CHÚA
NHẬT 6 PHỤC SINH C
ĐỨC GIÊSU
VẪN HIỆN DIỆN
+++
A. DẪN NHẬP
Bài Tin mừng hôm nay là một đoạn trích
trong bài diễn từ giã biệt của Đức Giêsu
(Ga 13,31; 14,31). Việc Đức Giêsu ra đi đã làm cho các môn đệ buồn sầu lo lắng,
không biết tương lai sẽ ra sao. Thấy vậy, Đức Giêsu đã trấn an các ông, Người
khuyên các ông “đừng xao xuyến và buồn sầu” (Ga 14,27), vì Người ra đi rồi sẽ
trở lại với các ông bằng một cách thế khác.
Đức Giêsu khuyên các ông hãy giữ mối
tinh thắm thiết với Người, đừng “cách mặt xa lòng”, và cách thế để tỏ
lòng yêu mến đối với Người là hãy thực
hiện những điều Người truyền dạy :”Nếu các
con yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ các giới răn của Thầy”(Ga 14,5). Và tuân
giữ lời Người là thước đo cụ thể và chính xác nhất lòng yêu mến của các ông đối
với Người.
Đức Giêsu còn cho các ông biết việc Người
ra đi thì có lợi cho các ông hơn vì Người có ra đi thì Thánh Thần mới được sai đến
để dạy dỗ và nhắc nhở các ông, giúp các ông hiểu thấu đáo hơn những lời nói và
việc làm của Người khi còn tại thế :”Thầy
ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ
không đến với các con; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các
con”(Ga 16,7).
Sau cùng, Đức Giêsu còn hứa ban cho các
môn đệ sự bình an riêng của Người. Đây là
sự bình an đặc biệt, bình an nội tâm, một sự bình an tuyệt hảo mà chỉ Thiên Chúa
mới có thể ban tặng cho chúng ta :”Thầy để
lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy, Thầy ban cho các
con không như thế gian ban tặng”(Ga 14,27).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Cv 15,1-2.22-29
Ngay từ ban đầøu, Hội thánh cũng gặp một
ít trục trặc, nhưng đã được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Số là đang khi Phaolô và
Barnabê truyền giáo cho dân ngoại thì có những người Do thái từ Giêrusalem đến buộc
dân ngoại tân tòng phải cắt bì và phải tuân giữ luật của Maisen. Hai vị truyền
giáo không đồng ý nên trình vấn đề này lên
Hội thánh.
Các Tông đồ đã họp hội nghị tại Giêrusalem
và ra quyết nghị : những người ngoại tân tòng chỉ phải giữ những cái tối thiểu.
Hội nghị đã cử Phaolô, Barnabê và mấy vị khác đến Antiochia với sứ mạng báo tin
cho họ : chỉ cần giữ những điều cần thiết, đó là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng,
kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm.
+ Bài đọc 2 : Kh 21,10-23.
Trong một thị kiến khác, thánh Gioan được
trông thấy “kinh thành muôn thưởûû” lý tưởng trong tương lai. Đó là hình ảnh uy
nghi của Giêrusalem mới được trình bầy cho chúng ta :
-
Thành từ trên trời
ngự xuống.
-
Rất xinh đẹp và tươi
sáng.
-
Thành không có đền
thờ vì chính Thiên Chúa là đền thờ của thành; thành cũng không có mặt trời mặt
trăng vì chính Thiên Chúa là ánh sáng của thành.
-
Đó là Hội thánh tương
lai trên trời khi vương quốc của Thiên Chúa sẽ đến trong vinh quang trọn vẹn.
+ Bài Tin mừng : Ga 14, 23-29
Bài Tin mừng lấy từ bài diễn từ của Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly, và
ý chính là sự ra đi sắp xẩy ra của Người. Người bảo đảm cho các môn đệ rằng Người
sẽ không để cho họ mô côi. Dù Người ra đi,
Người và họ sẽ không rời nhau. Nếu họ giữ lời Người, họ sẽ được đưa vào trong
tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con. Chính Thánh Thần sẽ nhắc họ lời Người.
Trong dịp này, Người trấn an các môn đệ
trong cuộc ra đi của Người. Vì thế, Người hứa ban cho các ông sự bình an, một
thứ bình an đặc biệt mà thế gian không thể ban cho.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Những
lời hưa của Đức Giêsu
I. SỰ HIỆN DIỆN MỚI
CỦA ĐỨC GIÊSU
1. Sự ra đi của Đức Giêsu.
Trong suốt thời gian rao giảng Tin mừng
của Đức Giêsu, các môn đệ đã được Người rao giảng về Nước Trời, được nghe những
lời Người giảng, chứng kiến những việc Người làm, nhưng các ông chưa hiểu được ý
Chúa. Các ông cứ tưởng Chúa mời gọi mình để được hưởng đặc quyền đặc lợi, được ăn
trên ngồi trốc, được quyền lãnh đạo và được mọi người tôn trọng trong Nước Người
sắp thành lập.
Nhưng không, trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu
nói về sự ra đi của Người : Người sẽ bị bắt, bị đánh dòn, bị giết chết, nhưng
sau ba ngày sẽ sống lại. Thật là một tin sét đánh làm cho các ông chao đảo. Các
ông chìm vào sự đau buồn trước viễn cảnh mất Người. Họ không muốn Người đi, họ
muốn giữ Người lại vì “Ra đi là chết trong lòng một ít”.
Các ông cảm thấy lo sợ vì như sống
trong cảnh rắn mất đầu, các ông sẽ phải cô đơn, phải gặp nhiều trắc trở và gian
nan thửû thách. Tương lai còn mù mịt, không biết số phận mình sẽ rao sao. Đức
Giêsu hiểu rõ tâm trạng của các ông.
2. Những lời khích lệ của Đức Giêsu
Đức Giêsu nói với họ rằng Người không để cho họ mồ côi đâu. Người
ra đi rồi sẽ trở lại với họ, để bắt đầu giữa họ và trong họ một cách hiện diện
khác, mầu nhiệm, chỉ dành cho những ai trung tín với lời Người. Người không có ý đề cập đến sự trở lại với
hình dạng thể lý, cũng không phải sự trở lại huy hoàng trong ngày thế mạt, nhưng
, ngay từ bây giờ, là sự hiệp thông nghĩa thiết với Thiên Chúa trong mầu nhiệm
Ba Ngôi :”Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời
Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga
14,23).
Đức Giêsu còn cho biết việc ra đi của
Người sẽ có lợi cho các ông hơn, vì như Người nói :”Các con sẽ buồn vì nghe nói Thầy phải rời xa các con. Lòng các con sẽ
buồn sầu và sợ hãi, nhưng này Thầy bảo cho chúng con biết Thầy ra đi sẽ tốt cho
các con hơn, vì khi ấy, Cha Thầy sẽ sai Thánh Thần đến giúp các con tăng trưởng
theo một cách thức mới”.
Hay nói cách khác, Đức Giêsu nói cho các
môn đệ biết đã đến giờ Người phải rời xa các ông ít lâu, đã đến giờ họ phải bắt
đầu một giai đoạn mới trong việc phát triển tâm linh, đã đến giờ họ cần được phát
triển theo một phương cách mới.
Đức Giêsu nhấn mạnh cho các ông tư tưởng
này là hãy bình tĩnh :”Các con đừng xao
xuyến và sợ hãi”(Ga 14, 27). Người không bỏ rơi các ông nhưng luôn hiện diện
với các ông bằng một cách thức khác mà các ông không ngờ.
Truyện : Thầy đã vác con trên vai
Chúa Giêsu và một thanh niên cùng đồng
hành trên một bãi cát dài trên biển. Bốn vết bàn chân hằn lên rõ trên mặt cát.
Nhưng khi chàng thanh niên chẳng may gặp phải khó khăn thử thách, anh ta liền
nhìn xuống mặt cát thì chỉ thấy còn lại hai dấu bàn chân. Anh kinh ngạc thất vọng
kêu lên :”
- Thưa Thầy, lúc nãy Thầy trốn đi đâu để con bước đi một mình ?
Chúa Giêsu nhỏ nhẹ bảo anh ta :
- Con thử nhìn kỹ xem, coi đó là những vết chân của ai ?
Nghe lời Chúa, anh thanh niên nhìn kỹ
lại thì mới tỉnh ngộ ra, đó là những dấu
chân của Chúa. Anh ta vội thắc mắc la lên :
- Vậy thưa thầy, lúc đó con ở đâu ?
Chúa âu yếm trả lời :
- Con ạ, những lúc con gặp khó khăn gian nan, chính khi đó Thầy biết
con không đủ sức chịu đựng nên Thầy đã vác con trên vai Thầy để cứu giúp con khỏi
hoạn nạn đấy.
Dĩ nhiên đây là câu chuyện tưởng tượng,
nhưng lại là một câu chuyện đầy ý nghĩa vì nó nói lên được một sự thật mà có lẽ
ngày xưa các Tông đồ cũng như ngày nay chúng ta đều không nhận ra hoặc chưa tìm hiểu cặn kẽ : đó là Chúa luôn
luôn hiện diện bên ta để bênh vực giúp đỡ ta.
Một chân lý thật đơn giản và rõ ràng.
Vì suốt trong thời gian truyền đạo, riêng tư cũng như công khai, Chúa Giêsu luôn
nhắc đi nhắc lại câu nói :”Thầy ở với các
con mọi ngày cho đến tận thế”. Thế
thì tại sao trong cuộc sống hằng ngày, nhất là những lúc gặp gian nan khốn khó
chúng ta hầu như quên sự hiện diện của Chúa, thậm chí đôi lúc có những người đối
xử, ăn nói kiểu như không có Chúa nữa.
3. Những lời căn dặn của Đức Giêsu.
Người ta thường nói :”Cách mặt xa lòng” (Tục ngữ) nghĩa là xa nhau thì dễ quên
nhau. Đây là một kinh nghiệm rất phổ biến vì nó thường xẩy ra hằng ngày một cách
rất tự nhiên. Đức Giêsu muốn đề phòng
cho các môn đệ khỏi lâm vào cảnh đau lòng “cách
mặt xa lòng”, nên trước khi về trời, về cùng Chúa Cha, Người đã đảm bảo với
môn đệ rằng về phía Thiên Chúa không có chuyện xa mặt cách lòng, và về phía con
người cần phải giữ lời Thầy để “cách mặt, nhưng gần lòng”.
a)
Về phía Thiên Chúa.
Đức Giêsu đảm bảo với các môn đệ rằng về phía Thiên Chúa không có cách mặt xa lòng đâu. Chúng ta có thể trưng ra những câu Đức Giêsu nói với các ông trong bữa
Tiệc Ly :
- “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với các con (Ga 14,23)
- “Cha Thầy phái đến nhân danh Thầy, Đấng Bào chữa là Thánh Thần sẽ
dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với các con”(Ga 14,26).
-Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế, chứ không để các con
mồ côi đâu.
Như vậy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều đến
ở trong các con, các con được yêu mến, dạy dỗ, được bào chữa nâng đỡ và được
ban phúc bình an, không còn phải xao xuyến, sợ hãi, mà còn được vui mừng về cùng
Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Vậy, về phía Đức Giêsu, Người càng xa mặt về phần xác bao nhiêu, thì
về phía thiêng liêng càng gắn bó kết hợp với các con ở khắp mọi nơi mọi lúc.
b)
Về phía loài người.
Để đề phòng khi xa mặt Chúa, mà lòng mình không xa Chúa, thì Đức Giêsu
đã bảo :”Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời
Thầy”(Ga 14,23). Giữ lời Thầây là một trắc nghiệm rõ nhất, chính xác nhất về
lòng mến Chúa.
Đức Giêsu đã nói :”Ai yêu mến
Thầy thì sẽ giữ lời Thầy… Ai không yêu
mếân Thầy, thì không giữ lời Thầy”.
Câu nói này đủ xác định thế nào là yêu mến Chúa, nghĩa là dấu hiệu, bằng
chứng để chúng ta biết được hay người khác biết được chúng ta yêu mến Chúa là
chúng ta tuân giữ lời Chúa. Vì đây cũng
là thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối
với Chúa nhiều hay ít, đó là chúng ta giữ lời Chúa nhiều hay ít.
Chúa bảo chúng ta hãy tuân giữ lời Chúa,
nhưng lời Chúa ở đâu ? Nếu trả lời một cách
ngắn gọn, chúng ta có thể nói : lời Chúa chứa đựng trong Sách Thánh, tức là trong
Kinh Thánh. Nhưng nếu hiểu rộng ra, chúng ta có thể nói : lời Chúa còn chứa đựng
trong Thánh truyền, tức là một phần mạc khải được lưu lại dưới hình thức truyền
khẩu và trong giáo huấn của các giáo phụ. Lời Chúa còn chứa đựng trong Phụng vụ,
tức là những gì Giáo hội sống và thể hiện trong sinh hoạt phụng tự. Và lời Chúa còn chứa đựng trong đời sống của Giáo hội, tức là giáo huấn
của các công đồng, các Đức Giáo hoàng, các Giám mục.
Tóm lại, Kinh thánh, Thánh truyền, phụng
vụ và giáo huấn của Giáo hội, đó là những kho tàng chứa đựng lời Chúa. Nhưng thông
thường và cụ thể, mỗi khi nói đến lời Chúa , chúng ta thường hiểu là Thánh
Kinh, nhất là sách Tin mừng.
Ngoài ra, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ
và chúng ta khi xa mặt Chúa, phải có đức
tin vững vàng trong cơn gian nan thử thách. Thiên Chúa xếp đặt cho chúng
ta phải trải qua một thời kỳ gian khổ, để
ta trưởng thành về tâm linh. Nhưng trong suốt thời gian chịu đựng thử thách đó,
Thiên Chúa không bỏ rơi ta. Người luôn ở
trong ta để động viên và giúp đỡ ta vượt
qua gian khổ, để đức tin của ta ngày càng
mạnh mẽ và trưởng thành.
Truyện : Con kén và con bướm.
Ngày nọ, một chuyên gia sưu tầm các loài
bướm vào một công viên, thấy một cái kén lạ treo lơ lửng trên cành cây, ông ta
liền bứt lấy cành cây ấy và đem kén bướm về nhà nghiên cứu. Ít ngày sau, ông thấy
có cái gì động đậy bên trong kén. Ông biết là sắp tới lúc con bướm nở. Hôm sau,
cái kén lại nhúc nhích, nhưng cũng chẳng có gì khác xẩy ra. Ngày thứ ba vẫn thấy
kén nhúc nhích mà con bướm bên trong cũng không ra được. Nghĩ rằng tại cái kén
mà bướm không ra được, ông lấy con dao sắc ra rạch vỏ kén giúp nó ra ngoài. Có điều
sau một ngày mà con bướm vẫn không bay ra được, và cuối cùng chết.
Về sau, ông được một người bạn thân là
nhà côn trùng học cho biết lý do con bướm không bay ra được, là do thiên nhiên đã
xếp đặt cho nó phải tự phấn đấu để thoát ra khỏi cái kén. Ngày nào nó phát triển đến độ tự mình đạp bể cái kén chui ra ngoài
thì mới chứng tỏ nó phát triển đầy đủ và mới có khả năng sinh tồn được trong
thiên nhiên. Muốn làm con bướm bay trên
ngàn hoa rực rỡ, thì bướm phải trải qua thời kỳ làm con sâu lặng lẽ, rồi phải ẩn
mình trong cái kén một thời gian, đợi ngày phát triển đầy đủ. Còn nếu ông rạch
cái kén giúp nó ra ngoài trước thời hạn, là ông vô tình tiêu hủy khả năng phát triển và sinh tồn của nó.
Chúng ta chẳng khác gì con bướm nọ :
Thiên Chúa đã hoạch định cho chúng ta phải
đấu tranh gian khổ để nhờ đó chúng ta được tiến triển về mặt tâm linh. Chúa đã
an bài mọi sự để vào một số thời điểm trong cuộc sống chiêm niệm của chúng ta,
vào một số thời điểm trong cuộc sống tín trung của chúng ta, vào một số thời điểm
trong cuộc sống thiêng liêng của chúng ta, chúng ta phải nỗ lực gian khổ. Vào những thời điểm ấy, Thiên Chúa ở rất gần
chúng ta . Chúa biết rõ chúng ta cần phải chịu gian khổ một thời gian vì lợi
ích riêng của chúng ta, vì nhờ những gian khổ
này chúng ta mới được tăng triển về mặt thiêng liêng để trở thành những
Kitô hữu vững mạnh (M. Link, Giảng lễ Chúa
nhật năm C, tr 133).
II. ĐỨC GIÊSU BAN THÁNH
THẦN CHO CÁC MÔN ĐỆ
Nay Đức Giêsu ra đi, sự lưu truyền của
Thiên Chúa trong Giáo hội không phải là một sự tồn kho bất động, bởi vì chính
Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu, làm nên sự lưu
truyền này bằng cách dạy dỗ và nhắc nhở cho Giáo hội tất cả những gì Đức Giêsu đã
ban bố khi còn ở trần gian.
Đúng vậy, Lời của Đức Giêsu không phải
là một “sự vật”, nhưng là một “con người nào đó”. Dù Đức Giêsu đã ra đi, nhưng
vẫn có một “Đấng khác” đến để tiếp tục Lời của Chúa Cha, một thầy phụ đạo thần
linh, một thầy nội tâm, được Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu.
Một thời kỳ đã kết thúc, thời kỳ người
ta thấy được bằng mắt, nghe được bằng tai. Với biến cố Phục sinh, một thời kỳ mới
bắt đầu, một cách thể khác cho liên hệ giữa Người và các môn đệ. Thời kỳ Chúa
Thánh Thần mà “Cha sai đến nhân danh Thầy”. Người sẽ dẫn các ông tới chỗ hiểu
thấu đáo lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu.
X. Léon Dufour giải thích rằng:”Tiếp theo thời kỳ mạc khải của Đức Giêsu
Nazareth, là thời kỳ của Đấng Bầu Chữa. Người tỏ lộ cùng một mạc khải, nhưng đầy
đủ, trọn vẹn. Sứ vụ của Đức Giêsu ở trần
gian kết thúc, nhưng đối với các môn đệ, Chúa Thánh Thần còn rọi sáng những lời
Đức Giêsu dạy rõ hơn khi các ông nghe lúc trước”(Lecture de l’Eùvangile selon
Jean, Seuil, tr 120).
Nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần là dạy dỗ
và nhắc lại những điều Đức Giêsu đã dạy lúc tại thế. Khi nói nhắc lại thì không
phải chỉ là ôn lại, nhưng theo cách nói của Thánh Kinh, là khám phá ra ý nghĩa
lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố Phục sinh.
Về vấn đề này, X. Léon-Dufour chú giải
:”Khi nhắc các môn đệ nhớ lời của Đức Giêsu,
Chúa Thánh Thần không chỉ lặp lại giọng điệu của Thầy cho những trí nhớ quá tệ,
nhưng Người còn giải nghĩa dưới ánh sáng Phục sinh cho các ông nắm bắt được ý
nghĩa mà, cho đến lúc này, còn rất tối tăm đối với các ông… Nhiệm vụ giải thích
của Chúa Thánh Thần liên quan tới sứ điệp của Ngôi Con, nhằm làm cho cộng đoàn
nơi mạc khải luôn được tiếp tục và hiện
thực một cách sáng tạo trong đời sống các tín hữu. Như thế, lời Đức Giêsu luôn
sống động qua thời gian”(Sđd, tr 132).
III. ĐỨC GIÊSU BAN
BÌNH AN CHO CÁC ÔNG.
Đức Giêsu nói với các môn đệ :”Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban
bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng”(Ga 14, 27).
Theo phong tục Do thái, khi từ giã
nhau, người ta thường chào nhau bằng “bình an” (shalom), nhưng ở đây sự bình an
của Đức Giêsu để lại, không có ý nghĩa như lời chào từ biệt thông thường, vì thế
gian chỉ có thể cầu chúc bình an chứ không
thể tự mình ban bình an được, còn Đức Giêsu chính Người ban bình an riêng của
Người.
Trong tiếng Hip-ri, bình an là Shalom,
một chữ được dùng rộng rãi trong Thánh Kinh. Nội dung từ ấy rất phong phú đến nỗi
từ “bình an hay hòa bình” chỉ chuyểân tải một phần ý nghĩa. Một cách tổng quát,
nó có ý nghĩa một sự viên mãn phổ quát, một điều kiện trong đó không một vật gì
được thiếu sót. Từ ấy diễn tả hạnh phúc hoàn hảo chỉ thuộc về Thiên Chúa. Khi
người ta có bình an, người ta sống trong sự hiệp thông hoàn hảo với Thiên Chúa.
Vì vậy, Bình an, đối với người quen thuộc
Thánh Kinh, không phải chỉ là vắng bóng
bạo hành, tĩnh lặng tâm hồn, không có chiến tranh, mà chính là sức khỏe, sự thịnh
vượng, hạnh phúc sung mãn, ơn cứu độ. Và chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban
bình an này.
Theo cha Cantalamessa, Đức Giêsu không
nói tới một sự bình an bên ngoài, chủ yếu là không có chiến tranh, xung đột giữa
các dân tộc và quốc gia khác nhau. Người nói đến bình an đó trong những dịp khác,
chẳng hạn khi nói :”Phúc thay ai xây dựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên
Chúa”.
Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Người nói
đến một sự bình an khác, bình an nội tâm của con tim, của con người với chính
mình và với Thiên Chúa. Điều này thật rõ ràng nơi lời nói mà Đức Giêsu thêm vào
liền theo đó trong đoạn văn này của thánh Gioan :”Các con đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi”. Đây là sự bình an nền tảng
nhất. Không có sự bình an này, thì không bình an nào khác có thể tồn tại. Từ Đức
Giêsu sử dụng là “shalom”. Người Do thái chào chúc lẫn nhau với lời này và vẫn
còn làm thế; chính Đức Giêsu đã chào các môn đệ với lời này vào buổi chiều Phục
sinh và truyền cho các môn đệ chào hỏi dân
chúng cùng cách thức như thế :”Vào nhà nào,
trước tiên các con hãy nói : “Bình an cho nhà này”(Lc 10,5-6).
Đức Giêsu có thể ban bình an cho các Môn
đệ bởi vì chính Người sở hữu sự bình an :”Thầy
ban cho các con sự bình an của Thầy”. Bình an là sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Khi Đức Giêsu hiệp thông hoàn toàn với Thiên Chúa, Người có thể ban cho ta ơn
bình an. Chúng ta có thể ban sự bìn an nào nếu không phải là sự bình an của chúng
ta ? Người Kitô hữu có ơn gọi đem lại bình an. Nhưng khổ nỗi, thay vì chúng ta đem
lại bình an cho người khác, chúng ta bắt họ chịu đựng sự bất an và bất hạnh của
chúng ta.
Sựï bình an thực sự chỉ có khi chúng
ta tuân giữ lệnh truyền của Đức Giêsu là :”Các
con hãy yêu thương nhau”(Ga 13,34). Về vấn đề này, Đức Giáo hoang Gioan Phaolô II
nói :”Con đường của bình an chung cục phải
đi qua trong tình thương và hướng tới việc tạo nên một nền văn minh tình thương.
Giáo hội chăm chú nhìn về Đấng là Tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con và bất chấp
mọi đe dọa không ngớt gia tăng, Giáo hội không ngừng hy vọng, Giáo hội không ngừng
kêu cầu và phục vụ hòa bình của nhân loại trên trái đất” (Dominum et
Vivificantem đoạn 67)
Không thể có bình an nếu không có sự
tha thứ. Hãy tuân giữ luật yêu thương, và tha thứ cho nhau, ngay cả kẻ thù của
mình (Mt 5,44), thay vì luật báo thù – luật rừng. Bạo lực sẽ dẫn đến bạo lực. Báo
thù không dẫn đến hòa bình. . Chỉ có tình thương mới đem lại bình an thực sự mà
thôi. Vì Thiên Chúa là Tình yêu cũng là nguồn bình an (Ga 4,8,16; Rm 16,20).
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt