CÁI TÔI ĐÁNG GHÉT

+++

I. SUY NIỆM LỜI CHÚA.

 

          Chúng ta đọc : Mt 16,21-27.

 

          Sau khi quở trách Phêrô vì đã ngăn cản Ngài đi con đường thập giá, Chúa Giêsu nói thêm rằng con đường ấy là con đường mà bất cứ ai làm môn đệ Ngài đều phải đi theo :”Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo”.

 

          Đây là lời Chúa Giêsu ngỏ với các môn đệ là những người đã chọn lựa bước đi theo Ngài. Lời mời gọi này có ý gợi lên sự tự do quyết định của người được mời, vì một đàng Chúa tôn trọng tự do của con người, đàng khác con người tự trách nhiệm về quyền lựa chọn của mình. Một khi đã quyết tâm chọn Chúa để trở thành môn đệ đích thực thì cần phải thực thi hai điều kiện :

 

          1. Phải từ bỏ chính mình : tức là phải khước từ lòng tự ái, sự nuông chiều bản thân và từ bỏ mọi thói hư tật xấu nghĩa là phải từ bỏ “cái tôi” giả tạo của mình.

          2. Phải vác thập giá mình :  tức là phải hòan tòan tuân phục thánh ý Chúa trong mọi sự.

 

          Hai điều kiện từ bỏ mình và vác thập giá mình có thể liên kết và hoán đổi cho nhau : đã từ bỏ mình thì phải hy sinh tức là vác thập giá, mà vác thập giá thì đương nhiên thì phải từ bỏ mình để tuân theo thánh ý Chúa.

 

          Chúa không bảo chúng ta đi tìm thập giá, nhưng là hãy vác lấy thập giá mình. Một cách nào đó, không ai có thể thóat khỏi thập giá trong cuộc sống (…). Đau khổ không phải là một đầy đọa mà con người phải gánh chịu, mà là một phương thế nên thánh. Mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá. Ai trong chúng ta cũng đang chịu một đau khổ nào đó. Ước gì khổ đau thanh luyện chúng ta để mỗi lúc được kết hiệp với Chúa mật thiết hơn (Mỗi ngày một tin vui).

 

          Mỗi Kitô hữu chúng ta đều là môn đệ của Chúa vì đã được chịu phép Rửa tội; và Kitô là người đã được mang tên Chúa và thuộc về Ngài nên cũng phải đi theo con đường của Ngài để được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.

 

          Những người dâng mình cho Chúa trong đời sống tu trì phải từ bỏ mình và vác thập giá mình đã đành, cả những người sống trong bậc vợ chồng cũng phải sống như thế tuy hòan cảnh có khác nhau. Nếu vợ chồng biết từ bỏ mình, biết tiêu diệt cái tôi ích kỷ của mình để sống cho nhau thì cuộc sống gia đình sẽ được êm ấm và đem lại hạnh phúc cho mọi ngưởi trong gia đình và cho  cả xã hội.

 

II. LÒNG TỰ ÁI CỦA CON NGƯỜI.

 

          1. Con người, trung tâm của vũ trụ ?

          Trên trần gian này, mọi người đều yêu mình và những cái thuộc về mình, không ai ghét bản thân mình cả (x. Ep  5, 29). Do đó, ai cũng có lòng tự ái.  Chính từ ngữ “Tự Aùi” thì không có gì xấu vì tự ái lã tự yêu mình, mà bác ái là phải phát xuất từ mình trước, nhưng vì người ta lạm dụng nên thường nó có ý nghĩa không tốt.

 

          Khi đứa bé còn  rất nhỏ, xem ra nó đã có “tự ái” !  Trông thấy cái gì của người ta nó cũng đòi, đòi cho bằng được,  mà không được thì khóc ! Phải chăng, tuy chưa có ý thức, đứa bé đã có “tính tự ái”, bởi vì nó tự coi nó như trung tâm, mọi người phải phục vụ nó.  Và như vậy tự ái đây đã kèm theo khuynh hướng vị kỷ.

 

          Sau này khi lớn lên, có ý thức, ai cũng vẫn cho mình là nhất, là trung tâm, là cái rốn của vũ trụ. Người ta, dầu là một kẻ tầm thường đến bực nào, bao giờ cũng cho ý kiến mình  là quan trọng hơn tất cả. Cái “Tôi” có phải là dễ ghét đâu theo như lời của Pascal. Nó là chữ “dễ yêu” nhất trong đời. Nhưng, vì ta đã quá nâng niu chiều chuộng nó… mà thành ra cách xử kỷ tiếp vật trong đời ta gây ra không biết bao nhiêu sự vụng về, ân hận, đau khổ, tai ương… Và cũng chính vì thế, mà Blaise Pascal tiên sinh mới thốt ra câu nói chua cay này :”Cái tôi đáng ghét” : (Le Moi est haissable)  (Cf nguyễn duy Cần, Thuật xử thế của người xưa, 1970, tr 17).

 

          2. Tự ái trong đời sống hằng ngày.

 

          Ai cũng có kinh nghiệm về vấn đề này.

          Thuở nhỏ, ta là người rất thích tranh cãi. Tính hiếu thắng xui ta  bao giơ cũng không chịu nhịn một ai cả, dầu trong một lời nói tầm thường cũng vậy. Trong những cuộc cãi vã không bao giờ ta chịu nhượng ai một lời. Rủi mà lời nói mình  không được người để ý đến hoặc bị ruồng rẫy, bỏ qua, thì không gì bực tức và buồn khổ bằng.

 

          Đến tuổi thanh xuân vì khí huyết bồng bột nên không chịu coi vào đâu những ý kiến của các bậc cao niên dầy kinh nghiệm hơn. Ý kiến của cha mẹ cũng không bằng ý kiến của mình. Cha mẹ có khuyên bảo thì chỉ trả lời là “đã trưởng thành, biết rồi, nói mãi”. Cha mẹ có thể khuyên dạy con bằng những lời khuyên  của một mục sư đối với đứa con 15 tuổi của ông :

 

-          Từ 15 đến 20 tuổi : cha cho phép con tin rằng “con thông minh hơn cha”.

-          Từ 20 đến 25 tuổi : con cũng có quyền tin rằng “con thông minh bằng cha”.

-          Nhưng bắt đầu từ 25 tuổi sắp lên, cha bắt buộc con phải nhìn nhận sự “thông minh của cha hơn con nhiều một cách tuyệt đối vậy”.

 

Đến tuổi trưởng thành và cao niên, con người vẫn còn coi mình hơn tất cả. Không ai muốn nhận mình là quấy cả. Dầu là tay đại gian đại ác như Tào Tháo  cũng không chịu nhận mình là gian ác. Tào Tháo thường xưng mình là vì dân vì nước; mà Lưu Bị cũng tin mình vì dân vì nước. Godse, ngưới ám sát Gandhi mà thiên hạ phần  đông nguyền rủa, vẫn tươi cười trước khi chịu tử hình.

 

3. Sự hiểu biết thì phiến diện.

 

          Chúng ta không phải là chân lý. Chúng ta cũng không thể nắm chắc được chân lý mà chỉ là trên đường đi tìm chân lý, và như vậy sự hiểu biết của mình không thể là tuyệt đối. Có nhiều con đường đi tìm chân lý và mỗi người chỉ có thể nắm được một phần của chân lý, tùy theo trình độ của mình.

          Vì thế trong khi bàn bạc, tranh luận, chúng ta cũng phải để ý đến cái trình độ của kẻ khác. Dẫu nguời ấy có ngu si vụng dại đến đâu, phải biết cho họ cũng có cái lý của họ, hoặc trình độ hiểu biết của họ chỉ đến ngần ấy là cùng.

 

Truyện : Bài nào cũng đúng.

 

          Một hiền giả Aán độ, ngày kia, xem bài các đệ tử phê bình về một bài thơ của mình. Có hai người đệ tử, trước khi trình cho thầy bài luận của mình, lại đổi  cho nhau xem trước. Họ bèn cãi nhau không ai chịu nhận  bài của bạn mình là đúng. Thế rồi,  họ bảo nhau để coi  thầy sẽ phán  đoán cách nào. Ôâng thầy xem đến bài của từng người, đều gật đầu khen phải cả. Đến lượt hai người này, thầy cũng gật đầu khen đúng nữa.

 

          Một người liền đứng lên phản đối :

- Thưa thầy, bảo rằng bài của các bạn con đều đúng, thì con không dám cãi, vì con không được biết họ nói gì trong đó. Chớ như đối với bài của anh này, thì con chắc chắn không thể nào thầy cho là đúng được, trong khi thầy cũng nhận cho  bài của con cũng đúng nữa. Hai chủ trương của chúng con quả quyết không thể bên nào dung được bên  nào : hễ anh ấy phải, thì con quấy, mà con phải thì anh ấy quấy.

 

          Ôâng thầy mỉm cười, ôn tồn bảo :

- Hai trò đều bàn đúng cả đấy. Sở dĩ trò này nói vầy là tại cái trình độ hiểu biết của nó chỉ đến đó là cùng. Sao có thể bảo nó nói sai hay hiểu sai cho được ! Bài thơ của thầy như vầng Thái Dương, hoa nào cũng nhờ ánh Thái Dương mà nở, nhưng cây nào nở hoa nấy : cây này không nở hoa kia, mà cây kia  không thể nở hoa nọ được… Sao có thể bảo  bài của người này phải mà bài của kẻ kia quấy !

 

          Khi đã ý thức được rằng không ai nắm trọn vẹn chân lý mà chỉ nắm được một phần, còn phần khác phải dành cho người khác. Do đó, không bao giờ được bắt ép người khác phải theo ý kiến của mình, không được quyền coi chỉ có ý kiến của mình là đúng, còn người khác là sai quấy. Để diễn tả tư tưởng này, người Aán độ mới chế ra được câu chuyện thầy bói rờ voi.

 

Truyện : Mù rờ voi.

 

          Xưa kia có một ông vua ngồi buồn, cho bắt tất cả người mù trong thành đem về hợp lại một chỗ.

          Vua cho đem ra một con voi, bảo các anh mù rờ vào, và tả lại cho nghe họ đã hình dung con voi ra sao ?

          Sau khi mọi người đã rờ  xong. Vua kêu hỏi từng người. Họ thưa :

- Voi như cái nồi lớn (Đó là những người rờ trúng cái đầu).

          - Voi giống như cây cột tròn (Đó là những người rờ trúng cái chân).

          - Voi giống cái chổi ( Đó là những người rờ trúng cái đuôi)

          … Mỗi người đều tưởng rằng mình đã hình dung rõ con voi với những bộ phận mà họ đã rờ trúng. Rồi thì không một ai chịu nhận của ai, đều cho cái thị kiến của mình là đúng. Ban đầu còn cãi nhau, sau chửi nhau om sòm, và rốt cùng  xăng tay đánh đá nhau tơi bời…

          Nhà vua thấy vậy  ôm bụng cười vang  (Sách UDANA)

 

          Quả thực đây là bức hí họa tài tình, vì nó thu hẹp được một cách đầy đủ cả một tấn bi-hài-kịch của nhân lọai từ xưa đến nay. Nhất là ngày nay, thiên hạ đang xâu xé nhau như lũ người mù trên đây để giành lẽ phải về mình mà không ai chịu dung tha ai cả. Vậy chứ chiến tranh ý thức hệ là gì, nếu không phải vì ai ai cũng đều cho cái lẽ phải của mình là tuyệt đối.

          (Nguyễn duy Cần, Cái cười của thánh nhân, 1972, tr 91-92)

 

          KẾT LUẬN.

 

          Trong đời sống gia đình cũng thế, vợ chồng không phải lúc nào cũng có sự hiểu biết như nhau, mỗi người chỉ nắm được một phần chân lý nên phải tôn trọng sự hiểu biết của người khác, không được dùng áp lực mà bắt người khác phải theo ý kiến của mình.

 

          Muốn cho gia đình được yên vui đầm ấm cần phải có sự nhường nhịn nhau vì người ta thường nói :”Một sự  nhịn, chín sự lành”(Tục ngữ), Nhường nhịn nhau cũng đồng nghĩa với từ bỏ mình và vác thập giá mình như bài Tin mừng chúng ta vừa nghe đọc.

 

          Từ bỏ mình là gì nếu không phải là từ bỏ “cái tôi” ?  Tác giả André Sève trong cuốn Sương mai có viết : Từ bỏ mình… vác thập giá… là khoái khổ sao ? Không. Cần phải từ bỏ mình, thẳng thắn mà tuyên bố tiêu diệt  “Cái Tôi” của chúng ta. Thế nhưng không phải tiêu diệt “cái tôi tốt lành”, “cái tôi” chân thật. Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta hy hiến cái tôi giả tạo mà chúng ta tạo nên  bằng những nhu cầu vô ích và những phù phiếm trẻ con :”Đó là cái tôi, thánh Gioan Thánh giá nói, của những thèm muốn thúc giục chúng ta  trở nên bất hạnh đối với chúng ta, khô khan đối với tha nhân, nặng nhọc và biếng nhác đối với  các công việc của Chúa”(André Sève, Sương mai, tr 209).

 

 

Lm Giuse Đinh lập Liễm

Giáo xứ Kim phát

Đà lạt


Về trang Mục Lục