GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2014
BẢN TIN 08
Thưa quý độc giả và quý tác giả,
Bốn năm nữa, đến năm 2018 sẽ là kỷ niệm 400 năm Tin mừng Nước Trời
đến với Giáo phận Qui Nhơn. Năm 1618, nhờ sự giúp đỡ của ông Trần Đức Hòa, quan
Tuần phủ khám lý Qui Nhơn hồi ấy, các nhà truyền giáo dòng Tên gồm ba linh mục
Francesco Buzomi, Francisco de Pina, Christoforo Borri và tu sĩ António Dias đã
lập cơ sở đầu tiên tại Nước Mặn (nay thuộc thôn An Hòa, Xã Phước Quang, huyện
Tuy Phước, tỉnh Bình Định). Nước Mặn cũng được các nhà nghiên cứu ngày nay ghi
nhận là cái nôi phát sinh của chữ Quốc ngữ.
Mời xem http://loanbaotinmung.net/noidung/439.
Góp phần vào những nỗ lực nhằm dọn mừng kỷ niệm trọng đại ấy, Ban
mục vụ Văn hóa và Giáo dục của Giáo phận Qui Nhơn hiện đang tiến hành thực hiện
hằng năm hai giải văn thơ song song, nhằm phát hiện và phát huy những tài năng
văn thơ trẻ cho Giáo hội:
- “Giải văn thơ Linh mục Đặng Đức Tuấn”, dành riêng cho các học
sinh giáo lý trong Giáo phận Qui Nhơn (18 tuổi trở xuống). Cuộc thi lần thứ năm
của giải này (2014) đang tiến vào giai đoạn cuối và sẽ trao giải vào giữa tháng
7-2014.
- “Giải Viết Văn Đường Trường” dành cho các bạn trẻ Công giáo từ 40
tuổi trở xuống, mở rộng cho tất cả các giáo phận trong toàn quốc, được tổ chức
liên tục từ 2013 tới 2018. Cuộc thi lần II (2014) đã thu hút được sự tham gia
của các tác giả từ 15 Giáo phận khác ngoài Giáo phận Qui nhơn, vừa kết thúc
nhận bài và dự kiến sẽ tổng kết trao giải vào tối 21-9-2014.
Các bạn trẻ đạt giải Đặng Đức Tuấn hằng năm được quy tụ thành những
câu lạc bộ sáng tác, tổ chức những ngày tập huấn và in ấn các tập nội san làm
sân chơi văn chương và rèn luyện tay bút. Sau hơn 4 năm, đã thấy có những tín
hiệu phát triển tốt. Tại “Giải Viết Văn Đường Trường” năm nay, trong số 64 tác
giả tham dự, đã có 20 tác giả thuộc Giáo phận Qui Nhơn, hầu hết đều xuất thân
từ chương trình văn thơ Linh mục Đặng Đức Tuấn nói trên.
Trong bản tin này, chúng tôi xin giới thiệu 9 truyện dự thi mới của
Giải Viết Văn Đường Trường 2014. Xin mời quý độc giả cùng theo dõi, đánh giá và
tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng đạt giải
nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ
được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và
hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Quý độc giả có thể gửi phiếu bình chọn ngay sau từng đợt bài được
giới thiệu. Khi đọc các truyện ở các đợt tiếp theo, nếu thay đổi ý kiến, có thể
gửi phiếu bình chọn mới. Chúng tôi sẽ tính theo phiếu gởi sau cùng của mỗi
người. Xin gửi cùng lúc về 2 điện chỉ email: tinmunggiesu@gmail.com và
gopnhattho@yahoo.com.
Nếu quý độc giả phát hiện bài dự thi nào sao chép, copy ý tưởng,
hoặc chỉ là phóng tác từ một tác phẩm khác đã công bố, xin vui lòng cho Ban Tổ
chức được biết.
Xin chân thành cám ơn các trang truyền thông Công giáo đã và đang
hỗ trợ truyền bá chương trình này, cám ơn quý tác giả đã gửi bài tham gia và
cám ơn quý độc giả đang quan tâm theo dõi cuộc thi. Nguyện xin Thiên Chúa giàu
lòng thương xót chúc lành cho tất cả chúng ta.
Qui Nhơn, ngày 06-4-2014
Thay lời Ban Tổ chức
Linh mục TRĂNG THẬP TỰ
BÀI DỰ THI
Mã số: 14-050
Bóng người đàn ông đã khuất sau hàng rào dâm bụt, Thái vẫn dõi mắt
nhìn theo hướng đó. Những làn gió cuối năm khẽ lướt qua khuôn mặt trầm ngâm của
Thái. Anh không hiểu tại sao mình lại nói ra những lời đó, không hiểu tại sao
mình lại dễ dàng bỏ qua món nợ đó được. Anh cảm thấy nhẹ nhõm như vừa quẳng đi
một khối đá lớn đã từ lâu bám riết theo anh. Thái tha nợ cho người khác nhưng
chính anh lại là người được thoát khỏi một khoản nợ không thể trả. Anh lắp bắp
mấy từ: ơn Chúa…
* * *
Thái là con trai trong một gia đình giàu sang có tiếng ở đất Qui
Nhơn. Được cưng chiều từ nhỏ nên Thái bỏ bê việc học, theo nhóm bạn lao vào
chốn ăn chơi. Nhưng ăn chơi hoài cũng đến ngày sạch túi, hết tiền, anh lại ngửa
tay xin cha mẹ. Cha mẹ cho nhiều lần quá nên mới có lời bảo Thái lo đi làm ăn
vì tuổi cũng đã lớn rồi. Cha mẹ dành cho anh một số tiền không nhỏ lấy vốn để
làm ăn. Từ ngày ăn chơi với nhóm bạn, Thái đã biết mọi sòng bài ở đất Qui Nhơn.
Ngày trước, Thái hết tiền cũng vì lao đầu vào mấy sòng bài đó. Anh thấy sòng
bài là chốn làm ăn nhanh có lời nên bắt đầu góp vốn, tuyển người để mở sòng
bạc. Nhờ số vốn lớn, lại thêm có “mối quan hệ” tốt với công an nên sòng bài của
Thái ngày càng mở rộng địa bàn. Nhưng về sau, trải qua mấy vụ lộn xộn trong
sòng bài, anh chuyển hướng làm ăn. Làm sòng bài thì nhanh có lời nhưng phải
tiếp xúc với nhiều tay ăn chơi, giang hồ nên Thái nghĩ: Chơi dao cũng có ngày
đứt tay! Nghĩ thế, anh bán hết sòng bài, lấy vốn để cho vay nặng lãi. Công việc
này không gặp nhiều nguy hiểm như trước, chỉ cần tỏ ra chút miệng lưỡi khi cho
vay và tỏ ra mặt lạnh khi đòi nợ.
Từ ngày cưới Hương, Thái đã thay đổi nhiều, anh theo học đạo, gia
nhập đạo Công giáo. Hương khuyên bảo anh làm ăn chân chính, anh mới chịu góp
vốn, xây trang trại để nuôi gà nhưng anh vẫn chưa bỏ được nghề cũ. Hương có
thuyết phục mấy cũng chỉ được có thế. Dần dần chị cũng chịu đựng được vì anh theo
đạo và đi lễ mỗi tuần. Điều đó khiến chị được an ủi, được hy vọng vì nghĩ rằng
Chúa sẽ giúp chị biến đổi anh ấy.
* * *
Vào một đêm của những ngày cuối năm, Thái đến nhà một người bạn để
tán gẫu vài câu chuyện và nhâm nhi vài ly. Tình cờ, Thái cũng gặp được một anh
bạn trẻ là con đỡ đầu của bạn anh. Thái không ái ngại nên cũng đồng bàn với anh
bạn trẻ này. Thêm bạn thêm vui, thêm ly thêm tình cảm. Bầu khí nói chuyện càng
tự nhiên và thân tình hơn. Thái không ngại nói ra những “chiến công” hiển hách
trong đời mình. Anh bạn trẻ cũng không ngại chia sẻ với anh những câu chuyện
vui buồn trong chủng viện. Trong hơi men nồng, Thái gật gù nói:
– Nói thật với em. Đã hơn mười năm rồi, kể từ ngày anh chịu theo
đạo, anh vẫn chưa đi xưng tội…
Anh bạn trẻ ngạc nhiên, muốn biết câu chuyện rõ ràng hơn nên hỏi:
– Sao vậy anh?… Hay là anh không biết cách xưng tội?
– Xưng tội dễ ẹc!… Cái đó ông cha chỉ cho anh rồi. Anh hỏi em nha:
Khi xưng tội mà mình vẫn chưa quyết tâm chừa bỏ tội thì tội đó có được tha
không?
– Nếu chưa có lòng ăn năn tội và dốc lòng chừa thì làm sao mà Chúa
tha tội được.
Thái uống cạn chén rượu cầm trong tay nãy giờ.
– Anh chưa chịu xưng tội vì anh chưa thể bỏ nghề cho vay nặng lãi.
Đó là nghề của anh. Khi nào anh bỏ nghề này, anh sẽ đi xưng tội
Anh bạn trẻ vẫn cố gắng thuyết phục:
– Nhưng anh có biết ơn ích của mình khi đi xưng tội là gì không?
– Thì mình được tha tội.
– Đúng là như thế… Nhưng mình còn nhận được ơn giúp mình quyết tâm
chừa bỏ tội nữa.
– Điều này thì anh không biết.
Anh bạn trẻ tay cầm bình rượu, chồm người phía trước, rót cho Thái
một ly đầy. Anh nhỏ lời:
– Anh Thái đi xưng tội đi, rồi Chúa sẽ giúp anh bỏ được cái nghề
đó.
Thái ngả người ra sau ghế, đầu lắc lắc:
– Không bỏ được đâu… chờ sau này xem thế nào đã… Thôi, hôm nay anh
em mình kể như là có duyên, không hẹn mà gặp, cụng với anh chén nữa đi.
Anh bạn trẻ nhấp hời ly rượu, biết là sẽ không thuyết phục được gì
vào lúc này nên cũng không bàn đến nữa. Họ chuyển sang chuyện những con gà,
chuyện tết nhứt, chuyện…
* * *
Tiếng chuông nhà thờ văng vẳng trong tiếng gió. Hương từ trong nhà
gọi vọng ra:
– Anh nghỉ tay đi… chuẩn bị đi chầu nè. Hôm nay là chầu cuối năm
đó.
Thái luôn nghe lời Hương trong những chuyện như thế. Điều này khiến
chị ngày càng thêm hy vọng đến một ngày nào đó anh sẽ dứt bỏ nghề cũ, dứt bỏ
con đường tội lỗi. Cả gia đình Thái vào chầu Chúa trong nhà thờ. Giờ chầu cuối
năm khác mọi khi. Hôm nay mọi người đi đông hơn, bầu khí thánh thiêng hơn. Thái
tìm thấy một chỗ trống bên phía nam, nghiêm trang quỳ trước Thánh Thể. Đôi mắt
anh vô tình nhìn sang tòa giải tội, lòng nhủ:
– Hôm nay sao nhiều người xưng tội quá.
Giọng người dẫn chầu nghe rất tâm tình:
– Giờ chầu hôm nay mang ý nghĩa nhìn lại suốt một năm qua để cất
lời tạ ơn Chúa.
Thái nhủ thầm:
– Mình sẽ tạ ơn Chúa gì đây? À, tạ ơn đã ban cho gia đình mình một
năm được sức khỏe, bình an… À, mình có nên tạ ơn Chúa đã giúp công việc đòi nợ
của mình diễn ra suôn sẻ.
Nghĩ đễn đó, anh bật cười, nhưng thật may là chẳng có ai nghe thấy.
Mắt anh vô tình lại nhìn sang tòa giải tội, không còn ai xếp hàng chờ ở đó. Chỉ
có bóng một người ngồi phía sau tấm màn giải tội để lộ ra dây các phép màu tím.
Anh có cảm giác dường như người đó đã ngồi ở đó từ rất lâu rồi, như là đang chờ
đợi ai đó đang đến.
– Sao không có ai xưng tội vậy nhỉ?
Anh hỏi lòng mình. Anh nhìn bóng người đó, nhìn khoảng trống tại
bục quỳ xưng tội, nhìn lại mình, nhìn lại con người đầy dẫy tội lỗi sau mười
mấy năm. Anh nhìn thấy những cảnh tán gia bại sản trong sòng bạc của mình, nhìn
thấy cảnh người ta quỳ xuống năn nỉ anh cho thêm thời gian để trả nợ… Nghĩ đến
quá khứ của mình, anh thấy nặng nề như bị chồng chất bởi một tảng đá lớn. Anh
thấy ngột ngạt, khó thở… Anh bật người, đứng lên, hít một hơi thật sâu cho căng
tràn lồng ngực. Anh tiến đến tòa giải tội, nơi có bóng người đang chờ đợi.
Trong xúc động, anh kể, anh kể hết tất cả những tội lỗi mình đã phạm, kể những
lần mình làm khổ người khác, những lần anh làm ngơ trước lời năn nỉ như tuyệt
vọng của người khác. Giọng anh run run như sắp thét gào lên. Anh chẳng cần nhớ
đến công thức xưng tội mà anh đã học. Anh chỉ biết mình cần phải kể hết tất cả
những điều đó ra. Đến khi đã cảm thấy lòng mình dịu lại, anh im lặng. Cái im
lặng giống như tư thế đứa bé nằm im trong vòng tay người mẹ. Anh cảm nhận được
sự hồn nhiên từ thuở bé đang tràn về. Giọng nói của bóng người đó như rót mật
vào trái tim anh, những lời êm dịu, vỗ về, đón nhận một đứa con lưu lạc lâu
ngày trở về. Nhận được lời tha thứ của Chúa, lòng anh vui sướng, anh quay trở
lại chỗ quỳ, thì thầm lời kinh đền tội.
– “Hồng ân Thiên Chúa bao la, muôn đời con sẽ ngợi ca Danh Người”
Vẫn là giọng đọc đượm thắm tình cảm. Thái thấy khóe mắt hơi cay.
Hôm nay anh đã cảm nhận được tình Chúa dành cho anh quá lớn lao. Qua bao năm
sống trong tội lỗi, anh đã nợ Chúa quá nhiều. Đấy là nợ tình. Chúa yêu thương
anh, ban cho anh biết bao ơn lành vậy mà anh đã phạm tội, phản bội tình yêu
Chúa. Với món nợ này, chắc có lẽ cả đời anh cũng không trả nổi. Vậy mà hôm nay
Chúa đã xóa hết mọi nợ nần cho anh, chấp nhận anh quay trở về. Anh rưng rưng
nước mắt… Giờ chầu kết thúc, Thái nén cảm xúc của mình, đón Hương và các con về
nhà. Trực giác của Hương cho chị biết đã có điều gì đó xảy ra với Thái trong
buổi chầu hôm nay. Ngồi phía sau chị níu áo anh:
– Có chuyện gì hả anh?
– Không có gì đâu em… Đúng là một giờ chầu ý nghĩa.
* * *
Mặt trời tiến dần về phía chân núi. Những cơn gió cuối năm còn giữ
chút hơi lạnh thổi bật một cánh cửa ở chuồng gà. Nghe tiếng đàn gà con kêu lên
vì gió, Thái tất tưởi chạy ra, khép chặt cánh cửa lại. Có tiếng người gọi khẽ
phía sau lưng:
– Chú Thái…Tôi có việc này muốn thưa với chú…
Thái ngoái lại đằng sau, thấy một người lấm lét trong bộ đồ đã sờn
rách. Anh nói to;
– Anh Ba…Chờ em lo cho mấy con gà chút nha. Mời anh vô nhà chơi.
Ngôi nhà hai tấm sang trọng đứng riêng một góc xóm. Trong nhà được
trang trí rất nhiều đồ cổ, nội thất vào tầm thượng hạng. Choáng ngợp trước vẻ
sang trọng của ngôi nhà, anh Ba rụt rè bỏ dép trước cửa bước vào nhà. Đứng ở
một góc nhà, ôm chiếc nón cũ trước bụng, anh Ba ngập ngừng nói:
– À, chú Thái… Hôm nay là cuối năm rồi, món nợ lần trước tôi mượn,
chú cho tôi xin thêm thời gian…
Thái kéo chiếc hộc dưới bàn gỗ, lấy ra một cuốn sổ dày:
– Hai năm trước anh Ba có mượn tiền. Nể tình làng nghĩa xóm, em đã
cho anh thêm một năm để trả nợ. Sao hôm nay anh đến nói là không có tiền trả.
– Anh vay tiền chú là để nuôi mấy con heo. Bầy heo cả chục con đang
lớn đang mạnh như thế, sau trận dịch vừa rồi cả đàn chết hết không còn một con.
Heo chết bán chẳng có ai mua. Tiền vốn của gia đình anh cũng đã đi theo mấy con
heo hết rồi.
Thái nghiêm mặt nói:
– Anh làm ăn thì phải biết tính toán chứ. Nếu anh không làm được
thì đừng có vay. Bây giờ lại mắc nợ…
Nói đến từ này, Thái đột nhiên im lặng hẳn. Cái im lặng này làm cho
anh Ba toát mồ hôi nhễ nhãi. Thái quay mặt ra cửa, phớt lờ cái nhìn của anh Ba.
Bầu trời quang đãng, thoang thoảng cơn gió lướt qua khuôn mặt trầm ngâm của
Thái. Anh vừa thốt lên một từ đã khiến anh suy nghĩ rất nhiều từ sau lúc đi
chầu về. Anh là một con nợ của Chúa, nợ một món không thể trả. Thế mà Chúa đã
tha thứ cho anh tất cả. Anh hiểu được cái cảm giác bị nợ đè là thế nào, và anh
cũng cảm nhận được niềm vui thế nào khi được tha nợ. Có rất nhiều người nợ tiền
của anh nhưng anh mới chính là một kẻ mang nợ. Nhìn thấy bộ dạng ấp úng của anh
Ba, Thái đến bắt tay:
– Anh Ba, chia buồn cùng gia đình anh về những khó khăn đã gặp
trong năm nay. Chúc anh năm mới gặp được nhiều thuận lợi hơn.
Anh Ba lúng túng về những gì mình vừa nghe. Cách nói chuyện của
Thái hôm nay khác mọi khi, khác những lần mà anh đã nghe nhiều người đồn đại.
Anh Ba không biết phải mừng hay lo… Anh hỏi lại:
– Chú nói thế là sao? Tôi chưa hiểu?
Thái cầm cuốn sổ trên tay, lấy bút gạch gạch rồi đánh dấu gì đó.
– Em xóa tiền lãi cho anh. Anh cứ an tâm về nhà làm ăn đi, khi nào
có đủ số vốn thì trả cho em cũng được. Còn nếu khó khăn quá, thì anh qua đây
giúp em sửa lại mấy cái chuồng gà, xong rồi em xóa nợ cho anh luôn. Em ghi vào
sổ nợ rồi nè.
Anh Ba nhìn vào cuốn sổ. Số tiền lãi của mỗi năm đã bị gạch đi chỉ
còn lại tiền vốn. Anh mừng quá, cứ cúi đầu cảm ơn ríu rít.
– Không có gì đâu anh Ba. Có người đã tha nợ cho em, món nợ còn lớn
hơn đây nhiều. Thôi, anh về đi, về cùng gia đình đón năm mới. Cầu Chúa ban bình
an cho gia đình anh.
Anh Ba cảm ơn, chào tạm biệt rồi xỏ dép ra về… Nãy giờ Hương nép
sau tấm màn ở nhà dưới cũng đã nghe rõ những gì Thái vừa nói… Lòng rộn ràng
niềm vui, Hương bật thốt lên:
– Đúng là việc Chúa làm!
Mã số: 14-051
Con tưởng rằng con vững tin, tin vào Chúa là Cha nhân hiền.
Khi đời sống nhẹ trôi êm đềm. Những tháng ngày lặng lẽ bình yên…
Căn phòng bệnh đầu dãy hàng lang chốc chốc lại vang lên mấy câu hát.
Tiếng hát tuy nhỏ nhưng vang xa nhờ làn gió của tiết trời Lập Xuân, thu hút cái
nhìn tò mò của những người tình cờ đi ngang qua. Nó và chị ngồi bên giường, hát
thầm với nhau. Nó hát không phải để giết khoảng thời gian chết lặng ở đây, cũng
không phải để lấp đầy những khoảng không trong tâm hồn sau vết thương lòng của
nó. Nó hát vì cảm nhận được một niềm vui, biết được một tình yêu lớn lao đã
dành cho nó…
* * *
Đang mơ màng trong giấc ngủ… Có điện thoại. Một giọng nói quen
thuộc, ấp úng… Ba nó. Chắc đây là những lời khiến cho ba nó khó nói nhất:
- Má con đang nằm viện…
Những lời nghe như sấm nổ bên tai, có vị gì đăng đắng trong miệng
nó. Nhìn ba nó lúc đó, nó thấy thương vô cùng, nét mặt sầu khổ, bơ vơ, trong bộ
đồ dành riêng cho người nghèo. Nó nhìn thấy trong mắt ba, một nỗi buồn, một
chuyện kinh khủng. Nó hỏi ba:
- Ba ăn uống gì chưa?
- À… ba ăn rồi…
Con xin phép nghỉ giờ học buổi chiều được không? Con theo ba vào bệnh viện đi…
- Dạ, được…
Nó theo ba đến bệnh viện. Đi dọc qua nhiều dãy hành lang, nó đến
phòng cấp cứu với tâm trạng thấp thỏm lo sợ. Nó thầm cầu nguyện.
- Con vào với má đi.
Nó nhè nhẹ bước vào phòng. Má nó nằm ở đó, tấm vải trắng quấn lấy
hết người chỉ chừa khuôn mặt. Má đang ngủ. À không, má đang bất tỉnh. Nó nhẹ
nhàng đi ra khỏi phòng bệnh và nghe ba kể những chuyện gì đã xảy ra.
* * *
Ba má theo nghề xây dựng. Ba xây, má đi theo phụ hồ. “Làm công đôi
mới có đủ tiền trang trải đời sống”, má nói thế. Thời gian yên bình cứ thế thôi
qua. Ba má nhờ vào đồng tiền kiếm được từ nghề này mà nuôi hai anh em nó ăn học.
Nó tốt nghiệp đại học, cả nhà đều vui. Nó vào chủng viện để xin đi tu, cả nhà
càng hạnh phúc hơn nữa. Năm đó, chị nó cũng được khấn lần đầu sau sáu năm dài
dự tu. Ba má vào Phan Thiết dự lễ khấn của con. Niềm vui nối tiếp niềm vui, ba
má vui vì được dâng hai đứa con yêu của mình cho Chúa. Nó mừng vì gia đình là
động lực cho ơn gọi của nó. Nó nguyện lòng mình quyết theo Chúa đến cùng. Nó
cảm nhận được biết bao hồng ân Chúa đã ưu ái ban cho gia đình nó. Nó tin rằng
Chúa đang ở giữa gia đình nó, tin rằng Chúa tình thương đang lắng nghe lời
nguyện cầu hàng ngày của nó trong thánh lễ.
“Con tưởng rằng con vững tin, tin vào Chúa là Cha quan phòng
Khi đời sống toàn những hoa hồng, khắp đất trời là cả mùa xuân. ”
* * *
Trưa hôm đó, lúc má đang đứng trên giàn giáo, bấm máy tời để đưa
vật liệu xây dựng lên. Chuyện rủi đã xảy ra. Tấm ván nơi má đang đứng chắc cũng
không muốn gãy ra, để cho người mẹ của hai đứa con đi tu phải ngã xuống đất. Gãy
xương sống, liệt hai chân – bác sĩ chẩn đoán như thế.
- Sao má thấy đau bụng và tê chân quá!
Nghe má nói mà nó thấy nghẹn trong lòng. Đau bụng là phải rồi vì
cột sống đã gãy. Tê chân… vì chân đã bị liệt rồi. Nghe lời bác sĩ, nó khuyên má
nằm yên, không ăn, không uống, không cử động, không thuốc giảm đau. Trời tối, hai
cha con thức trực trong phòng bệnh. Suốt một đêm dài, nó lo lắng không biết
bệnh này có cứu chữa được không? Má trải qua đêm đó với những chữ ‘không’. Từng
chập, từng chập, má nó tỉnh dậy, rên đau…rên khát…rên đói… Nó nghiến răng, khẽ
nói vào tai má:
- Ngủ đi má, sáng mai sẽ ổn thôi.
Chưa bao giờ nó mong mặt trời đến như thế. Bóng đêm đầy đau khổ, tiếng
rên. Nó nhớ đến Chúa, nhớ đến Đấng Nhân Từ hàng ngày vẫn đón nhận lời cầu
nguyện của nó. Những chuyện buồn đến với nó quá nhanh. Nó không hiểu những điều
Chúa đã ‘ban’ cho nó trong ngày hôm nay. Nó phải nói lời tạ ơn Chúa như thế nào
khi đau khổ đang ở trước mặt nó. Nó thầm kêu xin Chúa:
- Lạy Chúa nhân từ, Chúa đang ở đâu?
“Nhưng khi đường đời gieo nguy khó. Bên trời ngập tràn cơn giông tố.
Con lo âu lạc bến xa bờ. con mới biết rằng con chưa vững tin.”
Mặt trời ló rạng, chỉ xua tan đi bóng đêm, đau khổ vẫn còn. Trong
giấc ngủ lim dim, nó hé mắt. Má nó vẫn nằm đó, đây là bệnh viện. Hôm nay là
ngày hôm qua kéo dài. Bác sĩ cho biết má nó sẽ được phẫu thuật. Tình cảm, lời
động viên là sức mạnh tinh thần của những người bà con, họ hàng mang đến cho
gia đình nó. Đêm qua, ba nó cũng kịp báo hung tin cho những người thân nên mới
sáng sớm đã tập trung đông đủ. Cả gia đình cùng an ủi và giúp má nó phẫu thuật
sớm. Tối đến, ba bảo nó:
- Con về chủng viện nghỉ đi. Ở đây có ba
và mọi người lo rồi.
Ba nó phải thuyết phục lắm nó mới chịu về, vì nó cũng không muốn để
mọi người thấy khuôn mặt sầu khổ của mình. Lòng nó tràn lan nỗi buồn. Đầu nó
đầy dẫy câu hỏi:
- Chúa có yêu thương nó? Có bảo vệ gia
đình nó?
Chạy dọc theo con đường ven biển Qui Nhơn, nó cảm nhận từ luồng gió
của tiết trời mùa đông thổi lạnh hết cả khuôn mặt, thổi lạnh luôn cả tâm hồn nó.
Dựng chiếc xe máy sát lề, nó đi ra bãi biển, nằm dài trên bãi cát. Trên bầu
trời đêm, nhiều đám mây đen ở mãi chân trời đang tiến đến dần, làm cho bầu trời
đã tối lại càng tối thêm. Những ngôi sao nhỏ bé chiếu tỏa những tia sáng yếu ớt,
thỉnh thoảng lại khuất ẩn phía sau những đám mây đen. Trong màn đêm lờ mờ, nó
nghe từng nhịp sóng vỗ đều đều. Mặt biển lúc này chỉ là một màn đêm trải dài. Nó
không thấy sóng nhưng nó vẫn nghe được tiếng của chúng. Chợt, nó nghĩ ra điều
gì đó, một điều mà nó đã biết, đã được học nhưng chưa bao giờ nghiệm ra. Nó
nghĩ đến Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chúa vẫn luôn ở bên nó dẫu
cho nó không nhận ra Ngài, giống như ngôi sao kia vẫn hiện diện ở đó sau lớp
mây đen dày đặc. Chúa vẫn yêu thương và che chở cho gia đình nó mỗi ngày, giống
như sóng biển ngoài kia dù trong đêm tối nhưng vẫn nghe được những nhịp vỗ đều
đều. Lúc này, nó chẳng còn thấy được tình Chúa yêu thương cách rõ ràng, nhưng
khi lắng nghe với tất cả tâm hồn, tất cả đức tin, nó cảm nhận được tình Chúa
vẫn ngày đêm ấp ủ gia đình nó. Nó nhắm mắt lại, hình ảnh ngôi sao vẫn còn đó, tiếng
sóng vẫn còn đó, đều đều theo nhịp thở, nó thiếp ngủ…
“Thì lạy Chúa, Chúa biết con yếu đuối và đổi thay.
Con luôn cần đến Chúa từng phút giây.”
* * *
Một tuần, hai tuần… rồi một tháng cũng trôi qua. Má nó được chữa
trị và phải chuyển hết bệnh viện này đến bệnh viện khác. “Chuyển viện như
chuyển trọ”, một chị y tá nói đùa với nó như thế. Gia đình nó chuyển vào một
bệnh viện ở Sài Gòn. Tết năm nay, cả gia đình đón tết ở bệnh viện. Tuy thiếu
thốn, xa quê hương nhưng nó vẫn cảm nhận được cái tết ấm cúng. Má nó tuy đã
được phẩu thuật nhưng hai chân vẫn chưa thể đi được. Thỉnh thoảng, dịch tràn
màng phổi gây nên những cơn đau nhức nhối. Sau cơn đau dài, má nó mệt quá nên
ngủ đi. Chị nó ngồi cuối giường xoa bóp chân cho má. Nó nghe chị hát thì thầm.
- Con tưởng rằng con
vững tin….
- Chị cũng thuộc bài
đó hả?
- Ừ, chị thuộc… Em
có thuộc không? Hát chung nha…
Hai chị em hát thì thầm với nhau… Ý nghĩa của bài hát giống như cảm
xúc của chị em nó lúc này. Lúc bình an, vui sướng thì ta dễ dàng cất lời tạ ơn
Chúa, nhưng khi gặp thử thách, gian truân thì niềm tin nơi Chúa cũng gặp gian
truân, thử thách. Chúa vẫn yêu thương ta, chỉ có điều có lúc thì ta nhận ra, lúc
khác thì lại không…
Hai tháng sau, trên sân khấu rực rỡ bởi ánh đèn, bởi thảm đỏ… nó
bước ra trong sự chào đón của nhiều người trong buổi văn nghệ mừng bổn mạng
chủng viện. Nó hát với cảm xúc của mình:
“…Nhờ ơn Chúa, con kiên trì tín thác kể từ đây,
khi an vui cũng
như khi sầu đầy. ”
Mã số: 14-052
Đi được một quãng đường khá xa, tôi cảm thấy nặng nề. Chiếc xe máy
bị lủng lốp không nặng bằng những cảm xúc trong lòng tôi. Mặt trời vẫn còn vương
vấn, không muốn khuất ẩn sau ngọn núi nên cố gắng vươn mình lên để tỏa chiếu
những tia nắng cuối cùng của năm cũ. Tôi dốc một hơi dài, đẩy mạnh
chiếc xe lao đi…
Hôm nay, 29 tết, nhà thờ tôi vui nhộn hơn ngày thường. Các anh chị
em tu sĩ họp mặt tất niên. Trong ánh mắt, trong nụ cười của các anh chị, tôi
nghe được tiếng hạnh phúc. Không khí vui tươi nên công việc quét dọn nhà thờ
chẳng mấy chốc đã được làm xong trong tiếng cười nói. Xa nhau lâu ngày, giờ đây tôi mới có dịp gặp
lại những con người thân thương, những người cùng chí hướng. Có tiếng vọng ra
từ nhà bếp:
- Ai làm xong rồi thì vô đây phụ
một tay nè…
Từ ngoài sân có tiếng đáp lại:
- Không thích
phụ một tay… thích phụ một miệng à…
- Hứ… đã xong
gì đâu mà đòi phụ miệng… vô đây phụ một tay nấu nướng cho lẹ nè.
Tiếng cười rộn rả dường như làm cho không khí ngày tết đến nhanh
hơn. Tiếng nhạc vang vang, đệm theo tiếng cười nói.
Công việc nấu nướng thật không đơn giản. Ngày ngày, cứ đúng giờ thì
các món ăn đã nằm gọn trên bàn trước mặt tôi. Tôi chẳng cần phải bận tâm đến việc
nấu nướng như thế nào. Tôi thầm cảm ơn những người khó nhọc lo cho tôi bữa ăn
hàng ngày. Sau một hồi bàn tán, làm việc tới tấp, chúng tôi cũng làm xong các
món ăn. Nào là món: cháo vịt, thịt bò xào sà lách, đậu que xào lòn… Tất cả đã
sẵn sàng, chỉ đợi đến tối là bữa ăn tất niên được dọn ra.
Xong việc ở nhà thờ, tôi dắt xe, nổ máy, gọi chị:
- Xong rồi… đi về chị ơi.
Chị tôi ngồi gọn gàng trên chiếc xe, đẩy nhẹ vai tôi:
- Đi thôi em!
Đi được một đoạn, chị vỗ vai tôi:
- Ấy, dừng lại
đi em…
- Có gì vậy
chị? - Tôi hạ ga và hỏi.
- Em có thấy
bà cụ kia không? Bà cụ yếu quá, làm sao mang nổi bao gạo về.
Tôi dừng xe, ngoái lại đằng sau.
- À, đó là bà cụ hồi chiều vô
nhà thờ mình xin gạo đó.
Nhưng lúc chiều, tôi thấy bà cụ chỉ đi tay không, giờ thì phải vất
vả kéo lê một bao gạo khoảng chục ký. Chắc đây là công sức của bà sau một buổi
chiều lom khom đi xin.
- Bà yếu như thế làm sao mang gạo
về nổi. Thôi, em chở bà về đi.
Nghe chị nói thế nghĩ cũng có lý. Bà đã già yếu, đi lại còn vất vả,
huống chi bây giờ lại phải mang theo cả bao gạo. Tôi quay xe lại, nói to và
chậm:
- Bà ngồi lên xe, con chở bà về.
Một chút lưỡng lự trong ánh mắt của bà, không biết bà nghe không rõ
hay đang suy nghĩ gì. Bà chậm chạp nhấc cái chân nặng nề lên xe. Tôi lại nói
to:
- Bà ngồi cho chắc nha, ôm con
thật chặt vào.
Tôi nổ máy, một tay nhấc bao gạo đặt lên xe. Sau đó, tôi nắm giữ
tay bà, chầm chậm chuyển bánh.
Bà ngồi sau chỉ đường cho tôi. Giọng bà yếu ớt nghe như chỉ là hơi
thở. Tôi phải hỏi đi hỏi lại nhiều lần mới nghe được bà nói gì. Xe mon men theo
những con đường làng. Càng đi, con đường càng nhỏ dần. Chúng tôi đang ở thôn
Lộc Thượng, phía bên kia sông. Nếu như không có ai chở bà về thì chắc phải đến
sáng mai bà mới tới nhà.
- Quẹo phải…
đến rồi.
Đến đây thì
tôi cũng biết ngôi nhà mà bà muốn chỉ. Một ngôi nhà nhỏ bằng gạch. Nó giống như
một cái chòi hơn là một ngôi nhà. Tôi giúp bà nhẹ nhàng bước xuống xe, tay xách
bao gạo, tay đỡ bà vào nhà. Ngôi nhà nằm giữa những luống rau tươi tốt nhưng
màu xanh của đám rau không làm giảm đi cái vẻ âm u của ngôi nhà. Tôi gợi chuyện
với bà:
- Bà trồng
đám rau tốt ghê đó.
- Đó là đám
rau của đứa cháu. - Tiếng bà thều thào.
- Vậy là bà ở
chung với các cháu ạ?
- Nhà tụi nó ở
bên cạnh.
Tôi nhìn sang ngôi nhà đẹp đẽ bên cạnh, phía trước có nhiều chậu
hoa mai. Những cái nụ nhỏ nhắn đang hé nở những cánh mai vàng đón năm mới. Tôi
nghĩ đến những câu chuyện buồn về người mẹ già và những đứa con: “Một mẹ nuôi nổi
mười con nhưng mười con không nuôi nổi một mẹ!”.
Tôi không hỏi
thêm bà điều gì, đẩy nhẹ cánh cửa lỏng lẻo để vào nhà. Căn nhà tối om, đầy mùi
nấm mốc. Nền đất lạnh lẽo, đầy hơi ẩm. Khi mới bước vào, tôi có cảm giác lành lạnh
sau gáy. Tôi dìu bà ngồi trên chiếc giường gần cánh cửa có trải chiếc chiếu cũ
rách. Tôi hỏi bà:
- Con để bao
gạo ở đâu hả bà?
Bà chỉ tay xuống bếp. Trong chút ánh sáng lờ mờ, căn phòng chật chội
thoáng hiện. Tôi đặt bao gạo vào một góc bếp. Tiện tay, tôi dở nắp vung của hai
cái xoong nhỏ đặt trên bếp, một xoong còn lại ít cơm nguội đã ngả vàng vì đã
thiu hay vì cháy, một xoong còn chút cá. Chắc đây là phần ăn của bà chiều nay. Những
cảnh vui tươi, nhộn nhịp ở nhà thờ biến đâu mất, tôi cũng không còn nghĩ đến bữa
tối tất niên với những món ngon đang chờ đợi. Tôi thấy hơi nghẹn ở cổ. Giữa
không khí đón tết nhộn nhịp khắp nơi, nhà bà lại vắng lặng và u buồn. Trong lúc
mọi người đang quây quần bên bàn ăn cuối năm, bếp nhà bà lạnh lẽo và tối om. Khi
nhà nhà đang hạnh phúc chào đón người thân trở về họp mặt, bà vẫn lẻ loi một
mình. Có khi nào bà nghĩ đến những bữa cơm ấm áp tình gia đình. Tôi nấn ná ở đó,
chưa muốn về. Tôi ngỏ lời:
- Bà có cần
con giúp nữa không ạ?
Không nghe thấy
tiếng bà trả lời. Có khi bà trả lời mà tôi không nghe thấy. Căn phòng lại trở
nên im lặng như trước. Cái im lặng đó khiến tôi cảm thấy khó chịu. Một sự im lặng
lấn át niềm vui, niềm hy vọng. Tôi nhìn chiếc giường bà đang ngồi. Có lẽ đây là
vật có giá trị nhất trong căn nhà chật hẹp này. Nhìn kỹ, tôi thấy chiếc giường
này không bình thường, hình như nó có cái nắp đậy lên. Tôi xin phép bà mở nắp
giường lên. Miệng nói, tay đỡ bà đứng lên. Tôi kéo mạnh chiếc nắp lên, bên
trong trống rỗng, đủ cho một người nằm. Tôi rùng mình khi nghĩ ra rằng mình vừa
mở một chiếc nắp hòm. Tôi hỏi bà:
- Cái này sao
giống cái hòm quá vậy bà?
Bà thều thào
trả lời:
- Cái hòm này
là do người ta cho... có tấm ảnh nữa... nhà chùa giữ một tấm, bà giữ một tấm.
Từ lúc bước
chân vô nhà, tôi đã thấy tấm ảnh nhưng cũng không để ý rõ. Giờ nhìn kỹ lại mới
phát hiện đó là ảnh của bà. Tôi mơ màng trong giây phút, như bị cuốn theo cái
không khí im lặng ở đây. Bà đã chuẩn bị cho cái chết: chiếc hòm, tấm ảnh, cầu lễ
ở chùa. Không, phải nói đúng hơn là mọi người đã chuẩn bị cái chết cho bà. Mọi
người đã lo cho bà chuyện hậu sự rồi đó. Cái hòm là chiếc giường của bà. Hàng
đêm bà vẫn ngủ trên đó và rồi sẽ đến một đêm bà sẽ nằm trong đó. Không biết bà
cảm thấy gì khi nghĩ đến điều đó? Sợ hãi, chấp nhận hay than trách... Bà ngồi
trên chiếc giường, mắt vẫn nhìn ra bên ngoài. Vẫn còn những tia nắng cuối năm
xuyên qua những cánh hoa mai đang hé mở nhưng tia nắng không còn đủ sáng để làm
cánh hoa hé lên nụ cười. Cảnh vật xung quanh đang chuyển sang cái không khí cô
tịch, vắng lặng như trong nhà. Không biết bà đang nghĩ gì? Đang chờ đợi điều gì?
Có phải bà nghĩ ngày mai sẽ đi xin gạo ở đâu? Gặp những người nào? Hay là bà
nghĩ ngày mai sẽ vui tết như thế nào? Bà có chờ đợi ngày mai đến không? Bà ngồi
trên chiếc giường, mắt vẫn nhìn ra bên ngoài...
- Con chào bà,
con về vì trễ rồi ạ!
Bà hơi gật gật
rồi nói câu gì đó tôi nghe không rõ. Tôi đến nắm lấy tay bà và dúi cho bà ít tiền.
Tôi đi về.
Xe chạy được
một đoạn thì lủng lốp, tôi phải xuống xe dắt bộ. Đường ra đến tiệm sửa xe còn
khá xa nhưng tôi cũng chẳng vội vàng gì. Mặt trời đã ngụp lặn phía sau núi. Qua
đêm nay, mặt trời sẽ mọc lên, tỏa chiếu những tia nắng ấm áp của ngày đầu năm. Nhưng đêm nay sẽ là một đêm
rất dài đối với tôi. Lòng tôi vẫn còn nặng trĩu về hình ảnh của một bà cụ ngồi
trên chiếc giường, mắt vẫn nhìn ra bên ngoài...
Chợt, tiếng
chuông chiều ngân lên, mời gọi mọi người tham gia giờ chầu cuối năm. Tôi dắt xe
đi về hướng nhà thờ. Lòng cảm thấy ấm hơn.
Mã số: 14-053
Tí, một đưá trẻ chưa tròn mười tuổi,
nhưng phải mang lấy một cái tang bất ngờ, người mẹ mà cậu hằng thương yêu, đã
ra đi mãi mãi. Vậy là một ngôi nhà đã mất đi tình yêu của mẹ. Người mẹ hiền dịu
luôn là sự nâng đỡ, che chở trong cuộc đời Tí thì nay đã không còn. Mặc dù sống
vơí bố được lo cho ăn học, nhưng Tí vẫn thấy buồn vì bố vẫn chứng nào tật nấy:
sớm say chiều xỉn tối nằm bừa, có khi không về nhà, để lại Tí một mình trong
căn nhà trống trải với nỗi sợ hãi, lo lắng. Hình ảnh một người đàn ông say rượu
luôn là nỗi ám ảnh trong tâm trí và cuộc đời Tí. Thay vì chấp nhận số phận và
phải nhìn người cha suốt ngày rượu chè, cậu đã đứng lên đấu tranh thoát khỏi cảnh
đau khổ của một đứa bé sống với người cha nghiện rượu. Tí quyết định tìm vị
linh mục linh hướng trong Cộng đoàn dòng Đa-minh, ở giáo xứ của mình. Đến phòng
riêng của ngài, tinh thần cậu như phấn chấn lên, tâm hồn được bình an và tấm
lòng được cởi mở, cậu đã thổ lộ với ngài tất cả. Trầm lắng một hồi lâu, vị linh
mục ôn tồn lên tiếng:
- Cha sẽ giới thiệu cho con một môi trường
mới để con có thể tiếp tục con đường học tập của con.
- Con cám ơn cha nhiều, con sẽ cố gắng.
Thưa cha con về…
- Ừ, chào con, con đi bình an.
Sau đó,Tí được linh mục đó gởi đến ở trong
ngôi nhà “nội trú” thuộc một giáo xứ cách xa ánh đèn đô thị để trau dồi học vấn,
rèn luyện đạo đức, bù đắp cho cuộc đời bị
thiệt thòi. Tí rất vui mừng và mong mỏi có thể sống tốt hơn để hướng tới tương
lai mà chính Tí đang mơ ước .
Mới đầu vào, cậu lạ lẫm với những gian
phòng rộng lớn, những quang cảnh đẹp mắt, các bạn mới, và nhất là vị linh mục
trẻ đang nở nụ cười chào đón. Nhưng rồi sau đó Tí cũng quen và thích nghi dần với
cuộc sống ở đây. Một tình yêu mới như đang nảy sinh trong lồng ngực Tí. Tình
yêu ấy đập mạnh quá! Nó làm con tim Tí như rung chuyển mạnh mẽ, vượt qua trí tưởng
tượng.Tình yêu ấy dần dần chạm vào lòng cậu để rồi mỗi ngày một lan tỏa khắp
thân xác và tâm hồn. Mỗi ngày Tí phải thức dậy lúc bốn giờ sáng. Đây cũng là điều
khó khăn cho Tí, bởi lẽ thuở bé đến giờ, Tí có bao giờ thức dậy sớm như vậy
đâu.Mỗi sáng, Tí thường chạy thể dục cùng với anh em trong nhà nội trú, sau đó
cậu được đọc kinh Mân Côi. Nhưng có lẽ đối với Tí, điều hạnh phúc hơn cả là được
tham dự thánh lễ và rước Chúa vào lòng mỗi ngày. Cuộc sống của Tí thay đổi hẳn.
Sự hạnh phúc dâng trào như đóa hoa đang nở và căng tràn sức sống. Tí hạnh phúc
lắm, cậu mở lời chúc tụng Ngài:
“Cái thiếu thốn của con là thiếu Chúa,
Cái nghèo nàn của con
là không được Chúa sai đi,
Con hạnh phúc biết bao
khi được Chúa kêu mời”.
Được sống trong một ngôi nhà đầy tình yêu thương Tí cảm thấy hạnh phúc
vô cùng, nhưng cũng đầy dẫy những cám dỗ, khó khăn thử thách đang chờ đợi cậu. Cậu
cố gắng để tiếp tục được sống với sự hạnh phúc và niềm vui. Thời gian trôi đi…
Một năm, hai năm rồi ba năm. Ba năm rồi cậu đã sống ở đây, sống trong sự hạnh
phúc, mặc dù cuộc đời đầy trắc trở. Có một chuyện làm Tí nhớ mãi: Một hôm vừa
bước vào gian phòng, thì một cú đấm bất ngờ như trời giáng vô giữa mặt Tí,và cậu
ngã xuống.Tí bất ngờ, thắc mắc lí do tại sao mình lại bị đánh. Cậu tức điên
lên, đứng bật dậy như muốn chống chọi lại. Cậu định cho thằng đó một cú đấm,
nhưng lúc đó ở đâu đâu trong tận đáy lòng Tí văng vẳng câu nói: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu
thương anh em”.Tí trấn tỉnh lại rồi hỏi người đã đánh mình:
- Lý do gì vậy ? Sao bạn lại đánh mình?
Và thật bất ngờ khi
người bạn ấy ôm chầm lấy Tí rồi nói:
- Cảm ơn cậu, cậu đã
cứu mình, cậu đã cho mình biết thế nào là tình yêu thương khi cậu không đánh
mình. Lí do mình đánh cậu là vì trước đây mình rất ghét cậu bởi thấy cậu tốt
lắm. Mình cá cược với bạn bè: Nếu cậu ra
tay đánh trả lại cú đấm thì cậu không phải là người tốt thật mà chỉ là giả hình
thôi! Giờ thì mình tin cậu thật là người tốt.
Bạn ấy nói với giọng nghẹn ngào,Tí cảm thấy
xúc động và vui mừng khi thấy bạn hiểu mình hơn nên nhắc nhớ và khuyên nhủ:
- Bạn không nhớ lời cha
dạy chúng mình không? Ngài thường nhắc: “Mỗi người các con ở đây, đều là thành
viên của một đại gia đình và hãy yêu thương nhau như anh em. Đừng bao giờ khinh
thường hay chế diễu bất cứ anh em nào trong các bạn. Hãy tập nhìn thấy ưu điểm
của các bạn mình mà chấp nhận nhau”. Vậy bạn hãy tin vào cuộc sống, biết sử xự
với nhau trong tình yêu thương theo lời Chúa dạy, bạn sẽ có được bình an và
hạnh phúc. Tí sẽ giúp bạn vì Tí đã từng ngậm đắng nuốt cay, trải qua biết bao chịu
đựng để có được được bài học này.
Câu nói của Tí làm cho
bạn mình thêm tin tưởng vào cậu hơn. Cuộc sống trở lại với sự rộn ràng như xưa…
Thấm thoắt đã sáu năm trôi qua, kể từ khi Tí được gởi đến nơi này. Giờ đây, Tí
phải chuẩn bị cho kỳ thi đại học. Cậu cũng buồn và lo lắng lắm, cậu muốn sống
mãi ở đây, sống trong sự hạnh phúc, sống trong tình yêu của bạn bè và cậu không
nỡ ra đi bỏ lại nơi này. Nơi đây đã giúp cậu sống tốt hơn, làm thay đổi con
người cậu và cậu yêu nơi này lắm. Cậu cũng nhớ cha lắm, một người nghiện rượu,
nhưng đó là người cha mà cậu hằng kính yêu. Bây giờ ông đã hết nghiện rượu, và
làm ăn lương thiện như bao người con xứ Bahnar trên đất cao nguyên này. Một lần
nữa, hạnh phúc lại đến với cậu, khi cậu đậu vào trường Đại học Luật và một vị
linh mục trẻ đã giúp cậu ăn học thành tài. Tốt nghiệp đại học, Tí làm đơn xin
vào dòng Đa-minh, bắt đầu một cuộc sống dâng hiến.
Hơn mười năm trôi qua, giờ đây Tí đã trở thành
một vị linh mục. Cậu cố gắng sống hết lòng để phục vụ, sống Lời Chúa và loan
Tin Mừng của Người cho mọi người được biết. Tí cảm thấy đó là một hồng ân mà
Thiên Chúa đã tặng cho mình. Tí luôn nghĩ rằng không phải chỉ dựa vào sự cố
gắng của riêng mình mà còn nhờ vào hồng ân của Thiên Chúa.
Mã số: 14-055
Cạch…cạch…cạch… Tiếng cái pedal va vào miếng ốp chắn sên xe. Bình
thường tôi rất lấy làm khó chịu với nó nhưng hôm nay, tôi không bận tâm đến nó
nữa. Tôi đã đậu đại học. Thằng Hiếu bạn tôi cũng đậu. Con đường từ nhà đến
trường hôm nay sao đáng yêu quá. Nhưng tôi sẽ không đến trường mà đến nhà Hiếu.
Gia đình Hiếu mời tôi cơm trưa. Cuối tuần nay, tôi và Hiếu lên đường. Hiếu và
tôi học chung lớp cả ba năm cuối trung học. Lần đầu tiên tôi gặp hắn cũng là
ngày học đầu tiên.
Bảy giờ kém mười lăm. Mặt trời ném những tia vàng ấm áp xuyên qua
lớp mây, sưởi ấm hàng cây bên đường còn đọng sương sớm. Tôi bước chân vội vã, hai
tay vịn cổ lái chiếc xe đạp mà lòng buồn man mác. Ngày học đầu năm cấp ba đã có
kỷ niệm buồn: lủng lốp xe. Mười lăm phút cho hai cây số cuốc bộ, e là không kịp.
Tôi lo sốt vó. Bỗng… “vèo”, một chiếc xe đạp vụt qua. Là hắn: dáng người cao, khỏe
mạnh, bận áo trắng học sinh. Trông hắn có vẻ cũng vội vàng. Nhưng vừa mới vượt
qua, hắn ngoảnh lại nhìn chằm chằm vào mặt tôi, đồng thời tay bóp thắng.
- Lủng xe hả bạn? Lên xe tui đi!
Tôi lúc ấy mừng quýnh như mở cờ trong bụng.
- Ờ, hihi… Cám
ơn bạn nhiều nha. Dắt bộ hơn một cây số rồi. Từ nhà tới trường 12 cây, đang đạp
ngon lành thì lủng mất tiêu. Chán cái xe cà tàng này thiệt.
- Ậy, sao lại
chán nó bạn? Ít ra nó cũng phục vụ bạn chín cây số rồi đó chớ. Trách oan nó, tội
nghiệp! Haha…
Hắn cười và tôi cũng cười theo. Tôi ấn tượng với cách suy nghĩ của
hắn.
- Mà sao bạn
đi trễ vậy?
- Ờ, tui biết
hôm nay thế nào cũng có người bị lủng lốp xe nên cố tình đi trễ xem thử là ai
đó mà. Bạn nghĩ coi, không có tui bạn trễ là cái chắc.
- Hihi… Bạn
cũng biết nói đùa đó chớ! Nói vậy tui có cảm tưởng bạn làm nghề đinh tặc!
- Haha… Bạn
còn biết nói đùa hơn tui đó…Tui tên Hiếu, bạn tên gì?
- À, tui tên
Hân.
- Tên gì giống
con gái quá vậy?
- Ơ, mẹ đặt vậy…
thì tên nó vậy chứ sao! Chứ tên thế nào mới giống con trai?
- Thêm dấu nặng
vào thành “Hận”.
Cả hai đứa tôi lại phá lên cười. Thoáng cái chúng tôi đã đến trường.
Hiếu dắt chiếc xe leo núi vào chỗ để xe, còn tôi gửi xe vô tiệm sửa trước cổng
trường. Vội quá tôi quên chào hắn và hỏi thử hắn học lớp nào.
Với đức tin hời hợt lúc ấy, tôi thấy mọi chuyện chỉ là sự tình cờ. Dù
rằng sau đó tôi thấy hắn ngồi chình ình trong lớp học của tôi, lớp 10A6. Chính
từ giây phút đó, đức tin của tôi có sự chuyển đổi, và trong tôi đã bắt đầu trổ
sinh những hình ảnh đẹp về Thiên Chúa khi tôi có Hiếu là bạn.
* * *
Tôi từ nhỏ đã chẳng biết mặt cha. “Ba bỏ mẹ đi từ ngày biết mẹ
không thể sinh thêm em bé nữa”. Mẹ trả lời tôi, hai hàng nước mắt chảy dài trên
gò má. Tôi thương mẹ. Từ sau lần ấy tôi không bao giờ hỏi mẹ nữa. Nhưng tôi
thấy ấm ức mỗi khi bị mấy đứa quậy trong xóm trêu đùa: “Con không cha là nhà
không có nóc”. Mỗi lần như thế, tôi tức lắm nhưng tôi phải nhịn, vì tôi gầy còm
hơn tụi nó. Vả lại tôi cũng không phải là đứa nhanh mồm nhanh mép.
Lâu lâu về thăm ngoại, tôi mách ngoại chuyện buồn của tôi. Ngoại rỉ
tai tôi chuyện buồn của ngoại cũng là của mẹ. Những ngày sau đám cưới, ba còn
chịu đi lễ nhà thờ. Đến khi mẹ mang thai, một mình ba đi làm kiếm tiền. Cuộc
sống cơm áo gạo tiền, cộng với việc đến nhà thờ ngày Chúa nhật cách gượng ép
theo lời mẹ nhắc nhở, ba tôi chán. Và rồi sau khi sinh tôi, mẹ không thể mang
thai được nữa, ba lấy lý do đó để ra đi. Nhưng ngoại bảo đó chỉ là cái cớ, lý
do chính là ba tôi không muốn giữ đạo nữa, ba luôn nói “đạo phiền hà”. Gia đình
nội không có đức tin vào Chúa nên ba “xù đẹp” mẹ tôi cách dễ dàng mà không phải
băn khoăn và áy náy. Vì giữ luật Chúa, mẹ tôi đành ở vậy nuôi con.
Nhà nghèo, mẹ vất vả làm thuê nuôi tôi ăn học. Tôi đã quá quen với
cảnh ở nhà một mình từ khi còn nhỏ. Tuy phải lo chuyện cơm áo gạo tiền và nuôi
tôi ăn học, nhưng chưa lần nào mẹ tôi bỏ lễ ngày Chúa nhật và đọc kinh sáng tối.
Mẹ thường bảo: “Chúa không bỏ người nghèo khổ, bất hạnh đâu con”. Nghe mẹ nói
vậy, tôi ậm ừ và với trí óc còn trẻ con lúc ấy, tôi chỉ nghĩ được rằng Chúa
đáng yêu hơn khi so sánh với ba của tôi.
Nhà xa, mẹ chở tôi tới nhà thờ bằng chiếc xe đạp cũ. Trong năm học
giáo lý, sau lễ mẹ ở lại chờ tôi học xong rồi hai mẹ con cùng về. Nhưng đó là
lúc tôi còn nhỏ. Khi tôi bắt đầu lên lớp 7, mẹ để tôi tự đạp xe đi lễ rồi học
giáo lý. Mẹ đi lễ nhất, tôi đi lễ nhì.
Cũng từ đấy, tôi cao hơn và ăn nhiều hơn. Mẹ tôi rất tâm lý, biết
tôi thích ăn đồ ăn của đồng quê nên hôm nào thấy ai có con cua, con tôm, con
tép là lại mua cho tôi. “Con phải ăn nhiều vào cho mau lớn và có sức mà học”. Buổi
tối, tôi đi ngủ sớm để sáng mai tranh thủ học bài rồi đạp xe giao rau muống và
hoa cho khách hàng giúp mẹ. Đã 3 năm nay, trừ ngày Chúa nhật ra, ngày nào tôi
cũng đi như vậy. Chiều thứ bảy, tôi chơi đá banh với mấy đứa cùng xóm. Đó là
môn yêu thích của tôi, đặc biệt là những ngày hè. Có lẽ đó là lý do mà tôi tăng
chiều cao nhanh chóng. Mẹ tôi vui nhìn thấy tôi khôn lớn.
Mẹ tôi biết tôi học được. Bằng chứng là những tờ giấy khen tôi mang
về nhà đều đặn hằng năm. Tôi thương mẹ, vì thế tôi quyết tâm học hành. Đó là
niềm hãnh diện của mẹ và là cách báo hiếu của tôi lúc bấy giờ. Nhưng tôi chỉ
đạt học sinh giỏi ở trường, còn kết quả giáo lý của tôi thì không cao. Mẹ tôi
chưa bao giờ thắc mắc về điều đó. Có lẽ mẹ đã đoán được lý do của tôi. Nhiều
lần, tôi nghe người ta đến nhà chơi thăm mẹ, nói gần nói xa sao mẹ tôi không đi
bước nữa, ở vậy một mình mà không buồn sao? Lần nào cũng vậy, mẹ chỉ cười trả
lời rằng: “Hai mẹ con sống vậy là vui rồi”. Nhưng qua những bài giáo lý, tôi
biết mẹ tôi không làm vậy vì phải sống Đạo. Theo luật, hoặc ba tôi – hiện đang
sống bên gia đình mới với 3 đứa con - quay về với mẹ con tôi, hoặc mẹ phải ở
vậy khi nào ba tôi vẫn còn sống. Hiểu mẹ, thương mẹ, tôi cảm thấy Đạo khắt khe
quá và dĩ nhiên, tôi thấy Chúa cũng không dễ thương như mẹ tôi thường nói. Thêm
nữa, có vài điều luật, đôi câu chuyện trong Kinh thánh mà lúc ấy tôi nghe sao
chỉ thấy ngược và trái với suy nghĩ của mình. Thực ra, cảm giác của tôi không
hẳn là ghét Đạo, mà như thể Đạo là nguyên nhân gây nên nổi buồn của gia đình
tôi. Cũng không phải tôi chỉ toàn nhìn thấy ở Đạo những điều trái suy nghĩ. Tôi
đã chịu ba bí tích khai tâm Kitô giáo, nhưng tôi vẫn chưa thực sự được đánh
động. Tôi chưa hiểu được Chúa của mẹ nhiều. “Sau này lớn lên con sẽ hiểu”, mẹ
tôi an ủi khi thấy tôi thắc mắc. Đôi khi, tôi tự an ủi mình có thể Ngài chưa
soi sáng, mở lòng mở trí cho tôi. Lòng tôi còn mù tối.
* * *
Sau lần gặp đó, Hiếu và tôi hay chơi chung và nói chuyện với nhau. Cả
hai có những điểm tương đồng như vóc dáng xem xem nhau, thích chơi đá banh, thích
học môn toán, dốt đặc môn văn, nhất là thích khen cho nhau nghe. Trên sân bóng,
Hiếu là một “cái chân đáng nể”. Trong lớp học, hắn là đứa thông minh. Cách hắn
đáp lại sự ái mộ của mọi người khiến tôi phải nhận ra ở hắn một nét gì đó đặc
biệt đáng quý. Và tôi nhanh chóng khám phá ra lời giải đáp cho thắc mắc của
mình. Điểm khác biệt đó của Hiếu lại góp thêm một điểm tương đồng nữa giữa hắn
với tôi: cùng là người Công giáo.
Từ khi hai đứa chơi thân, Hiếu hay mời tôi đến nhà chơi. Qua lời
giới thiệu, tôi được gia đình Hiếu quan tâm và yêu mến vì ba lý do: bạn thân
học cùng lớp, hiền lành và có đạo Công giáo. Qua những lần thăm nhà ấy, tôi
được biết thêm nhiều điều thú vị về Hiếu. Có lẽ, chính những điều ấy đã góp phần
làm nên người bạn Hiếu đặc biệt trong mắt tôi và mọi người.
Bà và mẹ của Hiếu thay nhau kể tôi nghe. Hiếu từ nhỏ đã là đứa hiếu động. Điều đó
ai cũng công nhận. Từ lúc còn ẵm trên tay, bà Nội Hiếu đã nói tiên tri: “Thằng
này lớn lên khó ngồi yên một chỗ!”. Mẹ Hiếu từ nhỏ đã để ý hắn ở cái điểm ấy. Cô
dạy dỗ, uốn nắn từng chút để không vì cái tính ấy mà hắn trở thành đứa “hư bột
hư đường” – câu cửa miệng của người bố vẫn hay dành cho hắn mỗi khi hắn nghịch.
Ông nội thì áp dụng phương pháp cổ điển để răn đe: “Mày mà lì là ông bắt đem
qua ông Cố, ông Cố đánh cho mấy roi”. Nhà Hiếu ở sát nhà thờ. Có lẽ người Hiếu
sợ nhất xóm chính là ông Cố - Cha Sở giáo xứ. Hiếu đã từng thấy ông Cố cầm roi
quất cho hai anh lớp 5 mấy cái vì tội đánh lộn trong nhà thờ. Hiếu không bị
đánh, nhưng thấy hai anh lớn mặt nhăn như khỉ, miệng mếu máo, lại còn nước mắt
nước mũi tèm lem nên nó cũng đâm hoảng. Nó cảm nhận được sự ghê gớm của cái roi
mà ông Cố đang nhịp. Từ đó nó sợ ông Cố.
Đe thì đe vậy nhưng ai cũng thương Hiếu.
Hiếu là cháu đích tôn, lại khỏe mạnh bụ bẩm từ khi mới lọt lòng nên ai cũng
thích nựng. Biết tính Hiếu như thế, nhưng mỗi khi thấy cậu bị la hay bị phạt
thì người khác lại thương. Đã vậy, Hiếu còn có cái đặc điểm dễ ghét nữa là hay
nhe răng cười, thấy ai làm gì cũng chun đầu vô hỏi. Câu hỏi có công thức là
“A/B/C/D… đang làm dì dị (gì vậy)?”,
được phát âm rất là trẻ con. Vừa hỏi, hắn vừa cố mở con mắt ti hí tỏ lộ sự ngạc
nhiên khiến người ta không khỏi bật cười. Nụ cười hiện rõ sự yêu thương. Và cái
hồn nhiên trời ban ấy đem lại cho Hiếu khối chiến lợi phẩm mà trẻ con đứa nào
cũng thích: kẹo sữa, kẹo dừa, bánh ngọt, trái cây, đồ chơi, cuốn vở, cây viết…
Riêng quà từ ông Cố thì mang đậm nét nhà tu hành: hình các thánh.
Hiếu được tặng nhiều quà như thế vì những
lý do nêu trên. Nhưng đó là khi Hiếu ở nhà hay khi sang nhà bà con lối xóm. Còn
lý do được nhận quà từ ông Cố thì không hoàn toàn như vậy. Lý do chính là bởi
vì Hiếu siêng năng đi lễ. Ông Cố có đặc điểm rất thích trẻ con, nhất là đứa nào
siêng năng đi nhà thờ. Hằng ngày cứ lễ sáng xong, ông lại gọi đám trẻ vô cho
quà. Hôm thì kẹo, hôm thì bánh, riết rồi quen. Lâu lâu có lễ hội gì lớn, ông tặng
cho mỗi đứa một Tràng Hạt, dặn về nhà lần chuỗi mỗi ngày. Ông kiểm tra, đứa nào
làm biếng là ông phạt. Đứa thì “dạ”, đứa thì “vâng”, chỉ có mỗi thằng Hiếu
nhanh nhảu đoảng, nó phang một câu xanh rờn: “Ông Cố ơi, lỡ sau này ông Cố già,
ông Cố chết rồi thì ai kiểm tra tụi con?”. Câu nói ngây thơ của nó làm mấy đứa
nhóc con ôm bụng cười nhe răng sún. Còn ông Cố thì lấy một tay bẹo má, một tay
nhéo tai nó, vừa cười vừa bảo: “Cái thằng nói thiên tinh thiên địa không à!”. Cả
bọn thấy chữ “à” của ông Cố sao mà dài quá chừng, kèm theo là động tác kéo tai
lên cao. Thằng Hiếu cũng xài chữ “a” nhưng bỏ dấu sắc, vừa kéo tay ông Cố xuống
nó vừa nhanh miệng: “Á á á, ông Cố ơi, ông Cố ơi, con không muốn tăng chiều cao
trước tuổi đâu!”. Rồi cũng từ lần đó, ông Cố chọn Hiếu vô đội giúp lễ. Khi đó, hắn
mới học lớp 5.
Thoáng cái, Hiếu đã vào ban lễ sinh được
hơn 5 năm. Sự siêng năng bao giờ cũng được đền đáp. Thằng Hiếu đỗ cấp ba một
cách dễ dàng với điểm khá cao. Ông Cố thưởng nóng cho hắn chiếc xe đạp leo núi
mà tôi đã có dịp đi ké. Tôi cảm nhận được niềm vui mà bà và mẹ Hiếu đặt trong từng
lời kể. Niềm vui đó chất chứa sự sung sướng của những người lớn khi nhìn thấy
những điều tốt đẹp mà con trẻ đã làm vì biết vâng lời. Niềm vui đó còn ánh lên
niềm hy vọng và tin tưởng rằng con trẻ sẽ có một tương lai tốt đẹp nếu vẫn duy
trì những thói quen ấy cách kiên nhẫn từng ngày, bởi đã biết đặt niềm cậy trông
vào Thiên Chúa. Và tự dưng, ánh mắt tôi và mọi người đều hướng về Hiếu, những
ánh mắt trìu mến và yêu thương. Còn hắn thì chỉ cười, tìm hoài mà không thấy con
mắt đâu!
Trước khi tôi được nghe về chuyện của Hiếu,
hắn đã nhiều lần lắng nghe tôi kể về chuyện của tôi, một gia đình chỉ có hai mẹ
con. Tôi ít khi nào kể với ai về điều này nhưng với Hiếu thì khác, hắn có khả
năng làm cho tôi muốn bộc bạch nổi lòng mình ra, và chính hắn là người sẽ lắng
nghe và thấu hiểu. Tôi tin vào ánh mắt của hắn nên đôi khi, tôi kể hắn nghe về
sự thiếu hụt niềm tin cũng như lòng mến đạo và mến Chúa của mình. Hắn đã chia sẻ
với tôi những điều hắn cảm nhận là nguyên nhân khiến tôi rơi vào tâm trạng ấy,
cũng như tôi đã hiểu được những gì Chúa đã dùng để hắn là Hiếu – bạn của tôi
hôm nay.
* *
*
Ba năm đã
trôi qua. Trong suốt thời gian ba năm học ấy, con đường dẫn đến nhà Hiếu chạy
băng qua nhà thờ (thật ra là hai đứa tôi đi tắt) tôi đã quá quen. Cũng như mẹ
tôi đã quý mến Hiếu thế nào thì gia đình cậu ấy cũng thương yêu tôi như vậy. Về
phần tôi, tôi đã đặt Chúa là chóp đỉnh của cuộc sống và đó quả là một thành
công lớn của tôi. Và với tôi, Hiếu chính là một món quà Chúa gửi đến để biến đổi
tôi, để tôi khám phá được tình thương của Người. Tôi cảm ơn Hiếu, một người bạn
đáng quý. Tôi nhớ gia đình Hiếu với những thành viên nâng đỡ đức tin của hai đứa
tôi. Và bỗng chốc, tôi muốn gọi mẹ ơi, vì đã cảm được những điều mẹ từng nói, những
gì mẹ nhẫn nại đợi chờ cùng những lời nguyện cầu thầm lặng. Và tôi nhận ra, bấy
lâu nay tôi chỉ là một kẻ khù khờ của Chúa. Một kẻ khờ đã được biến đổi nhờ
tình thương.
Mã số: 14-056
Năm nay thời tiết xứ Huế khác hẳn so với mọi năm. Những cơn mưa xối
xả và những trận bão kinh hoàng dường như rủ nhau đến sớm. Chỉ mới cuối tháng
chín dương lịch mà đã hai, ba trận bão ồ ạt kéo về, cướp đi bao nhiêu mạng
người, và gây khốn đốn cho bao nhiêu người khác. Đêm nay bão lại đổ về. Đường
phố Cố Đô càng trở nên yên tĩnh. Xe cộ không còn qua lại tấp nập như mọi hôm. Những
con đường vốn dập dìu người, tối nay đã ngủ im lìm từ lâu. Xa xa văng vẳng
tiếng ếch nhái kêu inh ỏi, cơ hồ chúng thích thú lắm với những vũng nước lớn
sau mưa.
Trong nhà nguyện chủng viện mọi cửa lớn, nhỏ đều đóng chặt. Thỉnh
thoảng gió lách vào các khe cửa làm An lạnh buốt, run lên cầm cập. Giờ kinh tối
vừa xong. Lớp An được cha đồng hành giúp dọn gẫm cho giờ cầu nguyện sáng mai. Suốt
cả buổi kinh tối và giờ dọn gẫm, An không tài nào tập trung được. An cứ thấp
thỏm, linh tính như sắp có chuyện gì xảy ra với mình. Bước lên phòng, An đang
loay hoay cởi chiếc áo pun mỏng manh vì những sợi vải đã bị ăn mòn theo năm
tháng, chợt cảm thấy có một bàn tay đặt lên vai mình.
- Mày có thư này, hồi nãy anh trưởng đoàn tìm mày nhưng không thấy.
Anh ấy nhờ tao chuyển cho mày.
Giọng ỏn ẻn như giọng con gái của Tú khiến An giật mình. An nhìn Tú
với ánh mắt ngạc nhiên, và tự hỏi không biết thư ai gởi cho mình đây, mình mới
vào chủng viện vỏn vẹn chỉ có ba tuần mà ai đã gởi thư thế này.
- Chà! Vào chủng viện rồi mà có em nào gởi thư vậy ta? Ước gì mình
được như anh ấy! - Câu nói đùa của Việt, người Đăk Lăk gốc Hà Tĩnh, học ở Sài
Gòn, giờ tu ở Huế. Giọng Việt pha nhiều vùng miền nên khó nghe vô cùng.
- Em với chả út! - Giọng An đanh lại, vẻ bực bội. Bình thường An
rất vui vẻ, hiền lành, nhưng sao bữa nay hắn dễ quạu thế nhỉ. Việt thầm nghĩ và
im bặt, ngồi phịch xuống bàn học.
Mưa ngoài trời vẫn rả rích, như hòa nhịp với nỗi bồn chồn, lo lắng
trong lòng. An vội bóc phong thư.
“An! Con ơi, mẹ biết con ao ước trở thành linh mục. Mẹ rất mừng và
tự hào về con. Mẹ ủng hộ con. Nhưng bố con thì… Kể từ ngày con vào chủng viện
không khi nào mẹ được sống yên ổn với ông ấy. Hết la mắng chửi rủa thì đập nhà
phá cửa. Bao nhiêu khổ cực, ngậm đắng nuốt cay để con đi tu mẹ cũng chịu được… ”
Đọc đến đây, nước mắt An chực trào ra. An thương nhớ mẹ, rồi nghẹn
ngào đọc tiếp.
“Nhưng con ơi, nếu con không về bố con sẽ chết. Cách đây hai hôm, vì
bực tức con ông ấy định uống thuốc tự tử. Mẹ và hàng xóm phải cố lắm mới can
ngăn được ông ấy… ”
- Lạy Chúa! Con phải làm gì bây giờ? - Tiếng An thầm thì não
nề. Hai hàng nước mắt chảy dài, An nắm chặt lấy thành ghế, lặng lẽ nhìn ra bầu
trời đêm.
An sinh ra và lớn lên tại miền Tây sông nước. Ông Tấn, bố An, là
người ngoại đạo. Bà Lan, mẹ An là đạo dòng chính cống. Hai người lấy nhau nhưng
đạo ai nấy giữ. Nhiều lần bà Lan khuyên chồng đi nhà thờ. Nhưng ông nhất quyết
không chịu theo. Ông cho rằng Chúa có đâu mà theo, vả lại đạo Chúa quá nhiều
lề luật khắt khe. Thế là những đứa con hai ông bà sinh ra, ông Tấn đều không
cho theo đạo. Chỉ có mình An, con đầu lòng, được sinh ra ở bên nhà ngoại, vì
vậy An được rửa tội mà ông Tấn không hề hay biết. Ba đứa con gái sau này chẳng
có đứa nào được phép bước đến nhà thờ. Chỉ có An lén đi theo mẹ. Thời gian trôi
qua, An lớn lên học hết phổ thông và thi đậu vào một trường đại học ở Sài Gòn. Dù
nhà nghèo nhưng An học rất giỏi, luôn là sinh viên xuất sắc của khoa. Suốt thời
gian sinh sống và học tập tại Sài Gòn, An phải tự mình xoay xở tiền ăn lẫn tiền
học. An nhiệt tình tham gia nhiều sinh hoạt ở giáo xứ mà mình cư trú: giáo lý, ca
đoàn, giới trẻ… Nơi đây, An đã quen biết nhiều nữ tu và nhiều linh mục, đặc
biệt là các cha Dòng Chúa Cứu Thế. Hình ảnh các cha đã gây ấn tượng trong An. An
bắt đầu yêu thích và tìm hiểu ơn gọi dâng hiến. Học xong đại học, với lòng mộ
đạo sâu sắc và với sự hướng dẫn tận tình của các cha, An xin gia nhập nhóm dự
tu giáo phận Kontum. An nghĩ đây là cánh đồng truyền giáo đang cần sự dấn thân
của những con người trẻ như mình.
Khi lần đầu tiên biết tin An muốn làm linh mục, chân tay ông Tấn
bủn rủn, đầu óc ông quay cuồng, mặt ông đỏ rực, cơn giận sôi lên sùng sục đến
nỗi ông suýt ngã quỵ phải bám lấy cạnh bàn. Trong dòng họ, ông là con trai
trưởng, và An là đích tôn. Vì thế, ông Tấn dứt khoát không cho An vào chủng
viện.
- Có Chúa đâu mà mày đi tu? Chỉ cho tao thấy Chúa của mày đi! - Ông
Tấn giận dữ quát.
An đứng kề bên cái túi xách cũ rách, bên trong chứa đầy quần áo và
các vật dụng cần thiết cho chuyến ra đi của mình.
- Bố à! Làm sao con có thể chỉ cho bố thấy Chúa trong khi bố quyết
không tin Ngài.
- Cái gì mắt tao thấy thì tao mới tin, cái gì mắt tao không thấy
thì tao không tin. - Ông Tấn nói, vẻ mặt ông hằn lên sự cương quyết.
- Bố có thương anh em con không? Bố có yêu mẹ không?
Ông Tấn nhìn lảng ra giàn mướp đắng chỉ còn thưa thớt những trái èo
ọt cuối mùa. Tiếng chó sủa, bóng ai đó lấp ló trước dậu dâm bụt. An nhìn bố
mình, tha thiết nói:
- Con biết, bố rất thương anh em chúng con, bố yêu mẹ vô vàn. Nhưng
tình thương yêu ấy, bố có thấy được không? Thế bố có tin không?
Ông Tấn không nói gì. Bà Lan đứng núp sau bức vách, nước mắt đầm
đìa. Bà vội chạy lại, một tay ôm chặt lấy An, tay kia quệt những giọt nước mắt.
- Con đi bình an, khi nào ra tới Huế điện về cho mẹ hay.
An bước ra đến sân. Bỗng nhiên có những âm thanh hỗn độn trong nhà,
nghe như sắp động đất. Tiếng bát đĩa rơi lẻng kẻng chen lẫn với tiếng đập bàn
đạp ghế. Mọi thứ trong nhà, ông Tấn hất tung tóe.
- Thằng con khốn nạn! - Ông gào lên.
Mặc cho ông Tấn la lối om sòm như muốn khuấy động cả khu xóm, An
vẫn lẳng lặng ra đi. Mấy đứa em gái An khóc òa. Chúng chạy ra đầu ngõ nhìn theo
bóng anh trai rời đi xa dần và mất hút.
Đồng hồ điểm 1 giờ 30. Toàn chủng viện đã ngập trong giấc ngủ từ
lâu. An không sao ngủ được, cứ ngồi lên rồi lại nằm xuống, trằn trọc. Tiếng
ngáy của ai đó trong phòng thỉnh thoảng hòa chung với tiếng gà gáy khuya eo óc.
- An! Sao mặt em như mất ‘sổ gạo’ vậy? - Nhìn vẻ mặt thâm quầng vì
mất ngủ của An, Niên vừa bước ra khỏi phòng điểm tâm đã vui vẻ đùa.
- Chắc em phải về thôi anh Niên ơi!
- Chú mày, mới vào chưa gì đã muốn về. Chắc bố chú mày lại dở chứng
gì nữa phải không?
Niên là người đồng hương với An, nhập địa phận Kontum nhưng lớn hơn
An ba lớp. Vì cùng quê nên Niên biết khá rõ chuyện gia đình của An.
- Nếu em không về bố em sẽ chết. Em phải làm gì bây giờ anh Niên?
Tu như thế này thì khổ sở quá! - An nói, giọng chùng xuống thật buồn.
- Từ từ rồi tính An ạ! Em đã xin cha linh hướng chưa?
- Dạ chưa.
- Em định xin cha nào? Tình hình này em nên xin cha linh hướng sớm
đi. Rồi bàn với ngài xem sao.
- Dạ em định xin cha Quân. Chiều nay em sẽ lên gặp ngài.
Cha Quân năm nay đã ngoài lục tuần. Ngài có khuôn mặt phúc hậu, thánh
thiện, lại rất dễ gần gũi. Vì thế ngay từ những ngày đầu sống ở chủng viện, An đã
bắt đầu để ý đến cha.
Chiều đến, An đứng thập thò chỗ cửa phòng cha Quân. Bên ngoài gió
hây hây lạnh. Trời vẫn mưa lác đác.
- Cốc! Cốc! Cốc!
- Ai đó?
- Dạ con, An lớp Tu Đức.
Cha Quân mở cửa, gió lùa vào se lạnh.
- Có chuyện gì thế con?
Bước vào phòng, hai tay An nắm chặt vạt áo, mắt nhìn vị linh mục, rụt
rè trả lời:
- Dạ…dạ… Cho con xin cha làm cha linh hướng.
- Con suy nghĩ kỹ chưa? - Cha Quân nhìn An vừa cười vừa hỏi. An im
lặng. Cha Quân nói tiếp:
- Được rồi, cha đồng ý.
Bên ngoài, mây đen xám xịt sà xuống kín cả bầu trời. Một cơn gió
mạnh ào vào phòng qua khung cửa, thổi bay hết những giấy tờ trên bàn cha Quân. An
vội vã nhặt lại cho cha, rồi nhỏ nhẹ nói:
- Thưa cha, con có chuyện muốn nói với cha.
- Con cứ nói.
- Thưa cha, con đi tu nhưng bố con không đồng ý. Bố con là người
ngoại đạo. Bố con bảo: con đi tu bố con sẽ chết.
An kể lại mọi chuyện. Nghe xong, cha Quân im lặng một hồi lâu. Ký
ức của mấy mươi năm về trước hiện lên trong cha. Cách đây khoảng bốn mươi năm, cha
cũng lâm vào tình huống éo le như chàng trai này. Cha thầm nghĩ, mấy chục năm
nay mình mới gặp chuyện giống như mình năm xưa. Với sự hiểu biết và kinh nghiệm,
cha Quân ân cần chia sẻ và khích lệ An.
- Con nhớ lựa lời nói cho khôn khéo nhé! Rồi có gì báo cho cha biết
nghe. - Cha Quân vừa nói vừa vỗ nhẹ vào vai An.
Trời đã ngớt mưa. Những đám mây đen tan biến dần về phía chân trời
xa. Có tiếng chim ríu rít gọi nhau về tổ. An thoáng cảm nhận một niềm vui không
tên, cầu mong sao điều mình sắp làm theo gợi ý của cha Quân sẽ đem lại một kết
cục có hậu.
Đêm đã xuống, cả chủng viện chìm trong sự yên lặng của giờ
‘đại tĩnh thời’. Đâu đó từ ngoài xóm, nghe thoang thoảng tiếng rao hàng của bà
bán bánh giò. An miệt mài biên thư cho bố:
“Bố kính yêu! Thời gian vừa qua con đã làm cho bố đau khổ nhiều. Bố
ơi! Có người bố nào mà không mong muốn cho con mình tìm được hạnh phúc. Nay con
đã tìm ra được lý tưởng mang lại hạnh phúc cho đời con. Không lẽ bố đành đoạn
cắt đi hạnh phúc của con. Con tin bố không nỡ lòng nào đối xử với con như thế. Con
có làm gì nên tội đâu bố? Con mong bố hiểu và ủng hộ lựa chọn của
con…”
Phải gần một tuần sau thư mới đến tay ông Tấn. Đọc những dòng chữ
của con trai, ông Tấn chột dạ, có chút xót xa. Những cơn giận sôi sục khi nghĩ
đến thằng con trai không còn bùng lên trong ông nữa. Ông lặng nhìn ngọn đèn leo
lét đang tí tách, bập bùng, như muốn nói điều gì đó với mình. Ngoài trời tối
đen như mực. Gió rì rào. Vài con đom đóm lập lòe trước cửa. Ông buông tiếng thở
dài, rồi lăn kềnh ra chiếc giường ọp ẹp nằm vắt tay lên trán tư lự. Một lát sau,
ông vùng dậy phì phèo điếu thuốc rồi hỏi bà Lan:
- Bà này, thế thằng An khi nào nó mặc áo… áo… gì đấy?
- Áo dòng. Cuối tháng mười. - Bà Lan đang lu bu dưới bếp, nghe ông
Tấn hỏi, bà nhanh nhẩu trả lời.
Một tháng trôi qua kể từ ngày An gởi thư cho gia đình. An hy vọng
không có chuyện gì xảy ra. Đã đến ngày chủng viện bước vào đợt tĩnh tâm năm. An
yên tâm tiếp tục suy nghĩ và cầu nguyện về ơn gọi của mình. Thánh lễ trao tu
phục cho anh em lớp Tu Đức diễn ra vào cuối kỳ tĩnh tâm. Thánh lễ được cử hành
trong bầu khí trang nghiêm, long trọng, do Đức Tổng Giám Mục Huế chủ tế cùng
với quý cha trong Đại chủng viện.
“Từ
đó, vâng từ đó, Chúa đã gọi con…”. Bài thánh ca vang lên du dương, chan
chứa tâm tình khi vị Giám mục trao tu phục cho anh em. Bỗng nhiên, An thoắt
trông thấy dáng ai như bố mình thấp thoáng phía cuối nguyện đường. Vâng, từ
phía cuối nguyện đường, ông Tấn đang nhìn chằm chằm con trai mình khoác lên
người chiếc áo chùng thâm. Bà Lan hạnh phúc trong nhạt nhòa nước mắt.
Sáng hôm ấy, trời quang đãng khác thường. Sau nhiều ngày mưa dầm, mặt
trời bắt đầu ló dạng. Cỏ cây khát nắng say sưa ngâm mình trong ánh nắng ban mai.
Ánh nắng lung linh nhảy múa vui đùa với những chùm hoa phượng trái mùa đang
cười khúc khích. Bước ra khỏi nhà nguyện, cha Quân tủm tỉm cười khi trông thấy
gia đình An hí hửng ghi hình lưu niệm chỗ Diễm Tụ đài, dưới chân Đức Mẹ.
Hai tháng sau, An được tin bố và ba cô em gái đón nhận hồng ân đức
tin. An tràn ngập niềm vui như chưa bao giờ. “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì biết
bao điều kỳ diệu Chúa đã ban tặng cho con.” - An thầm thĩ nguyện cầu.
Mã số: 14-057
Cơn gió bấc đầu mùa đang nổi rộ lên khép lại mùa thu vàng màu lá. Không
gian vẫn lấp lửng chìm trong một màn sương trắng được phun đầy nền trời. Lạnh! Lại
một mùa đông nữa… Hạ Du đặt chiếc cặp da xuống đất cạnh bên chân, thả người
trên chiếc băng dài còn bay phảng phất mùi sơn mới, đợi chuyến xe buýt. Dẫu
buốt giá khốc liệt, dòng người vẫn ùa ra đường tấp nập như mọi ngày. Du lấy đôi
bông bịt kín tai mình ra thay cho chiếc earphone hàng ngày. Chỉ giữ ấm thôi, Du
vẫn nghe được hết hơi thở và thanh âm của đất trời. Cô lấy tay siết chặt lại
chiếc khăn choàng cổ lông cừu đã tuột ra từ lúc nào không hay. Không giống như
mọi khi, hôm nay, cô gái trẻ đến sớm hơn, ngồi đó và chỉ thực hiện một việc đơn
giản, đó là: Quan sát nhịp sống sôi động nơi phố xá hào nhoáng, đầy xa xỉ này, mặc
dù đã không còn xa lạ gì với cuộc sống nơi đây, kể từ cái ngày mà gia đình cô
có những ngã rẽ mới…
Con phố dài ủ lấy trong lòng mình đủ loại phương tiện đi lại,
từ xe con hạng thường cho đến hạng thượng lưu. Buổi sáng là thế, chẳng khó gì
để thấy những chiếc xe đạp băng trên vỉa hè. Ở thành thị, đạp xe cũng là một
cách vận động rất tốt cho sức khỏe. Chốc chốc, những chiếc xe máy phóng vụt qua
trước mắt, cũng đủ để Du đọc ra sự hối hả, lo lắng hiện rõ trên khuôn mặt của
những người làm việc công sở đang sợ trễ giờ. Kẻ khác thì thư thả, cười nói huyên
thuyên. Vài ba đôi tình nhân trẻ, nắm chặt tay nhau, ung dung rảo bước khắp phố,
cặp kia thì ôm siết nhau để sưởi ấm cho nhau. Du cười thầm, khẽ lắc đầu lia lịa,
rồi cúi gằm đầu xuống đất. Phần người già thì tập thể dục theo điệu nhạc erobic,
con nít thì í óe đùa giỡn khắp công viên. Du định lấy cuốn tiểu thuyết “Không
gia đình” của Hector Malot ra để ngấu nghiến hai ba chương cuối nữa.
Bất chợt, một tiếng rao đã đập vào tai Du:
- Chú ơi, chú có muốn đánh giày không ạ? - Cậu bé gầy còm, trạc
chừng chin mười tuổi, mời một anh ngồi cạnh cô. Anh ấy rất lịch lãm, trông tác
phong đàng hoàng. Thế nhưng, đáp lại sự thiện ý đó, chỉ là câu nói dửng dưng, vô
tình.
- Không, tao không có tiền để đánh giày, nhóc con biến đi! - Hắn
chỉ chăm chăm vào chiếc máy tính mà không thèm ngước nhìn cậu bé lấy một lần.
Cậu bé cười nhẹ, cúi đầu chào, và đi chào mời từng người một nơi
đó. Cậu không u buồn, chắc có lẽ đã chai sạn với những lời miệt thị như vậy rồi.
Thế rồi, may thay…
- Cháu bé ơi, đánh giúp bà một đôi nhé!
- Dạ, cháu đến ngay. - Cậu nhanh nhảu đáp.
Một người đàn bà tần tảo, mái tóc bạc trắng, quần áo lùi sùi. Du để
ý thấy thế. Cô dõi theo… Cụ đưa cho cậu đôi giày cũ rích, mòn rách da.
- Ôi, bà à, giày thế này bà đánh làm chi nữa hở bà? - Cậu ngạc
nhiên, trố đôi mắt tinh anh nhìn bà cụ.
Bà cười nhẹ, nói:
- Cháu cứ giúp bà đi nhé!
- Dạ, nếu bà muốn thì cháu sẽ đánh ạ.
Cậu bé trưng dụng đồ nghề ra, dùng khăn lau sạch giày để chuẩn bị
đánh. Với cái nhìn cảm thông, cụ mở lời:
- Tội nghiệp cháu, còn bé thế đã phải cơ cực mưu sinh rồi. Ai làm
cha làm mẹ thấy con cái thế này mà không đứt ruột! Ba mẹ chắc nhọc tâm lắm?
Thẫm buồn, đôi tay gầy guộc bắt đầu run run, cậu bé vẫn cười, một
nụ cười hằn sâu từ trong nội tâm những điều bí ẩn, cậu trả lời:
- Dạ, cháu không còn gia đình nữa. Từ khi cháu lên năm, ba cháu mất.
Hai năm sau, mẹ cháu lâm bệnh cũng bỏ cháu mà đi luôn. Họ hàng đem cháu vào
trại trẻ mồ côi. Cuộc sống trong đó, người ta cứ nghĩ là sung sướng, nhưng vô
tình những đứa trẻ không có nơi gối đầu như chúng cháu lại trở thành công cụ để
họ lợi dụng kiếm tiền. Chúng cháu tủi thêm tủi. Mỗi đứa mỗi cảnh, nhưng tựu
trung lại chỉ vì không, không… có ba mẹ. Vì vậy, chúng cháu trốn ra ngoài, để
tự sinh nhai.
Dường như bà nghe được cái gì đó ứ nghẹn khi mà cậu nhắc đến hai
tiếng ‘ba mẹ’. Bà lặng người đi, không nói gì, chỉ xoa nhẹ đầu cậu. Du phát hiện
ra, hàng mi của bà ươn ướt, nhưng chắc bà cố kiềm nén. Tự nhiên, có cái gì đó
rơi ra từ trong túi của cậu bé, bà cụ nhặt lên. Và đó là một cây Thánh Giá nhỏ
bằng gỗ quệt sơn bóng. Bà cụ bất ngờ hỏi cậu bé:
- Cháu theo đạo Công giáo sao?
- Dạ không ạ. Cháu mến đạo nhưng chưa có điều kiện để được Rửa Tội.
Cháu chỉ mới biết đến Thiên Chúa trong vài ba tháng trước thôi bà. Bà có theo
đạo không? - Cậu ngây thơ hỏi.
- Ừm cháu, bà là người Kitô hữu, nhóc con à!
Cậu bé nhảy cẫng lên cách vui sướng quá độ. Cậu chẳng để tâm đến
hàng chục con mắt săm soi, tò mò chỉa về phía cậu.
- Bà ơi, Chúa cho con gặp được bà để được học hỏi thêm về Người rồi
đó bà nhỉ? …hehe… Cháu thích được nghe giảng đạo lắm bà ơi!
- Trời, cháu ngồi xuống, ai cũng thấy cháu lạ đời mà dòm cháu kìa.
Cậu bỏ qua mọi thứ xung quanh, thể như cậu lại bắt gặp được một mối
thân tình mà lâu nay cậu đã đánh mất, cậu tìm thấy một người đồng cảm chung một
con đường tâm linh. Cậu bé mừng tít đáp:
- Dạ, cháu vâng lời ngay. - Cậu ngồi phịch xuống đất - Cháu kể bà
nghe nha… Cháu biết Chúa Giêsu không lâu từ một người bạn trong trại trẻ. Khi
cháu tuyệt vọng, nó đã giới thiệu cho cháu biết đến Người. Nó chỉ cháu cách cầu
nguyện, tâm sự, chia sẻ với Chúa. Và… khi cháu đã tìm thấy một luồng hơi thở
mới, cháu cảm thấy tâm hồn mình được yên ủi rất rất nhiều. Mỗi ngày, cháu không
thể không nói chuyện với Người, cháu đi lễ để được nghe giảng về Người. Cuộc
sống của cháu bây giờ đã gắn chặt vào Người rồi. Cho nên cháu không còn cảm
thấy đơn độc nữa. Vì cháu biết, Thiên Chúa sẽ luôn vác cháu trên vai Người để
vượt qua sa mạc trần gian này, bà nhỉ?
- Ôi, cháu đáng yêu quá. Đời người luôn có những chuyện không nằm
trong tầm tay kiểm soát, Thiên Chúa lại có thêm một Thiên Sứ dễ thương nữa!
Cậu cười khè khè, lấy tay gãi gãi đầu, vừa tỏ vẻ thẹn thùng. Du
nhìn cậu trìu mến, câu chuyện của hai con người này có sức hút rất riêng đối
với cô. Từ nãy giờ, cô vẫn không ngừng để mắt tới. Đôi giày vẫn chưa hoàn tất, chỉ
mới đánh bóng sơ qua, nhưng trông sáng hẳn lên.
Người đàn bà nét mặt rạng ngời đặt đôi tay nhăn nheo mình lên đôi
tay nhỏ bé của cậu, nói:
- Thế cháu có muốn nghe hành trình của bà đến với Thiên Chúa không?
- Dạ, tất nhiên. Con luôn sẵn sàng lắng nghe.
- Gia đình bà vốn là đạo dòng đạo gốc. Bà lớn lên trong ơn nghĩa
Thiên Chúa. Cho đến lúc, bà biết rung động, trái tim chỉ đường cho lý trí. Bà
quen với một người đàn ông nho nhã, phong lưu. Bà đem lòng mến người đó. Với
tính tình ôn hòa, đảm đang của bà, người ấy cũng động lòng. Hai người yêu nhau
mà chưa hề nghĩ mình không nằm trong giới hạn cho phép. Gia đình ông không cho
ông theo đạo, còn nhà bà thì quyết không gả. Cuối cùng sau hơn một năm trời
kiên định, bà và ông ấy cũng có thể lấy nhau, với điều kiện là đạo ai nấy giữ
và cả hai sẽ không được nhận một đồng xu cắc bạc nào khi ra khỏi nhà. Thế là, cuộc
sống hôn nhân ban đầu tuy thiếu thốn, nhưng viên mãn. Ông bà quyết định đi xa
nơi đất khách quê người này để tha phương cầu thực. Không ai ngờ, chính cái
cuộc sống bon chen này, nơi mà người ta thường quen sống theo chủ nghĩa vật chất
hơn là tình người, đã khiến tình yêu của ông dành cho bà rạn nứt. Cơm không
lành, canh không ngọt cho đến khi cãi vã lại trở nên cơm bữa hàng ngày. Ông ấy
đã bỏ bà ra đi. Bà đau khổ, nhưng không thể nào về quê vì chẳng còn mặt mũi nào
nữa. Thế giới của bà lúc đó chỉ là địa ngục và bà sụp đổ hoàn toàn… - Nói đoạn,
bà lấy chiếc khăn tay lau đi những giọt nước mắt trần tình vừa mới chảy dài. Bà
kể tiếp:
- Thế rồi một hôm, khi tham dự Thánh Lễ, có đoạn Tin Mừng thế này: ”Tất cả những ai đang vất vả mang gánh
nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy
ách của tôi, và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm
hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng”(Mt,
11, 28-30). Bài Tin Mừng hôm ấy đã châm lên ngọn lửa tình yêu mới bất diệt
thuở khai thiên lập địa trong bà. Mỗi khi cảm thấy cô đơn, bà chạy ngay đến
Chúa để Người thêm sức mạnh, để được Người chia sẻ bớt nỗi buồn. Và cứ thế, mỗi
ngày, mỗi ngày, bà yêu Chúa hơn, tình yêu ấy cộng gộp thêm càng lớn dần. Cho dù
đến lúc này, bà mới hiểu ra nguyên nhân hôn nhân cùa bà đổ vỡ là vì thiếu sự
linh hướng của Chúa, nhưng mọi thứ cũng muộn rồi. Bà đã quên được cái tình yêu
không bền vững kia để mà sống cuộc đời sao cho xứng với những gì mà Thiên Chúa
đã ban tặng cho bà vì “được yêu nhiều sẽ
được đòi hỏi nhiều hơn”. Bà cảm thấy thật may mắn khi được Người không bỏ
rơi bà trong vực thẳm. Và cho dẫu thế nào đi nữa, bà vẫn luôn cầu nguyện cho
‘ân nhân’ của bà là người chồng cũ được ơn trở lại. Cũng nhờ ông mà bà được ơn
hoán cải lại đời sống. Đôi giày mà cháu đang cầm trên tay là vật tri âm duy
nhất của ông mà bà còn giữ lại làm kỉ niệm. Mọi thứ do sự tiền định của Người
rồi thì phải.
- Thiên Chúa luôn làm ra những điều kì diệu bà nhỉ? Tất cả đều là
công trình của Người. Con bây giờ thầm ước mình cò điều kiện để được đến trường
lớp mà học, hoặc thậm chí, con chỉ mong biết chữ thôi là đủ rồi. Vì con rất
muốn học biết về Chúa Giêsu hơn nữa qua cuốn sách này… - Cậu lấy cuốn Kinh
Thánh luôn mang theo bên mình ra và khoe với bà…
… Tiếng còi vang ngân dài làm Du giật thót người. Cô biết mình sắp
trễ, vội lấy chiếc cặp chạy nhanh lên xe. Du luyến tiếc vì không thể nán lại
thêm lúc nữa để nghe tiếp câu chuyện còn dở dang. Cô quay lại, nhìn ra phía ô
cửa kính. Hình ảnh hai con người già trẻ ấy nhỏ dần, mờ dần trong tầm nhìn
ngoại vi của cô. Nhưng hình ảnh của cậu bé đội chiếc mũ lưỡi trai rách nát, mang
một cái túi, đôi mắt sáng giống với cậu bé Rêmi trong tiểu thuyết, và cơ thể cằn
cỗi sự kham khổ nhưng tràn đầy hi vọng trên gương mặt của một bà cụ lại in sâu
vào tâm khảm của cô. Lấy tay gạt thật nhanh đôi mắt đang ngấn lệ, che giấu đi
góc khuất trong tâm hồn, Hạ Du ghì thật chặt đôi tay lẩy bẩy run nhịp từ lúc
nào. Sao lại như vậy? Sao cô phải khóc chứ? Chẳng lẽ hôm nay, trái tim vô cảm
của cô đã tan chảy, chạnh lòng với những mảnh đời “áo không liền vai, tay không
liền cánh” như cậu bé đó sao? Chẳng lẽ cô rung động khi thấy sự nhợt nhạt của
bà cụ “bất hạnh” kia sao? Nếu có đi nữa thì cũng chỉ phần nào… Hay chăng là vì
điều gì khác? Vậy thì cô đang nghĩ gì?
Phải, thứ mà trong đầu cô đang suy tư đó là “gia đình” và… vài điều
khác nữa. Hồi ức buồn lại hiện rõ ngay trước mặt cô. Cũng vì không đủ ơn Chúa, mà
ba mẹ cô chung sống mười một năm trời cũng đành đường ai nấy bước, khi cô chỉ
tròn mười tuổi. “Tiền” thật đáng sợ khi nó trở thành ông chủ khiến bao nhiêu
người phải lao đao tìm kiếm. Cũng bởi lẽ đó, mà gia đình cô đã đổ vỡ. Du theo
ba vào thành phố sống, còn mẹ dắt em gái sang nước ngoài định cư. Kể từ đó, cô
dần đánh mất đi sự ngây thơ, sự thánh thiện và thậm chí là cả lương tâm, khi mà
bản tính trước đây là một cô bé ngoan đạo. Cô trở nên cáu gắt và khó tính, lại
đua đòi ăn chơi nơi bè bạn. Đôi khi, cô lặng đi cách bất thường. Tuy chẳng xa
nhà thờ là bao, nhưng chẳng mấy khi cô “ghé” vào dự lễ Chúa Nhật. Câu kinh “Lạy
Cha chúng con ở trên trời…” đã quá xa lạ với cô. Cuốn sách Thánh Kinh trên bàn
thờ bám đầy bụi. Đáng thương hơn, khi mà tâm hồn cô cũng phủ đầy bụi trần, thứ
bụi mà không dễ phủi sạch. Cái ý niệm “cầu nguyện” thật điên rồ với một đứa con
gái học làm dân thành phố!
Du nhắm nghiền đôi mắt lại. Con tim đang thổn thức và đập loạn nhịp.
Cuộc sống với cô thật ngột ngạt và chật vật. Nhìn mãi, tìm mãi vẫn không thể
nào thấy được một chút ánh sáng len lỏi vào con đường đầy u tối của cô. Tới lúc
này, cô mới nhận ra điều mà cô thực sự cần, người mà cô thực sự phải tìm hiểu. Chính
những sứ giả của Thiên Chúa gửi đến hôm nay mà thông điệp cứu rỗi của Người
được Du đón đợi. Sự vô cảm, lãnh đạm, cái bản ngã kiêu hãnh của con người, đôi
mắt đức tin bị che mờ đi sau cái viễn cảnh đẹp mà ma quỷ vẽ vời ra, thử thách
đó đã đánh gục đi lòng cậy trông vốn đã mỏng giòn rồi… “Giêsu là ai”? Đã từ lâu
lắm rồi, cô mới thấu được ý nghĩa sâu xa tên của Đấng Thiên Sai ấy. Ngồi trên
chuyến xe, đôi mắt buồn nhưng ngập tràn niềm hoan hỉ, vẫn cứ đăm chiêu hướng về
phía cửa sổ. Lạnh! Những cơn gió buốt giá luồn lách qua khe cửa sổ chẳng đủ
lạnh để khiến Du khép chặt cánh cửa kính lại, khi mà bên trong người con gái
trẻ ngay lúc này lại hừng rực lên một ngọn đuốc thiêng đỏ không dập tắt được.
Lá bàng tàn úa, trên phiến lá xuất hiện nhiều đốm đen đỏ giữa nền
vàng. Lá rơi lả tả, bay phất phơ trên khắp vỉa hè. Du chắp đôi tay lại, miệng
thì thào: “Nguyện cho tâm hồn con giống như chiếc lá bàng ngoài kia, sống trọn
một đời, bốn mùa trong năm với đủ sắc thái như là đủ niềm vui đan xen nỗi buồn.
Dù có thế nào đi nữa, xin cho con bám chặt lấy Chúa và Hội Thánh từ này về sau
như những chiếc lá đó vẫn bám víu thật chặt nhánh cây đến hết một vòng đời, nếu
lá có rụng thì con cũng yên lòng”. Mở mắt ra, bên ngoài ô kính, ngôi Thánh
Đường cổ kính đang tất bật dọn dẹp khang trang lại để chờ đợi Đấng Cứu Thế đến,
trông thật uy nghi. Cây thông Noel to
lớn kia ở ngay góc phố thật lộng lẫy. Chuyến xe buýt cứ đi, mang theo một người
muốn đi đến nơi cần đến. Mùa Giáng Sinh năm nay không còn lạnh lẽo như bao mùa
trước đối với Hạ Du, với cậu bé thèm đi học để được đọc Thánh Kinh, với bà cụ
chưa kịp hỏi tên và… và với một ai đó nữa…
* * *
Cuộc đời ta giống như một thước
phim, đạo diễn chính là mỗi người. Nếu chúng ta thị phạm cuốn phim của riêng
mình theo kịch bản của nhà biên kịch là Thiên Chúa, thì cuốn phim ấy chắc chắn
sẽ trở thành kiệt tác đầy ý nghĩa. Bạn ạ!
Mã số: 14-059
Ba em mất rồi!
Thứ năm, 5h sáng làm lễ ở nhà thờ.
…
Tôi thu xếp công việc, nhờ đồng nghiệp dạy giùm và chỉ kịp nhắn vội
câu: Tôi có người thân yêu ở xa qua đời nên phải đi gấp, tranh thủ chuyến xe
chiều nay.
Mọi khi xe đi Thành Phố như dày như bánh canh, hôm nay lúc tôi chờ
thì con đường quốc lộ vắng hoe, ì ạch một vài chiếc xe tải, hoặc mấy chiếc xe
về Cần Thơ muộn màng. Gần cả tiếng đồng hồ chờ đợi, mọi thứ diễn ra chầm chậm
như thách thức lòng kiên nhẫn của tôi. Mãi thì tôi cũng đón được chuyến xe
ngang qua Vĩnh Long.
Ngồi trên xe mà lòng tôi chòng chành một nỗi niềm khó tả!
Cái tin nhắn 5h sáng làm lễ ở nhà thờ xoáy sâu vào đầu tôi, lờ mờ
những câu hỏi, rồi nhiều những câu hỏi cuộn tròn, như sợi tơ không mối gỡ trong
đầu.
…
Hai mươi năm rồi, kể từ ngày chúng tôi rời cổng trường đại học, chia
tay không gặp lại. Ấy mà duyên may vẫn còn. Nhờ công nghệ thông tin phát triển,
chúng tôi lang thang vào thư viện đề thi, và nhận ra nhau. Tình cờ ngẫu nhiên
là thế!
Nhưng không phải do chúng tôi nặng nợ ân tình, mà hơn thế nữa do
chúng tôi có chung cái mối lương duyên: Cùng là người Công giáo.
…
Ngày ấy, chúng tôi có nhiều cái cùng, chúng tôi cùng học chung lớp,
cùng là dân tỉnh lẻ, ở chung một phòng trong ký túc xá của trường, và cùng say
mê đọc sách. Nhưng một cái cùng đáng kể mỏng manh nữa, mà mãi tới năm ba Đại học
tôi mới phát hiện ra, là cùng chung mối đạo Công Giáo. Sợi chỉ ấy mỏng manh
nhưng dai dẳng, nó đeo bám suốt những năm tháng đời tôi khi nghĩ về em.
Sự thể em là người Công giáo tôi chỉ được biết khi chúng tôi cùng
tham gia chuyến linh thao giành cho sinh viên nhiều nơi, được tổ chức mỗi năm
vào dịp hè ở Thành phố biển. Em tâm sự là chẳng mặn mà gì, nhưng mà ham vui,
thích được đi biển rồi đăng ký thế thôi!
Năm ngày sống trong im lặng, sống lắng nghe tiếng Chúa mời gọi đánh
động tâm hồn, qua những bài giảng của Cha, tôi quan sát thấy giọt nước mắt em
lăn dài trên má. Em ngồi nhìn Thập Giá
thật lâu, rồi khép nép bước vào tòa giải tội. Tôi thở phào nhẹ nhỏm!
…
Cả buổi chiều nay, hai chúng tôi trốn tuốt trên núi, cứ mom men lần
theo những bậc thang đá xù xì, đi lên, đi lên, và trên cao chót vót ấy là Thánh
Giá.
Em hỏi tôi:
- Có Chúa thật không chị?
Tôi bối rối. Một thoáng nghi ngờ, rồi
định thần lại, chỉ tay về phía bờ biển xa xa tuyệt đẹp và nói:
- Nhìn đi, theo em ai làm chủ phong cảnh
nên thơ hữu tình kia? Chị tin chắc phải có một đấng uy quyền, một đấng luôn làm
cho mọi sự trở nên tinh tuyền xinh đẹp.
- Em bỏ đạo lâu rồi! Mà không phải, em
không đi nhà thờ kể từ khi bà chết.
Tôi trợn tròn mắt:
- Sao thế?
- Ông bà em là con chiên ngoan đạo của
Chúa. Nhưng ba em thì không tin. Ba em không chấp nhận vài điều về nước Chúa.
- Ví dụ?
- Ba em không bao giờ chịu vô đạo, mặc
dù ba em rất hiểu biết về đạo. Không đến nhà thờ, nhưng ba vẫn trung thành dõi
theo thánh lễ mỗi chủ nhật trên đài radio.
- Ừ hay nhỉ?
- Không hay mà là mầu nhiệm!
…
Ba hay kể chuyện… Cuộc đời ba luôn có ơn
Chúa giúp. Mà kỳ lạ, Chúa như lúc nào cũng dõi mắt trông chừng ba. Chúa sai Mẹ
Chúa chở che ba. Ba được làm con ông bà nội cũng là một điều nhiệm mầu.
Bom đạn giày xéo quê hương, bom đạn vô
tình, nhưng con người thì hữu ý, nên ba mẹ ruột của ba không tránh nổi lằn bom.
Ông bà nội cưu mang ba, thương yêu ba như con ruột. Ông bà là con chiên ngoan
đạo của Chúa, nên ba cũng được học giáo lý, được chuẩn bị rửa tội.
Đùng cái, ba vào quân dịch chưa kịp lãnh
bí tích rửa tội. Niềm tin vào Chúa như hạt mầm nhỏ, dần dần mọc rể đâm chồi
trong ba, chưa chi đã cạn nước, khô rễ. Chỉ vì mắc mớ một điều ba giấu sâu tận
đáy lòng, chưa hề nói với ai. Ba hay tâm sự:
- Ba được Đức Mẹ cứu khi một lần ra quân.
Ba là lính mới nhưng bị đi đầu. Ba cầu xin Đức Mẹ chở che. Đi một lúc, người
đội trưởng lại đổi ba xuống dưới vì như sực nhớ ba là lính mới chưa có kinh
nghiệm tránh mìn. Đi được vài trăm mét, người lính đi đầu giẩm phải mìn chết
ngọt. Ba dựng tóc gáy, ba run rẩy, rồi ba thầm cảm ơn Đức Mẹ. Ba tin!
- Nhưng tại sao ba không vào đạo, mà con
ba thì cho vào đạo?
Ba cố chấp, có vài điều trong nhà thờ mà
ba chưa chấp nhận:
- Ba không chấp nhận việc phải quỳ xuống
trước một con người bằng xương bằng thịt mà xưng thú tội.
- Ba không thông việc dùng tiền mua lấy
thánh lễ cho linh hồn người chết. Ba nói giống kinh doanh Chúa.
Ba không chịu rửa tội. Nhưng ba rất có hiếu, ba luôn cảm kích công
ơn nuôi dưỡng của ông bà nội, nên ba cho mấy anh em theo đạo để thờ ông bà nội.
Ngày ông bà mất, ba làm đúng theo nghi thức người có đạo để đưa tiễn ông bà. Trên
tường giữa nhà treo ảnh Chúa chuộc tội và phía bên dưới là bức hình thánh tâm
chúa Giê-su. Bao nhiêu lần thay đổi sửa chữa nhà, nhưng biểu tượng của Đức Chúa
được đặt trang nghiêm không hề thay đổi. Có lần mấy ông bạn ba nói đưa tượng
Chúa lên cao phía trên. Ba không đồng ý vì muốn Chúa ở gần di ảnh ông bà, để
ông bà được ấm cúng bên Chúa.
Ba mẹ không vào đạo. Ba đứa con ba có
đạo. Nhưng kể từ khi ông bà chết đi. Anh cả lấy vợ. Chị kế lấy chồng ngoại đạo.
Riêng em những năm tháng bên bà, cùng theo bà đi lễ, em thuộc nhiều kinh và
hiểu biết nhiều về giáo lý Chúa.
Em có đạo. Thế nhưng bồng bềnh đời sống
cơm áo gạo tiền, rồi rượt đuổi danh lợi, những buổi bên giảng đường cùng các em
sinh viên miệt mài, em quên ngày Chúa nhật, quên nhà thờ rồi dần dần quên Chúa.
Hơn hai mươi năm nay, em không còn rẽ về con đường đến nhà thờ, ký ức thánh lễ,
ký ức về bà đọng lại trong góc tim mà hiếm khi có lần mở lại xem.
Rồi cũng xong.
…
Ba bệnh, cả nhà đau buồn, má rủ rượi gầy
xộp người. Ung thư gan, bệnh viện cho về, nhưng má thương ba, chưa muốn buông
tay, nghe đâu có thầy hay má đều đưa ba đến. Ba sống có đạo đức nhưng ba cố
chấp. Có lần má đưa ba vượt mấy trăm cây số để gặp bác sĩ giỏi, có thể kéo dài
sự sống cho ba. Khi về nhà ba dứt quyết không uống thuốc vì cho rằng ông bác sĩ
không có tâm khi cho thuốc lột hết nhãn hiệu, ba chỉ nói thế rồi im lặng, mặc
cho má có nài nỉ nhưng ba không uống thuốc.
Mấy tuần trước khi chết, ba vẫn nghe
thánh lễ, ba trung thành với việc nghe thánh lễ. Mấy người bạn già đến thăm
thấy thế khuyên nhủ ba trở lại đạo. Nhưng ba quả là cố chấp!
Những người ở nhà thờ tới lui thăm viếng
ba khi ba đang đau đớn trên giường bệnh. Rồi một ngày ba mơ màng thấy Đức Bà
đến thăm ba. Trưa hôm ấy ma-sơ ghé thăm, quả là trùng hợp, nhìn ma-sơ trong bộ
tu phục giống Đức Bà. Ma-sơ tâm sự đã ăn chay cầu nguyện trước khi đến thăm ba,
mong cho ba được ơn quay trở về. Ba ứa nước mắt, ba gật đầu đồng ý. Đến khi
chọn người đỡ đầu, ba chọn ông bạn thân, nhưng tên thánh thì ba nhất định chọn
tên thánh Maria. Ba nói chính Đức Maria đã đỡ đầu cho cả cuộc đời ba. Thế là ba
được rửa tội và nhận tên thánh Maria - Augustino.
Ba ngày trước khi chết trông ba có vẻ
bình an thanh thản.
…
Hai mươi năm, thời gian quá dài, tôi
quên đi nhiều thứ nhưng cái con hẻm ngoằn ngoèo dẫn vào nhà em tôi vẫn nhớ như
in.
Đám tang, không có tiếng khóc rên rỉ não
nề, em nói cả nhà làm tất cả những gì có thể để níu kéo ba. Nhưng ý Chúa vẫn
nhiệm mầu, Chúa không muốn thế, Chúa muôn rước ba đi. Chúa đưa tay ra và ba đã
quay mặt lại bám vào bàn tay nhân từ Chúa.
Em là giảng viên của một trường đại học,
đồng nghiệp, bạn bè, sinh viên, rất đông, rất đông, thậm chí những bạn bè một
thuở sinh viên xa lắc cũng quay về bên em chia sẻ nỗi đau, sự mất mát.
Một đám tang ấm cúng đậm đà tình thân, ngọt
ngào những làn hương tỏa ra quyện vào lời kinh. Lâu, đã rất từ lâu trong căn
nhà này lại được vang lên lời kinh. Má và các anh chị nghiêm trang trước bàn
thờ Chúa, nhìn lên ảnh chuộc tội, rồi nhìn xuống bức ảnh trái tim Chúa bao lâu
nay vẫn ở đó trông chừng linh hồn ba, chăm sóc gia đình. Di ảnh ba, đôi mắt
sáng ngời, miệng như muốn cười.
Lần đầu tiên ba được đưa vào nhà thờ, cũng
là lần cuối cùng. Má không khóc, em không khóc, các anh chị không khóc. Ai lại
khóc vì một ơn ban rất lớn lao. Ba hết cố chấp, ba làm con Chúa, ông bà nơi
thiên quốc ắt cũng mỉm cười.
Ba được đưa vào đất thánh. Lúc cha đọc
lời kinh đưa tiễn cuối cùng, chiếc quan tài từ từ được đặt xuống lòng mộ, nhẹ
nhàng, an lành. Nụ cười ba ở lại, mọi người thở ra hít vào một hơi như vừa tiễn
ba về theo ông bà nội.
…
Sáng nay trong thánh lễ cha nói rồi, chúng
ta phải vui mừng vì chết không phải là hết mà là được sống muôn đời. Niềm tin
Kitô hữu không đặt dấu chấm hết nơi cái chết mà là sự phục sinh trong Đức Kitô.
Một đời ba ẩn uất bao điều, nhưng cuối cùng ba vẫn được ơn quay về.
Má nói: Xong xuôi má cũng xin được rửa tội, cả
nhà ai cũng là con Chúa nên má cũng phải ở chung.
…
Chị ở lại vài ngày với má nhé, đọc kinh
cho ba, rồi an ủi má, giúp má cách cầu nguyện cho ba.
Đôi mắt em xa xôi, nhìn vào khoảng không,
như tìm kiếm cái gì đó đã đánh mất từ lâu, rồi bỗng đôi mắt ấy vụt sáng.
Tiếng hát vang vọng từ xa… “Con nay trở
về, trở về cùng Chúa, Chúa ơi…”
Có tiếng ai đó gọi mời.
Ngày mai Lễ Tro, mùa chay thánh!
Mã số: 14-060
Chị với tay lấy chai dầu ăn trên kệ. Thế là đã đủ những thứ cần
thiết phải mua trong lần đi siêu thị này. Chị nhìn quanh. Con bé vừa đứng với
mẹ đây, không biết đi đâu rồi. Chị cất tiếng gọi mấy lần, nhưng không nghe thấy
tiếng thưa lại. À, chị nghĩ ra rồi. Chắc là nó đang ở gian hàng đồ chơi trẻ em.
Lần nào đi siêu thị nó cũng chạy lại chỗ ấy. Chị đẩy chiếc xe hàng tới đó. Đúng
như chị đoán. Con bé đang ở đây. Nó đang đứng trước một con búp bê khá lớn.
- Mẹ ơi! Búp bê đẹp quá! Mẹ mua cho con nhé!
Chị nhìn giá niêm yết ngoài vỏ hộp: 429.000 đồng. Chị lắc đầu:
- Không được con à. Búp bê đẹp thật, nhưng nhiều tiền quá. Mẹ không
thể mua.
Con bé vòi vĩnh:
- Mẹ mua cho con đi. Lần sau mẹ không phải mua đồ chơi cho con nữa
đâu.
Chị lại lắc đầu:
- Không được con ạ! Chúng ta không có đủ tiền để mua.
Con bé xịu mặt xuống. Rồi bỗng như nhớ ra điều gì. Nó kêu lên:
- À, mẹ ơi! Con biết làm sao rồi. Mẹ trả lại cái áo ấm vừa mua đi. Con
không cần áo mới nữa đâu. Con chỉ muốn búp bê thôi.
Chị nhẹ nhàng:
- Không được đâu con! Áo của con đã cũ rồi. Con cũng cần có cái áo
đẹp để mặc đi học, đi lễ cho nghiêm túc chứ. Mùa lạnh đã đến rồi.
Con bé biết một khi mẹ đã quyết điều gì, thì có nài nỉ cũng không
được, nên nó đành miễn cưỡng đi về, vẻ mặt vẫn đầy nuối tiếc. Bước đi mấy bước,
nó lại ngoảnh mặt nhìn con búp bê, cho đến khi xa khuất mới thôi. Chị biết con
bé buồn. Nhưng không thể cái gì cũng chiều nó. Chị có thể có số tiền đó. Nhưng
chị không thể chi một khoản tiền như thế chỉ để mua một con búp bê đồ chơi. Nhà
chị còn có những thứ khác cần thiết hơn nhiều.
Đêm. Chồng chị gọi điện về. Anh đang ở xa. Chị quên không dặn trước
con bé là không được nói chuyện về búp bê với bố. Vì dù gia đình còn nhiều khó
khăn, anh phải đi làm ăn xa nhưng vốn tính thương và chiều con, thế nào anh
cũng bảo chị mua búp bê cho nó.
Con bé nói chuyện điện thoại với bố. Nó tíu tít kể chuyện ở nhà, ở
lớp. Nào là chuyện nó làm bài tập làm văn được điểm 9, cao nhất lớp. Nào là
chuyện bạn Mạnh hôm nay bị cảm trên lớp, do nhà bạn không có điện thoại nên
thầy phải chở về, thầy kể với lớp nhà bạn xa ơi là xa, mà nhà bạn nghèo lắm. Nào
là chuyện bạn Diễm được bố tặng một con búp bê vào dịp sinh nhật xinh ơi là
xinh… Rồi như chợt nhớ ra, nó kể hôm nay đi siêu thị với mẹ, nó thấy con búp bê
đẹp lắm, đẹp hơn con búp bê nhà bạn Diễm nữa, nhưng mẹ bảo không đủ tiền mua…
Con bé sau khi nói chuyện với bố thì trao điện thoại cho mẹ. Sau
những câu hỏi thăm, anh bảo chị rằng con đã thích thế thì cố gắng mua cho nó. Dù
gì con bé cũng ngoan, nó cũng đáng để được thưởng. Chị đành phải bảo với anh, chị
sẽ cố gắng cân đối việc chi tiêu… Con bé có vẻ mừng lắm. Bố đã hứa với nó rằng
bố sẽ góp thêm một khoản tiền cùng với mẹ để mua búp bê cho nó, nhưng phải đợi
sự đồng ý của mẹ nữa. Khi nghe mẹ trả lời điện thoại, nó biết mẹ cũng đã thay
đổi quyết định. Thế là sẽ không lâu nữa, nó có búp bê làm bạn rồi.
Chợt nó gọi mẹ, điệu bộ như vừa phát hiện điều gì đó hay ho lắm:
- Mẹ ơi! Con biết làm thế nào để giúp mẹ rồi. Từ nay con sẽ không
mua các đồ chơi khác nữa, con sẽ góp tiền tiêu vặt mẹ cho mỗi ngày, cộng với cả
tiền bữa sau bố gửi về nữa, con sẽ không phải xin tiền mẹ đâu.
Chẳng là mỗi ngày, chị vẫn thường cho con thêm 5000 đồng tiền tiêu
vặt. Con bé có thể sử dụng khoản tiền ấy để mua những món đồ chơi vừa tiền mà
nó thích. Có khi nó mua mấy cái bong bóng về thổi. Có khi nó mua dây để chơi nhảy
dây cùng đám bạn. Có khi là quả cầu để chơi đá cầu. Có khi là bộ đồ nấu ăn xinh
xinh…
Cô bạn của chị không đồng ý lắm về điều này. Cô ấy bảo rằng cho con
tiêu tiền sớm dễ làm hư con. Nhưng chị nghĩ khác. Chị muốn dạy con cách sử dụng
đồng tiền và ý thức tiết kiệm khi còn nhỏ. Chị cho nó tiền tiêu vặt nhưng kèm
điều kiện: Mỗi lần nó mua gì, nó cũng phải hỏi mẹ. Và khi được mẹ đồng ý thì
mới được mua. Chị nhắc nhở nó dù là khoản tiền nhỏ cũng không được sử dụng tùy
tiện. Đặc biệt là không được mua những loại bánh kẹo, nước uống rẻ tiền thường
bày bán trước cổng trường. Chị giải thích cho nó biết những loại đó rất độc hại.
Các loại sữa, bánh kẹo, bim bim…, chị sẽ lựa chọn để mua cho nó. Nó vâng lời mẹ
một cách vui vẻ. Nên chị cũng an lòng.
Chị nằm cạnh con. Thao thức. Chồng chị đi xuất khẩu lao động ở Đài
Loan đến nay cũng đã gần 2 năm. Trước khi đi, vợ chồng chị phải nộp phí cho môi
giới là 5.500 USD. Thế mà tờ biên lai thu chỉ ghi có 450 USD. Anh chị thắc mắc.
Mấy người môi giới bảo rằng phí đi chỉ mất chừng ấy thôi, nhưng chi cho các
loại phí khác nhiều. Nếu chồng chị không đi thì sẽ có lao động khác đi liền. Bây
giờ trong nước làm ăn khó khăn, người lao động tìm nhiều cửa đi ra nước ngoài
để kiếm sống. Anh chị bàn tính với nhau, nếu kí hợp đồng, lương cơ bản chỉ có 5
triệu đồng Việt Nam mỗi tháng, nếu không có việc làm thêm thì đến khi nào mới
trả được phí đi đây? Còn nếu không đi, anh chị kiếm đâu ra tiền để trả các
khoản chi phí của anh từ khi đi học tiếng Đài, học định hướng…? Hơn nữa, nhà
cửa lại tuềnh toàng, dột nát. Nếu ở nhà, khi nào mới kiếm được tiền để xây cái
nhà cho tươm tất? Nhớ lại trận bão vừa rồi, nhà chị chẳng có chỗ nào không dột.
Cái mái ngói bằng fibrô cũ kĩ cứ rung bần bật và chực bay lên mỗi khi gió thốc
đến. Chị ngồi trong nhà vừa ôm con, vừa đọc kinh cầu nguyện. Anh thì cứ phải
chạy vào chạy ra xem cái này, giữ cái kia. Chị vừa lo nhà tốc, vừa lo ngói rớt
ném phải chồng. Con bé sợ hãi ngồi rúm ró trong lòng mẹ, miệng luôn kêu bố vào
trong buồng. Chẳng là buồng nhà chị nằm dưới cái gác xép, mặt gác thưng bằng
mấy miếng gỗ tạp, nếu mái nhà có tốc, thì có cái gác gỗ cũng đỡ che chắn. Nếu
không có cái gác gỗ này, thì hồi chiều anh chị đã chạy đi trú bão trong nhà thờ
xứ giống như nhiều bà con giáo dân khác. May thay, có lẽ Chúa thương, nên cơn
bão tan dần. Anh chị thở phào. Nhưng nỗi lo còn đó. Một năm có đến mười mấy cơn
bão. Mà năm nào cũng vậy. Cơn bão này may ra bình yên. Nhưng còn những cơn bão
tiếp theo sẽ thế nào…?
Thôi thì đành vậy! Chị gạt nước mắt tiễn chồng. Anh hình như không dám nhìn vào mắt chị. Anh cũng không
nói gì, có lẽ anh sợ những tiếng nghẹn ngào. Đàn ông mà! Họ luôn cố tỏ ra mạnh
mẽ. Anh chỉ ôm chặt chị, vỗ vỗ bàn tay vào đôi vai gầy của chị, rồi quay mặt
bước đi…
Con bé quờ tay lên mặt mẹ. Nó chưa ngủ. Không biết nó đang nghĩ gì?
Chị xoa tay vào lưng con vỗ về nó. Nó cựa quậy rồi hỏi mẹ:
- Mẹ ơi! Con nên đặt tên cho búp bê là gì ạ?
Thì ra nó đang nghĩ về con búp bê của nó. Chị bảo:
- Con tìm một tên nào dễ thương rồi ta sẽ đặt cho búp bê. Con nghĩ
đi rồi mẹ sẽ giúp con cùng chọn tên nhé.
- Vâng ạ! Con sẽ nghĩ … Mà mẹ ơi! Con sẽ may thêm váy cho búp bê, sẽ
tết nhiều kiểu tóc cho búp bê nữa.
- Ừ. Được rồi. Nhưng giờ thì con hãy ngủ đi nhé.
* * *
Những ngày này đã vào Mùa Vọng. Tiết trời lạnh giá. Những cơn gió
mang theo cả cái giá buốt của mùa Đông như thấm vào từng làn da thớ thịt. Những
chiếc lá như không còn sức chống chọi nổi cái buốt lạnh khắc nghiệt, nên đành
lìa cành, để lại những cành cây khẳng khiu, trơ trọi giữa bầu trời xám xịt, mênh
mông…
Con bé chạy ào vào nhà, xuýt xoa:
- Chào mẹ! Con đi lễ về ạ!
- Ừ! Con vào đây ngồi cho ấm.
Chị cầm cái cời gạt than trong lò sưởi, đốt thêm củi. Ngọn lửa mang
theo sự ấm áp lan tỏa trong căn nhà nhỏ. Chị hỏi con bé về bài đọc Tin Mừng
trong thánh lễ, về bài giảng và những lời dặn dò của cha xứ… Lần nào con bé đi
lễ thiếu nhi về, chị cũng hỏi nó những điều đó. Chị muốn rèn cho con ý thức sốt
sắng khi tham dự thánh lễ. Con bé được hỏi thành quen, nên khi nào nó cũng phải
sẵn sàng để trả lời mẹ. Nó vừa xoa xoa tay vừa kể bô bô:
- Mẹ ơi! Thánh lễ hôm nay cha xứ có căn dặn một điều đặc biệt. Cha
bảo là đã vào mùa Giáng Sinh, cha muốn các con mỗi người sẽ biết góp một sợi
rơm vàng cho máng cỏ của Chúa Hài Đồng. Trời lạnh thế này, mà có nhiều rơm thì
Chúa sẽ ấm hơn mẹ ạ.
Chị mỉm cười hỏi nó:
- Thế con sẽ góp thêm các sợi rơm vàng cho Chúa bằng cách nào?
Con bé nhanh nhảu:
- Cha nói rồi mẹ ạ. Mỗi việc lành các con làm là một sợi rơm vàng
lót vào máng cỏ Chúa Hài Đồng.
* * *
Ngày lễ Giáng Sinh đã gần kề. Mặc dù trời vẫn lạnh giá nhưng khắp
xứ ngập tràn không khí rộn ràng đón Giáng Sinh. Hầu như nhà nào cũng kết ngôi
sao với những bộ đèn nháy nhiều màu sắc. Nhiều nhà trang trí cây thông Noel
thật đẹp. Có những gia đình còn làm cả những hang đá nho nhỏ trước sân. Chị
cũng trang trí cây thông Noel trong nhà mình. Con bé đi học về, nó cũng phụ mẹ
gắn lên cây những ngôi sao, thiên thần, những dải kim tuyến nhiều màu sắc... Mấy
ngày trước, chị đã hứa với nó rằng, búp bê sẽ là món quà Giáng sinh mà bố mẹ
tặng nó. Nó vui lắm, trò chuyện tíu tít suốt buổi. Thế nhưng hôm nay, trông nó
có vẻ buồn buồn.
- Mẹ ơi! Hôm nay bạn Mạnh lại bị ốm phải nghỉ học mẹ ạ. Bạn ấy bị
cảm lạnh.
Rồi vẫn với giọng buồn buồn, con bé tiếp tục kể:
- Nhà bạn ấy nghèo lắm mẹ ạ. Chiếc áo ấm của bạn ấy đã cũ rách và
sờn nhiều chỗ. Hôm trước bạn ấy mặc áo
bị ướt, chắc là về bị cảm lạnh đó mẹ.
- Thế à con? Tội bạn ấy quá nhỉ!
Con bé mân mê dải kim tuyến, vẻ mặt bần thần. Rồi nó bảo mẹ:
- Hồi sáng đến giờ con cứ nghĩ mãi về chuyện này. Con thích búp bê
lắm. Nhưng con cũng thấy bạn Mạnh tội quá mẹ à. Hay là ta mua cho bạn cái áo ấm...
Nó đề nghị một cách dè dặt, nửa như do dự. Chị im lặng, chưa vội
trả lời con. Chị chưa muốn can thiệp vào quyết định của con bé.
Nghĩ ngợi một lúc, nó có vẻ dứt khoát:
- Thôi… con không chơi búp bê nữa… Chúng ta mua áo cho bạn Mạnh mẹ
nhé.
- Con đã nghĩ kĩ chưa?
- Dạ… rồi ạ!
- Con chưa cần trả lời mẹ vội. Ngày mai chúng ta mới đi siêu thị cơ
mà.
* * *
Đêm nay lễ Giáng Sinh. Sáng hôm ấy, chị đã gói chiếc áo ấm mới mua
vào túi bảo con bé mang đến lớp cho bạn. Đó là món quà Giáng Sinh nó tặng bạn. Chiều
học về, con bé rất vui. Vẻ mặt tươi rói. Nó lại tíu tít kể chuyện trên lớp với
mẹ. Nó nói rằng khi nhận được áo, bạn Mạnh tỏ ra bất ngờ và mừng lắm. Bạn ấy
mặc chiếc áo rất vừa và đẹp.
- Bạn ấy mặc áo mà con cảm thấy như mình cũng ấm hơn mẹ à! – Con bé
hồn nhiên và vui vẻ nói.
Chị thấy niềm hân hoan lấp lánh trong đôi mắt đang bừng sáng của
con bé. Chị ôm lấy con, âu yếm hôn lên mái tóc con:
- Con của mẹ giỏi lắm! Mẹ rất tự hào về con. Vậy là con đã góp được
nhiều sợi rơm vàng trong máng cỏ của Chúa Hài Đồng rồi đấy. Giáng Sinh năm nay
Chúa sẽ không còn thấy lạnh nữa đâu.
Và cả chị nữa. Ôm con vào lòng, chị cảm nhận một niềm hạnh phúc ấm
áp lạ thường.
Trong lò sưởi, củi bắt lửa cháy đượm, reo vù vù. Ngọn lửa hồng pha
màu xanh lam như đang mừng vui, nhảy múa. Ngoài kia, bầu trời như cao hơn, thanh
hơn. Nghe mênh mang trong gió, âm thanh
tiếng chuông chiều vang vọng, ngân nga…