GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2014
BẢN TIN 09
Thưa quý độc giả và quý tác giả,
Do một vài trở ngại ngoài ý muốn, bản tin 09 mãi hôm nay mới
được gửi đi. Sau bản tin này còn 40 bài dự thi, bình thường sẽ được giới thiệu
trong 4 bản tin nữa. Chúng tôi hy vọng các bản tin sau sẽ phát hành nhanh hơn.
Trong bản tin này, chúng tôi xin giới thiệu 7 truyện dự thi
mới của Giải Viết Văn Đường Trường 2014. Xin mời quý độc giả cùng theo dõi,
đánh giá và tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng
đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng
nhất sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao
giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Quý độc giả có thể gửi phiếu bình chọn ngay sau từng đợt bài
được giới thiệu. Khi đọc các truyện ở các đợt tiếp theo, nếu thay đổi ý kiến,
có thể gửi phiếu bình chọn mới. Chúng tôi sẽ tính theo phiếu gởi sau cùng của
mỗi người. Xin gửi cùng lúc về 2 điện chỉ email: tinmunggiesu@gmail.com và
gopnhattho@yahoo.com.
Nếu quý độc giả phát hiện bài dự thi nào sao chép, copy ý
tưởng, hoặc chỉ là phóng tác từ một tác phẩm khác đã công bố, xin vui lòng cho
Ban Tổ chức được biết.
Xin chân thành cám ơn các trang truyền thông Công giáo đã và
đang hỗ trợ truyền bá chương trình này, cám ơn quý tác giả đã gửi bài tham gia
và cám ơn quý độc giả đang quan tâm theo dõi cuộc thi. Nguyện xin Thiên Chúa
giàu lòng thương xót chúc lành cho tất cả chúng ta.
Qui Nhơn, ngày 24-4-2014
Thay lời Ban Tổ chức
Linh mục TRĂNG THẬP TỰ
BÀI DỰ THI
Mã số: 14-063
Người ta vẫn ví cánh buồm chuyên chở bao khát khao và hi vọng,
cánh buồm vượt trùng dương của đấng nam nhi, cánh buồm mang hoài bão của tuổi
trẻ về tận chân trời, cánh buồm nung nấu lí tưởng cao đẹp của đời người. Thế
nhưng, có khi nào chính cánh buồm ngoài khơi kia lại lấy đi ước mơ của bao trẻ
thơ nơi đây?
Thức dậy từ tinh sương, Nhân lang thang trên bờ cát dài, cảm
nhận vị tanh mát của biển sau một đêm. Cô thích đi thụt lùi để nhìn thấy dấu
chân mình in trên mặt cát mờ dần theo từng đợt sóng. Dường như tất cả chỉ là
phù vân, xuất hiện rồi mất đi trong thoáng chốc. Cô nhặt nhạnh những vỏ sò nhỏ
đủ màu sắc bỏ vào túi như một bảo bối. Những con sò nhỏ bé này chắc bị sóng
biển tối qua đẩy vào, nó vẫn chưa kịp trở về biển – Nhân thầm nghĩ. Thỉnh
thoảng vướng vào chân cô đôi cọng rong biển, chẳng biết chúng từ phương trời
nào trôi dạt vào đây. Lúc mỏi chân, Nhân ngồi xuống, dùng ngón tay viết vẽ
những gì cô thích. Rồi yên lặng ngồi ngắm bình minh lên. Từng đợt sóng trắng
xóa nối tiếp nhau tung vào bờ. Con sóng vào đến bờ rồi nhẹ nhàng rút về lòng
biển, nhường chỗ cho những đợt sóng khác. Nhưng nhiều lúc, nó chưa kịp trở ra
đã hợp cùng con sóng tiếp làm nên đợt mạnh hơn đập vào bờ. Cõi lòng Nhân nhẹ
tênh, thênh thang như biển cả. Cô nhắm mắt, thả mình trên bãi cát để cảm nhận
hơi nước trong làn gió đang rít rát vào khuôn mặt mình. Hình như vị của biển
đang ngấm dần vào khuôn mặt cô. Cô suy nghĩ những lời nói đơn sơ của hai đứa
nhỏ tối qua. Rất tự nhiên, rất đỗi bình thường, nhưng Nhân vẫn thấy một cái gì
chua xót khi ngẫm lại.
Buổi tối hôm qua, sau khi nướng cá, hát hò và rượt bắt còng
thỏa thích, nhóm bạn cùng các em học sinh ra về, còn Nhân cố ngồi thêm vài phút
trong yên tĩnh để suy ngẫm cuối ngày. Thảo và Phương xích lại gần cô, dựa đầu
mình vào bờ vai cô như một điểm tựa tinh thần.
- Cô ơi, nhanh quá! Thấm thoắt đã hơn một tháng. Cuối tuần
này các thầy cô phải đi rồi. Thảo buồn rầu đáp.
Nhân im lặng chốc lát nhìn vào cõi mênh mang của biển. Thảo
và Phương chuẩn bị lên lớp 7. Hai cô bé khác nhau về ngoại hình nhưng lại rất
thân với nhau. Thảo mang dáng nét của một người con vùng biển: nước da rám nắng,
chắc khỏe, mái tóc vàng khô vì ngấm nhiều nước mặn cùng nắng gắt. Còn Phương
nhìn vẻ mong manh, yếu ớt, nước da trắng và đôi mắt to tròn. Em thấp hơn Thảo
gần một cái đầu. Cả hai cùng học khá tốt, chăm chỉ và ngoan ngoãn, là những học
trò cưng trong lớp Nhân chủ nhiệm.
- Ừ, hết tuần này thầy cô phải lên lại phố để học. Cô đi, hai
đứa có còn nhớ cô không?
- Có chứ cô! Phương nhanh miệng đáp. Làm sao quên được những
buổi học thú vị, vui vẻ. Em rất thích bài VCK mà cô tập cho bọn em ngày đầu
tiên.
VCK là bài “Vì Chúa Ki-tô” mà Nhân tập cho bọn trẻ hát mỗi
buổi đầu giờ, để các em ý thức việc mình học cũng là vì danh Chúa thêm sáng
tươi.
- À cô ơi, cô học xong đại học có đi tu không cô? Phương hỏi
tiếp.
- Cô cũng chưa xác định chắc chắn em à. Nhưng cô thích phục
vụ giữa đời, làm việc bác ái Tông đồ đó em. Nhân trả lời với nụ cười trìu mến.
- Em và bạn Thảo rất thích đi tu cô à. Nhưng mà…
- Có chuyện gì hở em?
- Không biết chúng em có học hết cấp ba được không.
- Sao thế em? Ai cũng có thể học hết cấp ba mà.
- Giữa thị trấn đâu có trường hở cô. Muốn học thì phải đi qua
đèo, lên trên kia mới có trường để học, Bọn em sẽ phải thuê trọ, ở xa gia đình.
Không biết ba mẹ có đồng ý không nữa.
- Ừ, cô quên mất. Nhưng chắc không sao đâu em.
- Nhiều anh chị phải nghỉ học đó cô. Con trai thì đi theo ba
phụ giúp đánh cá. Còn con gái cùng mẹ bán cá, phơi cá khô hoặc ở nhà làm ghẹ.
Người dân làng chài cần nhiều lao động nên các em thường phải
bỏ dở. Nhưng cái quan trọng là ở đây chưa có trường cấp ba. Các em muốn học
phải đi qua còn đèo Phước Tượng ngoằn ngoèo, dốc dác, cũng cách nhà mấy chục
cây chứ đâu gần. Nhân khẽ thở dài:
- Các em học được, chắc là cha mẹ sẽ cho học tiếp đó. Đừng lo.
- Dạ, chúng em cũng muốn vậy. Sang năm cô lại về hè với chúng
em nhé!
- Ừ, cô thích về đây lắm! Nếu nhóm tiếp tục chọn điểm đến là
nơi đây. Cha xứ và bà con lại quý mến, niềm nở hết sức. Cô đi sẽ rất nhớ lúc
Cha vừa đánh đàn ghita vừa hát cho chúng ta nghe, nhớ những đĩa ghẹ mà các bác
xung quanh thỉnh thoảng mang tới bằng cả tình thương, nhớ nhất là mấy đứa đó, học
giỏi lại dễ thương.
- Cô hứa là sẽ trở lại đó nha!
Nhân xoa đầu, cười trừ rồi ôm chúng trong vòng tay bé nhỏ của
mình. Ba cái đầu chụm một cùng dõi mắt vào màn đêm xa xăm. Ngoài khơi, đèn
thuyền đánh cá dàn hàng ngang khiến người ta cứ ngỡ bên kia là bờ, là dãy đèn
của một con đường. Chỉ cần đi ra khoảng xa xa thôi, chúng ta sẽ tới đất liền
của một quốc gia khác…
Nhân không thể làm gì để thay đổi cuộc sống hay tương lai của
các em. Cô gái trẻ cũng không thể làm xuất hiện một ngôi trường giữa lòng thị
trấn vùng vịnh xinh đẹp. Nhưng một điều cô có thể làm là cùng với các thầy dòng,
đem niềm vui, tình yêu thương, kiến thức cho các em nhỏ nơi đây vào dịp hè sang
năm.
Hít sâu và nhẹ nhàng thở, Nhân mở mắt. Mặt trời đã bắt đầu lộ
rõ, đội biển khơi nhô lên. Những cánh buồm đang hướng vào bờ sau một đêm đánh
bắt. Đã tới lúc rồi! Mình sẽ đến và trao yêu thương cho các em qua những buổi
học cuối cùng của khóa hè…
Mã số: 14-064
Cuộc đời đâu phải chỉ là một con đường thẳng, nó có rất nhiều
ngã rẻ nhưng liệu mình có chọn đúng con đường mà Ngài mong muốn. Chúa ơi, con
phải đi hướng nào mới đúng đây? Con thật sự không biết phải chọn con đường nào?
Con thật sự mệt mỏi lắm rồi. Ngài có nghe những lời con nói không? Một mình
lặng lẽ bước trên bãi biển dài vô tận tôi chỉ biết dãi bày nổi niềm với Ngài. Nhiều
người hỏi tôi rằng tại sao hay ra biển một mình? Tôi chỉ nhìn họ cười không trả
lời. Tôi hay ra biển một mình không phải vì tôi thích biển mà là vì chính nơi
này tôi mới có thể cảm nhận rằng Ngài luôn luôn ở bên tôi. Từ nhỏ, tôi được
nghe một câu chuyện từ một chị giáo lí viên mà nó theo tôi suốt đến bây giờ, có
một bé gái hay than vãn với Chúa rằng những lúc nó gặp khó khăn, tại sao lại
không thấy Ngài ở bên cạnh, trong khi những người lớn nói rằng Ngài luôn ở bên
ta mỗi lúc mỗi nơi. Ngài đã trả lời với nó rằng con hãy ra biển mà xem, khi mà
con buồn con có thể tự đi thì dấu bước chân ở đằng sau của con thì đó chính là
dấu chân của ta, ta không thể làm cho con hết buồn nhưng ta có thể đi cùng với
con hết suốt cuộc đời. Còn khi con quá mệt mỏi, thì dấu chân đó là của ta vì
lúc này ta đã cõng con trên lưng, lúc con quá mệt mỏi thì làm sao có thể tự đi
được. Từ đó về sau em bé không còn than vãn gì nữa và luôn tin tưởng rằng Ngài
luôn ở bên. Không chỉ có em bé đó mà tôi cùng tin tưởng điều đó. Và từ đó, mỗi
khi gặp chuyện buồn hay những khó khăn tôi thường ra biển một mình để được gần
Ngài và lấy thêm chút sức lực để có thể bước tiếp.
Ngồi ở bãi biển gần hai tiếng đồng hồ nỗi buồn phần nào
đã vơi đi, tôi tính đứng lên đi về thì bắt gặp một chị tầm khoảng hai mươi lăm
đang ngồi khóc một mình. Tôi nhẹ nhàng tiến lại gần, đưa cho chị đó sấp giấy và
ngồi xuống gần chị. Không biết phải bắt đầu từ đâu, tôi đành im lặng cho đến
khi chị ngừng khóc.
- Chị đang có chuyện buồn ah? _Tôi hỏi
- Cảm ơn em vì tập khăn giấy, hôm nay là ngày đám cưới của
người yêu của chị.
- Ah, em xin lỗi.
- Không sao đâu em tất cả mọi chuyện rồi sẽ ổn mà.
- Mà sao hai người chia tay vậy?
- Chị là người công giáo, còn gia đình anh ấy theo đảng nên
không thể theo đạo.
- Em cũng là người công giáo nè, chuyện tình của chị buồn nhỉ,
mà nếu hai người yêu nhau thật lòng thì đạo ai nấy giữ cũng được mà đâu quan
trọng chuyện đó.
- Anh ấy cũng nói vậy nhưng chị không thích vậy vì chừng sau
sẽ rất khổ, con sinh ra sẽ theo ai đây? Theo chị thì rất khó vì chắc ba mẹ của
anh đó sẽ không chịu đâu. Nên thôi đành phải chia tay, để cả hai cảm thấy nhẹ
nhõm
- Chị quen anh ấy được bao năm rồi?
- Bốn năm chứ đâu có ít gì?
- Uả mà anh ấy không biết nhà chị theo đạo ha?
- Không từ đầu chị đã nói là chị là người công giáo rồi và
hỏi anh ấy có thể theo đạo được không anh ấy chắc chắn là theo được, cho đến
khi chị kêu anh ấy về xin ba mẹ rồi đi đăng kí học giáo lí, thì ba me anh ấy
không cho theo đạo.
- Ác sao không hỏi ngay từ đầu mới quen?
- Tại anh ấy chắc chắn theo đạo được nên chị cứ nghĩ là anh
ấy đã nói rồi.
- Thôi mọi chuyện Chúa đã sắp đặt sẵn chị đừng buồn nữa nha.
- Uh cảm ơn em nha, mà em có chuyện gì buồn hay sao mà ra
biển một mình thế?
- Dạ nhưng giờ thì hết rồi ah. Em hay ra biển mỗi khi có
chuyện buồn. Tôi cười
- Giống chị thế, kể từ khi nghe câu một câu chuyện thời còn
bé thì chị đã đã tập thói quen ra biển mỗi khi gặp chuyện gì nan giải không
giải quyết được, ra đây đầu thông suốt hẳn. Sẳn tiện tiếp thêm chút sức lực.
- Đừng nói là giống câu chuyện của em nghe nha.
Thế là tôi liền kể lại câu chuyện của tôi nghe cho chị. Và
hai chị em cùng phá nhau lên cười, thì ra câu chuyện của tôi cũng là câu chuyện
của chị, không ngờ mọi chuyện lại trùng hợp vậy. Và thế là hai chị em cứ nói
cho đến khi trời sẩm tối. Khi tôi trở về nhà thì câu nói của chị cứ làm tôi suy
nghĩ mãi, tình yêu ở trần thế Ngài tạo ra là để cuộc sống này nó bớt đi nhàm
chán nên nó không tồn tại vĩnh cửu, một người yêu em thật lòng cho đến mấy thì
một ngày họ cũng sẻ bỏ em mà đi, để lại cho em biết bao nhiêu là nổi đau. Còn
Ngài thì luôn luôn theo ta. Thế thì có đáng khi em đánh đổi tình yêu trần thế
với tình yêu cúa Ngài. Tôi rất buồn cho chuyện tình của chị nhưng cũng phần nào
rất hâm mộ chị. Chị đã can đảm từ bỏ tình yêu trần thế mà chọn tình yêu của
Ngài. Trước mặt tôi đã gặp rất nhiều người chối bỏ tình yêu của Ngài mà chọn
tình yêu trần thế, điều đó chứng tỏ rằng chị có niềm tin rất mạnh ở Ngài. Lúc
đầu tôi cứ nghĩ là chỉ có mình tôi ngốc nên mới tin vào câu chuyện nhưng không
phải vậy, chỉ trong thành phố nhỏ tôi còn thấy người tin vào câu chuyện này thì
tôi nghĩ không chỉ có tôi và chị mà chắc chắn còn có nhiều người tin vào câu
chuyện này. Kể từ sau ngày gặp mặt hai chị em cũng hay liên lạc với nhau. Mọi
chuyện dường như đã được Ngài sắp đặt sẵn như muốn khẳng định rằng không cách
này thì cũng là cách khác Ngài luôn muốn chia sẻ nổi buồn của tôi và chị nói
riêng cũng như con cái của Ngài nói chung. Ngài luôn muốn chúng ta luôn tin
tưởng tuyệt đối nơi Ngài, luôn sống và thực hành đúng ý của Ngài. Tuy con đường
của Ngài chỉ cho ta đi rất là chong gai, nhiều khó khăn gian khổ, nhưng luôn
tin tướng rằng trên con đường đó không chỉ có mình ta bước mà còn có Ngài luôn
luôn cùng song hành với ta thì hãy cố gắng bước tiếp vì cuối con đường chính là
quê thật của mỗi chúng ta.
Mã số: 14-065
Người hành khất già nua đều đặn ngồi trước cửa nhà thờ. Không
ai biết ông ta từ đâu đến. Cũng chẳng biết ông bao nhiêu tuổi. Nhưng trông có
vẻ già lắm! Cứ sau thánh lễ Chúa Nhật hằng tuần, ông lại xuất hiện với chiếc
nón lá cũ kỹ và bộ quần áo tả tơi bẩn thỉu, ngửa tay xin bố thí.
Bỗng có một hôm, cậu bé ngạc nhiên hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, hôm nay sao không thấy ông già đâu hả mẹ?
- Ừ mẹ cũng chẳng biết, chắc hôm nay ông đi kiếm sống nơi
khác rồi đấy con ạ - bà mẹ trả lời. Thôi con cứ giữ lại số tiền con dành cho
ông, tuần sau có thể ông sẽ quay lại.
Một tuần. Hai tuần. Rồi ba tuần… Cậu bé vẫn cứ đợi mà chẳng
thấy bóng dáng ông lão ăn xin đâu cả.
Đúng ngày lễ Giáng Sinh, cậu bé nhận được một món quà rất dễ thương:
một chiếc đồng hồ mạ vàng cùng lá thư của ông lão ăn xin mà cậu đã trông đợi
bấy lâu nay.
“Cám ơn cháu nhiều lắm, cậu bé có tấm lòng nhân hậu! Cháu đã
cho ông tất cả. Hai ngàn, năm ngàn mỗi tuần? Nó không hẳn là thứ ông cần. Cám
ơn ánh mắt trìu mến và nụ cười trẻ thơ đã giúp ông cảm nhận được tình thương. Chút
quà này là số tiền ông dành dụm suốt mấy tháng qua. Vì không đủ sức để mang quà
đến cho cháu nên ông mới nhờ người mang hộ. Chúc cháu sống vui và giúp ích được
nhiều cho những người bất hạnh xung quanh. Hẹn gặp nhau trên quê hương vĩnh cửu,
nơi không còn đau buồn. Ông sẽ luôn nhớ tới cháu!”
Sau ngày đó, cậu bé không còn nghe tin gì về ông lão nữa. Mặc
dù cậu và mẹ đã cố đi tìm hết các làng, các chợ. Cậu đã tìm được bóng hình ông
lão nơi những người ăn xin mà cậu gặp trên đường đi.
Cậu bé trân trọng giữ mãi chiếc đồng hồ của ông lão và rất
hãnh diện về nó. Mỗi khi có ai đến gõ cửa trước nhà, cậu luôn niềm nở tiếp đón,
vì cậu tin rằng chia sẻ với người cơ bần không chỉ là thể hiện một tình thương
nhưng còn là trân trọng một tấm lòng. Bài học này cậu đã khắc ghi trong tim từ
thuở bé thơ với lời dạy bảo của cha mẹ và lời nhắn nhủ của cụ già đã khuất năm
xưa.
Mã số: 14-066
Trời vẫn lất phất mưa, kẹp xấp vé số bên nách hắn bước vội ra
đường ngay từ sáng tinh sương.
Hắn chưa bao giờ có một ngày thảnh thơi. Không đi bán vé số
thì đâu có ai bố thí cho mẹ con hắn miếng cơm mỗi ngày.
Có lẽ hắn đã quen dần với tiếng chó sủa mỗi khi bước ra đường
từ buổi sớm. Dân làng cũng không lấy gì làm lạ. Bởi mỗi sáng họ đều nghe tiếng
chó sủa theo từng bước chân của thằng nhóc bán vé số, con bà hai mù ở trong xóm
rồi.
Vé số đây! Vé số đầy! Chú mua giúp cháu tờ vé số đi! Hắn vừa
đi vừa rao.
Với vóc dáng chưa đầy một thước, khuôn mặt hiền như cục đất
của hắn, ai ai cũng thương tình. Tội nghiệp, hiền quá! Người mua một tờ, kẻ mua
vài ba tờ. Ngày nào cũng vậy, hắn bán xong 50 tờ vé số thì trời đã đứng bóng
rồi. Hắn lại lửng thửng quay về, bụng đói meo. Vừa đi vừa gặm một ổ bánh mì, trông
rất tội nghiệp.
Hắn nghe rất nhiều lần, những lời bàn tán về hắn dọc theo lối
đi quen thuộc từng ngày của hắn. Nhiều người bảo, “dễ thương thế mà sao lại đi
bán vé số”, người khác nói: “tội nghiệp, con nhà ai mà hiền
thế”… hắn nghe, nhưng chẳng quan tâm lắm. Hắn chỉ quan tâm đến những tờ vé số
bán được hằng ngày mà thôi.
Kệ người ta, hắn nghĩ như thế và lại bước đi.
Về trước cổng nhà thờ xóm nhỏ, cách nhà hắn chưa đầy một cây
sô, hắn thấy có đông trẻ con tụ tập ở đó. Dừng chân lại. Hắn rón rén tới gần để
xem có gì không.
Lại là sách! Hắn thờ dài… sách đâu có ăn được đâu mà người ta
bu lại đông như thế nhỉ? Hắn tự hỏi. Rồi không hiểu sao, hắn lại tò mò, chen
lấn và chui vào được gần chỗ trưng bày sách. Trước mắt hắn là một lô sách
truyện thiếu nhi, nằm ngổn ngang trên bãi cỏ. Hắn vớ tay lấy một cuốn, hắn ngắm
nghía một hồi, cặp mắt sáng hoắc của hắn bắt đầu dò dẫm theo từng trang sách.
Hắn mải mân mê cuốn sách mà quên đi đến lúc phải về kẻo mẹ
đợi ở nhà. Hắn vội đặt cuốn sách lại chỗ cũ. Lúc này chỉ còn một mình hắn và
người chủ nhân của kho sách kiên nhẫn đứng đợi.
Thôi cháu cầm cuốn sách đi, về nhà đọc xong, tuần sau mang
trả cho cô tại điểm này nhé! Người bán sách nhẹ nhàng bảo hắn.
Mừng quá! Hắn lại cầm cuốn sách lên, kẹp bên nách, không quên
nói lời cám ơn:
“Cám ơn cô, cháu về ạ!
****
Sau khi cơm nước cho mẹ xong, hắn bắt đầu lấy cuốn sách mới
tậu về lúc sáng đem ra đọc. Hắn dò dẫm đọc, vừa đọc vừa đánh vần. Dường như câu
chuyện trong sách làm hắn quên rằng phải đi ngủ sớm để ngày mai còn đi bán vé
số nữa.
Hắn nằm thẳng người trên giường, hai chân vắt chéo nhau, một
tay cầm sách đặt lên ngực, tay kia gác trên trán như một cụ già đang đăm chiêu
suy nghĩ sự đời. Hắn nhắm nghiền mắt lại, chốc chốc lại mở ra, chép miệng, hít
hít mấy cái rồi nâng sách lên đọc tiếp. Hắn dò dẫm đọc, không biết hắn có hiểu
câu chuyện trong sách không nữa. Nhưng nhìn bộ dạng của hắn thì có lẽ hắn rất
thấm thía câu chuyện trong sách. Mà cũng lạ thật, từ nhỏ tới lớn hắn có đi học
đâu mà biết đọc.
Trời càng lúc càng về khuya, hắn nghe rất rõ âm thanh của màn
đêm. Gió vẫn cứ rít rít bên khung cửa sổ nhà hắn, tiếng lách cách của những tờ
lá chuối càng lúc càng rõ hơn. Hắn vẫn nằm mân mê cuốn sách.
Hắn lại trở mình, đưa tay lên thành giường để tắt đèn. Hắn
lăn qua lăn lại hoài mà không thể ngủ được. Hắn cũng không hiều vì sao lại khó
ngủ đến thế.
Tiếng rít rít của gió và lách cách của tàu lá chuối khiến hắn
không thể nào ngủ được. Lại thò tay lên đầu giường bật đèn đọc sách. Chợt hắn
thấy hơi lành lạnh trong người khi nghe tiếng mèo tru trếu rượt đuổi nhau. Hắn
bắt đầu run run vì tiếng kêu rợn người giữa đêm khuya vắng vẻ như thế. Hắn lại
tắt đèn, quấn kín chăn lên người, trùm luôn cả đầu, cố ý để ru giấc ngủ khỏi sự
quấy rối của những tiếng động. Hắn lại trở mình, tiếng động vẫn chui qua tấm
chăn đắp kín đầu của hắn. Hắn quyết định cuốn mình nằm co ro trong chăn.
Trời bắt đầu chuyển dần sang ngày mới mà hắn vẫn cứ ngủ. Bịt
kín chăn, nằm co ro trên giường. Hôm nay là ngày hắn thảnh thơi nhất, vì mặt
trời đã ngoi lên khỏi ngọn dừa mà hắn vẫn miên man trong giấc ngủ. Hắn đang mơ
một giấc mơ tuyệt đẹp như câu chuyên hắn mân mê suốt đêm qua. Hắn không bao giờ
biết rằng trên thực tế, hắn vẫn là một đứa trẻ thất học, bán vé số để kiếm tiền
nuôi mẹ. Giấc mơ chỉ là ảo tưởng. Rồi hắn cũng sẽ sớm nhận ra rằng, để kiếm
sống qua ngày, hắn lại phải lầm lũi bước đi trước khi mặt trời mọc với xấp vé
số trên tay. Học đường không có cửa cho hắn ngay từ khi hắn chào đời rồi. Có
còn gì đâu mà mơ với mộng.
Hắn khẽ lăn người, thò đầu ra khỏi chăn, hai tay dụi dụi vào
mắt mấy cái cho tỉnh ngũ. Hắn ngồi thừ trên giường, nhìn nét mặt buồn buồn của
hắn mà thấy tội nghiệp. Hắn là người biết rõ hơn ai hết vì sao hắn buồn. Hắn
biết ngày hôm nay hắn sẽ không có cái gì để nhét vào bụng rồi. Buồn hơn nữa là
mẹ hắn sức khỏe càng ngày càng yếu. Mẹ sẽ ra sao nếu hắn không tìm được chút gì
đó để cho mẹ no lòng. Tội nghiệp hắn quá!
Mã số: 14-068
Sau thánh lễ đêm Giáng Sinh, Quân tản bộ trong khuôn viên của
Tu viện. Dừng lại trước hang đá mà anh em Quân đã cùng nhau làm, Quân nghiêng
mình nhìn ngắm tượng Chúa Hài Đồng và suy nghĩ về những điều kỳ diệu Chúa đã
làm trên cuộc đời Quân. Chúa đã cho Quân gặp Hùng, người bạn cùng phòng trọ và
giờ cũng là anh em trong gia đình ứng sinh với Quân và cuộc đời cậu đã bước
sang một trang hoàn toàn mới.
Ngày làm giấy tờ nhập học, Quân đã gặp Hùng, một chàng trai
đậm chất miền Trung cả về giọng nói lẫn tính cách. Đôi bạn tỏ ra rất hợp tính
nhau nên đã mướn phòng trọ ở chung, nhưng chỉ có một điều khác: Hùng là một tín
hữu Công Giáo còn Quân thì không. Tuy vậy, Quân vẫn đồng ý để Hùng tự do tín
ngưỡng nơi phòng trọ và không bao giờ lên tiếng mỉa mai về đạo. Hai đứa gắn bó
với nhau trong những buổi lên lớp, trong những bữa cơm chỉ toàn là rau luộc, trong
những trận bóng đá Ngoại Hạng Anh hấp dẫn để rồi sáng hôm sau phải chạy vội
chạy vàng đến lớp vì ngủ quên…
Giáng Sinh đầu tiên ở Sài Gòn, Hùng rủ Quân cùng đi dự lễ. Quân
ngập ngừng một lúc rồi cũng đồng ý chỉ vì không muốn làm bạn mất hứng và cũng
vì tò mò nữa. Quân không hiểu sao nhiều người đạo Công Giáo lại tin vào những
điều vô lý như vậy. Và cả Hùng nữa, anh bạn thông minh vậy chỉ nên tin vào khoa
học như Quân thôi. Ngồi cạnh Hùng, Quân rất nghiêm trang và chăm chú nghe đọc
Kinh Thánh cùng với bài giảng của linh mục làm cho nhiều người lầm tưởng cậu là
một thầy tu. Lúc đầu vì tò mò nên Quân nghe, nhưng rồi những câu Kinh Thánh, những
lời giảng của linh mục và cả những bài Thánh Ca đã xoáy sâu vào lòng Quân. Những
tưởng chỉ có những người nhẹ dạ nên mới dễ bị lừa, nhưng giờ Quân cũng như đang
chìm vào cơn mê ấy. Chính đêm Giáng Sinh hôm đó, Chúa đã tìm đến gõ cửa lòng
Quân và mời gọi cậu mở cửa đón Ngài. Quân bắt đầu có những suy tư về bản thân
mình và đôi khi còn hỏi Hùng về Chúa Giêsu, về đạo Công Giáo. Hùng tỏ ra rất
hứng thú về sự thay đổi này nơi con người Quân. Một buổi chiều muộn, trên đường
đi học về, Quân ngập ngừng:
- Hùng, tớ…muốn…theo đạo. Cậu giúp tớ được chứ?
- Được, tất nhiên là được rồi. - Hùng vỗ vai Quân, vui vẻ đáp.
Ngay ngày hôm sau, Hùng dẫn Quân đến gặp cha Hiền, phụ trách
nhóm Sinh viên Công Giáo của trường và cha đã đồng ý dạy Giáo lý cho Quân. Thế
là mỗi tối thứ 7 và Chúa Nhật hằng tuần, Quân đều đến học với cha Hiền. Quân
cũng trình bày với ba mẹ và mặc dù không thích, họ vẫn tôn trọng tự do của Quân.
Mấy ngày trước lễ Giáng Sinh năm thứ hai đại học, Quân được Rửa tội. Sau thánh
lễ, Quân bắt tay Hùng:
- Cảm ơn cậu rất nhiều, nếu không gặp cậu thì mãi mãi mình
vẫn không được biết Chúa.
- Mình đâu có công gì, chính Chúa đã tự tìm đến cậu đấy chứ.
- Nhưng dù sao thì cậu cũng là cầu nối mà. Mình thật may mắn
hơn biết bao người Hùng ạ, chí ít là với những người trong gia đình của mình.
Ngoài phố, xe cộ tấp
nập, người người vui chơi Giáng Sinh nhưng có nhiều người rồi cũng như Quân mấy
năm về trước thôi, chẳng hiểu gì về ý nghĩa thực sự của đêm Giáng Sinh. Quân
thầm nguyện cầu cho những người thân của mình và cả những người chưa được ơn
nhận biết Chúa, hy vọng một ngày nào đó, Chúa cũng sẽ đến tìm họ. Rồi Quân cũng
tham gia nhóm Sinh viên Công Giáo và hoạt động rất tích cực. Được sự giúp đỡ
của cha Hiền và các thầy dòng Tên, nhóm được sinh hoạt, tĩnh tâm hàng tháng và
đi tông đồ đến các bệnh viện, trại phong hay những vùng sâu vùng xa của Tổ quốc.
Sau những hoạt động ấy, có một động lực nào đó cứ luôn thôi thúc Quân. Nhưng
lúc đó, Quân vẫn chưa hiểu bởi lẽ cậu mới theo đạo. Quân tìm đến cha Hiền để
giãi bày tâm sự. Là một linh mục giàu kinh nghiệm trong việc hướng dẫn ơn gọi, cha
biết rõ ý Chúa đang mời gọi Quân bước vào đời sống dâng hiến. Cha cũng tận tình
giải đáp cho Quân và khuyên cậu suy nghĩ và cầu nguyện thêm. Thật bất ngờ khi
Hùng cũng có cùng tâm tình như Quân và hai người đã xin vào tìm hiểu dòng Tên.
Nhưng đường đời đâu phải lúc nào cũng suôn sẻ theo ý muốn của
con người. Sự chọn lựa của Quân ngay từ đầu đã gặp gian nan, sóng gió. Cả gia
đình và họ hàng Quân kịch liệt phản đối chuyện cậu đi tu. Ba Quân còn tìm đến
tận phòng trọ quát thẳng vào mặt Hùng:
- Mày dụ nó phải không? Bọn mày tính "được đằng chân lên
đằng đầu" hả?
- Không phải đâu ba, đó là ý của con mà. - Quân thanh minh.
- Cái thằng bất hiếu. Tao cho mày ăn học bao năm mà giờ mày
đòi bỏ hết sao? Mày trả ơn tao thế à? Không tu tiếc gì hết, mày đừng có mà bị
mấy đứa nó lừa.
Rồi ông dịu giọng:
- Con nghĩ lại đi, sao con dại thế? Định ở vậy để làm không
công cho người ta cả đời hay sao? Rồi còn ba mẹ nữa, con không thương ba mẹ à?
- Con…con…
Quân đã hơi xao xuyến. Thực sự Quân rất yêu mến ơn gọi mà cậu
mới được thắp lên, nhưng còn ba mẹ thì sao? Quân đã nợ ba mẹ quá nhiều rồi. Cậu
ngập ngừng:
- Để con suy nghĩ đã.
Ba đi rồi, lòng Quân rối bời. Chứng kiến từ đầu, Hùng hiểu rõ
tâm trạng của Quân nhưng Hùng có thể làm được gì bây giờ. Người đời có cái nhìn
hoàn toàn khác với người môn đệ Chúa Ki-tô, con đường Chúa đi là con đường
ngược với thế gian. Nhưng bây giờ quyết định là ở Quân. Quân đang bị giằng co
giữa một lý tưởng sống cao đẹp với sự quyến luyến của tình cảm gia đình. Nhiều
đêm, Hùng thấy Quân cứ trằn trọc mãi. Nhưng rồi, Tình Yêu Chúa đã chiến thắng. Quân
chấp nhận bước vào con đường mà thế gian cho là điên dại. Quân và Hùng đã gia
nhập Ứng sinh dòng Tên vào mùa Giáng Sinh năm thứ ba đại học.
Và đêm nay, khi ngồi trước hang đá nhỏ này, Quân lại nhớ về
một năm qua trong nhà Ứng sinh. Quân đã trưởng thành hơn rất nhiều trong mối
tương quan với Chúa và với tha nhân. Nhưng đó cũng là một năm đầy thử thách với
một ứng sinh còn non nớt như Quân. Không một cú điện thoại, không một lời hỏi
thăm từ gia đình và họ hàng. Quân cũng đã chủ động gọi về nhà nhiều lần nhưng
hễ nghe giọng Quân là đầu giây bên kia lại tắt máy. Quân có cảm tưởng như mình
đã bị loại hoàn toàn ra khỏi tổ ấm yêu thương đã một thời gắn bó. Có tiếng bước
chân gấp gáp, Quân quay lại. Hùng bước tới, thở dốc:
- Hùng…tìm Quân…mệt muốn chết. Quân có điện thoại, tới phòng
máy nghe đi.
- Chắc lại là thằng
Dù nói vậy nhưng trong lòng Quân vẫn muốn người gọi là người
bấy lâu Quân vẫn chờ. Tiếng điện thoại reo, Quân nhấc máy:
- Dạ alô, Quân xin nghe!
Đầu dây bên kia vẫn im lặng.
- Dạ alô!
- Ba đây con trai.
- Dạ ba…con chào ba! Ba mẹ…có khỏe không ạ? - Quân hỏi, giọng
run run.
- Ba mẹ đều khỏe. Còn con, con vẫn ổn chứ?
- Vâng thưa ba, con sống rất tốt. Nhưng con nhớ, rất nhớ ba
mẹ và các em.
- Mai là Noel phải không? Con dẫn thằng Hùng ghé chơi nha. Thôi,
ba cúp máy đây, ngày mai về rồi nói chuyện. Cho ba gửi lời chúc tới mấy người
trong nhà nha.
- Dạ vâng, con cảm ơn ba. Con chào ba!
Quân gác máy, lòng trào dâng một nỗi xúc động, hai hàng nước
mắt chảy xuống gò má. Quân khóc vì hạnh phúc, vui sướng. Dù ba chỉ nói với Quân
một ít câu thôi nhưng chẳng sao, như thế là Quân vui lắm rồi. Đã một năm rồi, Quân
luôn chờ đợi trong hi vọng rằng một ngày nào đó ba mẹ sẽ hiểu cho nỗi lòng của
cậu. Đêm nay, Hài Nhi Giêsu đã ôm hết cái lạnh để Quân có được một đêm Giáng
Sinh thật ấm áp. Ngày mai, Quân sẽ kể cho ba mẹ nghe thật nhiều về Giêsu, người
mà Quân đang bước theo; về cộng đoàn mà Quân đang sống với những anh em từ khắp
mọi miền đất nước nhưng đều cùng chung một chí hướng. Với Quân, Giáng Sinh luôn
mang đến điều kì diệu, lạ lùng. Biết đâu, mùa Giáng Sinh tới, điều kì diệu ấy
sẽ đến với gia đình Quân, hy vọng là thế.
Mã số: 14-069
Ba Nó sinh ra trong một gia đình lương dân, thậm chí ông bà
nội rất mê tín. ba sinh thiếu tháng nên ai cũng nghĩ là ba sẽ chết. Ông bà nội
nghèo và chẳng còn hy vọng cứu sống cậu con trai duy nhất. Trong hoàn cảnh ấy, có
một vợ chồng nhà kia biết tin và tìm đến xin ba về nuôi vì ông bà hiếm hoi. Đó
là lý do Nó có hai nguồn gốc, hai dòng máu, hai ông nội và hai bà nội.
Bà nội nuôi của Nó là một phụ nữ đạo đức. Sự hiếm hoi của bà
giống như những người phụ nữ trong Kinh Thánh mà Nó biết, như bà Sa-ra (St 16, 1),
hay bà An-na (1Sm 11)… Nó nghĩ bà nội cũng đã khấn xin Chúa nhưng cách Chúa làm
thì chẳng giống ai và chẳng ai thấu được. Chúa muốn bà cưu mang một sinh linh
“người ngoại” đang thoi thóp giống như vị công chúa người Ai Cập đã cứu vớt
Mô-sê từ dưới dòng sông Nin (Xh 2, 6-10).
Vậy là ba được mang về và rửa tội tại xóm Đô và bắt đầu ơn
gọi Kitô hữu.
Mẹ Nó sinh ra trong một gia đình đạo dòng, nhà có 6 người con,
mẹ là thứ 5. Khi lên 8 bà ngoại mất, 15 tuổi ông cũng ra đi. Bác cả thay ông bà
lo cho các dì và cậu.
Rồi một ngày kia, vào đầu những năm của thập niên 70, trong ý
định của Chúa, một cuộc hôn nhân hơi “khập khiễng” được diễn ra. “Sự gì Thiên
Chúa liên kết loài người không được phân ly”, lời ấy đã vang lên trong ngày lễ
cưới của ba mẹ Nó. Nó nghe mẹ kể đó là một lễ cưới hết sức giản đơn: Không nến,
không hoa cũng chẳng áo váy, chỉ có tiếng chuông nhà thờ rời rạc không át nổi
những tiếng máy bay gầm rú dưới vòm trời.
Lúc ấy, ba hơn mẹ 10 tuổi, mẹ về nhà chồng với hồi môn của
các bác là một chiếc nhẫn và vài bộ đồ cũ. Còn món quà lớn nhất mà vì yêu mến
nên mẹ đã nhận đó là 4 đứa con chồng đang nheo nhóc vì mất mẹ. Dì Nguyệt- người
phụ nữ đầu tiên trong cuộc đời ba, cũng là người bạn thân của mẹ, dì đã ra đi
khi chị cả 9 tuổi và chị út mới 9 tháng.
Hồi đó, các bác bên ngoại ai cũng cản vì sợ mẹ phải chịu
thiệt thòi. Bởi người đời thường nói rằng:
“Đói lòng ăn nắm lá sung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng”
Mẹ biết tất cả những khó khăn ấy nhưng mẹ vẫn tự nguyện chấp
nhận thay dì Nguyệt gánh vác giang sơn nhà chồng.
Nó thấy cuộc đời mẹ gắn liền với hai chữ “chịu đựng”. Bản chất
của hai từ ấy sẽ dễ khiến người ta hiểu rằng trong đó tồn tại sự bất công. Nhưng
Nó không nghĩ vậy, mẹ đã “chịu” chấp nhận vì yêu ba, vì giữ lời hứa với bạn và
vì thương những đứa con nheo nhóc mồi côi mẹ quá sớm. Mẹ “đựng” tất cả trong
trái tim bao dung thuần chất của một người phụ nữ Việt.
Ba năm sau, mẹ lần lượt sinh 5 chị em nó. Xóm Đô, thị trấn Úc
Sơn những năm cuối thập niên 80 hoang sơ nhưng thanh bình và yên ả lạ thường. Chế
độ tem phiếu vừa kết thúc năm 1986, bao trùm xã hội là một nền kinh tế khó khăn.
Người người, nhà nhà đều ra sức, khẩn trương lao động để mong thoát khỏi cái
đói, cái nghèo. Gia đình Nó cũng không ngoại lệ trong số ấy.
Đồng lương ít ỏi của ba và công việc đồng áng của mẹ không đủ
trang trải cho cả nhà. Xong ngày mùa, dư chút thời gian rảnh là mẹ lại tranh
thủ buôn chợ này, chạy chợ khác để có thêm chút thu nhập. Mẹ không bao giờ phân
biệt “con chồng” hay “con mình”. Mỗi năm vào ngày giỗ của dì, Mẹ vẫn lo làm cơm
sum họp để các con cầu nguyện cho dì.
Ngày Nó vào lớp 1, mẹ đã sắm cho nó một bộ quần áo mới, một
cuốn tập tô và cây bút chì cùng cái túi cước, loại túi thịnh hành của lũ trẻ
con lúc bấy giờ. Được đi học, Nó sung sướng như một ngày trọng đại nhất cuộc
đời. Sự thiếu thốn của giấy bút không làm Nó chán ngán với những con chữ. Mảnh
sân con đầy nắng chính là cái bảng, là cuốn tập lớn nhất mà nó từng có. Nó lượm
những viên ngói vụn làm phấn rồi thỏa thích vẽ lên đó đủ thứ. Khi là bảng chữ
cái nguệch ngoạc, lúc thì là những hình tròn méo mó và cả những con số ngược. Một
lần không chọn được một góc sân nào trống và nhẵn hơn để thể hiện tác phẩm của
mình. Thế là con bé ngây thơ cầm cục than đen chạy lại phía bức tường trắng mới
quét vôi và vẽ lên đó những gì Nó muốn. Nó đâu lường trước được hậu quả nếu bức
tranh “vĩ đại” đó bị phát hiện. Và chính những cái “phết” rát mông của anh hai
khiến nó chừa cái thói vẽ lên tường.
Ngày Nó xưng tội, rước lễ lần đầu là một kỉ niệm khó phai. Dù
đã học thuộc lòng bản mẫu xưng tội và được bà quản Chi căn dặn rất kỹ nhưng khi
bước lên tòa giải tội, nó run rẩy như thể đến trước tòa phán xét, đến nỗi nó
xưng cả cái tội không có “tội bỏ kinh ngày Chúa Nhật một tháng 10 lần”.
Nó chỉ cảm thấy bớt sợ hơn, khi vị linh mục già có đôi mắt
hiền như ông tiên đặt tay trên đầu Nó, rồi Nó hé miệng để Ngài đặt chiếc Bánh
Trắng nhỏ nơi đầu lưỡi. Nó vui sướng vì được rước Chúa.
Quãng đời tươi đẹp nhất của Nó là thời niên thiếu. Nó bắt đầu
có những người bạn thân và những kỷ niệm tuổi thơ. Nó hãnh diện vì nằm trong
đội dâng hạt của xóm. Dâng Hạt là một hình thức tưởng nhớ đến Mẹ Maria trong
cuộc Thương Khó của Chúa Con. Những đứa trẻ mặc áo dài trắng, chắp tay, xếp hai
hàng đứng trước bàn thờ, giáo dân ở dưới hát lên lời kinh truyền thống. Khi đến
chữ “Mẹ” tất cả cúi đầu cung kính, đến chữ “Con Người” hay chữ “Chúa” thì tất
cả quỳ xuống đều tăm tắp.
Những lời kinh đó vang trong tim nó cho dù bây giờ người ta
không còn giữ truyền thống Dâng Hạt như xưa.
“Maria mẹ thảm sầu
Tâm hồn từ mẫu cao sâu tuyệt vời
Hai hàng nước mắt tuôn rơi
Đứng bên thập giá con người hiến thân
Lòng người đau đớn vô ngần
Tựa như gươm sắc bạo tàn đâm thâu…”
Sau Mùa Chay, Nó mong mỏi chờ đến tháng 5 để được Dâng Hoa
Đức Mẹ và đó cũng là kỳ nghỉ hè. Nó không phải lo lắng đến sách vở, bài học… Để
có thể thỏa thích rong chơi trên những cánh đồng với lũ bạn chăn trâu, với diều,
với gió, với những chú cào cào… Nó thích nhất là được leo lên những sườn đồi
tím ngát hoa sim, hoa mua và bẻ những cành đẹp nhất để dâng Mẹ. Về sau nó mới
phát hiện ra vì sao nó yêu màu tím đến thế. Có lẽ cũng bắt nguồn từ cái thủa ấy.
Có một bài thơ của Giang
“Thủa còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
Ai bảo chăn trâu là khổ?
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được chưa đánh roi nào đã khóc…”
Những trò chơi dân gian đã ăn sâu vào ký ức của Nó. Thời nay
chúng chẳng còn thấy dấu vết hay chút âm hưởng nào ngay tại trên chính làng quê
đang dần bị đô thị hóa của Nó.
Trẻ con bây giờ chẳng còn biết đến cái thú vị khi tụm đầu
chơi ô quan, chơi chuyền bằng những chiếc que được vót nhẵn bóng hay cả những
bài đồng dao dí dỏm: Như thả đải ba ba, rồng rắn lên mây.
“Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Đến của nhà trời
Lạy cậu, lạy mợ
Cho cháu về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp
Ngồi xệp xuống đây”
Có lần khi chơi thả đỉa ba ba, Nó bị thằng bạn túm áo làm
xoạc mất cả một ống tay, thế là con bé ngồi khóc hu hu ăn vạ làm hắn sợ tím mặt.
“Thả đỉa ba ba
Chớ bắt đàn bà
Phải tội đàn ông
Cơm trắng như bông
Gạo tiền như nước
Dổ mắm đổ muối
Đổ chuối hạt tiêu
Đổ niêu nước chè
Đổ phải nhà nào
Nhà ấy phải chịu”
Nó nghĩ, sẽ chẳng có gì mua được những thứ niềm vui vô tư, vô
lo của một thời như thế.
Năm lớp 7, Nó được lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức. Đó là một
Thánh Lễ trang trọng và đông người nhất mà nó từng thấy khi ấy. Chính Chúa
Giêsu đã đặt Ấn Tín Chúa Thánh Thần trên trán để Nó “ngày càng thêm vững mạnh, thêm
khôn ngoan trước mặt Chúa và người ta. ” (Lc 2, 52).
Những năm đó, môn học Nó say mê hơn cả là môn địa lí. Ba mẹ
mừng rỡ khi Nó mang về giải nhất cấp tỉnh môn học ấy. Nhưng điều làm Nó vui
thích không chỉ là những tấm bằng khen mà là những điều Nó hiểu biết được từ
môn học thú vị ấy. Nó đặt câu hỏi: Tại sao các hành tinh lại chuyển động rất
trật tự như thế? Trái đất tự quay quanh trục của nó mất 24 giờ, mặt trăng lại
quay quanh trái đất, trái đất lại quay quanh mặt trời mất 365 ngày tương đương
với 1 năm, rồi các mùa được sinh ra theo con vần của vũ trụ cứ đều đặn như đã
có một lịch trình…
Mặc dù đã được đọc sách và nghe cô giảng nhưng nó cũng không
cảm thấy thỏa đáng vì Niềm Tin nhỏ bé trong nó dường như mạnh hơn Khoa học. Nó
lẩm bẩm: Chỉ có Thiên Chúa là Người tạo dựng lên vũ trụ này, chính Người điều
khiển chúng. Nó yêu các loài hoa dại và những triền đồi xanh mướt cây cỏ. Nó
thấy vẻ đẹp của chúng là một lời tuyên xưng rõ ràng nhất.
Ngược lại với môn địa lý thì Nó rất ghét môn sinh học. Bởi
khi học về lịch sử tiến hóa của con người, cô và các bạn thường hay mỉa mai các
giáo lý và cách giải thích của đạo công giáo. Những lúc ấy, Nó đã quá sợ sệt và
nhút nhát không dám ý kiến gì trước những lời lập luận của họ. Mà giả như Nó có
đủ can đảm đứng lên thì Nó cũng chẳng thể nói cho họ hiểu được. Bởi kiến thức
giáo lý của Nó còn quá non nớt, vả lại Ơn Đức Tin là một món quà vô giá không
phải ai Chúa cũng ban phát. Nó chắc mẩm điều đó trong lòng như để tự biện hộ
cho mình.
Ở nhà, mẹ vẫn luôn thúc giục ba và anh em nó đọc kinh sáng, tối.
Có những buổi vì cả ngày rong chơi mỏi cẳng nên khi đọc kinh Nó ngủ gật liên
tục. Thi thoảng Nó lại bị mẹ cốc đầu. Mẹ bắt Nó đọc kinh bà thánh Anna trước
khi ngủ và xin bà giữ gìn bảo vệ luôn. Để bây giờ, thói quen ấy gắn bó với Nó
ngay cả khi không có mẹ ở bên.
Năm cuối phổ thông, mẹ nó ốm nặng, các anh chị, người thì lấy
chồng xa, người thì đi làm… Nó cùng Ba lo việc đồng áng thay mẹ, Nó vừa phải
đạp xe 13 cây số đến trường, tan học lại vô bệnh viện chăm mẹ. Có lúc, Nó khóc
nấc lên vì quá mệt. Nó ước lúc ấy có Chúa giúp nó một tay thì đỡ tủi thân hơn
biết bao. Và rồi cũng chẳng hiểu nổi sức mạnh nào khiến nó vượt qua? Khi nó đậu
tốt nghiệp cũng chính là ngày mẹ ra viện. Nó vui mừng khôn tả.
Mười hai năm học, giấc mơ đại học không thành. Nước mắt Nó
lại lăn dài trên trang nhật ký. Nhưng Nó không bỏ cuộc vì nó biết bỏ cuộc dù
trong suy nghĩ thôi cũng là một thất bại rồi. Nó ôn và thi lại.
Có lần mẹ nói: Mẹ muốn con đi tu, nếu có đậu đại học không
biết mẹ có còn sống mà lo cho con được không? Thì ra lúc ấy mẹ đã linh tính
trước về sức khỏe của mình.
Ngày nó bước chân vào giảng đường là một ngày không có mẹ ở
bên. Nó trách Chúa thật nhiều vì đã không để mẹ ở lại cạnh nó cho đến ngày hạnh
phúc ấy.
Nước mắt bắt đầu trở thành một phần cuộc sống của Nó nơi đô
thành. Cái “vỏ ốc” nó trốn là “vỏ ốc” của cô đơn và tủi thân vô đáy. Càng đi
sâu nó càng thấy chặt chội và khó thở.
Thi thoảng ngồi trước Chúa trong ngôi thánh đường thanh vắng,
Lời mẹ lại vẳng lên trong thâm tâm nó. Nhưng rồi cuộc sống lại xô Nó đi…
Với chiếc xe đạp cũ, Nó lang thang khắp các trường đại học để
phát tờ rơi cho một trung tâm anh ngữ, khi thì nhận ủi vải giúp một của hiệu
may trên phố Láng. Rồi có những sớm mùa đông khi hai đứa bạn co tròn trong
chiếc chăn ấm thì Nó phải đi giúp việc cho quán bún riêu gần nhà, rồi bưng bê, bán
hoa, đan khăn thuê… Có những ngày hè nóng nực, Nó nằm co tròn trên chiếc chiếu
cói mà mồ hôi in hằn vết người, mấy cuốn sách vứt lung tung, máy tính còn đang
đánh dở bào báo cáo thực tập, nhạc không lời rân rỉ nho nhỏ, quạt máy quay ò ò,
điện thoại nằm lăn lóc ngủ theo Nó, tô mỳ tôm ăn chưa kịp rửa… Nó đang dồn sức
cho bài vở và kỳ thi cuối.
Giảng đường là nơi nó lĩnh hội được nhiều kiến thức thực tế
nhưng đó không bao giờ là nơi tinh tuyền nhất. Nó vẫn thấy được những tiêu cực
thường như cơm bữa của cả thầy lẫn trò. Những kẻ chẳng nhọc công bao nhiêu vẫn
cõng trên lưng những con điểm thật to. Còn những “con mọt sách” nghèo thì chỉ
biết ngậm ngùi chấp nhận sự thật. Báo cáo của nó, không tiền, không quà chỉ
dừng lại ở điểm 8, không đủ cho một tấm bằng giỏi như mục tiêu của Nó đặt ra.
Hà Nội rất đẹp và Nó cũng rất yêu mảnh đất ấy nhưng dường như
nó quá bon chen và ngột ngạt. Có nhiều lần đi trên phố đông người, Nó thấy dưới
chân cầu, nơi xó chợ còn có rất nhiều những số phận hẩm hiu đang co ro trong
chiều mưa nặng hạt. Trước cổng trường thân quen vẫn còn biết bao mầu áo nâu bạc
phếch vất vả, dãi dầu với những ghánh hàng rong. Nghịch lại với những cảnh ấy
là những cảnh giàu sang, sống phung phí, buông thả của những cô cậu học trò con
nhà đại gia.
Nó bỗng thấy: Hà Nội đủ rộng lớn để người ta lạc mất nhau và
lại tìm thấy nhau trong cuộc đời. Nó cũng đủ khắc nghiệt để cướp đi những giấc
mơ cao đẹp thời tuổi trẻ của một ai đó. Nhưng Hà Nội cũng đủ bao dung để ban
thêm cho nó một điều thật quý giá, để biết trân trọng cuộc đời này hơn. Nó ngộ
ra rằng: Cuộc sống khó khăn giúp nó thêm mạnh mẽ vì phải đối mặt và tìm cách
vượt qua và Nó luôn tin một điều rằng: Chúa không để nó bị thử thách quá sức, nhưng
khi bị thử thách Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để nó có sức chịu đựng. (1Cr 10,
13).
Quá khứ của Nó chẳng có hình hài, tuổi thơ của Nó không có
gương mặt, mọi biến cố cũng chẳng có tính cách, mấy năm sinh viên cũng trôi vèo
trong chớp mắt. Tất cả như một giấc mơ. Nó không tự hào đó là một giấc mơ đẹp
nhưng Nó tự hào vì giấc mơ ấy có Chúa ở cùng. Lời mẹ khi xưa lại vang lên trong
tim nhỏ. Nó thổn thức khi đứng trước ngã ba cuộc đời. Từ lâu, Nó cứ chờ đợi một
câu trả lời từ chính thâm tâm. Từ trời cao, Nó cũng mong nhận được một lời
khuyên của mẹ cho quyết định của Nó, quyết định khi chọn cho mình ngã rẽ có
dòng chỉ dẫn: “God’s way”…
Mã số: 14-071
Sài Gòn chiều nay se lạnh, cái lạnh man mác giống hệt tiết
trời đầu đông quê chị. Nó làm chị nhớ quê nhà và nhớ những em nhỏ của chị lạ
lùng!
Hôm chị Thu về Bắc, chị định gửi cho các em mấy khóm hoa
violet mà không kịp. Chị Thu về, cu Bin cũng về, vậy là chị chẳng còn người
thân nào dưới vòm trời này nữa. Cũng chẳng còn chỗ để về thăm trong những ngày
nghỉ vội. Quay qua, quay lại mà đã 3 Mùa Chay chị xa quê, xa lũ nhỏ rồi.
Ngày chị đi giàn nho xanh um màu lá. Các em không nhìn chị, cũng
chẳng ngỏ một lời từ biệt. Chị cũng lặng thinh, bỏ lại tất cả để theo đuổi một
lý tưởng mà người ta cho rằng là quá mơ hồ và liều lĩnh. Chị đi vội, chưa kịp
thực hiện lời hứa là trồng cho các em mấy khóm violet - loài hoa tím nhỏ mà các
em rất thích. Bây giờ nhìn những đóa violet bên lan can nhà ai, chị lại thấy
mình thật là thiếu sót.
Cuộc sống của chị bây giờ là những giờ kinh, giờ lễ, những
công việc bổn phận nho nhỏ và những tiếng cười bên những đứa nhỏ dễ thương. Công
việc của chị là coi sóc những đứa trẻ mồ côi và tàn tật tại trung tâm Bừng Sáng.
Mặc dù đôi khi cũng bộn bề công việc, học hành, cả những suy tính và lo lắng
cho tương lai nhưng ở chốn này chị thật sự tìm thấy bình an. Có lẽ vì có Chúa
và bóng hình ngây thơ của lũ trẻ luôn bên chị. Chị yêu chúng và yêu luôn cả
những tiếng cười khanh khách, trong veo không chút gợn mây của chúng.
Chị ngồi bên ô cửa, đặt bút hí hoáy viết thư cho các em của
chị ở quê nhà. Một thói quen chị hay làm mỗi dịp rảnh. Một chị bạn đi ngang qua
vô tình thấy được, liền thắc mắc:
- Ủa, bộ chị Khánh mới nhận em nuôi hay sao? Em tưởng chị là
út cưng rồi chứ?
Chị mỉm cười đùa lại:
- Út hờ thôi, em còn nhiều em lắm, nếu chị muốn làm quen, em
sẽ giới thiệu. . .
Nếu chị không nói ra thì chắc sẽ chẳng có ai hiểu được điều
mà chị đã kí kết với bản thân mình cách đây 4 năm.
Chị nhớ như in vào Lễ Tro năm ấy, khi chị Cúc chở các em từ
bệnh viện huyện về nhà thờ. Vị cha già, cùng mấy anh chị giáo lý viên đang
chuẩn bị tập hát. Tất cả đều sững sờ khi trông thấy mặt mũi các em tím tái, thân
thể, tay chân thì đầy những vết bầm dập, rớm máu… Không thấy đứa nào khóc, bởi
các em đâu còn khóc được. Chị thắt lòng quay đi cho giọt nước mắt rớt xuống.
Đêm ấy, chị đã mơ thấy các em, chị thấy rất nhiều máu nhỏ
xuống, rớt trên những lá nho khô rụng dưới nền gạch. Chị không nhìn rõ khuôn
mặt của một em nào, chỉ thấy rất rất nhiều những bàn tay, bàn chân nhỏ xíu đang
run lên, và những tiếng rên ri rỉ. Các em đông nghít, giàn nho trơ trụi lá
không thể cản được cơn gió Đông Bắc cuối mùa. Chị lấy chiếc khăn len trên cổ, thấm
những vết thương đầy máu ấy… Tỉnh giấc, nước mắt ướt gối. . . Chị hứa với bản
thân: "Từ hôm nay các em sẽ là em ruột của chị…"
Từ đó, chị vẫn hay trò chuyện với các em bằng những tin nhắn
SMS gửi lên Trời. Mùa Chay năm nay lạ lắm! Bởi chị gặp lại những giấc mơ có màu
máu. Chị không phải là người duy tâm hay tin vào những điều nhảm nhí nhưng tự
trong lòng, chị cảm thấy một nỗi lo sợ và bất an…
Có những đêm chẳng ngủ được, nằm đếm máy bay trên ngọn mãng
cầu nhà hàng xóm, chị lại nghĩ về các em và Mùa Chay năm ấy. Chị thủ thỉ trong
lòng rồi lại cầm bút viết:
“Nghe đâu, Thái Nguyên đang mưa phùn và rét Nàng Bân? Lạnh
lắm phải không các em?
Hôm qua, ghé một trang báo, chị bỗng có cảm giác bồng bềnh, lạnh
sống lưng khi nhìn thấy mấy tấm hình đầy máu, giống hết cảnh tượng ngày chị gặp
các em. Bên cạnh đó là dòng chữ:
“Bệnh viện đa khoa Thanh Bình mỗi ngày hơn 40 ca phá thai…”. Những
đứa trẻ này đồng cảnh với các em. Người lớn đã đẩy chúng ra khỏi dạ mẹ khi mới
20, 22 tuần tuổi. Thậm chí khi các em đã đầy đủ hình hài rồi, xinh xắn như một
con búp bê nhỏ… Vậy mà người lớn vẫn nhẫn tâm bóp nghẹt và quăng các em ra đời
…
Chị không có quyền xét đoán họ hay lên án xã hội này bởi
quyền ấy là của Thiên Chúa. Chị chỉ muốn làm điều gì đó cho các em trong
dịp mừng lễ Phục Sinh này… Làm gì được? Khi thế giới của hai chúng ta thật khác
nhau? Cầu Nguyện cho các em nhé! Chị sẽ làm điều ấy.
Nhìn những chiếc lá phượng mỏng manh ngoài góc vườn kia, chị
lại thấy cuộc đời các em cũng chẳng khác gì những chiếc lá, thậm trí còn không
được tự do, thanh thản bằng chúng.
Ơn gọi của lá là dự phần làm nên sự sống. Đẹp làm sao sự chào
đời của những chiếc lá non. Mỗi chiếc lá là một công trình. Nhưng những công
trình kỳ diệu của Thiên Chúa ấy lại bị hái xuống bởi những bàn tay thân quen, là
cha, là mẹ hay những người mạo danh là “lương y, từ mẫu”… Nhựa chảy ra mà họ
không hề có một chút cảm thương. Lá chết nhẹ tựa gió bay còn các em thì đớn đau
bội phần…
Viết thư này chị không muốn nhắc lại chuyện xưa, bởi nó có
thể làm các em buồn. Nhưng xin cho chị viết những lời này để chuyển đến những
người lớn ngoài kia nữa. Bởi rất có thể Giáng Sinh này nhiều người bạn nhỏ như
các em lại bị giết chết. Chị mong cái động từ “PHÁ THAI” sẽ biến mất trong cuốn
từ điển của con người. Nếu không được, thì chỉ mong nó đừng qúa bành trướng
trong xã hội này.
Thế giới chị đang sống đây còn quá nhiều bạo tàn và phũ phàng
hơn những gì người ta tưởng các em ạ! Người ta say sưa nói về sự sống, mải mê
trước bao triết lý đẹp của cuộc đời. Nhưng có mấy ai nhìn ra những cái chết của
những đứa bé ngay giữa lòng sự sống. Với các em và các bạn nhỏ khác, có lẽ Sống
như là một cái gì gì đó chợt đến rồi chợt đi. Các em được một lần lóe sáng giữa
cõi âm u rồi một lần vụt tắt giữa trời giông tố để rồi lại lặng lẽ trở về như
một phần tử vô danh giữa lòng đất mẹ.
Nhưng đừng buồn các em nhé! Hãy cứ mỉm cười hạnh phúc vì các
em đang là những công dân Nước Trời đó! Người ta không cho các em quyền Sống
nhưng các em có quyền hãnh diện vì điều ấy. Mẹ Maria và Cha Giuse cùng Hài Nhi
Giêsu sẽ là gia đình mới của các em. Chúc các em một mùa Phục Sinh tràn đầy ánh
sáng và ấm áp trong vòng tay của Chúa Nhân Lành.
Thương các em thật nhiều!
Chị của các em…”
Trên sự trống rỗng màu trắng của những trang giấy, Chị tin
Chúa sẽ lấp đầy những thiệt thòi mà những người lớn vô tâm đã làm tổn thương
các em của chị.
Chị cẩn thận gấp tờ giấy có nét chữ tròn trịa rồi bỏ vô một
cái bao thư có viền màu tím nhạt, bên ngoài chị không quên ghi thêm hai dòng
chữ:
From: Chị Khánh
To: Gửi các Thiên Thần nhỏ trong Nước Trời.