Như đã nói, dạy giáo lý không chỉ là truyền đạt những hiểu biết về
Thiên Chúa và chương trình tình thương của Ngài, nhưng là dẫn vào một nếp sống
mới, dưới sức tác động của Chúa Thánh Thần, tức là sống theo linh đạo của người
làm con Thiên Chúa. Nói một cách giản dị, đó là sống theo Kinh Lạy Cha.
Ngày nay ở Việt Nam dường như sự phục hưng tinh thần gia tộc, với
việc xây dựng từ đường, tôn tạo mồ mả cha ông đi đôi với sự phát triển những
tin tưởng về phong thủy. Ngoài việc xem phương hướng, coi ngày giờ, người ta
còn dùng những đồ vật trấn phong thủy như la kinh, la bàn, đá phong thủy đồ
thị, đồng tiền cổ của các đời vua, xương thú vật, cẩm thạch, đá thạch anh, bùa
chú, châu sa thần sa… Các cửa hàng phong thủy lớn nhỏ mọc lên nhan nhản ở các
thành phố, với những món hàng giá lên đến vài chục triệu đồng, cũng có những
món hàng cao cấp lên đến tiền tỉ. Nhưng phần lớn các món hàng phổ thông được
bán với giá vài trăm ngàn đồng tới vài chục triệu đồng là bán chạy nhất và
nhiều người ưa chuộng hơn cả. Trước đây việc phát huy Tây học, cuộc vận động
của Tự Lực Văn Đoàn và các tác giả cùng thời cũng như ảnh hưởng Kitô giáo qua
môi trường giáo dục đã đẩy lùi các tin tưởng và thực hành phong thủy, nhưng vài
chục năm trở lại đây người ta lại đua nhau chạy theo phong thủy, mong nhờ đó mà
mình và con cháu làm ăn phát đạt.
Thách đố lớn trong việc loan Tin mừng cho người cùng Dòng họ, là
nêu lên được tính lừa dối của quan niệm phong thủy. Chính các con cái Chúa phải
bước đi vững vàng trong tinh thần siêu thoát và giúp các tín hữu mới bước đi như
thế, thoát khỏi não trạng ham mê tiền bạc vật chất. Muốn vậy, cần giúp họ xác
tín và sống mãnh liệt các ý lực của Kinh Lạy Cha.
Kinh Lạy Cha giúp người tín hữu thoát ra khỏi chính mình. Những ý
nguyện nơi phần thứ nhất của kinh này dạy ta đặt mục đích đời mình nơi Thiên
Chúa chứ không phải nơi tiền bạc. Ý nguyện của phần thứ hai nhắc ta sống phó
thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa. Chính trên những cơ sở ấy mà ta
có thể sống yêu thương, hiệp thông, tha thứ và quên mình vì ích chung (x. Mt
6,25-34).
Để chữa lành bệnh dịch bạo lực và gian dối đang lan tràn hiện nay,
cần phải giúp mọi người nhận ra mình là con cái của Thiên Chúa Tạo Hóa Tối Cao
và là anh em của mọi người. Nếu không biết đến vị Cha Chung đầy nhân ái của
muôn loài, Đấng thấu suốt cõi lòng và ân thưởng cả những điều quảng đại bé nhỏ
nhất (x. Mt 10,41-42) thì quả là khó mà quảng đại quên mình vì ích chung. Ích
chung đòi phải quên lợi riêng, cho nên ai cũng ngại. Nhờ nhận biết mình là con
Thiên Chúa, người tín hữu sẽ quả cảm sống tinh thần vì ích chung, bắt đầu từ
chính mình. Chính tinh thần vì ích chung sẽ giúp ta dám sống công bằng và chân
thật, là những giá trị đang trở nên hiếm hoi giữa một xã hội đang quay cuồng chạy
theo vật chất.
Muốn xây dựng một thế hệ hào hùng, thượng võ và quả cảm quên mình
vì đồng loại, trước hết cần dạy cho họ biết hiếu thảo với Cha Cả trên trời,
Đấng đang liên lỉ ngỏ lời với con cái mình cách thầm lặng nơi lương tâm họ.
Việc giáo dục này chúng ta có thể thực hiện được bằng cách cố gắng thêm một
chút để sống trọn lý tưởng hiệp thông của Tin mừng và chia sẻ với các tín hữu
mới lý tưởng chính chúng ta đang sống. Đây là vấn đề và thách đố đặt ra không
phải cho những người đồng tộc nhưng là cho cộng đồng tín hữu Công giáo, ở bình
diện giáo xứ cũng như giáo phận. Với kinh nghiệm bản thân về giáo hội Việt
Tôi đã giữ được một kỷ niệm rất êm đềm và thánh thiện về Đà Lạt, là
đã được sống tại đó trong thời gian giáo phận này được chuyển mình triệt để nhờ
mọi người cùng nhau suy tư, cầu nguyện và tập sống theo khôn mẫu Giáo đoàn
Giêrusalem tiên khởi. Hiệp thông, quả là Nước Trời giữa trần gian, dĩ nhiên là
đang còn bất toàn với bao đấu tranh cần thiết. Tiếp đó, cuối năm 1990, được về
Bắc Ninh và Phát Diệm, rồi những năm sau đó được trải qua một vài tuần chầu
lượt tại Giáo phận Vinh, tôi được nhìn thấy thêm một phiên bản thực hành, không
cần lý thuyết.
Về sau, tôi còn được nhìn thấy sự thể hiện tình hiệp thông tuyệt
vời tại đơn vị hàng xóm: Giáo phận Kontum. Tại những nơi tôi có dịp sống và làm
việc như Nha Trang, Sài Gòn, cũng như tại Giáo phân mẹ Qui Nhơn, tôi vẫn luôn
được đầy an ủi do tình hiệp thông của bề Trên cũng như của anh em chung quanh.
Tuy nhiên, cung cách thể hiện của cộng đoàn Công giáo tại Kontum, như tôi được
nghe và được thấy, quả là một bảo chứng để khẳng định rằng lý tưởng hiệp thông
trong Công vụ Tông đồ là điều khả thi ngay ở thời đại này và theo cách của thời
đại này. Tôi chỉ được thấy Đức Cha Paul Seitz một vài lần. Tôi chỉ được gặp gỡ
nói chuyện với Đức Cha Alexis Phạm Văn Lộc và Đức Cha Phêrô Trần Thanh Chung
một vài lần, còn Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh và anh em linh mục Kontum thì
nhiều lần hơn. Điều khiến tôi xúc động là qua đó khuôn mẫu của các vị Thừa Sai nghèo,
quên mình cho Tin mừng và cho Dân chúng vẫn còn được “sao y bản chánh” cho đến
nay. Hiệp thông và hiệp nhất, quả là sức hút và chất men của Nước Trời.
Tới đây, tôi xin phép được chia sẻ một vài kinh nghiệm rất riêng,
để anh chọ em đồng đạo có thêm chất liệu cụ thể, tiện đối chiếu, suy tư và tìm
kiếm trong lãnh vực dòng họ.
Ngày đất nước thống nhất, tôi được 28 tuổi. Việc thống nhất tạo
thuận lợi cho việc đoàn tụ nhiều gia đình và gia tộc. Tôi quan tâm tìm sao chép
lại bản gia phả đã được cụ trưởng tộc phiên âm sang chữ Quốc ngữ và cất giữ,
thì được biết đã bị mối mọt ăn hư mất. Tôi tiếc ngẩn ngơ và mong sớm có ngày
được về quê để đến kính viếng từ đường của Dòng họ nằm ở làng ngoài Công giáo
gần bên và xin tham khảo bản gia phả. Trong lúc chờ đợi, tôi vào thư viện tìm
đọc và sao chụp những trang sách có nói về họ Võ và lịch sử họ Võ... Đọc được
một số sách và bài có nói về nguồn gốc dòng họ Võ ở Mộ Trạch, tỉnh Hải Dương
cũng như ở Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, tôi càng háo hức sớm có dịp về Bắc tìm kiếm.
Mãi mùa thu 1990, mộng mới thành.
Cha Giuse Lê Viết Phục, Dòng Chúa Cứu Thế, lúc ấy đã 70 tuổi, là
một người cha và một người anh tôi hằng ngưỡng mộ. Biết được ước nguyện của
tôi, ngài đã mời tôi theo ngài hành hương Giáo hội phía Bắc trong vòng 3 tuần.
Ngài hứa đưa tôi thăm hầu hết các Tòa giám mục phía Bắc và đặc biệt sẽ đưa tôi
về làng quê An Nhiên và về gốc tổ Mộ Trạch. Quả là một món quà hết sức bất ngờ.
Sáng ngày 11-09-1990, chúng tôi về tới làng quê nơi tôi sinh trưởng
là An Nhiên. Xế chiều tôi tìm đến thăm cụ tộc trưởng họ Võ huyện Thạch Hà (tỉnh
Hà Tĩnh) ở làng bên để thắp hương bái tổ. Sau ngót ba trăm năm xa cách về mặt
tinh thần, tôi phập phồng không biết sẽ nói năng làm sao. Thế nhưng tôi đã được
cụ tộc trưởng và con trai cụ là một nhà giáo dang rộng vòng tay đón nhận. Nhà
giáo này nhanh nhẹn thu xếp mọi sự để chiều hôm sau tôi dâng thánh lễ cầu bình
an cho dòng họ tại sân nhà cụ tộc trưởng.
Cuối thế kỷ 17, cụ tổ đời thứ sáu của họ Võ ở Thạch Hà là Hiển
Dương Hầu Võ Tá Cảnh được ơn tin Chúa Cứu Thế Giêsu Kitô và dọn nhà sang sinh
sống tại làng Công giáo, cách khoảng một cây số đường chim bay. Người em trai
út của ông là Cường Lộc Hầu Võ Tá Trọng đã đưa vai cáng đáng việc từ đường, nhờ
đó mà việc tế tự truyền thống vẫn kéo dài mãi đến nay.
Cuộc chia tay để lại vết thương khó lành trong tâm khảm. Con đường
từ thị xã Hà Tĩnh xuống cảng Hộ Độ gần như là ranh giới chia đôi, những làng
Công giáo ở phía Bắc và những làng lương dân ở phía
Sau thánh lễ, tất cả cùng ngồi lại ăn bánh ngọt chia sẻ tâm tình.
Tôi đã dự tính về xin tham chiếu gia phả nhưng tôi không còn kịp hỏi han gì đến
chuyện ấy vì có một cái gì ở trên vừa ập xuống còn lớn lao hơn nhiều. Nhà giáo
Võ Tá Tương cảm tác một bài đường luật bát cú ghi nhớ cuộc "sum họp".
Bài thơ ấy đã mở màn cho cuộc xướng họa "sum họp". Đất nước thống
nhất là địa lợi, lòng người cùng khắc khoải tìm kiếm như nhau là nhân hòa; và
hơn thế nữa, còn có cả thiên thời. Vâng, nhờ ơn Chúa, đúng một tuần sau hôm
dâng lễ ở từ đường, tôi tìm được ngôi mộ ông nội của vị tổ thế kỷ thứ IX mà cha
tôi và các chú tôi thường nhắc đến, trên cánh đồng huyện Nam Sách tỉnh Hải
Dương. Trong cùng một buổi chiều ấy, hết sức bất ngờ, tôi còn tìm được cả những
trang gia phả hơn 800 năm trước tại nhà một vị trưởng lão có tên là Thiên Hựu –
Trời xếp đặt. Tôi gửi các bài họa của tôi cùng với hình chụp ngôi mộ và bản đồ
chỉ đường đến đó. Những chi tiết ấy đã
tạo thêm cảm hứng cho nhiều người. Có đến gần 40 bài họa của nhiều anh em các
nhánh họ Võ khác nhau tại Hà Tĩnh, Nghệ An và cả Hà Nội. Những bài thơ này được
chép tay, đánh máy, photocopy, phát tán không riêng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
mà còn lan đến một số tỉnh thành phía Bắc và phía Nam, góp phần làm dậy nên sức
sống cho tình đồng tộc...
Kinh nghiệm ở đây, từ chuyện xướng họa thơ Đường giữa những người
luống tuổi, tôi muốn gợi ý với các bạn trẻ sử dụng những phương tiện truyền
thông ngày nay vào việc xây dựng tình đồng tộc và loan báo Tin mừng: email,
chat, nhắn tin, nhạc chờ, blogs, facebook...
Chuyện thiên thời đối với tôi còn có nghĩa là những ơn lạ, lặp đi
lặp lại nhiều lần trên hành trình tìm về nguồn cội, giúp tôi tìm ra được cả
những manh mối nối liền được một số nhóm bị đứt đoạn về gia phả suốt mấy trăm
năm qua, như tôi đã kể lại ở cuối quyển Về Với Cội Nguồn. Tôi có cảm tưởng
những ơn ấy là những tín hiệu siêu nhiên muốn nhắn nhủ rằng việc nối kết dòng
họ đang được Thiên Chúa chúc lành như một nẻo đường hồn nhiên của Tin mừng.
Loan Tin mừng qua con đường dòng họ không chỉ là chuyện có tính
giai đoạn nhân kỷ niệm 50 năm huấn thị “Plane compertum est”. Lệnh truyền của
Chúa là loan báo Tin mừng đến tận cùng thế giới, từ thế hệ này qua thế hệ khác
cho tới ngày Chúa lại đến. Như thế, vai trò các thế hệ trẻ rất quan trọng.
Nơi phong trào tìm nguồn cội của người lương cũng như người giáo, thoạt
đầu, chỉ những người về hưu mới quan tâm. Nay giới phụ huynh trẻ 35-45 tuổi bắt
đầu nhập cuộc nhiều. Những người trẻ hơn thường ít bận tâm hơn. Do đó, cần nỗ
lực đào tạo ý thức cội nguồn cho thế hệ trẻ.
Trước tình cảnh sự học sa sút, năm 1990, chúng tôi đã thiết lập
việc khuyến học trong phạm vi gia tộc, lấy ngày giỗ ông nội làm "ngày
truyền thống gia tộc" đồng thời cử hành ngày này theo dương lịch cho các
bạn trẻ dễ nhớ.
Một số phụ huynh trẻ thấy chương trình khuyến học khá hữu ích, tích
cực theo đuổi và việc phát thưởng nhân "ngày gia tộc" vẫn tiếp tục
cho tới ngày nay. Trong ngày này chúng tôi ưu tiên quy tụ các cháu nhỏ, không
mời người ngoài, chỉ tập trung lo xây dựng trong nội bộ. Giá trị vật chất của
các phần thưởng không đáng kể nhưng vẫn là một cái gì háo hức đối với các cháu
mẫu giáo và các lớp nhỏ. Ngày gia tộc cũng lôi cuốn với các học sinh lớn nhờ đó
là dịp để các cháu đi chơi. Do chúng tôi không có từ đường, ngày này được tổ
chức lưu động tại bất cứ gia đình nào đăng cai tổ chức. Cả những gia đình trẻ
và cả những cháu ngoại cũng được quyền đăng cai tổ chức. Nhà nào lo giỗ năm sau
sẽ rước di ảnh Ông Bà về lo hương khói trong một năm. Bù lại trong năm mọi
người được nhắc nhở cầu nguyện cho gia đình ấy. Như thế chúng tôi có một từ
đường lưu động hằng năm, đi theo di ảnh Ông Bà. Các gia đình trong dòng tộc chúng
tôi ở tại ba tỉnh miền Trung và cả ở Sài Gòn, hằng năm các cháu đều có dịp quy
tụ ở những địa phương khác nhau. Hơn nữa, dù tổ chức ở đâu, ngoài thánh lễ,
buổi phát thưởng và bữa ăn gia tộc, còn có chương trình dã ngoại hoặc du lịch
tham quan. Thêm vào đó, vì không có ruộng hương hỏa hoặc một nguồn lợi tức nào để
chi dùng cho việc gia tộc, chúng tôi xây dựng quỹ hương hoa bằng sự quyên góp
hằng năm, ngay trong ngày gia tộc. Một phần được giữ lại cho quỹ học bổng, một
phần được giao cho gia đình đăng ký tổ chức ngày gia tộc năm sau.
Trong cuộc họp mặt đầu tiên về gia phả dòng họ năm 1996 tại hội
trường Viện Sử Học Hà Nội, nhiều đại biểu cũng tỏ ra đồng cảm với điều tôi chia
sẻ. Tôi lưu ý mọi người rằng tìm lại quá khứ là để phục vụ tương lai. Trong
thâm tâm những người nhiệt thành với nguồn cội, ai cũng biết rằng công việc của
mình trước hết là nhằm ích lợi tinh thần cho con cháu. Xu thế suy thoái đạo lý
trên thế giới thật đáng lo ngại: Phim ảnh bạo lực và tình dục cộng với bao
nhiêu tệ nạn khác của văn minh hưởng thụ sẽ càng lúc càng phá hỏng những nền
móng của đạo đức cá nhân, gia đình và xã hội. Việc dựng lại gia phả, nêu cao
tình gia đình và gia tộc là một phương thế có thể góp phần hữu hiệu vào việc
giáo dục đạo lý cho con cháu. Từ góc nhìn của một linh mục, tôi thấy ngày nay
muốn chấn hưng đạo đức cho lớp trẻ, chỉ riêng nỗ lực của gia tộc hoặc của tôn
giáo thôi không đủ, cần có sự hợp tác của cả đôi bên. Chính vì thế mà tôi tham
gia nghiên cứu về gia phả dòng họ. Dù chưa thu thập được đầy đủ các chi tiết
cần thiết, dù còn bất toàn và đầy hạn chế, bản gia phả vẫn là một phương tiện
có tác dụng rất lớn trong việc đào tạo lòng biết ơn tiền nhân, gây ý thức tự
trọng và tạo tinh thần cầu tiến.
Gia tộc chúng tôi cũng tìm cách để biến gia phả thành một phương
tiện thu hút sự chú ý của các cháu nhỏ và đào tạo tình gia tộc cho các cháu.
Xưa tại Việt
Việc đào tạo ý thức về Đạo Hiếu còn được thực hiện qua việc hành
hương về nguồn cội. Năm 2005, kỷ niệm 50 năm cuộc di cư, chúng tôi đã đưa các
cháu về cử hành ngày gia tộc tại gốc tổ Hà Tĩnh. Một vài vị cao niên, một số
phụ huynh trẻ và một linh mục trong gia tộc dẫn đầu đoàn hành hương về phát
thưởng tại một gia đình ngoài ấy, dâng lễ tại nhà thờ xứ và thắp hương niệm tổ
tại từ đương bên làng lương.
Nhà giáo Võ Tá Tương đang diễn giải cho các bạn trẻ hành hương 2005
hiểu những nếp xưa
Hiện nay có nhiều gia đình và gia tộc Công giáo đang cố gắng tiếp
tục triển khai một bản gia phả còn may mắn giữ được hoặc đang gom góp tư liệu
để dựng lại gia phả. Đó là sáng kiến quý và là một khởi đầu tốt. Với viễn tượng
loan báo Tin mừng, việc này không nên dừng lại trong nội bộ những gia đình đã
theo Chúa nhưng cần quyết tâm mở rộng tới anh chị em ngoài Công giáo. Nhiều
trường hợp đôi bên còn giữ được liên hệ qua việc giỗ chạp. Anh chị em lương dân
thường khá kỹ lưỡng trong việc lưu truyền gia phả. Ta có thể nhờ đó mà tìm lại
được thông tin về những thế hệ xưa.
Việc mời nhau trong dịp giỗ chạp nay đã bình thường. Những ngày
truyền thống từng gia tộc tại các nhà thờ Công giáo là dịp để mời anh chị em
đồng tộc bước tới nhà Chúa, và cũng là dịp để họ đáp lễ bằng cách mời ta đến
thăm từ đường của họ trong các dịp giỗ. Đức Thánh Cha Phanxicô thật chí lý khi
nhấn mạnh đến viếng thăm và gặp gỡ.
Chính sự gặp gỡ sẽ hóa giải những hiểu lầm.
Ở quê tôi, trước kia hai làng lương và giáo rất ít qua lại, thậm
chí còn tránh mặt nhau. Thế nhưng sau thánh lễ cử hành tại từ đường bên làng
lương tháng 9-1990, người dân hai bên dần dần trở nên thân thiện. Ngày giỗ
Thanh Minh, khi được mời đến dự, bà con đồng tộc Công giáo đem theo hương đèn,
hoa quả (Thật ra chỉ mấy năm đầu khi mới tái lập quan hệ mới cần mời, về sau,
việc về thắp hương và đóng góp trong ngày giỗ không phải đợi ai mời nhưng là
một bổn phận).
. Khi tôn tạo từ đường, anh chị em Công giáo cũng đóng góp tiền
bạc. Bù lại, khi giáo xứ xây dựng nhà thờ mới, anh chị em lương dân quan tâm
thăm hỏi, đóng góp. Ngày khánh thành nhà thờ xứ, có một đoàn bên làng lương đến
mừng. Một gia đình ở đó còn công đức cả hệ thống âm thanh và đèn cao áp cho nhà
thờ mới.
Sự gặp gỡ cảm thông giúp thay đổi cái nhìn. Bài ca tế Thanh Minh
trước kia nhận định rằng “Đức Hiển Dương vốn dòng trưởng chánh, việc từ đường
vắng tạnh khói hương”, nay đã đổi thành: “Hiển Dương Hầu ở ngôi cháu trưởng,
đổi sang đường tín ngưỡng Kitô”. Thay vào sự phiền trách là sự ghi nhận khách quan, có phần trân trọng.
Có thể nói theo Đạo Chúa không còn là bỏ Ông bỏ Bà.
Sự có qua có lại này ngày càng thắm thiết. Bản thân tôi là linh mục
cũng cố gắng để khắc sâu mối thân tình. Mỗi lần có dịp về thăm quê, tôi đều
dành thời giờ thăm vị Tộc trưởng và người bạn tâm giao là nhà giáo Võ Tá Tương.
Tôi đến thắp hương ở từ đường và khi có điều kiện, tôi dâng thánh lễ ở đó. Dù
xa xôi ngàn dặm, hàng năm đến giỗ Thanh Minh, vị tộc trưởng đều gọi điện mời
tôi. Một vài lần tôi đã vượt khó khăn để về dự. Một số lần khác, tôi đã gọi
điện về xin cha xứ hiện diện thay tôi. Cha Phêrô Nguyễn Đại, khi là chính xứ An
Nhiên, đã hai lần đến thắp hương tại từ đường Hà Hoàng và được mời phát biểu
trước hàng mấy ngàn người về dự đại tế.
Sự nhập cuộc của các linh mục được anh chị em người lương quý
chuộng cách riêng. Vì thế, mỗi khi bắt liên lạc được với một dòng họ nào, tôi
đều cố gắng giới thiệu một cha thuôc dòng họ ấy. Tại Lý Sơn, cha Phạm Đức Thanh
DCCT đã cùng tôi đến thắp hương ở từ đường họ Phạm; tại Qui Nhơn, cha Văn Ngọc
Anh đã cùng tôi đến thăm nhà cụ trưởng lão họ Văn đang hoàn thiện bản gia phả
dòng họ.
Đã có những linh mục ghi nhớ ngày giỗ dòng họ mình và tích cực đến
hiệp thông, thắp hương. Tại Hải Dương, hằng năm tới ngày lễ hội họ Vũ, Đức Giám
mục Hải Phòng Giuse Vũ Văn Thiên vẫn có lẵng hoa gửi về. Trong năm 2012, có lần
ngài đã cùng với 18 anh em linh mục mang họ Vũ về tổ đường này dâng thánh lễ
đồng tế.
Đức Giám Mục Hải Phòng dâng lễ tại nhà
khách dòng họ Vũ Võ ở Mộ Trạch.
Với những người đã tham dự ngày truyền thống dòng họ tại nhà thờ
giáo xứ, ta nên quan tâm lui tới thăm viếng. Mỗi giáo xứ thường có sẵn những
nhóm anh chị em lo thăm viếng, cụ thể là các anh chị Legio Mariae, vẫn thường
thăm người neo đơn, bệnh tật, vv… ta nên
liên kết nhờ họ cùng đi thăm để việc thăm viếng được nhịp nhàng đều đặn hơn.
Những người cao niên thường nghĩ nhiều về đời sau, và cũng không còn vướng mắc
xã hội, ta nên mạnh dạn chia sẻ về đức tin và cầu xin Chúa mở lòng cho họ. Ngày
giờ của họ càng lúc càng ngắn ngủi, cần được ta quan tâm giúp hoàn tất cuộc đời
đúng như Chúa mong chờ cho họ. Khi một vị lão thành tin nhận Chúa, con cháu
người ấy sẽ dễ hướng lòng về Chúa hơn.
Cần lưu ý rằng việc loan Tin mừng của anh em Tin Lành kết quả nhiều
là nhờ họ thăm viếng nhiều. Có một đôi bạn từ Trung Quốc theo học một Đại học
Công giáo tại Mỹ để nghiên cứu về Kitô giáo. Khi ra trường, họ bày tỏ nỗi ngạc
nhiên:
- Tại trường Đại Học này, có rất nhiều linh mục, tu sĩ và nữ tu
Công giáo, nhưng hơn ba năm ở đây không có bất cứ một ai đến thăm chúng tôi,
ngược lại mỗi ngày Thứ Sáu đều luôn có người Tin Lành đến nói về Kinh Thánh cho
chúng tôi nghe.
Có lẽ câu nói ấy phải khiến chúng ta tự vấn nhiều trước anh em và
trước nhan Chúa.
Khi mở rộng vòng giao lưu tới anh chị em đồng tộc ngoài Công giáo,
ta sẽ thấy khó khăn trong việc phục hồi gia phả là chuyện chung của các gia tộc
hiện nay, không riêng gì lương hay giáo.
Bản gia phả chi tộc chúng tôi đã được chuyển dịch sang chữ Quốc ngữ
khoảng năm 1950. Tiếc thay nó đã bị mối mọt phá hủy. Sự kiện ấy giúp tôi đồng
cảm với những nhóm mất hẳn gia phả, do chiến tranh, nghèo đói, không được đi
học...
Hiện nay ở huyện quê nhà của tôi có nhiều gia đình Công giáo mang
cùng họ và cùng chữ lót với gia tộc chúng tôi, chưa kể nhiều gia đình cùng họ
nhưng khác chữ lót, cũng bị mất gia phả như chúng tôi. Mỗi nhóm chỉ có thể quy
tụ quanh những vị tổ gần đây hiện còn biết được nhưng khó mà xác định liên hệ
thế thứ giữa vị tổ nhóm mình với những vị tổ các nhóm khác. Về mặt tâm tình
đồng tộc, họ không ngần ngại nhận mình phát xuất từ cùng một vị trưởng tộc đã
theo Công giáo cách nay khoảng 300 năm, là Hiển Dương Hầu Võ Tá Cảnh, nhưng do
thiếu phả liệu nên không sao nối kết thành một hệ thống chung.
Từ đó, tôi đề ra khái niệm "đường dẫn co dãn", có nghĩa
là những gia đình nào muốn đều có thể tiếp tục viết bản gia phả của chính mình,
bằng cách nối một đường dẫn co dãn từ tổ Võ Tá Cảnh đến vị tổ cao nhất mà gia
đình ấy hiện còn biết được. Ví dụ nơi gia phả phía cha tôi, đường dẫn ấy sẽ nối
từ tổ Võ Tá Cảnh cho đến tổ Võ Tá Dinh (tôi là cháu đời thứ năm), còn phía họ
Võ của các cậu tôi và mẹ tôi đường dẫn sẽ nối thẳng từ tổ Võ Tá Cảnh đến tổ ngoại
tôi là cụ Luca (tôi là cháu đời thứ tư).
Khi tôi mới nêu giải pháp này vào năm 1997, nhiều người còn ngần
ngại. Thế nhưng, dịp tế Thanh Minh 2010, hầu hết các nhánh họ Võ tại giáo xứ
quê tôi đều đã có mặt tại từ đường đại tôn (do bà con người lương đảm nhiệm) ở
Hà Hoàng.
Nếu mỗi gia đình hiện nay đều có thể tự mình nối một đường dẫn co
dãn như thế để tiếp tục viết gia phả, thì ai có thẩm quyền thừa nhận rằng gia
đình ấy đúng là người trong họ? Theo tinh thần anh em về họp mặt trong những
năm qua, sẽ không ai đặt vấn đề thừa nhận, ngược lại ai nấy đều vui mừng mỗi
khi có thêm những anh em đồng cảm cả trong tâm tình đối với tổ tiên và tâm tình
đối với hậu thế. Nói cách khác, bên cạnh những nỗ lực tìm ghi lại quá khứ, hiện
còn có một xu thế coi trọng một gia phả tinh thần ít ra cũng ngang hàng với một
gia phả bằng chữ viết.
Thật vậy, nếu phục hồi được những chứng liệu về một chuỗi liên hệ
huyết thống đầy đủ và xác thực thì quý biết bao. Thế nhưng có lẽ đó không phải
là mục đích duy nhất của việc thực hiện gia phả và, đàng khác, nhiều khi đó là
điều không thể làm được. Ta liên kết là để thêm tình thêm nghĩa, chứ chẳng có
gì để gọi là quyền lợi hay bổn phận. Nếu cứ khăng khăng phải tìm cho được chứng
liệu liền mạch, chắc hẳn sẽ đến lúc người ta đành phải chia tay vì không thể
nào còn giữ được những chứng liệu như thế.
Ngày nay, ai cũng hiểu rằng chuyện một mẹ trăm con chỉ là huyền
thoại chứ không phải là gia phả thật. Công dụng của câu chuyện là tạo cơ sở để
bất cứ gia đình nào cũng có quyền nối chính mình vào cội nguồn Âu Lạc.
Đường dẫn co dãn là chuyện bình thường trong gia phả học Kinh
Thánh. Tại Trung Đông, xã hội du mục hơn 3000 năm trước đây đòi các bộ lạc phải
nương vào nhau để sinh tồn. Các bộ lạc yếu tìm liên kết với các bộ lạc mạnh.
Người ta thường khẳng định liên hệ giữa hai bộ lạc bằng một đường dây gia phả
nào đó. Nghiên cứu kỹ, người ta khám phá ra rằng nhiều bản gia phả có phần nhập
đề rất giả tạo, mối dây liên kết các bộ lạc trong thời điểm viết gia phả rất
lỏng lẻo. Dù vậy, mối dây ấy cần thiết để biện minh cho sự liên kết và để tạo
cho thành viên đôi bên cái tâm lý "máu loãng còn hơn nước lã" và thật
sự quan tâm đến nhau.
Vấn đề trước mắt của chúng ta là với những mảnh vụn gia phả còn may
mắn giữ được, làm sao để tìm ra những mối liên hệ thân tình giữa các nhánh cùng
dòng họ? Và hơn nữa, làm sao có thể nối kết khi người ta chẳng còn một mảnh vụn
nào? Trong thực tế, tại những thôn xã có từ đường một dòng họ nào đó, ngay bên
cạnh từ đường có thể vẫn có những gia đình đồng tộc đã gián đoạn liên lạc không
biết từ bao giờ, lại cũng có những gia đình đồng tộc từ đâu khác mới đến được
vài ba đời... Có nơi người phụ trách từ đường đã chủ động đến thăm và mời những
gia đình lẻ loi như thế cùng đến dự tế hiệp, vì dù nhiều hay ít, cách này hay
cách khác, vẫn có một liên hệ đồng tộc.
Nếu giấy trắng mực đen còn đó và chỉ một số ít gia đình nối được
tên mình vào chuỗi gia phả thì số ít này dễ gặp nguy cơ kiêu hãnh, tự hào mình
là “của thật”, những anh em khác là “của giả”. Nay cái giấy trắng mực đen kia
thành cát bụi, mọi người đều lạc mối như nhau thì cũng đều có thể tự nối với
gốc tổ một cách bình đẳng và đồng thời cũng là một cách khiêm nhường, theo tình
chứ không theo lý.
Những liên hệ có tính tương đối như thế sẽ giúp người trong cuộc tự
hỏi tại sao không đi xa hơn, nối tiếp những đường dẫn co dãn cho tới con người
đầu tiên của lịch sử, cho tới nguyên tổ Ađam để gặp được Cội Nguồn tuyệt đối là
Cha Cả trên trời?
Như thế ta có thể tìm được ở đây thêm một minh họa cho học thuyết
của các vị Tiến sĩ Hội thánh thuộc Dòng Cát Minh về sự thanh tẩy chủ động và sự
thanh tẩy thụ động. Ông Abraham đã tự nguyện lìa bỏ quê cha đất tổ, lên đường
theo tiếng Chúa gọi và gặp được Thiên Chúa là Cội Nguồn và Đích Điểm. Ông tự
nguyện thanh tẩy khỏi những vấn vương trần thế. Còn chúng ta, dù tha thiết với
những cội nguồn nhân loại đến mấy cũng không sao tìm lại được; Thiên Chúa đã
dùng ngoại cảnh, cắt đứt chúng ta với những cội nguồn ấy, rồi khi ta đang hụt
hẫng bơ vơ thì Ngài lại soi sáng cho ta nhận biết Ngài là Cội Nguồn đích thật.
Chính Thiên Chúa thanh tẩy và tước đoạt. Nếu ta thuận tình chiều theo sự dẫn
dắt ấy của Ngài, Ngài sẽ đích thân đưa ta về với Ngài. Nhu thế, cả thái độ tự
nguyện lẫn thái độ thuận tình đều giúp nhận được đức tin.
Năm 2009, cụ Võ Huề ghé thăm tôi. Cụ là hậu duệ của tiền hiền Võ
Lực, mộ hiện ở nghĩa trang giáo xứ Phú Hữu, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Tôi
chia sẻ với cụ về sinh hoạt liên kết họ Võ hiện nay ở khắp trong nước và hải
ngoại. Cụ thấy ngay đó là một nỗ lực rất tích cực có thể góp phần giáo dục hữu
hiệu cho lớp trẻ. Do đó, cụ đã năng nổ liên lạc và vận động để có được cuộc họp
mặt một số bà con Công giáo họ Võ vào dịp sinh nhật Tổ Võ Hồn, ngày mùng 8 tết
Canh Dần, 2010.
Cuộc họp mặt đã đề cử ra một ban liên lạc họ Võ Công giáo tỉnh Bình
Định, chuẩn bị cho những cuộc họp mặt về sau. Thế rồi chúng tôi đã có ngày Võ
Tộc Công Giáo Bình Định lần thứ hai, vào mùng 8 tết Tân Mão, 2011 và lần thứ ba
vào mùng 8 tết Nhâm Thìn, 2012.
Trong cuộc sinh hoạt lần thứ hai, trước các đại biểu cả người giáo
và người lương, ông Trưởng ban Liên lạc Võ tộc Công giáo tỉnh Bình Định đã nêu
lên những mục tiêu rất thiết thực của việc liên kết dòng họ:
- Mục tiêu thứ nhất là để động viên nhau sống tốt, không làm ô danh
tổ tiên. Đây là điều quan trọng và cần thiết trong hoàn cảnh giáo dục đầy khó
khăn ngày nay.
- Mục tiêu thứ hai là để nhắc nhau xây dựng tình gia đình và gia
tộc thật ấm cúng đậm đà. Đây cũng là điều rất quan trọng. Do ảnh hưởng văn minh
tiêu thụ, chạy theo tiền bạc, nhiều gia đình dễ tan vỡ. Cùng với lời dạy và sự
nâng đỡ tinh thần của Hội Thánh, chính các gia tộc phải tích cực nhắc nhở nhau
và giúp nhau vượt qua khó khăn để bảo đảm hạnh phúc gia đình.
- Mục tiêu thứ ba là để gia tăng tình thân ái với các anh chị em
đồng tộc trong cũng như ngoài Hội Thánh Chúa, để từ chỗ chu toàn đạo hiếu dưới
đất với tổ tiên, chúng ta sống trọn đạo hiếu thảo với Cha Cả trên trời là Cha
chung của hết mọi người. Trước kia, người Công giáo bị gián đoạn việc thờ cúng
Ông Bà theo cách cổ truyền, suốt hơn 200 năm, khiến nhiều người lương hiểu lầm
rằng theo Đạo là bỏ ông bỏ bà. Nay những khó khăn đã qua, Giáo Hội đã cho phép
người Công giáo Việt
Theo hướng ấy, chúng tôi đề xuất những điểm sau đây để chúng ta cùng
trao đổi cho sáng rõ thêm.
1. Trong năm nay, cố gắng giới thiệu sinh hoạt của chúng ta tới bà
con đồng tộc trong giáo xứ. Cụ thể là mượn sổ của giáo xứ, lọc ra một danh sách
các gia đình Võ tộc.
2. Gặp riêng từng người, kể về sinh hoạt của chúng ta hôm nay và
cùng thảo luận hướng tới tương lai.
3. Xin photocopy tờ hướng dẫn làm gia phả và phát cho các gia đình.
Qua chiến tranh, gia phả hầu hết bị thất lạc và gián đoạn. Mỗi gia đình nên chủ
động xây dựng lại gia phả, sớm ngày nào hay ngày đó, vì càng để lâu, các bô lão
qua đi, ta sẽ không biết hỏi ai.
4. Anh chị em Võ tộc cùng giáo xứ nên xin cha sở một thánh lễ cầu
cho kẻ sống và kẻ chết trong Võ tộc địa phương mình, rủ nhau đi thật đông.
5. Sau thánh lễ ấy, có thể gặp gỡ sinh hoạt và bầu ra một ban đại
diện. Ban đại diện nên chọn người trẻ, có uy tín nhờ khả năng và tư cách đạo
đức.
6. Chú ý mời gọi lớp trẻ tham gia sinh hoạt Võ tộc tại giáo xứ cũng
như liên xứ. Chính lớp trẻ sẽ là tương lai của dòng họ.
7. Có nhiều chị em con gái và con dâu họ Võ rất nhiệt tình với sinh
hoạt dòng họ. Xin đặc biệt lưu tâm và mời những người ấy giúp việc chung của
dòng họ.
8. Gặp gỡ người phụ trách từ đường Võ tộc tại địa bàn giáo xứ, tại
xã hoặc huyện mình, không phân biệt lương hay giáo, để xin sao chụp gia phả,
phiên dịch và tham khảo để tìm nguồn cội.
Tại mỗi giáo xứ, hằng năm nên có một ngày sinh hoạt, tốt nhất là
vào ngày lễ một vị thánh trong dòng họ. Nên mời tất cả các gia đình đồng tộc
trên địa bàn giáo xứ, cùng con dâu và con rể. Nên mời cả bà con đồng tộc ngoài
Công giáo cùng tham gia, đồng thời cũng nên tích cực nhận lời mời tham gia các
sinh hoạt đồng tộc của các anh chị em ngoài Công giáo.
Nội dung chính là thánh lễ và giờ gặp gỡ trước hoặc sau thánh lễ.
Nhiều làng có hương ước, nhiều nhánh tộc họ có tộc ước. Các quy ước
thành văn có cái hay của nó nhưng cũng có lắm điều phức tạp. Sinh hoạt của
chúng ta chỉ giản dị là động viên lòng hiếu thảo và hiếu học, vì thế nên tránh
viết thành nội qui với những điều lệ rắc rối. Cần giữ cho sinh hoạt luôn mang
tính tự do, không ràng buộc.
Chỉ cần đề cử một ban liên lạc để tổ chức và nhắc anh chị em tham
gia. Ban liên lạc làm việc với tinh thần tự nguyện, vô vụ lợi.
Không nên gây quỹ. Mỗi lần sinh hoạt sẽ xin bà con đóng góp tùy hảo
tâm. Nếu bị hụt thì xin thêm cho đủ, nếu dư thì ban liên lạc sẽ quyết định sử
dụng vào việc gì có ý nghĩa nhất, trong thời gian sớm nhất, không giữ lại.
Đời 1 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Đời 2 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Đời 3 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Đời 4 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Đời 5 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Đời 6 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Đời 7 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
BẢN HƯỚNG DẪN XÂY DỰNG
GIA PHẢ
Bước
đầu
Xin lưu ý:
Bản hướng dẫn này giúp bạn thực hiện phần chính yếu trong gia phả
của bạn, tức là phần trực hệ (cha, ông nội, ông cố, ông can,…). Sau khi có kinh
nghiệm, bạn sẽ bổ sung các phần bàng hệ (chú, bác…)
Nếu bạn muốn lập gia phả phía mẹ bạn, thì phải làm một bản khác
(mẹ, ông ngoại, ông cố ngoại, ông can ngoại…).
Các bước thực hiện:
1. Ghi các tổ phụ (nam giới) hàng dọc từ cha của bạn trở lên, cho
tới vị trên cùng mà bạn biết được. Nếu vị này có những anh chị em mà bạn biết
tên tuổi, còn thân phụ của các vị bạn không rõ họ tên, bạn sẽ gọi vị tổ cao
nhất này là vị tổ khuyết danh.
2. Ghi tên vị tổ cao nhất (hoặc vị “khuyết danh”) đã tìm thấy vào ô
đậm ở hàng “đời 1”. Bạn không còn biết vị này có anh em hay không, cho nên
trước tên của vị này không ghi số thứ tự nhánh. Hàng “đời 1” chỉ có một ô là vì
thế.
3. Các vị tổ đời thứ hai trở đi, mỗi vị có mấy anh em trai thì đời
ấy có mấy nhánh. Bạn ghi tên các anh chị của vị tổ vào các ô bên trái, các em
trai và em gái của vị ấy vào các ô bên phải, theo thứ tự. Sau đó bạn đánh số
thứ tự các nhánh vào trước tên những người nam.
4. Tên phu nhân các vị tổ sẽ bổ sung sau.
5. Bạn vạch những mũi tên từ mỗi vị tổ đến các người con của họ,
rồi xóa những ô trống.
6. Phần gia phả của các nhánh khác ở mỗi đời sẽ bổ sung sau. Tốt
nhất, bạn giao phần của mỗi nhánh cho người phụ trách nhánh đó, rồi cuối cùng
sẽ tổng kết lại.
7. Bạn trao đổi với những người có kinh nghiệm trong vùng để tiến
hành những bước tiếp theo.
8. Tại các nhà sách, có một số bản mẫu sổ gia phả – Khi đã có số
liệu, bạn có thể tham khảo những sách ấy để trình bày theo cách nào bạn thấy
tiện nhất.