Ở bài chia sẻ 05, chúng tôi đã nêu gợi ý chủ yếu cho việc truyền
giáo qua con đường dòng họ. Theo đó, mỗi dòng họ trong giáo xứ có thể tổ chức
một ngày truyền thống cho dòng họ mình. Nếu trong dòng họ có những vị thánh, có
thể lấy ngày lễ kính của một vị làm ngày truyền thống. Nếu thiếu vị thánh đồng
tộc, có thể chọn bất cứ vị thánh nào tại Việt
Trong danh sách các thánh người Việt dưới đây,
- 69 vị thuộc 17 dòng họ: Bùi (2), Đặng (1), Đinh (3), Đỗ (3), Đoàn
(3), Hà (2), Hồ (1), Hoàng/Huỳnh (1), Lê (7), Nguyễn (24), Phạm (5), Phan (3),
Tạ (1), Tống (1), Trần (4), Trương (2), Vũ/Võ (6);
- 29 vị không rõ dòng họ.
Tên
thánh |
Họ và |
Tên |
Thành phần |
Lễ kính |
Nicôlas |
Bùi Ðức |
Binh sĩ |
12.06 |
|
Ðaminh |
Bùi Văn |
Thày giảng
TOP |
19.12 |
|
Giuse |
Đặng Ðình |
Linh Mục |
21.08 |
|
Ðaminh |
Ðinh |
Binh sĩ |
18.07 |
|
Gioan B. |
Ðinh Văn |
Thày giảng |
28.04 |
|
Tôma |
Ðinh Viết |
Linh Mục
OP |
26.11 |
|
Vinh Sơn |
Đỗ |
Linh Mục
OP |
30.06 |
|
Giacôbê |
Đỗ Mai |
Linh Mục |
12.08 |
|
Phanxicô |
Đỗ Văn |
Thày giảng |
26.06 |
|
Phêrô |
Ðoàn Công |
Linh Mục |
31.07 |
|
Gioan |
Ðoàn Trinh |
Linh Mục |
26.05 |
|
Phêrô |
Ðoàn Văn |
Thày giảng |
25.05 |
|
Ðaminh |
Hà Trọng |
Linh Mục
OP |
05.11 |
|
Phanxicô
X. |
Hà Trọng |
Thày giảng
TOP |
19.12 |
|
Micae |
Hồ Ðình |
Quan Thái
bộc |
22.05 |
|
Giuse |
Hoàng
Lương |
Trùm họ
TOP |
05.09 |
|
Lê |
Linh Mục |
11.10 |
||
Phaolô |
Lê Bảo |
Linh Mục |
06.04 |
|
Giuse |
Lê Ðăng |
Cai đội |
24.10 |
|
Anê |
Lê Thị (Bà
Ðê) |
Giáo dân |
12.07 |
|
Matthêô |
Lê Văn |
Thuong gia |
11.05 |
|
Phaolô |
Lê Văn |
Linh Mục |
13.02 |
|
Emmanuel |
Lê Văn |
Trùm họ |
31.07 |
|
Antôn |
Nguyễn |
Binh sĩ |
12.08 |
|
Phaolô |
Nguyễn |
Linh Mục |
08.11 |
|
Phêrô |
Nguyễn Bá |
Linh Mục |
15.07 |
|
Giuse |
Nguyễn
Ðình |
Linh Mục |
08.11 |
|
Giuse |
Nguyễn
Ðình |
Thày giảng
TOP |
04.07 |
|
Nguyễn Duy |
Thày giảng
TOP |
06.12 |
||
Antôn |
Nguyễn Hữu |
Binh sĩ |
10.07 |
|
Micae |
Nguyễn Huy |
Lý trưởng |
12.08 |
|
Phêrô |
Nguyễn
Khắc |
Thày
giảng. |
10.07 |
|
Anrê |
Nguyễn Kim |
Trùm họ |
15.07 |
|
Vinh Sơn |
Nguyễn Thế |
Linh Mục |
24.11 |
|
Nguyễn Văn |
Thợ may |
19.12 |
||
Ðaminh |
Nguyễn Văn |
Linh Mục
OP |
01.08 |
|
Phêrô |
Nguyễn Văn |
Thày giảng |
28,04 |
|
Laurensô |
Nguyễn Văn |
Linh Mục |
27.04 |
|
Giuse |
Nguyễn Văn |
Trùm họ |
02.05 |
|
Nguyễn Văn |
Linh Mục |
07.04 |
||
Augustinô |
Nguyễn Văn |
Nông dân
TOP |
19.12 |
|
Phaolô |
Nguyễn Văn |
Thày giảng |
18.12 |
|
Matthêô |
Nguyễn Văn |
Binh sĩ |
26.05 |
|
Emmanuel |
Nguyễn Văn |
Linh Mục |
17.09 |
|
Nguyễn Văn |
Linh Mục
OP |
05.09 |
||
Stephanô |
Nguyễn Văn |
Nông dân
TOP |
19.12 |
|
Ðaminh |
Nguyễn Văn |
Linh Mục
OP |
26.11 |
|
Vinh-sơn |
Phạm Hiếu |
Linh Mục
OP |
07.11 |
|
Phaolô |
Phạm Khắc |
Linh Mục |
28.04 |
|
Ðaminh |
Phạm Trọng |
Quan án
TOP |
13.01 |
|
Giuse |
Phạm Trọng |
Chánh Tổng |
13.01 |
|
Luca |
Phạm Trọng |
Chánh Tổng |
13.01 |
|
Simon |
Phan Đức |
Y sĩ |
12.12 |
|
Philiphê |
Phan Văn |
Linh Mục |
03.07 |
|
Augustinô |
Phan Viết |
Binh sĩ |
12.06 |
|
Martinô |
Tạ Đức |
Linh Mục |
08.11 |
|
Phaolô |
Tống Viết |
Quan thị
vệ |
23.10 |
|
Trần An |
Linh Mục |
21.12 |
||
Tôma |
Trần Văn |
Chủng sinh |
21.09 |
|
Anrê |
Trần Văn |
Binh sĩ |
28.11 |
|
Phanxicô |
Trần Văn |
Cai đội. |
06.10 |
|
Phêrô |
Trương Văn |
Thày giảng |
18.12 |
|
Phêrô |
Trương Văn |
Linh Mục |
21.12 |
|
Luca |
Vũ Bá |
Linh Mục |
05.06 |
|
Phêrô |
Vũ Ðăng |
Linh Mục |
24.11 |
|
Ðaminh |
Vũ Ðình |
Linh Mục
OP |
02.04 |
|
Phaolô |
Vũ Văn |
Thủ bạ |
03.06 |
|
Bênadô |
Vũ Văn |
Linh Mục |
01.08 |
|
Phêrô |
Vũ Văn |
Thày
giảng. |
18.12 |
29 vị không rõ dòng họ
Tên thánh |
Họ và |
Tên |
Thành phần |
Lễ kính |
Anrê |
|
Nông gia |
16.06 |
|
Anrê |
|
Thày Giảng |
26.07 |
|
Ðaminh |
|
Nông gia |
16.06 |
|
Ðaminh |
|
Chánh
truong |
16.06 |
|
Ðaminh |
|
Nông gia |
16.06 |
|
Ðaminh |
|
Linh Mục
OP |
18.09 |
|
Ðaminh |
|
Linh Mục
TOP |
11.03 |
|
Ðaminh |
|
Nông dân |
02.06 |
|
Ðaminh |
|
Ngư phủ |
05.06 |
|
Ðaminh |
|
Ngư phủ |
05.06 |
|
Gioan |
|
Linh Mục |
28.10 |
|
Gioan
Baotixita |
|
Lý trưởng |
08.11 |
|
Giuse |
|
Linh Mục
OP |
30.04 |
|
Giuse |
|
Linh Mục |
09.05 |
|
|
Giáo dân |
01.06 |
||
Giuse |
|
Giáo dân |
07.06 |
|
Laurensô |
|
Nông dân |
22.05 |
|
Martinô |
|
Viên thuế |
08.11 |
|
Phanxicô
Xavie |
|
Thày giảng |
20.11 |
|
Phaolô |
|
Giáo dân |
28.05 |
|
Phêrô |
|
Thư Mục |
17.06 |
|
Phêrô |
|
Linh Mục |
12.07 |
|
Phêrô |
|
Ngư phủ |
06.06 |
|
|
Ngư phủ |
06.06 |
||
Tôma |
|
Thày giảng
TOP |
27.06 |
|
Tôma |
|
Linh Mục
TOP |
30.01 |
|
Vinh-sơn |
|
Chánh Tổng |
16.06 |
|
Vinh-sơn |
|
Giáo dân |
06.06 |
Hằng năm, tới ngày kỷ niệm các vị Tử đạo, tại quê hương của
từng vị vẫn có lễ hội của Giáo xứ và Giáo phận. Theo hướng loan Tin mừng cho
đồng tộc, ngoài thánh lễ, rước kiệu, nên có thêm những sinh hoạt dành cho người
cùng dòng họ với vị Thánh. Với sinh hoạt này, ngày kính vị Tử đạo sẽ sớm thành
lễ hội của Dòng họ và có khả năng lôi cuốn người đồng tộc, giáo cũng như lương.
Tại những nơi ở xa quê hương vị Thánh, nếu bà con đồng tộc có điều kiện cũng
nên xây dựng tượng đài hoặc đền thánh. Những nơi này cũng sẽ có thể thành những
điểm hành hương cho Dòng họ.
Ngày về viếng đền thánh
Phêrô Vũ Đăng Khoa tại giáo xứ Thuận Nghĩa, Nghệ An, đứng trước tượng ngài, tôi
chợt có cái ao ước gặp gỡ hậu duệ của ngài đang sống quanh đó. Khi biên soạn
quyển Về Với Cội Nguồn, tới phần các vị thánh đồng tộc, tôi nghĩ cần cung cấp
cho độc giả những thông tin cần thiết để có thể thực hiện những cuộc hành hương
lý thú, vừa về thăm quê hương các thánh vừa giao lưu gặp gỡ với hậu duệ các
ngài. Rất may, tôi đã gặp được sự giúp đỡ nhiệt thành của ông bà Phanxicô Xaviê
Phạm Vũ Hiệp, Hà Nội (sđt: 0949-084-494). Hai vị đã đích thân hành hương đến
quê quán sáu vị thánh họ Vũ-Võ, kính viếng các đền thánh, chụp hình và đích
thân liên lạc với hậu duệ các vị thánh để có được những số liệu chính xác và
sống động. Tôi xin được ghi lại ở đây như một gợi hứng. Ước mong rằng hậu duệ
các vị thánh thuộc những dòng họ khác cũng cung cấp cho chúng tôi những thông
tin tương tự để, khi có điều kiện, chúng tôi có thể phổ biến lại cho đồng tộc
của các ngài ở khắp nơi.
ĐƯỜNG VỀ QUẦN PHƯƠNG – QUÊ HƯƠNG THÁNH BÊNAĐÔ VŨ VĂN DUỆ
Đền Thánh kính thánh tử vì đạo Bênađô Vũ Văn Duệ tọa lạc tại làng
Quần Phương, thị trấn Yên Định, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, thuộc giáo phận
Bùi Chu, cách Hà nội khoảng 150 km. Yên Định là một thỊ trẤn nhỏ, đẹp, rất gọn
gàng, đặc biệt đường quê ngõ xóm rất sạch. Ở đây gần biển nên không khí ấm áp,
trong lành dễ chiụ. Người dân sống chủ yếu nhờ nông nghiệp. Bánh nhãn là đặc
sản địa phương rất ngon và thơm. Quần Phương là giáo xứ toàn tòng công giáo.
Nhà thờ chính xứ ở giữa thị trấn. Giáo xứ này là một trong ba giáo điểm (Quần
Phương Đông Cường, Trà Lũ Phú Nhai và Ninh Cường) trên quê hương Việt Nam được
đón nhận Tin Mừng sớm nhất, từ năm 1533. Đền Thánh Bênađô nằm sau nhà thờ xứ,
cách khoảng 200m, trong một khuôn viên rộng ước khoảng 2000 mét vuông. Ngoài
tượng đài Cha Thánh rất lớn dựng ở bên ngoài, bên trong ngôi nhà thờ rất cổ
kính, khá bề thế đẹp, rất trang trọng và tôn nghiêm còn có bàn thờ Cha Thánh.
Phía trước tượng đài và cũng là trước đền thờ Cha Thánh còn có một ngôi nhà 15m
x 8m, cao chừng 5m, mái cong rất cổ, lợp ngói ta vừa được tu sửa, quét mầu ghi
sáng rất ấn tượng.
Chi tộc họ Vũ ở Quần Phương khá đông và hiện còn giữ được gia phả
lập ngày 15-11-1785. Cha Thánh Bênađô là chi thứ hai, con cụ cố Vũ Hữu Quán.
Trưởng tộc hậu duệ hiện nay của Cha Thánh là Ông Vũ Hữu Ninh, 70 tuổi (năm 2010
- sđt: 0350-377-5017). Ông cùng Ông Vũ Văn Đốc, 61 tuổi, trông nom đền Cha
Thánh (sđt: 0350-377-5577; 0169-980-188).
Hằng năm, Giáo xứ Quần Phương và hậu duệ Cha Thánh tổ chức giỗ ngài
vào ngày 1-8 dương lịch và giỗ chi tộc họ Vũ ở Đông Cường – Quần Anh vào ngày
15-11 âm lịch.
ĐƯỜNG VỀ LÊ XÁ – QUÊ HƯƠNG THÁNH PHAOLÔ VŨ VĂN
ĐỔNG
Thánh tử vì đạo Phaolô Vũ Văn Đổng là người làng Lê Xá. Vị thánh
này có người con trưởng làm linh mục tên là Dương nên thường gọi theo tên con
là Thánh Dương..
Về mặt xã hội, Lê Xá xưa kia cùng với thôn Cao Xá và thôn Bạn Lễ
thuộc xã Vực Đường. Vào thời Hậu Lê, để tiện bề cai trị, vua chia xã Vực Đường
thành 3 xã có tên là: Lê Xá, Cao Xá và Bạn Lễ.
Về mặt tôn giáo, trước khi vua tách xã, Vực Đường là một họ đạo
thuộc xứ Cao Xá (nên hiểu Cao Xá này là tên của một xứ đạo thuộc Hưng Yên, chứ
không phải là thôn Cao Xá như mới nói ở trên). Giáo dân của họ Vực Đường hầu
hết sống ở thôn Lê Xá, nên sau khi tách xã, họ đạo Vực Đường nằm gọn trong xã
Lê Xá, còn lại hai xã kia chủ yếu là người lương. Vì thế nói giáo họ Vực Đường
hay giáo họ Lê Xá cũng là một. Vào năm 1915, giáo xứ Cao xá được tách ra thành
hai giáo xứ: Cao Xá và Đan Chàng. Lúc đó, họ đạo Lê Xá (Vực Đường) thuộc vào xứ
Đan Chàng. Năm 1947, họ đạo Lê Xá được nâng lên là giáo xứ Lê Xá, và kể từ đây
tên gọi họ đạo Vực Đường biến mất.
Năm 1954, hầu như toàn bộ giáo xứ Lê Xá di cư vào
Đường về Lê Xá: Từ thành phố Phủ Lý, đi khoảng 10km về phía bắc sẽ
tới thị trấn Đồng Văn, lên cầu vượt, vào đường đi Hưng Yên và đi khoảng 8 km
tới cầu Yên Lệnh , qua cầu là ngã tư Yên Lệnh, rẽ trái , đi khoảng 7 km, qua cả
TP Hưng Yên tới giữa trung tâm thị trấn huyện Kim Động gặp ngã ba cây xăng, rẽ
phải (về xã Vũ Xá và Giáo xứ Lê Xá) đi khoảng 5 km, nhìn bên trái sẽ thấy nhà
thờ Giáo xứ Lê Xá. Nếu đi xe buýt từ Hà Nội thì đón xe buýt số 209 (Giáp Bát -
Hưng Yên).
Khuôn viên Nhà thờ Giáo xứ không rộng lắm. Nhà thờ trước kia lợp
ngói. Cột, dầm và kèo đều được làm bằng gỗ tốt, chạm trổ công phu và mỹ thuật,
nhưng qua bao biến cố lịch sử, và không được coi sóc nhiều nên đã xuống cấp
trầm trọng và đã được tu sửa 2004, lợp tôn. Người chăm sóc nhà thờ hiện nay là
ông Vũ Văn Cường, sđt: 0321-3826-452).
Di cư vào Nam, phần đông giáo dân Lê Xá đến định cư tại Lạc An,
tỉnh Bình Dương, lập thành họ đạo Lê Xá thuộc giáo xứ Mỹ Vân (Lạc An), giáo
phận Phú Cường. Trên đường từ Hố Nai về Sài Gòn, đến giáo xứ Hà Nội, theo đường
Phát Triển, đi 12 km sẽ đến nhà nguyện họ Lê Xa tại ấp 1, xã Lạc An, huyện Tân
Uyên, tỉnh Bình Dương. Cuối nhà nguyện giáo họ có tượng đài Thánh Phaolô Vũ Văn
Đổng. Hằng năm, lễ mừng trọng thể được tổ chức cả ngoài Bắc và trong Nam vào
ngày 03-6, quy tụ bà con đồng hương khắp nơi về tham dự mừng kính vị tử đạo
này.
Hậu duệ Thánh Phaolô Vũ Văn Đổng:
Ô. Tôma Vũ Đức Tín, hiện ở Xuyên Mộc, sđt: 0643-877-663;
01627-101-314.
Ô. Tôma Vũ Trọng Tế, ở giáo xứ Thánh Tâm, Hố Nai, sđt:
0613-885-590.
Lm Tôma Vũ Khắc Minh, ở giáo phận Kontum, sđt: 01679-984-138,
059-3864-399.
ĐƯỜNG VỀ THUẬN NGHĨA – QUÊ HƯƠNG THÁNH PHÊRÔ VŨ ĐĂNG
KHOA
Đền Thánh Khoa: Từ Hà Nội vào, qua khỏi km 405 gặp cầu Giát (thuộc
thị trấn Cầu Giát), đi thêm khoảng 500 mét, gặp đường rẽ bê tông phía tây, ranh
giới giữa khối phố 7 và khối phố 8, đó đường vào nhà thờ giáo xứ Thuận Nghĩa.
Đền Thánh Khoa ở sát cạnh nhà thờ. Đền thờ Thánh Khoa hiện nay được xây cất năm
1992. Hai bên đền thờ là hai khu đất nhỏ, nơi lưu giữ hài cốt và chôn cất các
linh mục đã phục vụ giáo xứ. Giữa cổng và Đền Thánh Khoa là những hàng ghế để
bà con giáo dân kính viếng Ngài
Lễ giỗ ngày 24-11 hằng năm tại Thuận Nghĩa được tổ chức rất trọng
thể, rước và diễu hành đi rất xa vài ba cây số. Tại miền Nam: lễ giỗ được luân
phiên tổ chức tại các xứ có đông người gốc Thuận Nghĩa; cứ mười năm một lần bà
con xa xứ lại quy tụ về quê hương Thuận Nghĩa một lần (năm 2010 là lần thứ
hai).
Ông Vũ Đình Hòe, hậu duệ Cha Thánh năm nay 54 tuổi, hiện đang chăm
sóc đền Thánh Khoa. sđt: 038-3770318; 01655403308. Cũng có thể liên hệ với ông
Vũ Văn Sâm, sđt: 01638-687-376.
Từ Thuận Nghĩa phát xuất rất đông linh mục và tu sĩ nam nữ. Trong
hàng hậu duệ của Thánh Khoa có Lm Vũ Văn Trí, phó xứ Hiệp Đức, giáo phận Phan
Thiết, sđt: 0933-163-556; cha Nguyễn Duy Lam ofm (họ ngoại), sđt: 0937-893-885.
ĐƯỜNG VỀ CHUÔN TRUNG VÀ BÚT QUAI – QUÊ HƯƠNG THÁNH LUCA VŨ BÁ LOAN
Thánh Luca Vũ Bá Loan sinh tại giáo họ Bút Quai, giáo xứ Bút Đông
và an táng tại thôn Chuôn Trung xã Chuyên Mỹ – Phú xuyên – Hà nội (Hà Tây cũ).
Tại đây có Đền và Nhà Thờ kính ngài.
Từ Hà Nội theo Quốc lộ số 1
xuôi về phía nam, tới km 38 hoặc 40, (có ba lối) rẽ phải vào đường liên huyện,
đi khoảng 6 km là tới đền Cha Thánh Luca.
Chuyên Mỹ là một xã nông nghiệp trù phú, nhộn nhịp vì có nghề làm
đồ gỗ giả cổ, chạm khảm lâu đời, rất uy tín. Dân toàn tòng công giáo, mộ đạo và
rất tôn kính Thánh Luca Vũ Bá Loan. Kẻ Chuôn gồm ba thôn Thượng, Trung và Hạ
cùng nằm ven sông Nhuệ. Trước khi Cha Luca chết, cả ba thôn đều đòi xin xác cha
về an táng. Cha đồng ý để cho Chuôn Trung lo. Họ chở xác Cha từ Cầu Giấy về
trên sông Nhuệ phải đi qua Chuôn Thượng. Đoán biết giáo dân Chuôn Thượng sẽ giữ
di hài cha lại để chôn, họ tổ chức đi hai thuyền. Con thuyền trống dong cờ mở
mang áo quan nhưng bên trong không có di hài Cha Thánh đi trước, bị giữ lại ở
Chuôn Thượng. Còn con thuyền nhỏ lặng lẽ đi sau đã đưa di hài Cha Luca về tới
Chuôn Trung an toàn. Chuôn Trung ở giữa nên cả hai thôn Thượng và Hạ đều có thể
đến mộ, không xa.
Đền và Nhà thờ kính thánh Luca Vũ Bá Loan ở Chuôn Trung rất đẹp.
Bàn thờ bằng gỗ quý, được chạm trổ và gắn ngọc trai hồng, trang trọng và mỹ
thuật. Sau nhà thờ, trên tháp cao có tượng vị thánh tử đạo nhìn về hướng ngôi
Đền kính ngài. Đền được dựng giữa một hồ nước đường kính khoảng 60m, với cây
cầu nối xinh xắn. Đền xây hình lục giác, hai tầng mái cong, ở mỗi cạnh được mở
bằng 04 cánh cửa gỗ. Tượng Thánh Luca Vũ Bá Loan được tạc bằng đá quý.
Sinh quán cha thánh Luca Vũ
Bá Loan là thôn Bút Quai – Duy Tiên – Hà Nam (thuộc Giáo xứ Bút Đông), cách
Chuôn Trung 20 km về phía tây nam. Ta trở lại Quốc lộ 1A, đi tiếp về phía nam,
đến thị trấn Đồng Văn, lên cầu vượt, rẽ trái vào đường sang Hưng Yên, khoảng
4km đến chợ Lương (chợ mở bên vệ đường) qua cầu Lương, là Giáo họ Bút Quai, nhà
thờ cách đó khoảng 800m.
Theo bà con ở Bút Quai, con cháu trực hệ Thánh Luca Vũ Bá Loan nay
không còn ai ở làng, chỉ vài người bà con họ ngoại rất xa của Cha Thánh như vợ
ông Trần văn Chiến, người đang coi sóc Nhà Thờ và Đền Thánh ở đây. Ông đã 77
tuổi (2011 - sđt: 01696281890).
Bút Quai là một giáo họ nghèo. Đền Thờ Cha Thánh vừa được xây xong
tháng 6-2010 do giáo dân tại đây, giáo dân Chuôn Trung, khách hành hương, và
một số linh mục có liên hệ xa gần cùng góp sức xây dựng. Hàng năm, giáo họ Bút
Quai cũng như giáo dân Chuôn Trung cùng làm lễ giỗ Thánh Luca Vũ Bá Loan vào
ngày 5-6 dương lịch.
ĐƯỜNG VỀ TRUNG LAO – QUÊ
HƯƠNG THÁNH ĐA MINH VŨ ĐÌNH TƯỚC
Từ Hà Nội muốn về Trung Lao, ta theo Quốc lộ 1, xuôi nam, qua Phủ
Lý, tới Nam Định, đi vào trung tâm thành phố, lên cầu Đò Quan, và từ Cầu này
đến thị trấn Cổ Lễ khoảng 20 km. Khi đến gần giữa thị trấn có một cây cầu nhỏ
bên phải, rộng và dài chừng vài ba mét gọi là cầu Điên Biên. Qua cầu này, là
vào phố Trung Đông – Trung Lao. Sau khoảng 1 km tới cây cầu thứ tư kể từ cầu
Điên Biên, rẽ trái là đền Cha Thánh Đa Minh Vũ Đình Tước. Đứng ở trên cầu hay
trên đường cũng nhin thấy được rất rõ.
Trung Lao là một giáo xứ lớn, có trên 8000 tín hữu với 10 Họ Đạo và
18 Xóm Giáo (trong đó có xóm Tây Phong là nơi Thánh Tước Chào Đời và có xây Nhà
Nguyện kính Ngài). Nhà thờ xứ bằng gỗ, Bàn thờ sơn son thiếp vàng cổ nhất Địa
phận Bùi Chu, khởi công xây dựng cách đây 123 năm (1888-2011) ngày nay vẫn còn
trơ gan cùng tuế nguyệt. Ngày 1.1.2010 Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm đã về xứ
đạo nâng Nhà thờ Lên Đền Thánh với Tước Hiệu Maria Mẹ Thiên Chúa. tại toà vàng
trong Thánh Đuờng có Tương Thánh Tước bằng gỗ qúy to cao 2m50 được thực hiện
cách nay cả 100 năm, Đế tượng có hộp dựng xương của Ngài. Ngoài ra trong khuôn
viên khu vực nhà thờ còn có Đài Tưởng niệm với tượng Thánh Tước đúc bằng đồng,
uy nghi đứng bên cạnh Nhà Truyền thống của Giáo Xứ. Tại Trung Lao có rất đông
người họ Vũ, rất mộ đạo và cũng rất sùng kính các Thánh tử đạo, trong đó có
Thánh Đa Minh Vũ Đình Tước. Người đang coi sóc đền Thánh Tước là ông Vũ Đình
Hàm (sđt: 0165232176), Theo ông Hàm, ở Trung Lao hiện có hơn 200 người theo
đuổi ơn gọi tại các chủng viện và dòng tu trên toàn quốc.
Hằng năm, bà con Trung Lao tổ chức lễ giỗ Cha Thánh Đa Minh vào
ngày 19/6 dương lịch, tổ chức rất trang trọng. Khách hành hương và khách mời
rất đông. Đây là ngày lễ đông vui nhất trong năm ở Trung Lao.
Trung Lao là một giáo xứ sầm uất, nhôn nhịp và trù phú. Đa số dân
làm nông, một số người đóng đồ gỗ, khắc và chạm khảm tinh vi. Tại quê nhà cũng
như khi đi làm ăn xa, giáo dân Trung Lao sống có tổ chức, đoàn kết, biết chia
sẻ và giúp đỡ lẫn nhau.
Còn về dòng tộc của Cha Thánh Đa Minh tại Trung Lao hiện có các ông
Vinh Sơn Vũ Đình Sơn và Vinh Sơn Vũ Đình Sản, sđt: 01697149155. Cha Giuse Vũ
Thanh Cảnh - Chính xứ
Muốn tìm hiểu rõ hơn, xin mời vào trang Giới trẻ Đồng Hương Trung
Lao: http://gioitretrunglao.webnode.com.
ĐƯỜNG VỀ HÀ THẠCH – QUÊ HƯƠNG THÁNH PHÊRÔ VŨ TRUẬT
Thầy giảng Phêrô Vũ Truật là vị Thánh tử đạo duy nhất của Giáo phận
Hưng Hóa, quê tại giáo xứ Hà Thạch. Giáo phận Hưng hóa nằm phần lớn ở trung du,
miền núi Bắc bộ đất đỏ. Giáo xứ Hà Thạch thuộc góc đông nam Thị xã Phú Thọ,
tỉnh Phú Thọ; sát đường tỉnh lộ 320, ven bờ sông Hồng. Hiện tại giáo xứ này có
đền kính thánh Phêrô Vũ Truật. Tượng đài và đền thánh tọa lạc trên một khu đất
rộng. Đền thánh được khởi công xây dựng ngày 18-12-1997, do linh mục Phêrô
Phùng Văn Tôn, và được Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng cắt băng khánh
thành, dâng lễ làm phép đền và tượng, ngày 18-12-1998.
Hậu duệ của Thầy Thánh Phêrô Vũ Truật hiện còn hai chi. Chi gần
nhất là Ô Giuse Vũ Hữu Dụng, sinh năm 1947 (sđt: 0121-3714-358). Ông là hậu duệ
6 đời của Thầy Thánh Truật. Còn 01 chi nữa ở cách Đền Thánh 6km, vì lý do kinh
tế nên chi này đã bỏ họ Vũ sang họ Nguyễn nhưng vẫn tụ họp ngày giỗ Thầy Thánh
Truật vào 18-12 hàng năm. Trước kia bà con ở đây còn giữ được ảnh chân dung
Thánh Truật, có hai dòng chữ nho chạy dọc hai bên. Hiện nay bà con đồng hương
Hà Thạch, trong nước và hải ngoại, một số nơi còn giữ được di ảnh.
Cuộc kỷ niệm 50 năm huấn thị Plane compertum est là dịp để người
Công giáo Việt
Cùng lúc, trước tình cảnh việc học sa sút, nhiều gia tộc đã tổ chức
việc khuyến học cho con em; nhiều từ đường được tôn tạo hoặc xây mới; nhiều tác
phẩm nghiên cứu riêng về từng dòng họ được ấn hành. Những sự kiện từ dưới lên
đã cộng hưởng với các ban liên lạc hoặc Hội đồng Dòng tộc từ trên xuống, tạo nên
một luồng văn hóa lôi cuốn cả sự chú ý của tổ chức UNESCO.
Vào Google và gõ: "gia phả - dòng họ - nguồn cội", chỉ
trong 6 trang, ta đã đọc thấy 18 trang web riêng của các dòng họ:
trinhtoc.com,hovuvovietnam.com,donghoninh.wordpress.com,nguyendac.com,hophamlangnhuong.com,hodinhvietnam.com,hothaicamlo.info,hodangbinhnghi.com,hodovietnam.vn,hohoanghuynhvietnam.vn,hopham.org,mactoc.com,hokhuatvietnam.org,hothan.org,danggia.org,hotvietnam.org,dangtocvietnam.com,trandang.net
Ngoài những trang web riêng các dòng họ, có những trang web chuyên
đề nghiên cứu về gia phả hoặc lo dịch vụ làm gia phả: www.giaphavietnam.com,
www.phahe.vn,vanhoadongho.vn, ...
Ta có thể gõ tìm "nguồn gốc họ ..." và dễ dàng tìm được
thông tin của cả những họ ít gặp như họ Trình, họ Lữ, họ Lại, họ Thân, họ
Kiều...
Gõ "ban liên lạc (các) dòng họ" hoặc "đại hội dòng
họ...", ta còn khám phá ra rằng việc liên kết các họ tộc không dừng lại
trên các phương tiện thông tin mà còn đi vào hoạt động thực tế khá rầm rộ.
Phong trào liên kết dòng họ phát triển hết sức nhanh. Mở trang mạng
một dòng họ nào đó và bấm vào “kết nối” hoặc “liên kết”, ta sẽ thấy mỗi dòng họ
không phải chỉ có một website… Đọc thử một số thông tin, ta sẽ thấy chỉ dăm
tháng sau đại hội dòng họ cấp tỉnh một nơi nào đó, các đại hội cấp thành phố,
huyện và thị xã đã nối đuôi theo.
Phong trào có một ưu điểm là vượt trên ranh giới địa phương, không
phân biệt lương giáo. Nếu người Công giáo biết quan tâm nhập cuộc thì đây là cơ
hội rất tốt để hòa đồng với bà con cùng dòng họ.
Phong trào này thúc đẩy người ta tìm dựng lại gia phả, lập lại từ
đường, tổ chức lại các ngày giỗ chung (ở miền Trung gọi là "tế
hiệp"). Một số bà con ở thôn quê cảm thấy an tâm vì giờ đây đã có một chỗ
dựa, đã được thuộc về một tổ chức sinh hoạt văn hóa, vừa mang tính huyết tộc,
vừa mang tính tâm linh. Cũng có thể vì thế họ thấy không cần phải có một tôn
giáo... Đây cũng là điểm đáng cho các giới chức Công giáo suy nghĩ khi theo
đuổi ước mơ chia sẻ Tin mừng với đồng bào.
Số nhà thờ dòng họ tân tạo ngày càng nhiều (“nhà thờ” là một kiến
trúc biệt lập, dành riêng cho việc thờ phụng, phân biệt với “từ đường” là gian
thờ trong nhà vị trưởng tộc, thường có tính cách hạn hẹp trong vòng ba hay bốn đời).
Trên địa bàn tỉnh Bình Định, từ đầu năm đến giữa tháng 10-2013, chỉ riêng dòng
họ Võ đã có thêm ba nhà thờ mới, hai do bà con góp sức chung công, một do những
người khá giả trong gia tộc… Cùng lúc, có những nhóm đồng tộc nghèo và ít
người, không sao làm nổi nhà thờ riêng. Có lẽ chính cái nghèo ấy đang biến họ
thành đối tượng của lòng thương xót Chúa: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo
khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20). Chính Thiên Chúa là Cha nhân
ái đang dành cho họ một mái nhà chung, nhà thờ hay từ đường trăm họ, nơi Ngài
quy tụ dân nghèo của Ngài.
Trào lưu văn hóa tâm linh này còn song đôi với sự bùng phát những
tin tưởng về phong thủy, dễ khiến người lương thêm khép lòng lại với Tin mừng.
Ngược lại, nó cũng ôm theo cả những mâu thuẫn, khiến người ta lúng túng. Nếu
người Công giáo biết dấn thân nhập cuộc kịp thời thì đây lại có thể thành một
cơ hội mới của Tin mừng, cơ hội để truyền giảng cho mọi người nhận ra chỉ có
một Thiên Chúa là Cha Chung, là Nguồn Cội đích thật duy nhất.
Ngày truyền thống từng dòng tộc tại mỗi giáo xứ sẽ tạo cơ hội để
tập thể đồng tộc Công giáo tìm hiểu lòng tin và mối chân tình của tập thể đồng
tộc ngoài Công giáo đối với Tổ tiên, và cũng là cơ hội để chia sẻ lòng tin với
họ. Những cố gắng cá nhân dễ rơi vào mỏi mệt, nhưng khi biến thành ý chí tập
thể, sẽ trở nên bền bỉ lâu dài. Giữa một xã hội nhiều sức ép, việc từng người
tiếp nhận đức tin lắm ngại ngùng, khi đức tin được những người thân cùng chia
sẻ, sẽ đầy sức mạnh.
Nếu tại giáo xứ, dòng họ nào
cũng cử hành một ngày truyền thống dòng họ mình, người Công giáo sẽ có nhiều cơ
hội để gặp gỡ các đồng tộc ngoài Công giáo và giúp họ gần gũi với giáo lý Đạo
Chúa. Đó cũng là cách thiết thực để đền ơn đáp nghĩa Tổ Tiên.
Thật vậy, tổ phụ các dòng họ tại Việt
Lòng tin của người Công giáo và của anh chị em lương dân nhiều điểm
thoạt nhìn có vẻ giống nhau nhưng thực ra vẫn khác biệt rất tinh vi. Ví dụ niềm
tin rằng tổ tiên từ bao đời vẫn đang anh linh phù hộ cho con cháu. Người Công
giáo hiểu sự phù hộ này theo nghĩa Tổ Tiên chuyển cầu cho con cháu trước Tòa
Thiên Chúa. Mỗi ngày ta đón nhận biết
bao ơn lành Thiên Chúa, từ cơm ăn, nước uống, khí thở, ánh sáng mặt trời cho
đến sức khỏe, trí khôn, tình yêu và tự do; cả tiền bạc vật chất cũng là ơn lành
của chính Thiên Chúa Tạo Hóa; Ngài ban tất cả cho ta làm phương tiện để đáp lại
tình thương của Ngài mà sống cho nên người như Ngài muốn. Tổ tiên xưa ăn ngay ở
lành là nhờ ơn Chúa và nay đang linh hiển hộ phù con cháu cũng là nhờ ơn Chúa.
Thử nghĩ xem, mai kia chúng ta chết đi và mốt nọ cháu con ta thắp hương khẩn
cầu chúng ta phù hộ, chúng ta sẽ lấy quyền phép nào và lấy từ kho tàng nào để
trợ giúp chúng, nếu không phải là lúc ấy chính chúng ta sẽ chuyển cầu cho chúng
trước mặt Cha trên trời để Ngài ban ơn phúc cho chúng? Người ta quên rằng chính
Thiên Chúa Tạo Hóa đã xét xử và thưởng phạt mọi thế hệ tổ tiên. Chỉ những tổ
tiên nào đang được hưởng phúc với Thiên Chúa thì mới có khả năng chuyển cầu cho
con cháu trước thánh nhan Ngài.
Do mê tín, người ta thêu dệt hình ảnh một thế giới vô hình theo mẫu
thế giới hữu hình: mỗi dòng họ có châu quận riêng, chết rồi ai về châu quận
nấy. Quyển Lịch Vạn Niên bên Tàu liệt kê 510 châu quận ở thế giới bên kia, chỉ
gồm toàn những địa danh bên Tàu, vậy thì người Lào, người Campuchia, người Úc,
người Phi, người Mỹ chết rồi đi đâu? Ngay cả người Tàu, chết rồi sẽ về châu
quận của cha hay của mẹ? Rồi những người đã cải từ họ này sang họ khác, sẽ đi
về đâu? Những chuyện ấy chẳng khác nào câu hỏi lẩm cẩm của nhóm Sađốc xưa về
chuyện dựng vợ gả chồng bên kia thế giới (x. Mt 22,23-33).
Quỷ dữ hết sức tinh quái. Xưa nó đã dám dùng lời Kinh Thánh để tìm
cách dẫn dụ Chúa Giêsu rời xa ý muốn của Thiên Chúa Cha (x. Mt 4,6). Nay nó
cũng dùng đủ các chiêu bài hết sức tốt lành để dẫn dụ người ta chối bỏ Thiên
Chúa là Cha Chung. Trên đường làm công tác nối kết Dòng họ, tôi được biết không
ít những chuyện đau buồn khá giống nhau. Có những nơi hầu hết bà con đồng tộc
đều tập trung sum họp trong ngày tế hiệp nhưng riêng một nhóm nào đó, dù có
liên hệ gia phả rất rõ và rất gần, vẫn không chịu về. Vì một lý do nào đó, ba
bốn đời trước đây, người đứng đầu nhánh ấy đã tự tách ra, chẳng những không còn
về tế hiệp mà còn lưu truyền cho con cháu những lý giải thiếu trung thực, đáng
buồn, vẽ nên hình ảnh không đẹp về gốc tổ. Ở một chừng mực nào đó, khi chỉ quan
tâm tới những bậc Tổ tiên mươi đời trở lại đây mà lãng quên Nguồn Cội đích thật
và đời đời, người ta cũng đang theo đuổi một sự chia cắt đáng buồn như thế.
Trực giác về sự "quy tiên" (chết là về với tổ tiên nguồn
cội) sẽ rực sáng lên khi người ta nhận biết Đấng Tối Cao là cội nguồn cuối
cùng, duy nhất và đích thực, đồng thời cũng là đích điểm cuối cùng mọi loài
phải vươn tới. Mọi thế hệ tổ tiên đều đã, và mọi thế hệ con cháu đều sẽ trở về
với nguồn cội cao nhất, từ đó loài người đã phát xuất ra (x. Ga 13,3). Chỉ một
mình nguồn cội ấy, chỉ một mình Thiên Chúa Chí Thánh, mới đáng cho ta yêu kính
hết dạ hết lòng và nhiệt thành phụng sự đến hy sinh mạng sống. Mọi thụ tạo, cá
nhân cũng như tập thể, đều có thể khiến những kẻ dấn thân phụng sự nó bị vỡ
mộng, chỉ một mình Thiên Chúa mới hoàn toàn trung tín, không để cho kẻ tin thờ
Ngài phải thất vọng bao giờ.
Những hạn chế về gia phả sẽ giúp ta vượt khỏi tầm mức bé nhỏ cục bộ
để vươn tới tình huynh đệ đại đồng... Những hạn chế trên đường về nguồn cội sẽ
thức tỉnh ta hướng về cội nguồn cuối cùng và đích thật.
Tuần Thánh năm 2010, tôi được đi thăm huyện đảo Lý Sơn. Những bia
mộ ở đây có một nét đặc biệt. Tất cả các mộ họ Võ dù thuộc nhánh nào cũng bắt
đầu bằng ba chữ “Thái Nguyên Quận”. Họ Nguyễn là “Trần Lưu Quận”, họ Bùi là “Hà
Đông Quận”, họ Trần là “Vĩnh Xuyên Quận”, họ Trương là “Thanh Hà Quận”, họ
Dương là “Hoàng Nông Quận”, họ Lê là “Kinh Triệu Quận” và họ Phạm là “Cao Bình
Quận”. Phần đông cư dân trên đảo cho rằng đó là tên những châu quận trên đất
liền mà các dòng họ này phát xuất. Tôi rất ngạc nhiên vì một vài địa danh rất
lạ, mới được nghe lần đầu, và vì không có thời nào trong lịch sử đất nước đã
được trực tiếp chia thành quận thay vì tỉnh. Khi đến thăm chùa Từ Quang ở An
Hải, tôi nêu câu hỏi và thầy Thích Hành Hỷ đã cho một câu trả lời khá thỏa
đáng. Theo thầy, việc ghi châu quận như thế chỉ áp dụng cho người chết chứ
không cho người sống. Tập tục này được ghi trong quyển Lịch Vạn Niên. Một phụ
lục của quyển này liệt kê 510 dòng họ, mỗi dòng họ có kèm theo tên một châu
quận và một số dòng họ có chung châu quận. Người ta hình dung địa lý cõi âm có
nhiều châu quận khác nhau, khi sống người ta có thể trôi dạt bất cứ đâu trên
trái đất, nhưng khi chết thì ai về châu quận nấy. Như thế, ba chữ “Thái Nguyên
Quận” trên bia mộ người họ Võ không phải là địa chỉ xuất phát nhưng là địa chỉ
đến.
Tôi đã có dịp đến thăm cụ Vũ Hiệp tại tư gia ở đường Lý Tự Trọng,
quận I. Là một nhà nghiên cứu nổi tiếng về gia phả và các dòng họ Việt Nam.
Theo cụ, gốc gác 510 dòng họ trước khi được xem như bản đồ địa lý cõi âm, thì
đã là tư liệu địa lý nhân văn có thật tại Trung Quốc. Cụ cũng đồng thời lưu ý
rằng việc gán ghép các dòng họ Việt
Theo ông Vũ Hiệp, do nhu cầu quản lý nhân khẩu để đô hộ, người Tàu
đã bắt người Việt phải đi vào một hệ thống dòng họ. Do những điều kiện cụ thể
từng nơi, từng thời điểm, người dân ở một khu vực nào đó được ghép vào một số
dòng họ nhất định nào đó. Sự kiện này cũng đã xảy ra đối với một số cộng đồng
sắc tộc ít người, chẳng hạn nơi thông tin sau đây trên trang Văn Hóa Học:
“Các dân tộc ở miền
núi Quảng Ngãi vốn có tên mà không có họ, vì thế không có thuật ngữ riêng để
chỉ dòng họ. Mỗi người có tên gọi riêng và kèm theo đó là một bổ ngữ chỉ giới
tính…
Vào thời nhà Nguyễn
và Pháp thuộc, để dễ theo dõi hộ tịch, hộ khẩu và số đinh trong các làng nóc
miền núi Quảng Ngãi, các dân tộc miền núi trong tỉnh đều được đặt họ Đinh (theo
họ cha), tức có nghĩa là thằng, đứa (con trai), dần dần con gái cũng theo họ
cha mà ghi trong hộ tịch, hộ khẩu, hoặc kê khai đi học là họ Đinh (8).
Năm 1969, khi Bác Hồ
mất, hầu hết người Cor ở Trà Bồng đổi sang họ Hồ. Số đông người Hrê ở Ba Tơ lấy
họ Phạm (họ của đồng chí Phạm Văn Đồng), phần lớn đồng bào người Hrê ở Sơn Hà,
Minh Long, đồng bào Ca Dong ở Sơn Tây vẫn còn giữ họ Đinh.”
Trường hợp họ Vũ Võ lúc đầu cũng thế. Bàn về ông Vũ Hồn (804-853),
người được coi là thủy tổ họ Vũ-Võ tại Việt Nam, cụ Vũ Hiệp nêu một nhận xét lý
thú rằng cả gia phả, tộc phả và thần phả đều không nói Vũ Hồn có một người con
nào. Tác giả Tiến sĩ Vũ Huy Thuận, trong bài “Giới thiệu sách cổ văn hoá làng
Mộ Trạch” (http://hovuvovietnam.com/
Gioi-thieu-sach-co-van-hoa-lang-Mo-Trach) cũng có viết: “Ngọc phả làng Mộ Trạch
kể lại rằng: Cụ Vũ Hồn (804-853) sau khi từ quan (843-844) đã đến nơi đây lập
trang trại đặt tên là “Khả Mộ trang”... Khi cụ mất (853), dân Khả Mộ trang lập
miếu thờ cụ như vị sáng lập thôn Khả Mộ (đến triều Trần 1226 được đổi tên là Mộ
Trạch). Để tưởng nhớ công lao của cụ, dân trong làng đều mang họ của cụ. Họ Vũ.
Cũng từ đó, Cụ không chỉ được thờ như vị thành hoàng làng, mà còn được coi là
thủy tổ họ Vũ Mộ Trạch.”
Gần đây người ta phát hiện ra đền thờ hai nhân vật họ Vũ sống nhiều
thế kỷ trước ông Vũ Hồn: đền thờ bà Vũ Thị Thục, nữ tướng của Hai Bà Trưng và
đền thờ nhà giáo Vũ Thê Lang, được cho là của thời Hùng Vương. Dù vậy ông Vũ
Hồn vẫn được đa số người họ Vũ-Võ ngày nay dành cho danh hiệu thủy tổ họ Vũ-Võ
ở Việt Nam, và theo tôi, điều ấy chính đáng, bởi một lẽ duy nhất là đại chúng
đương thời đã vì cảm mến ông mà cải sang họ Vũ-Võ, coi ông như tổ phụ.
Có những người gốc họ Võ nhưng nhiều thế hệ qua đã mang một họ
khác. Lại cũng có những người mang họ Võ nhưng thật ra là từ một dòng họ khác
cải sang. Việc khám phá ra chuyện cải họ có thể khiến nhiều người bị hụt hẫng. Khi
hoàn thành bài viết về họ Võ tỉnh Phú Yên, trong đó có thông tin về một nhánh
họ Võ ở xã Hòa Thắng trước kia là họ Lê, tôi gởi cho một người con gái nhánh
này xem. Cô hồi âm cho tôi như sau:
“Chào bác ! Con đã đọc bài viết
về họ Võ mà bác đã trải qua không ít công sức để truy tìm về cội nguồn của dòng
họ Võ. Con thật sự bất ngờ về một sự thật mà lâu nay con thuộc thế hệ trẻ nên
không biết được, đó là con thuộc về nguồn gốc họ Lê chứ không phải họ Võ. Điều
này làm con có một chút ngậm ngùi.
Trong ý nghĩ của con lại đặt ra một dấu hỏi.
Quá khứ của lịch sử là một sự bí ẩn chưa có sự khẳng định nhất
định. Ví như trước thời ông Cao tổ của con thuộc về dòng họ Lê, vậy các đời
trước hơn nữa liệu các cụ cao tổ thuộc về họ gì ? và những biến đổi của nó như
thế nào ? điều này làm con phân vân. Nhưng rồi con suy nghĩ rằng dù con mang
dòng họ nào thì con vẫn biết ơn các cụ tổ đã sáng lập ra các dòng họ để con
cháu ngày nay được mang tên dòng họ của các cụ lưu truyền lại. Và điều này đã
làm con cảm thấy vui bác à, con mong rằng sau này con sẽ có nhiều cơ hội được
hiểu về nguồn gốc đích thực của các cụ tổ mà hiện đang là một dấu hỏi rất lớn
trong suy nghĩ của con bác ạ!.
Cảm ơn bác nhiều lắm.
Con chúc bác có nhiều cơ duyên hơn nữa để tìm về cội nguồn nơi đích
thực vẫn còn là một sự bí ẩn.
Chúc bác luôn sức khỏe và an lành.
Võ Thị Kim Đoan (sđt:
0988-234-828)
Nữ độc giả của tôi là một Phật tử ăn chay trường, nên sớm nhận ra
ngay mọi sự đều vô thường và tương đối. Tôi muốn nói thêm với cô rằng, khi phải
giấu họ Lê, ông Cao của cô đã chọn họ Võ chứ không phải một họ nào khác, hẳn là
do ông cảm kích lòng tốt của một vài người họ Võ nào đó. Tương tự, nếu có người
họ Võ nào đó phải thay tên đổi họ và đã chọn họ Lê chứ không phải họ khác, thì
chắc hẳn vì ông thấy người họ Lê đáng mến. Nếu các vị tổ phụ nhân loại hướng
lòng ta đến vị Cha Chung trên trời thì những thực tế về quan hệ họ hàng máu mủ
dẫn ta đến cảm nghiệm anh em bốn biển một nhà. Điều thứ hai này bắt nguồn từ
điều thứ nhất: Mọi người trên thế giới không thể là anh em với nhau nếu không
có chung một người Cha.
Chúng ta đọc thấy trên nhiều bia mộ cụm từ sau đây: “Mộ thủy tổ họ…”,
“Mộ cao tổ họ…”. Vị nằm ở đó được coi là “thủy tổ” nhưng người ta không biết
tên, mặc dù có khi chỉ là người sống cuối thế kỷ XIX. Gia tộc phía nội tôi cũng
nằm trong trường hợp này, vị tổ khuyết danh sống vào giữa thế kỷ XIX. Việc truy
tìm thủy tổ một dòng họ quả là chuyện mịt mờ vô vọng nhưng cũng có cái hay là
đánh thức nơi mọi người mối bận tâm đi tìm nguồn cội đích thực và cuối cùng của
nhân loại là chính Thiên Chúa Tạo Hóa.
Hiểu như thế, ta sẽ tiến tới một thái độ trung dung về vấn đề gia
phả. Một đàng, ta tâm đắc với lời Thánh Phaolô dạy ở đầu thư thứ nhất gửi cho
Timôthê: “Đừng chú ý đến những chuyện hoang đường và những gia phả dài dòng;
những cái đó chỉ gây ra tranh luận, chứ không đóng góp vào kế hoạch của Thiên
Chúa mà đức tin cho chúng ta biết” (1Tm 1,4). Một đàng, vì ích lợi giáo dục, ta
sẽ cổ võ đồng tộc và đồng đạo xây dựng lại bản gia phả giới hạn với những bậc
Tổ Tiên hiện còn biết được, bởi lẽ đây là một công việc mang tính sư phạm, có
tiềm năng đóng góp vào sự phục hồi tấm “lòng lành”, cõi lòng hướng thiện cho
thế hệ trẻ giữa dòng cuồng lưu của sự suy đồi đạo lý.
Trong bài tiếp sau về “tâm tư của người loan Tin mừng cho người
cùng dòng họ”, tôi sẽ chia sẻ thêm về điều ấy.