SỐNG CHUNG TRƯỚC KẾT
HÔN
Lm. Anphonsô Nguyễn Công Vinh
Thưa
cha, chúng con quen nhau đã 2 năm nay, chúng con đang chờ thời gian thuận tiện
để làm phép cưới. Chúng con biết trước sau gì cũng thành vợ chồng, nên nhiều
khi chúng con ăn ở với nhau. Chúng con nghĩ là được phép và không có tội, vì
đây chỉ là cách thức để làm cho tình yêu thêm bền chắc để tiến tới hôn nhân thực
sự. Giả như chúng con đã có hôn thú dân sự mà chưa có điều kiện làm phép cưới
theo quy định của Giáo Luật, thì có được ăn ở hoặc sống chung với nhau không?
Xin cha cho ý kiến.
***
Việc ăn ở, kết hợp thể xác giữa hai người
nam nữ, là một trong những biểu lộ cao nhất của tình yêu con người. Dầu vậy,
hành động ấy không chắc chắn làm khởi phát tình yêu cũng như không hoàn toàn có
khả năng bảo vệ tình yêu. Theo tinh thần của Giáo hội Công giáo, thì hành vi kết
hợp thể xác giữa người nam và người nữ chỉ thực sự có ý nghĩa của tình yêu, khi
nó được thực hiện trong hôn nhân.
Tuyên Ngôn Personna humana (Nhân vị) ngày 29/12/1975 quả quyết:
“Nhiều người ngày nay đòi quyền giao hợp
với nhau trước khi kết hôn, miễn là hai người quyết tâm lấy nhau và thật lòng
yêu nhau. Họ coi tương giao tính dục là điều tự nhiên trong mối quan hệ của họ,
nhất là khi việc cử hành hôn lễ bị cản trở vì hoàn cảnh bên ngoài, hoặc vì họ
nghĩ rằng việc giao hợp là điều cần thiết để bảo toàn tình yêu của họ. Quan niệm
như vậy là trái ngược với giáo lý, theo đó, mọi tương giao tính dục chỉ được
phép thực hiện trong hôn nhân mà thôi” (số 7).
Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, trong
Tông huấn Gia Đình (Familiaris Consortio) năm 1980 cũng đã khẳng định:
“Giáo hội không thể chấp nhận loại kết hợp
nầy […]. Thật vậy, một đàng việc trao hiến thể xác trong tương giao tính dục là
biểu tượng thực sự cho việc trao hiến trọn vẹn cả ngôi vị. Hơn nữa, trong nhiệm
cục hiện hành, một sự trao hiến như thế không thể thực hiện được sự thật trọn vẹn
mà lại không cần đến tình bác ái đã được Đức Ki-tô trao ban. Đàng khác, hôn
nhân giữa hai người đã rửa tội là biểu tượng thực sự cho việc kết hợp giữa Đức
Ki-tô và Giáo hội, một sự kết hợp không thể nào có tính cách tạm bợ hay để thử
nghiệm, nhưng là trung tín đời đời”(số
80).
Sách Giáo lý Công giáo năm 1992 cũng dạy:
- “Hành vi tính dục chỉ được chấp nhận
trong hôn nhân; ngoài hôn nhân luôn luôn đó là một tội trọng và không được lãnh
nhận các bí tích” (số 2390).
- “Những người dấn thân trong quan hệ
tính dục trước hôn nhân, dù họ có quyết tâm mạnh mẽ thế nào đi nữa, thì những
giao hợp tính dục ấy vẫn không thể bảo đảm quan hệ giữa họ với nhau trong sự
chân thật và thuỷ chung giữa một người nam và một người nữ, và nhất là không thể
bảo đảm giữ cho quan hệ nầy khỏi những ý muốn hay thay đổi và bất thường. Về
phương diện luân lý, việc giao hợp chỉ hợp pháp khi đã chính thức kết hôn. Tình
yêu không chấp nhận thử nghiệm, nhưng đòi hỏi hiến thân cho nhau một cách trọn
vẹn và dứt khoát” (số 2391).
Giáo luật 1983, điều 1108 xác định:
“Hôn phối chỉ thành sự khi được kết ước
trước mặt vị chứng hôn, là Đấng Bản quyền địa phương hay cha sở, hoặc một tư tế
hay một phó tế đã được một trong hai vị trên uỷ quyền, và trước mặt hai nhân chứng”
(Bản dịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Bộ Giáo Luật 1983, Hà Nội 2007, NXB Tôn
Giáo).
Tông Huấn về Gia Đình cũng nêu rõ:
“Ngày càng có nhiều trường hợp những người
công giáo, vì những nguyên do ý thức hệ hay vì những lý do thực tiễn, muốn lập
hôn phối dân sự bằng cách từ chối hoặc ít ra là dời việc cử hành hôn phối tôn
giáo. Tất nhiên tình cảnh của họ không thể bị xem như tình cảnh của những người
chỉ chung sống mà không có một ràng buộc nào, vì ở đây, ít ra cũng có một sự dấn
thân nào đó vào một tình trạng sống nhất định và có lẽ cũng bền vững... Khi muốn
việc liên kết của mình được nhìn nhận công khai của Nhà Nước, các đôi bạn này
đã cho thấy rằng họ sẵn sàng đảm nhận những nghĩa vụ cũng như những quyền lợi của
sự kết liên ấy. Dù vậy, tình trạng ấy vẫn không thể được chấp nhận từ phía Giáo
hội” (số 82)
Như vậy, hai tín hữu công giáo chỉ có thể
kết hợp thể xác với nhau, sau khi đã cử hành hôn phối theo quy định của Giáo luật.
Việc làm hôn thú dân sự của hai người công giáo không có giá trị bí tích. Nhưng
vì tôn trọng sự chi phối của luật lệ xã hội về phương diện trần thế của người công dân công giáo, nên Giáo luật đòi buộc
phải có hôn thú dân sự trước khi cử hành hôn phối theo nghi thức của Giáo Hội
(GL số 1071,1,2o). Điều nầy không có nghĩa là chấp nhận việc sống chung.
Sự chờ đợi bao giờ cũng là một thử thách
đòi hỏi nhẫn nại và chịu đựng, nhất là chờ đợi trong tình yêu. Tuy nhiên thử
thách nầy, nếu vượt qua đuợc, sẽ tăng cường ý chí và củng cố tính trưởng thành
và sự bền vững của hôn nhân. Ngày bước vào thánh đường để cam kết sống chung với
nhau sẽ có ý nghĩa và tươi đẹp biết bao khi các bạn còn trong trắng.