGAPÈ : là thứ tình yêu xả kỷ, vị tha, chỉ biết tìm hạnh phúc
cho người khác. Đó là tình yêu sẵn sàng
hy sinh cho kẻ khác, quên mình, quên hạnh phúc của mình để nghĩ đến người khác.
Tính ích kỷ làm cho chúng ta khép kín
tâm hồn, nó hạn chế chúng ta. Nó dựng nên các rào cản, cả những bức tường giữa
chúng ta và những người khác. Điều giải phóng chúng ta khỏi sự giam hãm ấy là mỗi
tình cảm sâu sắc, quan trọng đối với những người khác. Trở nên bạn hữu, anh em
và chị em, người yêu là những người sẽ mở cửa nhà tù. Tình yêu thương giải phóng
chúng ta khỏi tù ngục các tính ích kỷ.
Truyện : Trở nên người cùi.
Trong y học, người ta không nhớ những
thầy thuốc làm giầu do nghề nghiệp, nhưng
nhớ đến những người đã hy sinh mạng sống để chữa lành những đau đớùn của con người.
Tại một hội nghị chuyên đề về bệnh cùi
được tổ chức tại Cairô, thủ đô Ai cập, có một y sĩ trẻ người thành Alexandria được
người ta để ý, anh chăm chú nghe các bài thuyết trình của các chuyên gia, nhưng
có một điều lạ là anh ngồi tách rời với đám đông, trong một góc nhỏ. Không ai
biết anh dùng bữa ở đâu. Anh cũng không giao thiệp với bất cứ thành viên nào trong hội nghị. Vào
phiên họp cuối cùng anh lên tiếng. Khi anh tóm kết bài tham luận, một sự im lặng
như chết bao trùm cả phòng họp : nhiều người bật tiếng khóc. Anh nói gì ? Anh
tuyên bố rằng anh đã tự nguyện để mình nhiễm bệnh cùi để có thể tự anh quan sát
diễn biến của cái bệnh kinh khủng này.
Anh cho thấy những vết trắng và nâu ở cánh tay anh, một triệu chứng không
thể chối cãi của sự nhiễm trùng, và rồi anh mô tả tất cả những gì anh đã cảm thấy,
cùng hiệu quả của tất cả các thuốc anh đã dùng. Anh biết rằng anh không thể tránh
được cái chết từ từ và đau đớn, nhưng anh sẵn sàng chịu đựng tất cả để góp phần
vào sự tiến bộ của khoa học, hầu đẩy lui những hiểm nguy cho các người mắc bệnh.
Trong mọi cuộc chiến tranh, vinh quang
tuyệt đỉnh không thuộc về những người sống sót mà thuộc về những người đã bỏ thây
nơi chiến trường. Bài học đơn giản của lịch sử là những người chịu hy sinh lớn
thì nhận được vinh quang cao cả. Nhân loại quên đi những người thành công nhưng
chẳng bao giờ quên ơn những người dám hy sinh. Họ bước đi trong các vết chân của
Đức Kitô.
Yêu thương có đặc tính là trao ban, là cho đi, trao tặng ngay cả đến
bản thân. Chính lúc cho đi mạng sống mình trên thập giá, tình yêu của Đức Giêsu
mới thực sự lên ngôi, tình yêu ấy mới bắt đầu
chiếm hữu tâm hồn nhân loại. Nói khác đi, yêu thương chính là hy sinh
chia sẻ bất cứ điều gì mình có – Thế nên trong tình yêu thương chân thành thì
chuyện hy sinh là tất nhiên (như trong nước thì tất nhiên phải có oxy và dydrô
vậy), chứ nếu ngại ngùng, sợ phiền hà… thì chưa kể là Tình Yêu thương đích thực.
Truyện : Tôi đã cho đi tình yêu của
mình.
Một buổi tối nọ, trước khi ngôi sao âm
nhạc nổi tiếng của Broadway, Mary Martin lên sân khấu trình bầy vở nhạc kịch lừng
danh South Pacific (vở nhạc kịch này đoạt giải hay nhất năm 1950). Người ta đưa
cho Mary Martin một mảnh giấy của Oscar Hammerstein, tác giả của vở kịch này,
hiện đang nằm trên giường bệnh, sắp chết. Không biết trong mảnh giấy viết gì,
chỉ biết rằng sau buổi trình diễn hôm đó, người ta ùn ùn chạy ra hậu trường, khóc
lóc, nói rằng :”Mary, điều gì đã xẩy ra với cô tối nay vậy ? Chúng tôi chưa bao
giờ thấy cô diễn xuất như vậy cả”. Vừa chớp mắt đôi mắt ướt đẵm, Mary đọc bức
thư ngắn ngủi của Oscar Hammerstein, nộïi dung như sau :
“Mary mến, một cái chuông không
phải là chuông cho đến khi cô rung nó. Một bản nhạc không phải là bản nhạc cho đến
khi cô hát nó. Tình yêu trong trái tim của cô
đừng để nó nằm yên tại đó. Tình yêu không phải là tình yêu cho đến khi cô
cho đi”
Rồi cô ta nói :”Tối nay, tôi đã cho đi
tình yêu của mình”(Internet).
Hôm nay Chúa dạy chúng ta một bài học
cụ thể, nhưng vô cùng khó khăn, phức tạp, đó là một thách đố triền miên : phải
thực hiện sự cho đi của mình, phải thể hiện một cách rõ ràng bằng hành động, phải
làm cho thiên hạ thấy được sự yêu thương nhau trong cư xử, của những người anh
em trong một thân thể duy nhất là Hội thánh, trước khi lan tỏa đến những người
ngoài Giáo hội.
4. Sống với nền văn minh Tình thương.
Trong những năm gần đây, Đức Giáo hoàng
Gioan Phaolô II cũng thường đề cập đến một nền văn minh tình thương. Thực vậy,
con người chỉ được coi là văn minh khi biết bước ra khỏi sự man rợ của thú
tính, khi biết sống yêu thương và nhìn nhận kẻ khác cũng là người như mình, bất
chấp những khác biệt về chủng tộc, mầu da, tôn giáo hay quan điểm chính trị. Xây
dựng một nền văn minh dựa trên tình thương, đó là bổn phận cấp bách chủa người
Kitô hữu hôm nay. Và đó cũng là ý muốn của Chúa Giêsu khi Ngài nói với chúng ta
:”Thầy ban cho chúng con một điều răn mới,
là các con hãy thương yêu nhau” (Phạm văn Phượng).
Nếu không có tình yêu thương, người ta
sẽ là gì ? Những người không muốn yêu thương đều có đời sống nghèo nàn. Nhưng
những người sống yêu thương có một đời sống phong phú và hiệu quả. William Blake nói :”Chúng ta đã được đặt vào trần gian ngắn ngủi
để học tỏa sáng tình thương”. Giải
thoát khỏi tính ích kỷ và có khả năng yêu thương người khác – đó là ý nghĩa của
đời sống của chúng ta và của mọi người.
Khi kết thúc cuộc đời, nhìn lại, người
ta chẳng thấy có gì quí giá cho bằng Tinh Thương yêu. Con người chỉ thấùy được
hạnh phúc khi mình biết yêu và được yêu. Đây là một chứng từ : Một bác sĩ, được
ưu tiên chia sẻ những giây phút thâm sâu nhất của cuộc đời, nói rằng : con người
đối diện với cái chết không còn nghĩ gì về mức độ họ đã thu được, hoặc họ nắm
giữ những địa vị nào, hoặc đã tích trữ được bao nhiêu của cải. Vào lúc cuối cùng,
điều thực sự quan trọng là bạn đã yêu thương ai và ai đã yêu thương bạn
(McCarthy).
Yêu thương anh em là sống tinh túy của
Đạo. Có thể rằng trong vài đạo giáo có sự đọc kinh nhiều hơn đạo ta, như Hồi giáo
với 5 lần kinh nguyện trong ngày hướng về La Mecca. Có thể có đạo giáo với sự hãm
mình phạt xác, diệt dục nhiều hơn ta như Aán độ giáo. Nhưng cái đặc điểm Đạo thánh
ta phải là Tình yêu “nhờ dấu ấy, người ta
mới biết chúng con là môn đệ Thầy”.
Giáo hữu tiên khởi đã hiểu và đã thực thi bác ái đến độ mọi người chung
quanh đều kêu lên :”Kìa xem họ thương yêu
nhau” (Hồng Phúc).
Nhìn vào dòng lịch sử, chúng ta thấy yêu
thương nhau là một nét tiêu biểu của các tín hữu buổi sơ khai. Sách Công vụ Tông
đồ cho thấy : họ coi mọi sự như là của chung. Họ đồng tâm nhất trí chuyên cần
lui tới đền thờ cầu nguyện và bẻ bánh, cùng nhau chia sẻ của ăn nuôi thân. Ôâng
Tertullianô đã ghi nhận về cộng đoàn các Kitô hữu thời sơ khai như sau :”Dân chúng
nhìn họ, tức các Kitô hữu, và nói về họ rằng : Hãy xem họ yêu thương nhau biết
bao và sẵn sàng hiến mạng cho nhau chừng nào. Những người ở ngoài gọi họ là Kitô
hữu, nhưng họ vẫn gọi nhau là anh em”. Đó là cộng đoàn Kitô sơ khai ở Giêrusalem.
Thánh Giêrônimô có kể lại câu chuyện về
thánh Gioan tông đồ. Lúc vị Tông đồ đã về già, ngài vẫn không ngừng nhắc nhở các
Kitô hữu trong công đoàn là hãy yêu thương nhau. Người ta phát chán vì thấy Ngài
cứ nói mãi điều ấy, nên mới hỏi lý do. Ngài trả lời :”Bởi vì đó là điều răn của
Chúa, chỉ cần giữ điều răn này là đủ”.
Điều duy nhất và cần thiết mà chúng ta
phải làm trong ngày hôm nay đó là khám phá lại năng lực của tình yêu, loại tình
yêu mà Đức Giêsu đã truyền giảng. Tình yêu ấy nâng con người lên một thế giới
cao hơn, mang lại cho họ niềm hy vọng mới.
Một người Aán giáo đã nêu thắc mắc nho nhỏ sau đây với một thừa sai Kitô
giáo:”Nếu Kitô hữu các ngài sống đúng như lời Kinh thánh của các ngài dạy (nghĩa
là biết yêu thương như lời Kinh thánh dạy) thì chỉ trong vòng 5 năm thôi, các
ngài sẽ chinh phục được cả Aán độ”.
Thực hiện lời Chúa dạy chúng ta trong
bài Tin mừng hôm nay :”Mọi người sẽ nhận
biết các con là môn đệ của Thầy ở điểm này : là các con có lòng yêu thương
nhau”(Ga 13,35), chúng ta hãy đem tình yêu vào trong cuộc sống, chính tình
yêu sẽ làm cho mọi công việc của chúng ta, tuy tầm thường, nhưng sẽ lóe sáng trước
mặt thiên hạ để người ta nhận ra sự hiện diện của Chúa qua con người của chúng
ta.
Truyện : Viên ngọc lóe sáng.
Có hai người bạn đi vào tham quan bên
trong một tiệm bán đồ nữ trang. Khi đã chiêm ngắm nhiều viên đá quí, họ để ý và
lấy làm lạ là có một viên ngọc sần sùi, không óng ánh bóng loáng như những viên
ngọc khác. Vì thế, một người bạn lên tiếng bình phẩm:”Nếu viên đá này không có
vẻ gì quí giá cả, tại làm sao người ta lại trưng bầy nó ở đây”? Nghe vậy, người
chủ tiệm kim hoàn bèn cầm lấy viên ngọc và nắm chặt trong lòng bàn tay mình. Một
lát sau viên đá mờ đục không bóng loáng đó trở nên lấp lánh muôn mầu sắc hết sức
kỳ diệu. Thấy lạ, một người bạn hỏi ông chủ tiệm :”Làm sao mà kỳ lạ vậy”? Người
chủ trả lời :”Đây là viên ngọc mắt mèo, được mệnh danh là viên đá thiện cảm,
nghĩa là nó cần có đụng chạm với hơi nóng ấm của bàn tay, tức khắc nó sẽ phát
ra những tia sáng óng ánh muôn mầu sắc là
thế” (Quê Ngọc).
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt