GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2013 – BẢN TIN 03
Chúng tôi xin gửi đến quý Ban Biên
tập và độc giả khắp nơi lời chào đầu năm. Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho
tất cả chúng ta.
Xin gửi tiếp đây bản tin số 3, với
ba bài dự thi. Trong các tác giả dự thi, có bạn trẻ khuyết tật, sinh viên năm
đầu, học sinh lớp 11... Điều ấy cho thấy cuộc vận động không phải là tiếng kêu
trong sa mạc. Cuộc vận động góp nhặt thơ trên mạng đã bắt đầu từ 2005, mãi đến
2012 mới xong đợt 1. Bước tiến cuộc vận động văn xuôi không phải là chuyện đáng
bi quan.
Giải Viết Văn Đường Trường tổ chức
trao giải 6 năm liền (2013-2018) cho những truyện ngắn có nội dung Kitô giáo và
ấn hành giới thiệu các tuyển tập truyện ngắn cho các tác giả đạt giải.
Do thông tin giới hạn, nhiều người
chưa kịp biết thể lệ để tham gia. Vì thê Ban Tổ chức quyết định gia hạn nhận
bài đến 15-4-2013. Những ai chưa rõ thể lệ, xin mời xem
- Bản Thể
Lệ Giải Viết Văn Đường Trường
- Chương trình tìm kiếm và xây dựng tài năng văn xuôi cho văn
học công giáo
tại http://gpquinhon.org/qn/news/viet-van/
Ước mong quý vị giúp giới thiệu
chương trình này rộng rãi để có thêm nhiều bạn trẻ dự thi.
Chân thành cám ơn.
Linh mục TRĂNG THẬP TỰ
BÀI DỰ THI
Mã số 13-010
GIEO HẠT
Hôm dẫn
chầu buổi gặp mặt sinh viên Công giáo, mấy đứa khen tôi viết hay, áp dụng thực
tế, lại có tâm tình. Cái giọng Quảng Trị lai một chút Nha Trang nghe bùi bùi,
mềm mềm lại đánh động con người ta đến thế. Cũng chẳng có gì to tát, chỉ là cầu
xin Chúa cho đừng rơi vào căn bệnh vô cảm mà xã hội đang lên án như bài huấn
giảng của cha tuyên úy thôi. Được khen, tôi thấy sướng cả người.
Tôi ở nội
trú, mỗi tháng chỉ được về nhà một lần. Tháng nào cũng ngày đầu tháng là hớn hở
chạy xe về quê, phần thì hết tiền, phần thì nhớ nhà. Sinh viên năm đầu là thế.
Có tháng về nhà chẳng lý do gì cả, biết là ba mẹ đi làm, tối ăn cơm chung rồi
nằm dài trước hiên nhà một đêm, sáng mai chạy ra lại Nha Trang. Chỉ thế thôi mà
vẫn cứ nôn nóng về nhà. Lần này thì cũng có lý do hẳn hoi, về xin tiền.
Gió nhẹ
dưới cái ráng chiều thật là thoải mái. Xe tôi bon chạy dọc theo con đường làng
đổ nhựa, hai bên thưa thớt bóng dừa. Tôi đang thả hồn theo cái gió chiều đồng
nội, tận dụng chút gió đồng để tâm hồn thoải mái cho kỳ thi kết thúc năm thứ
nhất, chợt nghe một tiếng kêu “wei” khi vừa rẽ ngã tư xã Cam Hiệp, ngoảnh mặt
thấy người đàn ông ngoắt ngoảy tay xin “quá giang”. Người lão mềm nhừ, đi từng
bước ngập ngà ngập ngưỡng xiêu vẹo độ muốn té xuống mặt đường sần sùi, lô nhô
đá một-hai do thiếu nhựa hắc mà đám công nhân ăn bớt ăn xén khi thi công. Hai
mắt lão lờ đờ của người thiếu ngủ, giọng khàn khàn day ra từng tiếng mệt mỏi
đứt quãng để xin quá giang. Im lặng, tôi nhìn đồng hồ chỉ 14h, còn 1h30 phút:
có 1h để chạy xe, 15 phút ghé khu nội trú, 15 phút đến trường, thế là kịp giờ
thi. Nhưng lòng cũng muốn giúp lão bớt lê lết một quảng đường dài. Dừng xe có ý
vậy, nhưng chợt thấy lão có vẻ thấm men say, người lão hơi loạng chọang, tôi
hơi ngán. Nghĩ, lên xe lão ngồi không vững, có thể té xuống đường rồi tôi chuốc
họa vào thân, hay lão sẽ càm ràm lèm nhèm nhức cả đầu, người ngà ngà say có bao
giờ để miệng nghỉ ngơi đâu, mà tôi còn phải tỉnh táo để vào phòng thi. Một ý
nghĩ chợt đi qua bảo tôi chạy tuột, mặc kệ lão, có người khác lo. Nhưng rồi,
tôi lại nghĩ bụng, “làm vậy thì tệ quá.”
Lão tự khai
trên Khánh Sơn xuống, lên xin làm gỗ, cơm đùm gạo bới, mấy ngày ngồi chờ việc
thì ăn hết những gì mang theo. Buồn quá làm chút rượu tiêu sầu, giờ đói co ro,
ngày qua cuốc bộ 50 km vượt đường mòn từ trên đó xuống mệt lử cả đôi chân, mà
toàn thân cũng ê ẩm. Đó là lý lịch tôi biết được về lão qua lời kể. Cái kiểu
lừa gạt thế này tôi quá quen, đi đâu cũng nghe người khác cảnh giác. Như hôm
bắt đầu xách gói vào đời sinh viên, đi thăm bà con, nhìn tướng mọt sách của tôi
ai cũng bảo, cẩn thận nghe con, đừng khéo tin người, thiệt bụng quá là bị lừa.
Bài này xưa như trái đất, còn lâu mới bị lừa - tôi nghĩ bụng - lão lờ đờ lên
xe, đi một quãng đường tới khúc vắng teo, lão sẽ quay lắc cái đầu cú rụp, người
lão bổng trở nên tỉnh queo, hai mắt sáng quắc ra như con mèo vừa trông thấy con
chuột nhắt chạy qua. Nhanh như điện, rút dao kề sát cổ và một sợi dây vòng qua
xiết chặt ống thanh quản lại, bảo tôi rẽ vào một cánh đồng vắng vẽ vắng ve, sau
đó đi ra với chiếc xe máy, mang theo đồ đạc, để lại tôi ngoi ngóp tuyệt vọng ở
nơi không biết là đâu. Tôi sẽ mò mẫm trong bóng tối tìm lối về... Người thân
nhìn tôi không một chút thương hại bảo, trời đất, ngu chi mà ngu dữ vậy, bữa
nay mà còn bị lừa ba cái vụ này nữa. Nhất là mấy người ở quán cắt tóc gần nhà
hay ra tán dóc sẽ thửng thờ, trời, thằng này ngu thiệt.
“Nhưng lão
không lừa thì sao, lỡ lão đói thiệt thì sao? Mình không chở, không cho ăn,
người khác cũng giống mình thì sao? Ai đưa lão về ? Ai cho lão ăn? Lão sẽ tiếp
tục lê từng bước dưới cái nắng mùa hè và chắc chắn ngã gục, chết lịm trên con
đường hun hút. Lão sẽ chết! Vậy lời cầu xin hôm dẫn chầu là để cho vui vậy thôi
sao, chẳng phải là cơ hội để khẳng định mình không mắc vào căn bệnh mà xã hội
và Giáo hội lên án đó sao?”... tôi tự hỏi mình.
Tôi gật
đầu, lão hớn hở lên xe nhưng nụ cười vẫn nhăn nhéo như cánh hoa chiều vì bụng
đói Tôi chỉnh lại cái gương chiếu hậu xem lão có động tịnh đáng nghi gì không.
Chợt, lão chồm người tôi vọng lên, mấy ngày nay chưa có gì bỏ bụng, đói quá đi,
và xin ít tiền. Tôi bảo lão ăn bánh mì cho tiện thì lão từ chối cách thẳng
thừng, “Từ nhỏ tới giờ không ăn đựơc mì gói và bánh mì”. Sự đáng nghi ban nãy,
giờ đã kéo về và rõ nét trong tôi. Độ cuối tháng, hết tiền, bụng đói, mấy thằng
tôi giành nhau gói mì của phòng nữ bên cạnh lủm ngon lành, có khi phải chạy qua
cầu cứu Phượng. Phượng hay nhăn nhó tôi tiêu kiểu gì mà không biết lường tính,
cuối tháng nào cũng trống túi. Trời xui đất khiến sao mà tôi lại mê cái nhăn
nhó của Phượng. Hay tại yêu Phượng rồi nên cái gì của người yêu tôi cũng yêu
luôn. Có lần Phượng giận, tôi bảo, sao em nhăn nhó mà trông dễ thương vậy, Phượng
đập vai tôi, xạo! Lão trong tình thế này mà đòi ăn sang. Con người này không
đáng tin. Tôi bắt đầu thấy lo lắng, qua đoạn đèo Bãi Dài nhiều chỗ vắng, lão mà
giở trò thì tiêu thật luôn. Không trả lời được nhưng tôi trở về một quá khứ
trong tiềm thưc: Nếu bạn muốn giúp người mà có tính toán được gì và mất gì thì
lòng nhân hậu của bạn đã đóng lại. Tôi để lòng mình nghỉ ngơi và nhủ thầm, “Lạy
Chúa, nếu Chúa là người hành khách này thì tuyệt vời, còn nếu Chúa đang ở đâu
đó đưa mắt nhìn con thì xin Chúa bảo vệ con!”
Xe buýt, tôi reo lên một tiếng đến đổi lão
giật mình hỏi, gì vậy? Tôi mừng hớn hở như hôm giải ra bài toán kinh tế chính
trị trong đề thi vậy. Đưa lão đến trạm xe buýt, tôi vừa an toàn mà lão cũng
được về tới nhà. Ví không có tiền lẻ, bốn tờ một trăm ngàn mẹ mới đưa, tôi đưa
lão một tờ, bảo lão về xe buýt, ra tới nơi thì đón xe ôm về nhà và kiếm gì bỏ
bụng. Khi quay xe để trở lại đường Bãi Dài thì thấy lão bỏ trạm xe buýt bước đi
một đoạn. Lão sẽ tiếp tục cuộc hành trình lừa gạt những con người nhẹ dạ như
tôi, tôi nghĩ vậy.
Suốt chiều
hôm đó, tờ một trăm cứ nhảy lui nhảy tới trong đầu tôi, một trăm bằng hai mươi
bó rau muống mà mẹ lặn lội dưới ruộng nước, cộng mấy quả mãng cầu, mấy quả mướp
mẹ trầm trầy trầm trọc ngẩng cổ khều hái, thêm mớ rau dền mẹ loay hoay buộc cả
buổi tối, cộng thêm nhọc nhằn ngồi suốt cả buổi chợ sáng của mẹ. Tôi hình dung
khuôn mặt lão hí hửng, cái cười diễu cợt với tờ bạc giấy mà lão đã lừa sự vất
vả của mẹ tôi. Chiều hôm qua, tôi còn hớn hở khi đưa lão tờ một trăm ngàn, nghĩ
đã làm một việc tốt mà mẹ đã dạy từ thuở theo tay mẹ đi lễ. Mỗi lần tan lễ, mẹ
bảo tôi, nghe cha giảng không con, giúp người, làm việc tốt. Bây giờ, lại thấy
ngán ngẩm với hai mươi bữa mì gói sắp tới trong tháng này. Lại bị Phượng càm
ràm.
Nhưng tôi
cũng còn phải học để thi, còn phải lạc quan, còn phải vui vẻ để tin cuôc đời
không lưa gạt mà còn sống với những con người khác, những con người cần đến
tôi, tôi không thể ngồi đó ôm nỗi nghi ngờ với khuôn mặt ủ rủ được. Tôi nghĩ
lạc quan, không sao, chưa chắc lão lừa . Biết đâu lão không chịu nổi những cú
sốc dồn dập của xe buýt khi dừng trạm như tôi vậy, biết đâu lão sẽ nôn mửa khi
ngửi mùi máy lạnh tạp nham của xe buýt nên phải đi một đoạn để đón xe đò, biết
đâu chừng đói nhừ người, lão phải đi tìm cái gì bỏ bụng hẳn mới lên xe. Có lẽ
mẹ sẽ không buồn như tôi nghĩ. Hôm ra Nha Trang học, ai cũng nhắc nhở tôi cảnh
giác, riêng chỉ có mẹ bảo, “Cố gắng sống tốt nghe con, mình làm cho người ta
điều gì đó thì đời sẽ làm lại cho mình như vậy, đong đấu nào Chúa trả đấu nấy
đó con, đừng quá lo thiệt thân.” Vậy, mẹ chẳng phải vui mừng đó sao? Tôi thôi
suy nghĩ, xách tài liệu vào giảng đường.
Phượng bảo
tôi xuống phụ xách đồ, mẹ Phượng đi khám bệnh, tiện ghé thăm. Quà ở quê khi nào
cũng kệ nệ, năng nề, mấy lần trước cũng vậy. Mẹ quê thương con, cái gì cũng
nghĩ con cần nên mang tất cả: xoài chín, xoài xanh, vú sữa, đu đủ chín, đu đủ
xanh để dành và cả mít. Phượng hớn hở
nói chuyện với mẹ, để lại người đàn ông loay hoay chuyển đồ trên chiếc xe
hon-đa cũ mèm xuống. Tôi xựng lại vì chạm phải mặt ông ta khi trao túi xách cho
tôi, nãy giờ ông cúi mặt, loay hoay tháo dây, chuyển đồ. Khuôn mặt hơi ngâm,
hai gò má hóc hác cháy nắng, cái mũi gãy, đầu tóc quăn bị nắng đốt, có vẽ hơi
trầm tính. Tôi nhận ra ông. Ông ngờ ngợ tỏ vẻ đã gặp tôi ở đâu đó mà không nhớ
rõ. Những vết nhăn kéo nhau về chằng chịt trên vầng trán của ông để cố nhớ tôi
là ai. Suy nghĩ, và suy nghĩ. Rồi ông bật ra một câu thiếu hụt: “Cậu là...”.
Phượng quay qua phía chúng tôi và tiếp nối câu thiếu vị ngữ của ông: “Dạ, anh
là bạn của con. Đây là cậu của em.” Khuôn mặt của ông đầy sự bất ngờ: “Trời
đất, là cậu. Bữa đó, may nhờ cậu giúp đỡ.” Ghé thăm con không quá năm phút vì
mẹ Phượng phải kịp giờ đến bệnh viện. Cuộc viếng thăm quá ngắn ngủi nhưng để
lại trong tôi và Phượng một niềm vui: Phượng, được mẹ đến thăm; tôi, gieo hạt
đúng ruộng đất và hạt giống đã nảy mầm.
Mã số 13-011
MỘT NIỀM TIN
Chị đã
khóc. Lần đầu tiên trên sân khấu, chị khóc nức nở, ấm ức. Sau đêm hoạt cảnh
Giáng Sinh, mọi người khen chị lần đầu đóng kịch mà nhập vai dễ sợ, có thể đi
làm diễn viên được. Chị cười, tại bữa giờ bỏ công sức tập dợt, tự dưng, đến lúc
diễn lại cắt điện, tức điếng nên khóc luôn chứ nhập vai nhập vở gì đâu. Chị nói
vậy thôi chứ chị biết tại sao nước mắt chị chảy trên sân khấu.
Chị có
chồng, ba con trai. Chị làm giáo viên. Chồng chị là công nhân nhà máy đường,
làm lâu năm lương lá hai vợ chồng tặn tiện cũng đủ sống, đủ chu cấp cho các con
ăn học. Đức tin của chị được nung đúc từ thuở trẻ thơ ngày ngày theo bố đi lễ
nhà thờ. Lớn lên chị hát ca đoàn, hát cho đến bây giờ. Con chị học giỏi, ngoan
và đạo đức. Chị tự hào các con chị. Trong xóm, đứa nào lì lợm, học hành bê tha,
mẹ chúng đều bảo, tới xem ba đứa con bà Nhàn kìa, học hành năm nào cũng lãnh
thưởng, mẹ bảo đâu làm đấy, ra đường gặp xóm làng chào hỏi, dạ thưa, thấy mà
ghiền. Đứa con đầu của chị học năm thứ tư. Hồi còn ở Giáo xứ, giúp lễ, hội
Giu-ni-o, chỉ có điều hát dở ẹc, giọng lạc giáo nên không hát ca đoàn. Học hành
thì số một, ai tặng quyển sách nào thì mừng húm. Cả ngày đâm đầu vào sách vở
nên có vẻ chậm và hơi mọt sách. Đứa con giữa học không giỏi lắm, năm thứ hai
Trường Cao đẳng. Nó hơn anh nó sự lanh lợi, bóng đá, bóng bàn gì chơi cũng
được, ai nhờ vả cũng lanh tay lẹ chân, đạo đức thì không chê vào đâu được, con
chị đứa nào cũng vậy. Đứa út vào lớp 12. Học hành giỏi như anh cả, thể dục thể
thao lanh lợi hơn hẳn anh ba, nó từng đạt huy chương bạc bóng đá của Tỉnh lứa
tuổi phổ thông. Nó làm đội trưởng đội bóng của trường, chân dẻo và ngoặt bóng
không chê vào đâu. Nó lợi thế có mẫu mã tốt tướng, có tài thu hút nhóm bạn nên
mỗi độ văn nghệ của trường, nó lên sân khấu chưa cần hát hò gì là cả nhóm ồ, hố
lên rộn rã. Nó hội tụ các tài năng của hai anh nó. Hai anh nó mắc cỡ với chuyện
tặng quà, viết thiệp chúc mừng mẹ những ngày lễ, còn nó thì làm một cách tự
nhiên. Chị biết tính các con chị, mỗi đứa đều có cách thể hiện tình cảm riêng
với chị. Đứa nào cũng hiếu thảo, nhưng chị vẫn thấy thích cách bày tỏ tình cảm
của nó, thích những buổi sinh nhật lãng mạn của chị do nó với chồng chị tổ
chức. Nó biết làm mẹ vui, biết làm bố hài lòng. Thỉnh thoảng chị đem những tấm
thiệp chúc mừng ngày phụ nữ của nó ra xem, rồi chị lại cười tủm tỉm với những
lời chúc của nó. Chị tự hào vì người ta biết nó là con chị. Nhiều khi, chị nghĩ
cách dại khờ, nó đừng lớn lên, nó lớn sẽ có vợ, sẽ san sẻ tình thương cho vợ
như chồng chị đang dành tình thương cho chị vậy. Cũng có lần chị nghĩ bụng sẽ
chọn vợ cho nó, chị sẽ chọn cách cẩn thận, chọn người con dâu cho xứng với nó
và yêu nó hơn nó yêu con dâu. Chị tự hào về nó hơn hai anh nó, thương nó hơn
hai anh nó, dù chị biết điều này không phải chút nào. Các anh nó biết mẹ quý nó
nhưng chẳng ganh tị vì nghĩ nó xứng đáng, vì nó luôn tỏ ra kính trọng với hai
anh. Cái xóm chị, mấy bà ai cũng ước được có một gia đình hạnh phúc như chị,
con ngoan, giỏi giang, đạo đức, chồng thì hiền lành yêu vợ hơn cả yêu bản thân.
Nhưng chị, chị có nỗi khổ riêng.
Anh lấy chị
và theo đạo. Công việc ở nhà máy của anh cũng không được thong thả để tham dự
lễ lạc ngày thường, nhưng lễ Chúa Nhật anh không bỏ. Chị cũng không trách anh
chuyện ấy. Với một người trở lại thì giữ lễ ngày Chúa Nhật là tốt rồi, mà thi
thoảng anh cũng đi lễ ngày thường với chị những khi nghỉ việc. Anh hay hỏi chị
về giáo lý, những câu hỏi của anh đậm màu lý luận. Kiểu câu hỏi này dù có trả
lời một thì cũng lộ ra hai điều muốn hỏi tiếp, phải chi anh dừng lại ở lời giải
thích của chị và tin là đủ rồi, đằng này anh lòng vòng hỏi đến tận xương tủy.
Chị có phải là linh mục đâu. Anh không phải là hạng người so đo tính toán thiệt
hơn chuyện giữ đạo nhưng thấy điều trái lý là bụng muốn hỏi, muốn bất bình. Chị
sợ kiểu bất bình của anh. Bữa đi lễ về anh nói, sao thấy kì quá đi, Chúa nói
đong đấu nào thì trả đấu nấy, mà những người ở hiền lành thì hay mất trộm,
nhiều người đạo đức sốt sắng thì bị người khác ăn hiếp. Chị không giải thích
cho anh, chị biết giải thích thế nào anh cũng vặn hỏi, mà chị thì không đủ giáo
lý làm cho anh thuyết phục. Chị biết tính anh vậy, con người anh hay suy tư và
đi tới cái tận cùng mới thôi. Niềm tin người mới theo đạo có thể lung lay từ những
thắc mắc vụn vặt, những bất bình không ai tháo gỡ. Nhiều bữa hàng xóm xả nước
phân heo qua vườn hôi đến khó chịu, anh qua nói đôi lời, trúng bà hàng xóm hồ
đồ: “Thải bên vườn, tại mưa gió nó chảy qua, thích thì vác đơn mà kiện”. Cái
giọng thách thức, chua chát của bà làm anh tức lộn gan, muốn cho bà tát tai thì
chị bảo, kệ, họ ngửi trước, ngửi nhiều hơn mình, đến lúc bà ta chịu không nổi
nữa thì tự đào hầm giải quyết thôi. Anh tức cái kiểu giữ đạo của chị, phải nhịn
nhục giữ tình xóm nghĩa làng. Mà anh thấy bất bình hỏi thì chị không giải thích
được. Khi nào chị cũng kết thúc bằng câu “có điều Chúa làm cho ta mà không nhận
ra”. Nhiều hôm anh nghĩ bụng, chắc khi nhận ra thì đã già đát, xuống mồ rồi.
Tình cảm vợ chồng đôi khi cũng bất hòa ở chỗ đó.
Hai đứa lớn
đi học. Chỉ còn thằng út ở với chị. Ngoan ngoãn, học giỏi, đạo đức sốt sắng như
chị. Chị thương nó, muốn giữ nó cho mình, chị sợ một ngày nào đó nó cũng bỏ chị
đi, bỏ chị lại với anh trong ngôi nhà trống vắng không tiếng học bài rôm rả,
không trò ngỗ nghịch của đám nhỏ bạn nó tới chơi, bỏ chị vào Sài Gòn học. Chị
cố giữ nó bên mình, cố nắm chặt nó không để nó buông khỏi vòng tay chị. Chị nắm
thời khóa biểu, lịch học thêm, giờ chơi với bạn. Thằng nhỏ không một tiếng phàn
nàn, nó để mẹ giám sát. Chị có cảm giác nó sẽ ra đi thật, chị muốn chăm sóc cho
nó trước khi rời khỏi vòng tay của chị. Cái áo, cái quần, đôi tất giữ ấm chị
đều mua cho nó, cố để ý thời trang của đám học sinh thế hệ 9X, chị cố không để
cho nó ăn mặc lạc lõng, ngộ ngộ trước đám bạn của nó. Cái mũ lưỡi trai khắc chữ
“nobody I love” chị cũng mua cho nó. Một ngày, chị thấy trong người trống vắng,
bất an. Chị nôn nóng nó đi học về, chỉ để gặp mặt nó, có vậy thôi. Chị bắc bếp
chiên khoai lang cho nó, đây là món nó yêu thích. Chị chờ, và chờ. Đã quá giờ
tan trường rồi, chị chạy lại đầu xóm ngộ nó đang la cà nhà đứa bạn. Không thấy.
Chị sốt ruột, như điều gì đó xảy ra với con chị. Chị nhận điện thoại, bên kia
giọng run run, vội vã nhưng không rõ tiếng, “Thằng Khoa chết đuối trên suối rồi
cô ơi”. Chị ngã quỵ xuống, không còn biết gì nữa. Lớp nó được nghỉ hai giờ văn,
cả bọn nam kéo nhau lên suối, và trong sự vội vã, nó trượt chân té xuống hồ,
trước khi mất tích dưới mặt nước, nó ngoắt ngoảy tay vang lên mấy tiếng: “mẹ,
mẹ…” . Chị khóc, khóc đến cạn kiệt sức, khóc như thể khóc lần cuối trong đời
chị vậy. Một ngày, hai ngày, ba ngày, nước mắt đã cạn. Chị biết chị cần tỉnh
táo, tỉnh táo để anh còn niềm tin mà sống, tỉnh táo để hai đứa con chị còn lòng
trí mà học, mà sống cho tương lai. Anh không khóc thành dòng lệ, nhưng lòng anh
đau, đau như ai đó lấy mũi dao đâm vào tim vậy.
Anh cũng có
nỗi nhớ của mình. Thi thoảng anh lại nghe nó gọi: “ Bố, làm ván cờ hè ? Làm
xong bài tập rồi”. Ngồi uống nước trà thấy hai cha con đèo nhau vào shop hoa,
nó cười với anh, đưa tay chỉ, mẹ thích hoa này nè. Hết tiết, chị chẳng muốn về
nhà, lang thang đâu đó cho thời gian trôi đi. Chị sợ ngôi nhà rộng rãi của
mình, nó lạnh lẽo và trống vắng đến ớn lạnh. Đứng, ngồi… khi nào cũng thấy bóng
dáng thằng nhỏ. Đi qua phòng thấy nó đang ngồi say sưa làm bài, ngồi vào bàn ăn
thấy nó và cơm vội vã ngon lành, chị lại thẫn thờ. Chị muốn mình bận bịu suốt
ngày để quên đi hình bóng nó, quên để hai vợ chồng không còn rầu rĩ khi ngồi
vào bàn ăn nữa.
Chị không
thích đóng kịch lắm, chị nói sân khấu nó có vẻ không thiệt bụng, nhưng Giáng
Sinh này chị nhận vai, vai vợ ông Gióp. Chị muốn cho khuây khỏa, muốn quên đi
mọi muộn phiền. Suốt một tuần, cơm tối xong là chị lên nhà thờ tập kịch. Chị có
rủ anh đi nhưng anh không thích. Anh còn một ẩn khuất chưa giải được. Anh còn
bám víu, tại sao vợ con anh thánh thiện thế, anh cũng không bê tha kinh nguyện
mà sao Chúa đối xử với gia đình anh như vậy. Chị cũng muốn cho anh tin vào tình
thương của Chúa nhưng chị không giải thích được. Tối, chị lại đi tập kịch. Anh
càm ràm, cái giọng có vẻ khó chịu, cau có: “ Em còn tin Chúa đến bao giờ nữa,
đến thằng con trai Chúa cũng lấy đi, vậy mà em còn kịch cợi gì nữa, đến bao giờ
thì em tỉnh ngộ đây?”. Chị không cãi, không trách anh. Đức tin của một người
trở lại chị không đòi hỏi nhiều. Chị chỉ biết sống với niềm tin của mình, niềm
tin Chúa sẽ không để con người thiệt thân. Nhưng chị linh tính có điều không
tốt, chị biết anh sẽ làm một điều gì đó. Cái tính của anh chị biết.
Anh quảy một ba lô bước ra khỏi cổng, không
biết đi đâu và đi bao lâu, có thể là mãi mãi. Hôm trước khi anh đi, trước đêm
Giáng Sinh, chị đã giằng co đôi ba câu với anh về cái chuyện nhà thờ nhà thánh.
Bình thường anh đâu có tính thiệt hơn, chỉ tại thấy Chúa bất công, lấy đi người
con trai hợp tính hợp tình với anh, mà chị thì cứ đeo bám, cứ tin Chúa nhân từ,
một hai là chuyện nhà thờ, công tác nhà thờ. Anh đi không lời chửi, không gào
thét, anh yêu chị và không muốn chị đau khổ. Đi để chị tỉnh thức với niềm tin
mãnh liệt của mình, chỉ thế thôi. Chị nhìn anh từng bước qua rào cổng, không
níu kéo, không van nài, không phẫn nộ, nhưng chị thấy lòng trống vắng, mất mát,
đau đớn. Chị biết không thể níu kéo anh, mà níu kéo, van nài thì chẳng khác gì
đánh rơi đức tin cho anh thấy.
Ông Gióp
bước ra, nhìn những đứa con ngoan ngoãn với đàn gia súc của mình liền cảm tạ
Thiên Chúa. Ông đang cười nói với vợ bên mâm cơm thì người đầy tớ hốt hoảng
chạy vào báo tin chiên, dê, bò, lừa, bị quân Sơ-va giết chết; các tôi tớ và
những người con của ông cũng bị lửa từ trời thiêu cháy, không còn sống một ai.
Ông đau khổ sụp lạy Thiên Chúa mà thưa, “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi
sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi, xin
chúc tụng danh Đức Chúa”. Chị bước ra trong vai vợ ông Gióp. Tức tối và nóng
giận. Chị không cầm được lòng mình nữa, nói như trút giận, nói cho hết những ấm
ức trong lòng: “Thế này rồi mà ông còn ca tụng Thiên Chúa của ông hà?”. Chị quỵ
ngục xuống, khóc, khóc nức nở, tức tửi, khóc như trút bỏ. Chị không khóc cho
cảnh trong kịch bản nhưng chị khóc cho lòng mình, khóc cho cảnh đời của mình.
Chúa đã lấy đi của chị tất cả, “con trai vàng” của chị, người chồng của chị.
Đêm Giáng
Sinh, nhà nhà quây quần, người thân tay trong tay nói cười hớn hở, sánh bước
đến nhà thờ đón Chúa giáng sinh. Chị trở về nhà, cô đơn, hiu quạnh. Chị nhìn
qua máng cỏ, bên góc phòng khách, Chúa Hài Đồng nằm lạnh lẽo, rồi thì thầm đôi
lời. Chị cố buông lỏng người nằm dài xuống giường, không hình dung đến cảnh
Noel ngày mai mọi người tưng bừng tiệc mừng, vui chơi. Chị thấy lòng mình chảy
qua một cảm xúc bồn chồn, một điều gì đó sẽ đến với chị rất mơ hồ, chị không rõ
vui hay buồn. Chị thiếp đi trong giấc ngủ.
Một ngày Giáng Sinh sắp qua đi, chị vẫn ở mãi
trong phòng. Tiếng chó sủa, không dồn dập, không đay nghiến. Ăng ẳng, quấn
quýnh và mừng rỡ. Người đàn ông yêu thương của chị bước qua cánh cửa. Ánh mắt
ngỡ ngàng, chị choàng tay qua thắt lưng ôm lấy anh. Nước mắt lại chảy tràn. Chị
không hỏi anh, không cần biết lý do anh trở về nhà. Chị cố siết chặt vòng tay
không để anh tuột khỏi một lần nữa.
Hai đứa con
nhảy dựng lên khi gặp anh, đứa nhỏ ôm vai, đứa lớn hí hửng hỏi thăm mẹ, chúng
đang hạnh phúc, vô tư như cánh diều cứ vút bay mặc cho thằng bé dưới đất cố gỡ
những đoạn dây rối mà ngày hôm qua vội vã quấn thu. Thấy khuôn mặt con trẻ hạnh
phúc anh không nỡ cho nó biết chuyện của mình. Anh biết cõi lòng chúng sẽ tan
nát, vỡ vụn và đau khổ khi biết anh bỏ nhà đi. Giọt cà-phê đắng ở một góc quán
nhỏ Sài Gòn đủ làm anh tỉnh táo để suy nghĩ, để thấy giây phút này anh đang mất
mát, giây phút này vợ anh đang đau khổ, đang thiếu một bờ vai nâng đỡ; để thấy
vợ anh đảm đang, nết na không như cô hàng xóm hỗn xược với chồng, thấy các con
anh ngoan hiền, thấy anh đang có một gia đình mà mọi người mơ ước. Bởi đâu? –
anh hỏi lòng mình. Rồi tự trả lời: “Chẳng phải do chuyện kinh nguyện sớm tối
làm cho vợ anh trở thành người mẹ tốt, người vợ đáng yêu đó sao. Nếu không kinh
nguyện, lễ lạc sốt sắng thì các con liệu có ngoan ngoãn, đỗ đạt như vậy không”.
Giọt cà phê đắng ấy làm anh nhận ra hạnh phúc đang ở bên mình. Hạnh phúc đó bởi
đâu? Chẳng phải bởi Chúa đó sao? Anh trở về tìm hạnh phúc của mình.
Anh cũng
không nói cho chị biết lý do trở về, chỉ thỏ thẻ bên tai chị khi nước mắt đang
ướt trên bờ vai: “Hạnh phúc ở bên ta, Chúa làm mà ta không nhận ra. Em đã
đúng”.
Mã số 13-012
Một chiều cuối năm êm ả như ru. Tôi tự pha cho mình một tách
cà phê, ngồi đọc bài cảm thức của tác giả Phạm Lữ Ân đoạn viết như
thế này: “Tôi có một người quen, anh thường ra phố Lê Công Kiều mua đồ
cổ. Thật ra anh cũng chẳng mua thứ gì đắt đỏ vì tài chính còn eo
hẹp. Anh chỉ mua những chiếc tô gấm chiết yêu vẽ xanh trắng. Anh chất
từng đống trong phòng mình. Tôi những tưởng anh mê lắm! Nhưng không, anh
mua vì nhớ mẹ. Vì lúc xưa khi anh còn nhỏ, gia đình còn nghèo. Mẹ
anh được ai đó tặng cho hai chiếc tô gấm và mấy cái chén sứ xanh
trắng. Mẹ anh quý lắm! Anh nhớ, chỉ khi dịp Tết, mẹ mới cho anh em ăn
cháo gà trong tô gấm trong bữa cơm Giao Thừa cuối năm. Rồi chiến tranh.
Những món đồ ít ỏi đó, mẹ anh không giữ được. Và bà tiếc mãi… cho
đến ngày “ra đi”. Anh nhớ mẹ, nhớ những buổi Giao Thừa anh ngồi nép
bên mẹ, nhìn mẹ lau sạch những chiếc chén, cái tô bát thật tỉ mẩn,
trân quý… Anh dành dụm tiền và tìm mua lại chút tuổi thơ xưa…”
Đọc
truyện ngắn đó, lòng tôi bỗng thấy ấm sực lại. Nó như cũng gợi
nhắc lại cho tôi. Nhớ về miền nhớ xa xăm. Tôi cứ tin rằng dăm ba
khoảnh khắc tìm lại tuổi thơ ấy trong những ngày cuối năm như vầy,
đã trao lại cho tôi nguồn năng lượng mạnh mẽ, diệu kì. Cùng tôi trở
ngược lại cái ngày ấy với câu chuyện của riêng tôi nhé! Cùng lắng
nghe nào!
Tôi vẫn
nhớ những cái Tết năm xưa. Dòng họ nhà tôi thường có truyền thống ra
Đất Thánh thăm lại những ngôi mộ nơi chôn cất ông bà tổ tiên của
mình. Có dịp để tân trang lại cho những người “đã khuất”: Cắt dọn
cỏ, đốt nén nhang thơm phảng phất, thắp một ngọn nến cháy sáng… Rồi
tất cả con cháu về nhà ông bà, cùng dải chiếu quây quần đọc kinh
cầu cho tiên nhân. Không khí giờ kinh
gia đình thật ấm cúng, lan tỏa. Những câu kinh với đủ mọi âm vực khác
nhau của các thế hệ: Ông bà, cô, dì, chú, bác, con, cháu, chắt… Tuy
là có lúc lạc nhịp do đọc không đều, nhưng ai cũng rất sốt sắng dâng
lời kinh cầu trong không khí đầu năm an khang – thịnh vượng.
Nhưng mỗi
năm mỗi mai một dần dà đi. Ngày đọc kinh cầu cho tiên nhân vào mùng 2
Tết của dòng họ tôi cứ thưa dần bóng người. Vì mỗi người
mỗi lý do này kia. Mặc dù hằng năm họ tôi cũng có thêm vài ba cháu
dâu, cháu rể, trẻ con cũng đóng góp thêm vài ba đứa… Dòng họ tôi đông
mà. Chúng nó vin vào cớ đi Tết đông, Tết tây, họp lớp, gặp mặt bạn
bè… Còn lại ông bà, cô, dì, chú, bác… những “lão làng” ở lại, duy
trì truyền thống đọc kinh cầu cho tiên nhân. Thế đó!!!!!
***
“Ai qua là
bao chốn xa, thấy đâu vui cho bằng mái nhà…”
Câu hát
quả là muôn đời còn đúng, không hề sai lệch bạn ạ! Đối với tôi ,
nhà là nơi cất chứa những khoảnh khắc gia đình đoàn tụ, sum vầy. Là
ngôi nhà nhỏ bé, đơn sơ nhưng luôn ngập tràn niềm vui, ánh lên nụ cười
tươi tắn của tất cả thành viên. Với xuất phát điểm sinh ra trong gia
đình Công Giáo. Chúng tôi luôn tự hào về điều này.
Ba mẹ
giáo dục con cái phép tắc, mực
thước. Luôn noi theo khuôn mẫu là những giáo điều Chúa đã truyền dạy
mà hướng dẫn con cái mình tới phương hướng sống tích cực, lành
mạnh: Mến Chúa, yêu người, chăm học, chăm làm, lễ phép, vâng lời… Anh
chị em dần lớn lên, trưởng thành trong tình yêu thương rất mực của ba
mẹ dành dụm cho. Và cả ơn riêng mà Bề Trên luôn tuôn đổ, phù hộ, gìn
giữ.
Mái nhà
ấy có tiếng ba mẹ dặn dò: “Các con học bài xong đọc kinh chung với
cả nhà nào!” Có thể ngày xưa (mà tôi đã được bao tý tuổi mà nhắc
tới hai từ “ ngày xưa”, thôi, tạm gọi thế đi!)
Cái ngày
xưa của tôi ý, có thể đem so với thời đại bây giờ thì sẽ có thể bị
tụi trẻ xì-tin dè bỉu, cười cho một điệu “rõ quê”, kèm theo câu nhận
xét: “Tối mà không đi chơi à? Không đi giao du bạn bè gì à?” Vâng!
Ngày xưa cách đây cũng không lâu lắm đâu. Là cứ tối tối, học bài xong
là anh chị em tôi sẽ tham dự giờ kinh chung của gia đình: Có lần
chuỗi mân côi, đọc và chia sẻ lời Chúa. Từng người từng người một
nhé, ai cũng được nói rõ, chia sẻ đúng suy nghĩ của mình về những
điều Chúa truyền dạy trong các bài Tin Mừng. Tôi coi đó là một cách
cụ thể hóa Lời Chúa. Công khai thể hiện quan điểm để tích góp ý hay
từ những lời chia sẻ đầy tâm huyết của mọi thành viên mà vận dụng
vào đời sống gia đình thường nhật.
Ừh thì cái thời học sinh của tôi chỉ bó
hẹp trong khoảng không gian gia đình - nhà trường: Sáng đi học, tối lại
ở nhà. Nó bình lặng, không ồn ào, không có những cuộc vui chơi thác
loạn với đua xe, nhảy nhót ở các quán bar, karaoke, vũ trường… Có
thể sẽ thuộc vào hạng quê mùa. Nhưng chẳng có là gì, ngược lại, tôi
lại hoàn toàn tự hào và mừng rỡ về cái ngày xưa bình lặng của
mình, bên gia đình thân yêu của mình.
Chính nhờ
những giờ kinh gia đình đã níu giữ tôi ở lại. Ở lại trong vòng tay
thân thương của gia đình. Ở lại trong ân tình Chúa. Tôi là một con
người sống tâm linh. Tôi luôn ăn ở đức hạnh như ba mẹ đã dặn dò. Con
người ta ý mà, khi đã cùng tồn tại trên cõi đời này thì xin hãy tuyệt đối đừng bỏ
mặc nhau. Khi mà biết mình may mắn hơn người khác. Hãy ngầm hiểu là
người ta đã mang gánh nặng bất hạnh, thiếu khuyết, đói khổ… thay cả
phần ta. Giúp đỡ người khác không phải là trách nhiệm, mà là nghĩa
tình.
Phải chăng
nếu như tôi không sinh ra và lớn lên trong gia đình Công Giáo đạo đức
thì có thể lắm chứ, tôi sẽ là một con người thật khác. Chính tôi
cũng khó hình dung ra được là mình sẽ đi về đâu đâu nữa??? Có thể sa
chân, ngã nhào, vấp váp… đến khi bừng tỉnh thì cũng đã muộn để có
thể sửa chữa. Uh, thì phải qua những chặng đường đã đi tới, thì mới
cho ta thêm cảm nghiệm rằng: Dù cho tới mọi nẻo nào, chân trời, góc
bể… thì thực sự gia đình thân yêu vẫn mãi là MỘT- NƠI- NGẢ- ĐẦU- ÊM-
ÁI. Luôn rộng mở chào đón ta.
Dịp cuối
năm, Tết đến xuân về, là phải về nhà với gia đình thân thương, bạn
hiền nhé! Cùng quây quần, đầm ấm trong những giây phút thiêng liêng
của giờ kinh gia đình nhé! Nguyện dâng lên Chúa xuân, xin thánh hóa.
Cho ta năm mới an lành, thành công và hạnh phúc. Xin cho một năm được
đủ đầy ơn Người phù giúp, thương ban. Để con thêm ơn đức tin, thêm lòng
cảm mến Chúa nhiều hơn.