Vài suy niệm
từ Bài Thương Khó Mt
1. Bài tường thuật cuộc Thương khó của
Đức Giêsu đã được mỗi tác giả Tin Mừng viết lại theo bút pháp riêng. Độc giả
bắt gặp được ở đấy các đau khổ, thể lý và luân lý, của Đấng Cứu thế, nhưng đấy
không phải là ý nhắm của các ngài. Ngược lại, các ngài gỡ Đức Giêsu khỏi mọi
nỗi lo lắng, sợ hãi, quay quắt, ngờ vực, khi cho ta thấy Người làm chủ tình
hình với một uy quyền tối cao. Mt
cũng cho thấy Đức Giêsu chiến đấu không phải là với sự yếu đuối của một con
người, nhưng với sự sáng suốt và sức mạnh của một Thiên Chúa. Trong những đau
đớn cùng cực của cuộc đóng đinh, không một tiếng rên rỉ, tiếng thét gào thốt ra
trên môi miệng Người. Quả thật, tác giả có nhắc lại các giờ phút cuối cùng của
một cuộc tử đạo, nhưng đầy tính cách thần linh; ngài không nhắm gợi lên sự
thương cảm, nhưng là sự thán phục và tin tưởng nơi Người. Cho dù bị kết án tử
hình, Đức Giêsu vẫn là Đấng Cứu Thế, Con Người, Đức Chúa (26,22.64; 27,43).
Thay vì gặp mặt đối mặt với Đức Kitô lịch sử, khiêm nhường và đau khổ, độc giả
lại tiếp cận với Chúa Kitô Phục Sinh.
Cuộc Thương Khó cho thấy sự hạ mình
thẳm sâu của Đức Kitô, nhưng cũng là bằng chứng về lòng vâng phục tối cao của
Người với Chúa Cha. Đây không phải là một thất bại, mà là một chiến thắng. Tại
đây, chúng ta gặp vấn đề của các cộng đoàn tiên khởi: không phải là làm cho
người ta chấp nhận cuộc Thương Khó của Đấng Cứu thế, mà là chấp nhận tình trạng
hiện tại của Người là Đức Chúa vinh quang, mặc dù có kết cục nhục nhã.
2. Đức Giêsu không thiếu kín đáo mà tố
giác Giuđa; Người nhắc nhở, để ông có thể xét lại và quay lại, nhưng ông không
nói gì cả: ông lưỡng lự hoặc ông không muốn quay lại. Để soi sáng và trấn an
các môn đệ và có lẽ cũng để cố gắng kéo Giuđa trở về thêm một lần nữa, Đức
Giêsu nhận định và tình hình: đây không phải là chuyện không may do người môn
đệ phản bội, nhưng là điều nằm trong chương trình của Chúa Cha. Số phận của Đức
Giêsu do Chúa Cha quyết định, nhưng điều này không xóa đi hay giảm thiểu trách
nhiệm của kẻ phản bội: “Thà người đó đừng sinh ra thì hơn” (26,24).
3.
Với sự giúp đỡ của Philatô, các đối thủ của Đức Giêsu đã khử trừ được Người.
Cái chết của Đức Giêsu đã kết thúc ảnh hưởng của Người trên dân chúng. Đối với
dân chúng, Người là một tên lừa bịp (27,63); đối với Thiên Chúa, Người là một
kẻ nói phạm thượng (26,65). Kiểu nói “tên bịp bợm ấy” tổng hợp cách giới lãnh
đạo Do Thái đánh giá công trình của Đức Giêsu. Tuy nhiên, điều vẫn còn đó và sẽ
có thể tiếp tục gây ảnh hưởng trên dân chúng, đó là các lời Người đã nói và các
môn đệ của Người.
4.
Trong tiệc Thánh Thể, như trong tiệc Vượt Qua xưa kia, tín hữu không được chỉ ở
tư thế khán giả, nhưng phải cảm thấy mình được lôi kéo can dự vào trực tiếp.
Thánh Lễ cũng tái diễn lễ Vượt Qua, nên người tham dự không chỉ tưởng niệm cuộc
giải phóng của một đoàn dân xa lạ, nhưng sống biến cố giải phóng chính mình.
5. Các môn đệ đã hoàn toàn thất bại
khi ở trong Vườn Ôliu với Đức Giêsu. Họ không canh thức nổi với Người (c. 38);
họ ngủ. Trong Kinh Thánh, giấc ngủ đồng nghĩa với cái chết, sự bất động, sự tê
cứng. Ít ra các trinh nữ quên mang dầu cũng cần thú nhận thiếu sót của mình; ở
đây các môn đệ nói được một lời cáo lỗi. “Mắt họ nặng trĩu” (c.43), nhưng như
thế có nghĩa là họ hoàn toàn quên, hoàn toàn ở ngoài tấn bi kịch lớn nhất mà họ
đang chứng kiến: Đức Giêsu đi vào cuộc Thương Khó của Người, nhưng cộng đoàn đã
không đi theo Người.
Lm.
Fx Vũ Phan Long, OFM