GIẢI VIẾT VĂN
ĐƯỜNG TRƯỜNG 2015
BẢN TIN 02
Bước vào Năm Mới 2015, Ban tổ chức Giải Viết Văn Đường
Trường xin kính chúc quý Ban Biên Tập các trang Truyền Thông Công Giáo, quý tác
giả và độc giả bốn phương một cái Tết vui tươi đầm ấm và một Năm Mới an bình
hạnh phúc trong Chúa.
Nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của các trang truyền thông Công
giáo, cuộc thi Giải Viết Văn Đường Trường lần thứ 3 (2015) được mọi người biết
đến khá rộng rãi, hứa hẹn sẽ có nhiều tác giả ở khắp các Giáo phận trong nước
tham gia. Trong bản tin số 1 chúng tôi giới thiệu 7 truyện đã qua vòng sơ loại
được chọn trong số 15 tác phẩm dự thi đợt đầu tiên. Hôm nay chúng tôi hân hạnh
giới thiệu tiếp 7 truyện mới được chọn trong số các bài dự thi có số thứ tự từ
016 đến 027. Với tỉ lệ bài được chọn gia tăng này, cuộc thi hứa hẹn sẽ ngày
càng có nhiều tác phẩm giá trị.
Nhằm tìm kiếm và xây dựng các tài năng văn xuôi cho văn
học Công giáo, Giải Viết Văn Đường Trường được tổ chức liên tục từng năm và
tổng kết trao giải trong 6 năm liền (2013-2018) dành cho những truyện ngắn có
nội dung Kitô giáo, đồng thời sẽ tập hợp ấn hành các tuyển tập truyện ngắn cho
các tác phẩm đạt giải. Sau tuyển tập Chuông Chiều của cuộc thi lần thứ 1, tuyển
tập của cuộc thi lần thứ 2 tựa đề Nắng Mùa Đông vừa phát hành, hiện đang có bán
tại các nhà sách.
Hiện nay cuộc thi lần thứ 3 (2015) vẫn đang tiếp tục nhận
bài dự thi. Ước mong quý vị và các bạn giúp giới thiệu chương trình này thật
rộng rãi.
Xin mời xem thể lệ cuộc thi ở cuối bản tin này và các
thông tin khác về cuộc thi tại http://gpquinhon.org/qn/news/viet-van/
Xin chân thành cám ơn.
Qui Nhơn, ngày 09-01-2015
Thay lời Ban Tổ chức
Linh mục TRĂNG THẬP TỰ
Mã số: 15-016
Mưa
rả rích đêm ngày, mưa tối tăm mặt mũi. Sáng ra, trời lại mưa. Mưa không nặng
hạt nhưng dầm dề. Gió thổi nhẹ kèm theo những hạt mưa. Những tàu lá chuối
nghiêng mình theo gió. Mưa rơi tí tách trên mái tôn, lộp bộp trên tàu lá chuối
và lá cọ trong vườn. Mưa chưa đầy mười phút đã tạnh. Những giọt nước còn đọng
lại trên mái hiên tí tách nhỏ xuống nền gạch, lách tách trên tấm phên trước
hiên. Bầu trời vẩn đục, u ám. Ngày hè, trời trong xanh bao nhiêu thì hôm nay nó
như sắp đè nặng lên cả mọi cảnh vật.
Sáng
sớm, Mai đã ngồi soạn bài trên chiếc bàn kê cạnh cửa sổ. Cây Thánh Giá nhỏ màu
nâu đã cũ, dưới chân có gắn mấy bông hoa xinh xắn, dễ thương. Cây bút trên tay
Mai chạy đều trên trang giấy. Tiếng kêu sột soạt. Thỉnh thoảng, Mai đưa mắt
ngắm nhìn Chúa Giêsu, thì thầm điều gì đó rồi mỉm cười. Ngài cũng cúi nhìn Mai.
Hai bên chỉ nhìn nhau nhưng cũng đủ hiểu ý nhau rồi. Mai đứng dậy, vươn mình và
ưỡn căng cái lồng ngực, cố hít một hơi thật sâu. Tâm hồn Mai như nhẹ nhõm hơn.
Chợt nhớ ra điều gì quan trọng, Mai ngồi xuống, với tay lấy cuốn sách trên kệ,
lại cặm cụi đọc. Mai soạn bài cho buổi học tối nay. Cuốn sách Giáo lý Hội Thánh
Công Giáo được Mai mở ra, đặt ngay ngắn trên bàn. Mai vừa được phân công dạy
lớp Giáo lý cho các em chuẩn bị rước lễ lần đầu. Giáo án đã soạn xong mà Mai
vẫn còn băn khoăn. Mai ý thức được vai trò của mình trong công việc quan trọng
này. Mấy tháng trước, Mai đã phải ngớ người vì câu phát biểu của cậu học trò
lớp Kinh Thánh:
– Thật
nhảm nhí. Một tấm bánh nhỏ xíu bằng lúa mì mà mọi người cứ lên ăn hoài. Cứ bảo
đó là Chúa Giêsu Thánh Thể!
– Sao
em lại nói thế? Chúa Giêsu sẽ rất buồn đó!
Nó
chỉ nhìn Mai rồi ngồi vậy, cũng không xin lỗi. Cả lớp học xôn xao. Mai nghiêm
nét mặt:
– Cả
lớp im lặng. Học bài đi. Chị cấm tất cả các em không ai được nhắc đến chuyện
này nữa. Rõ chưa?
– Dạ!
Không
khí lớp học hôm đó chùng xuống và kết thúc trong sự tẻ nhạt. Mai ôm hẳn một nỗi
băn khoăn lớn. Mai tự hỏi: “Tại sao lớp Giáo lý Kinh Thánh mà cũng có những em
phát biểu như thế?”. Suốt đêm, Mai trằn
trọc mà không sao ngủ được. Câu nói của cậu học trò cứ ám ảnh Mai. Trở mình,
Mai ngồi dậy, bước xuống giường, xỏ dép đi ra vườn. Đến bên đài Đức Mẹ, Mai cầu
nguyện hồi lâu. Mai đã từng đọc cuốn sách “Người say yêu Thánh Thể” và chính
kinh nghiệm hơn 18 năm được sống và lớn lên nhờ Bí tích Thánh Thể đã nuôi dưỡng
tâm hồn Mai. Mai cảm nghiệm được tình yêu cao vời của một Thiên Chúa đã hiến
mình vì yêu. “Mẹ ơi! Giúp con giải quyết bài toán khó này Mẹ nhé!”, Mai thì
thầm. Đôi mắt Mai như gắn chặt vào khuôn mặt dịu hiền của Đức Maria. Nước mắt
Mai chợt chảy dài.
Sáng
sớm, Mai quyết định gọi điện báo tin cho thầy trưởng ban Giáo lý biết sự việc.
Thầy đi trình với cha xứ. Ngài nổi giận, quát:
– Thằng
nào dám hỗn láo như vậy? Nó tên gì? Con nhà ai? Ở giáo khu nào?
– Dạ
thưa cha... con cũng không rõ. Cô Mai không cho con biết.
– Thầy
gọi điện hỏi rõ cho tôi. Cấm không cho đi lễ, không cho rước lễ gì hết. Cấm
tuyệt đối!
Nhận
được điện thoại của thầy, Mai trả lời rõ:
– Thầy
đừng gạn hỏi con. Con không cho biết đâu. Con chỉ muốn nói lên trường hợp như
vậy để chúng ta là những nhà giáo dục phải xem lại cách dạy của mình. Chúng ta
đều phải chịu trách nhiệm trước mặt Chúa.
– Nhưng
cha xứ yêu cầu cho biết tên tuổi thằng bé.
– Đây
chỉ là một em đã dám nói lên suy nghĩ của mình. Có thể, còn có những em khác
nhưng chúng sợ không dám nói ra. Điều này rất nguy hiểm thầy ạ. Con không cho
biết tên em ấy đâu. Thầy cứ thưa lại với cha xứ như vậy. Con chào thầy.
Từ
ngày hôm đó, Mai cứ suy nghĩ mãi về vấn đề rối rắm này. Nó làm Mai băn khoăn,
thao thức rất nhiều. Mai đã từng khóc vì sung sướng khi cảm nhận tình yêu của
Chúa thật cao vời ngay khi vừa được rước Chúa Giêsu Thánh Thể. Tất cả những gì
là thiêng liêng nhất Mai đều cảm nhận thật gần gũi, thân thương nhưng thật khó
để nói ra. Là giáo lý viên, Mai hiểu mình phải cố gắng soạn bài thật tốt, dạy
dỗ các em bằng tình thương. Nhưng hơn hết, Mai hiểu rằng chính Mai phải sống
điều Chúa dạy. Chỉ có cuộc sống cụ thể hằng ngày, Mai mới mong trở thành một
chút ánh sáng của Chúa giữa đời. “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những
ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (x. Lc 13, 49). Lời của Đức Giêsu lại
vang lên trong lòng Mai. Mai thổn thức trong lòng. Vừa dạy lớp Kinh Thánh xong,
Mai đã được phân công dạy lớp xưng tội rước lễ lần đầu. Mai càng ý thức hơn
trách nhiệm của mình.
Hằng
ngày, Mai thường lui tới nhà thờ để câu nguyện, viếng Chúa Giêsu Thánh thể.
Thói quen tốt lành này đã theo Mai từ những ngày còn bé. Mẹ dắt tay Mai đến nhà
thờ. Đi làm ngang qua nhà thờ, Mai đều ghé chào Chúa rồi mới đi làm. Nhà thờ mở
cửa cả ngày nên lúc nào Mai cũng có thể vào viếng Chúa. Mai còn nhớ như in ngày
đầu tiên được rước Chúa GiêsuThánh Thể. Mai đã sung sướng đón nhận Chúa vào
lòng và trở nên người bạn bé nhỏ của Chúa. Có một lần, Mai không dám lên rước
lễ. Nhìn mọi người bước lên bàn tiệc thánh, Mai không cầm nổi nước mắt. Mai nức
lên, tiếng nấc nghẹn ngào trong cổ, rồi Mai thút thít. Xấu hổ, Mai úp tay che
mặt. Về nhà, mẹ đã đón hỏi:
– Sao
con không lên rước lễ?
Mai
òa khóc và nói:
– Con
không ngoan. Con làm Chúa Giêsu của con buồn. Con đã ngủ gật… Mẹ ạ!
Nhìn
con yêu khóc, mẹ kéo Mai vào lòng vỗ về:
– Con
yêu, Chúa Giêsu muốn con trở thành bạn của Ngài, phải không nào? Con có muốn
được rước Chúa vào lòng không?
Mai
gật đầu, khóe mắt vẫn còn mọng nước.
– Nhưng
mà con còn nhéo bạn bên cạnh một cái.
Vuốt
tóc Mai, mẹ bảo:
– Khi
con xin Chúa Giêsu tha tội, Ngài đã quên hết tội của con rồi. Khi con lên rước
Chúa với lòng khao khát, con sẽ được tha hết các tội nhẹ con phạm và còn được
Chúa ban cho nhiều ơn ích thiêng liêng nữa. Con hiểu không?
– Dạ
hiểu! Thế là con phải làm hòa với Chúa rồi lên rước lễ hả mẹ?
– Ừ!
Chúa Giêsu nhớ con lắm đấy. Lần sau, nếu con cố gắng rồi mà vẫn ngủ gật thì cứ
xin Chúa giúp cho nhé. Nhớ đừng nhéo bạn nghe chưa. Làm bạn buồn thì con phải
xin lỗi bạn. Như thế, Chúa Giêsu sẽ vui lắm đó.
– Dạ!
Những
kỷ niệm tuổi thơ cứ ùa về làm Mai thêm thổn thức hơn. Làm sao dạy cho các em
biết và hiểu được về Chúa Giêsu Thánh Thể? Câu hỏi làm Mai băn khoăn mãi. Mưa
đã tạnh. Nền gạch ngoài sân còn ướt. Cơn bão đến mamg theo những trận mưa xối
xả. Lũ lên nhanh. Đến hôm nay, nước đã đứng, chỉ còn mưa nhẹ chưa chịu dứt hẳn
cho mặt trời lên cao.
– Tối
nay đi dạy không Mai?
Câu hỏi của Quân làm Mai giật mình.
– Anh
sang chơi. Anh ngồi đây để em rót nước.
– Thôi
khỏi Mai ạ. Anh vừa uống bên nhà.
– Vậy
thôi, anh em mình ngồi đây nói chuyện.
– Reng!
Reng!...
– Hình
như bố em gọi. Xin lỗi anh nha.
– Không
sao. Em nghe máy đi.
Quân
ngồi chơi, ngắm giá sách của Mai. Quân thấy cuốn sách: “Truyện một tâm hồn”,
cuốn sách mà anh yêu thích đang nằm ngay ngắn trên giá, nhưng Quân không rút
xuống để đọc.
– Anh
Quân. Anh ngồi chơi, em ra ngoài làng mang cá về làm thịt để kho. Bố em nhắn ra
mang cá về. Lũ lên, cá nhiều lắm anh ạ.
– Để
anh đi cùng em.
– Vậy
anh em mình cùng đi.
– Mang
thêm chiếc dù kẻo tí mưa em ạ.
– Dạ!
Hai người rảo bước ra con đường làng.
– Mai
chắc đọc nhiều sách hạnh các Thánh lắm nhỉ.
– Em
mới đọc được ít thôi.
– Đọc
sách rất tốt. Nó là cả một thế giới bao la em ạ. Tri thức loài người đều nằm
trong đó.
– Anh
nói đúng. Em đọc sách hạnh các Thánh và học hỏi gương sống của các ngài. Không
quá cao vời mà lại gần gũi anh Quân nhỉ?
– Anh
thấy em có cuốn sách “Truyện một tâm hồn”, đọc xong cho anh mượn nha.
– Anh
cứ lấy mà đọc. Em đọc xong lâu rồi. Đó là cuốn sách em yêu thích. Em đọc hoài
mà không chán anh ạ. Càng đọc càng thấy mới mẻ. Em mê nó lắm.
– Ừ!
Anh cũng mê nó lắm. Lúc còn đi học, ở trong nhóm sinh viên Công Giáo, tụi anh
nhận Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu làm bổn mạng. Hồi trước, anh cũng có một
cuốn nhưng anh cho cô bạn học rồi. Tí về, em lấy cho anh mượn nha.
– Dạ!
– Em
mua nó lâu chưa?
– Hi
hi..! Quà bạn em tặng đó.
– Anh
nào tặng à?
– Anh
Quân cứ đùa em hoài.
Thấy
Mai đỏ mặt, Quân cười. Hai người sóng bước bên nhau. Quân là anh họ của Mai.
Chơi thân với nhau từ bé, Quân khá hiểu tính tình của Mai.
– Anh
Quân này...
– Ừ!
Có chuyện gì vậy Mai?
– Anh
nghĩ gì về Bí tích Thánh Thể?
– Đó
là một món quà và là một mầu nhiệm em ạ.
– Đúng
là mầu nhiệm. Em đang gặp một bài toán khó. Rắc rối lắm anh ạ.
– Rắc
rối? Mai mà cũng có rắc rối sao?
– Anh
Quân cứ đùa em hoài. Rắc rối thì ai mà chẳng có. Chỉ là rắc rối lớn hay nhỏ
thôi.
Thấy
giọng Mai nghiêm trọng, Quân nhẹ nhàng hỏi:
– Em
nói anh nghe coi.
– Tháng
trước, em dạy lớp Kinh Thánh, có thằng bé kia phát biểu một câu mà làm em ngớ
người. Nó bảo: “Thật nhảm nhí. Một tấm bánh nhỏ xíu bằng lúa mì mà mọi người cứ
lên ăn hoài. Cứ bảo đó là Chúa Giêsu Thánh Thể!”
– Ôi!
Sao nó nói vậy?
– Thì
thế nên mới có rắc rối. Nó làm em suy nghĩ hoài.
– Ngoài
em có ai biết chuyện này không?
– Em
cấm mấy em trong lớp không được nói lung tung. Em gọi điện báo cho thầy trưởng
ban Giáo lý, các thầy cô cũng đã ngồi lại với nhau. Nhưng… mỗi người một ý
kiến. Tựu trung lại là rắc rối vẫn chưa được giải quyết.
– Họp
lại mà chưa giải quyết được sao? Phải xem lại tình hình em ạ. Thế ý kiến của
cha xứ thì sao?
– Biết
chuyện, Ngài giận dữ mắng; hỏi tên thằng
bé để cấm không cho đi lễ rước lễ gì hết nhưng em không cho biết tên.
– Vấn
đề này thật sự rất khó. Nó cần phải có thời gian lâu dài chứ không phải ngày
một ngày hai là có thể giải quyết được. Phải tìm cho ra nguyên nhân và rà xét
lại cách giảng dạy em ạ. Với lại, người lớn phải ý thức làm gương cho các em.
– Em
cũng suy nghĩ nhiều lắm nhưng không biết phải bắt đầu từ đâu. Anh cầu nguyện
nhiều cho giáo lý viên chúng em nhé. Toàn người trẻ lại thiếu kinh nghiệm nữa.
Thời đại này, cái gì người trẻ cũng đòi phải nhìn thấy tận mắt, tay phải rờ
thấy mới tin.
– Thời
đại công nghệ thông tin mà em. Anh sẽ cầu nguyện cách đặc biệt.
Dưới
trời mưa, hai tâm hồn trẻ say sưa với đề tài. Họ hiểu nhau hơn, giúp đỡ nhau
hơn.
Thấy
Mai chậc lưỡi, Quân nói:
– Học
Đại học, anh cũng từng trả lời cho tụi bạn về việc rước lễ của người Công Giáo.
Những câu hỏi cũng hóc búa lắm.
– Ừm
... em hiểu. Nhưng em nghĩ, nhìn bề ngoài thì vấn đề có vẻ giống nhau nhưng
cách lý giải thì không hoàn toàn giống nhau.
– Em
thử nói xem.
– Theo
em, vấn đề là nếu những người bạn của anh muốn biết cụ thể thì nó thuộc về hồng
ân đức tin anh ạ. Họ phải thực sự thành tâm thiện chí tìm biết Thiên Chúa thì
mới mong giúp được. Vấn đề của cậu học trò này nan giải hơn nhiều.
– Ý
em là nền tảng đức tin của các bạn trẻ Công Giáo hôm nay?
– Anh
nghĩ sao?
– Xét
ra thì trách nhiệm thuộc về chúng ta, là những người lớn phải hướng dẫn cho các
em cụ thể.
– Môi
trường gia đình cũng rất quan trọng anh nhỉ?
– Ừ!
Vì gia đình là cái nôi nuôi dưỡng đời sống đức tin của mỗi người Kitô hữu. Cha
mẹ là những thầy dạy đầu tiên.
Đã
lâu Mai và Quân không có dịp hàn huyên tâm sự. Hôm nay, những vấn đề nhức nhối
của đời sống đức tin lại được hai người cùng nhau thảo luận. Từ xa, tiếng cười
vui của bà con buộc hai người phải tạm gác câu chuyện.
– Ông
Hai hôm nay trúng lớn nha.
– Vâng!
Tạ ơn Chúa! Cám ơn bác! Bác cũng được nhiều quá.
– Con
chào các bác, chào cô chú ạ.
– Cô
Mai hả! Ra lấy cá về kho. Trưa nay có bữa thịnh soạn rồi.
– Dạ!
– Thầy
Quân về bao giờ?
– Tí
ghé nhà cụ chơi.
– Sắp
được làm cha chưa vậy thầy?
– Dạ
các cụ và cô chú còn phải cầu nguyện nhiều cho con.
– Cầu
suốt ngày à! Thầy làm cha thì cầu nguyện cho chúng tôi với nha.
– Dạ
con cầu nguyện cho ông bà sống lâu trăm tuổi ạ.
Trút
cá trong xô vào giỏ, Mai quay sang nói:
– Anh
Quân, em về trước nha.
– Ừ!
Mai về trước đi. Anh ở lại một lúc rồi về sau.
– Cháu
xin phép mọi người, cháu về trước ạ!
– Cô
Mai về nha!
– Dạ!
Mai
xách giỏ cá đi về. Bữa cơm trưa nay sẽ thịnh soạn hơn mọi ngày. Được chia sẻ
với Quân, Mai thấy lọng nhẹ nhõm đôi phần. Đi ngang qua ngôi nhà thờ rêu phong
cổ kính, Mai rẽ vào. Treo giỏ cá lên cành cây trước sân, Mai đi lại bên vòi
nước, rửa chân tay cho sạch rồi bước vào nhà thờ. Cúi đầu chào Chúa, Mai bước
đến quỳ lên hàng ghế thứ hai. Mai ngắm Chúa. Ánh đèn dầu bên cạnh nhà tạm chỉ
đủ chiếu sáng một ít lên khuôn mặt Mai. Mai thầm thĩ: “Lạy Chúa Giêsu! Con yêu
mến Chúa! Xin Chúa chúc lành cho công việc của chúng con. Con xin trao vào bàn
tay nhân từ của Chúa những học trò của chúng con. Xin Chúa tỏ mình cho các em,
cho các em được cảm nếm tình yêu dịu hiền của Chúa qua Bí tích Thánh Thể.” Mai
cúi mình phủ phục. Lúc này, Mai giống như một nữ tu thánh thiện.
Những
băn khoăn vẫn còn đó nhưng tự sâu thẳm trong tâm hồn Mai nhận thấy một niềm an
ủi vô biên. Những con cá treo ngoài sân nhắc Mai nhớ đến bữa cơm trưa. Mai phải
về chuẩn bị bữa ăn trưa cho cả gia đình. Mai cúi đầu chào Chúa rồi bước ra khỏi
nhà thờ. Sân nhà thờ đã khô. Mây trên trời đã dần tản ra. Mặt trời ló mình ra
khỏi đám mây, chiếu tỏa những ánh nắng ấm áp. Những cây xanh sau những ngày dài
tắm gội, được nắng sưởi ấm, chúng reo vui trong gió. Mai nhủ thầm: “ Mình sẽ cố
gắng hết sức, phần còn lại đã có Chúa lo.” Mai bước đi, lòng đầy phấn khởi...
Mã số: 15-017
Mặt
trời đã đứng bóng. Nắng oi ả, không khí ngột ngạt. Nam mệt như đứt hơi khi lên
cái dốc này. Chiếc xe cà tàng của Nam không đủ sức leo hết con dốc, được hơn
nửa thì xe chết máy. Nam vất vả đẩy xe lên. Leo hết dốc, Nam thở phào nhẹ nhõm.
Nam
vừa leo xong cái dốc, đang mệt, mồ hôi ướt đẫm trán. Chiếc áo Nam mặc ướt sũng,
chua mèm. Nam chăm chăm nhìn ông Hai Thời, người hàng xóm giàu có. Ông đang
ngồi trong nhà, chiễm chệ trên một cái ghế bành rất hợp với vóc người của ông.
Điếu thuốc trên tay đang nghi ngút khói. Ly bia đặt trên bàn ngấn bọt, ông đưa
tay cầm lên uống. Nam nhìn ông như thèm khát, thèm khát sự giàu sang.
Nhà
Nam cạnh nhà ông. Ngôi nhà ông như một biệt thự mọc giữa những ngôi nhà cấp
bốn, những mái nhà đen sạm vì khói bếp và xuống cấp vì thời gian. Cuộc sống của
họ khó khăn và còn khó khăn hơn nữa mỗi khi bão đi qua. Ông không mua một chức
gì trong xã nhưng ông “có tiền”, mọi “phiền phức” ông đều lo êm xuôi.
Ngôi
nhà Nam ở là một căn nhà cấp bốn đã xuống cấp. Cha mất sớm, một mình mẹ lo cho
Nam ăn học. Nam ấp ủ bao ước mơ về một tương lai tươi đẹp. Nam thi đậu đại học
nhưng không có cơ hội bước chân vào giảng đường. Giấy báo nhập học, mẹ lại ốm
nặng phải nhập viện mấy tháng liền. Nam tất bật lo thầy chạy thuốc cho mẹ, chăm
mẹ ở viện. Ước mơ của Nam bỗng chốc tan biến.
Chiếc
xe đã được đẩy lên sân, mảnh sân được trát xi măng nhưng lồi lõm đủ chỗ. Nhìn
mảnh sân, Nam nghĩ, sẽ có ngày không chỉ cái sân mà cả ngôi nhà sẽ được Nam sửa
sang, xây mới. Làn gió thổi, những cành cây rung rinh mang lại một mùi hương
rất dễ chịu của cây trái trong vườn. Tiếng mẹ gọi khiến Nam khó chịu:
– Con
tắm rửa, nghỉ ngơi rồi chiều còn đi lễ.
– Biết
rồi!
Nam
thường trả lời cộc lốc như thế mỗi lần mẹ gọi và chẳng để ý đến sự tủi thân của
mẹ. Nam đi thẳng vào trong nhà. Nền nhà không láng xi mà chỉ là nền đất, mát
rượi. Nam chẳng thèm tắm, không lên giường để nghỉ ngơi; bát cơm ăn vội đang
nằm trơ trọi trên chiếc bàn gỗ, một chân bàn đã mục và chỉ chờ được thay. Nam
ném thân xác mệt mỏi xuống chiếc chiếu được trải cách vụng về trên nền nhà. Gió
hiu hiu thổi. Trong cơn mê, Nam nhìn thấy một ngôi nhà khang trang, đầy đủ tiện
nghi. Thật lạ, căn nhà do Nam đứng tên. Nam ngủ trên một chiếc ghế xô pha, có máy
lạnh mát rượi. Một bàn tay mềm mại vuốt ve trên đầu Nam, ánh mắt đang âu yếm
nhìn Nam. Nụ cười nở trên khuôn mặt của người đàn bà làm Nam say mê. Người đàn
bà gọi Nam là “mình ơi”. Vâng, người đàn bà xinh đẹp ấy là vợ Nam. Nam miên man
trong cơn mê. Khuôn mặt tươi trẻ của người đàn bà ấy không ai khác chính là
Khánh Chi, cô con gái một của ông Hai Thời.
– Dậy
đi lễ! Nhanh lên…! Chuông một rồi!
Tiếng
mẹ gọi khiến Nam tỉnh cơn mê. Nam vừa tiếc nuối giấc mơ và muốn ngủ lại để mơ
tiếp. Tiếng mẹ lại gọi từ ngoài sân, Nam nài nỉ:
– Để
con ngủ thêm tí đã!
– Nhanh,
dậy mau! Chuông một rồi! Tí chuông lễ lần hai là không kịp đâu!
Nam cằn nhằn, bực bội:
– Đi
làm về mệt, nghỉ trưa tí cũng không yên!
Nam
vùng dậy, thất thểu ra giếng tắm, trong đầu vẫn còn những hình ảnh hạnh phúc.
Nam quên đi sự bực bội vì phải đi lễ. Đã có lúc Nam ao ước: “Phải chi, mình
không phải là người Công Giáo. Lễ lạy chỉ thêm mệt, mất thời gian. Phải cái ông
cha xứ lắm lời, nhiều chuyện.”
Ngày
trước, mẹ Nam đã dạy Nam đọc kinh từ lúc lên hai, lên ba. Học lớp giáo lý sơ
cấp, Nam thích nhất câu: “H: Ai cho ta có mẹ có cha? T: Thiên Chúa cho ta có mẹ
có cha.” Nam hạnh phúc khi có một Thiên Chúa tốt bụng như thế. Câu giáo Lý: “H:
Vì sao Thiên Chúa cho ta có cha có mẹ? T: Vì Thiên Chúa rất yêu thương ta, muốn
cho ta có cha có mẹ, để cha mẹ chăm sóc cho ta.”, Nam thuộc lòng.
Cha mất, Nam đã khóc rất nhiều. Sự ra đi của
cha khiến Nam khó chấp nhận. Những câu hỏi của Nam chỉ khiến mẹ thêm đau lòng.
Bà chỉ biết ôm lấy Nam trong vòng tay của mình, để mặc cho dòng nước mắt chảy
dài trên gò má, mặc sức thấm ướt cả cổ áo. Trong Thánh Lễ an táng, Nam còn nhớ
vị cha xứ có nói: “Anh Ân đã ra đi, nhưng chúng ta tin rằng anh đang về cùng
Thiên Chúa. Trong Đức Kitô, sự sống của chúng ta không mất nhưng chỉ thay đổi.
Chúng ta biết rằng : “Nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị
phá hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh
cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2Cr 5,1). Những điều ngài nói,
trí óc Nam còn quá non nớt, không hiểu hết. Nam thầm trách: “Thiên Chúa ở đâu?
Thiên Chúa đâu có yêu thương mình. Ngài ban cho có cha có mẹ để cha mẹ chăm sóc
cho mình nhưng sao lại cướp đi người cha duy nhất?” Nghịch lý của mầu nhiệm đau
khổ Nam chưa một lần được hiểu thấu. Năm tháng trôi qua, Nam đã đủ khôn lớn để
hiểu rằng, ai cũng sẽ phải chết một lần. Cuộc đời con người là “sinh lão bệnh
tử”, không ai tránh khỏi. Nam cũng đã chứng kiến biết bao nhiêu người đã ra đi
mà không bao giờ trở lại. Cha Nam cũng thế, bây giờ chỉ là một nấm mồ nằm yên
trong nghĩa địa.
***
Nam
đang ngủ lăn lóc trên nền nhà thì bị mẹ lay dậy. Cũng như bao lần khác, Nam
phải vùng vằng, cằn nhằn một lúc rồi mới chịu dậy. Bà cầm chiếc quạt mo phe
phẩy, âu yếm nhìn Nam và ôn tồn nói:
– Ngày
mai, hai mẹ con ta sửa soạn ít đồ rồi vào nghĩa trang thăm cha con, xin lễ cầu
nguyện nữa.
Nam ừ
ừ gật gật rồi đi xuống nhà bếp lấy chén cơm lên nhà ăn. Lúc nào cũng vậy, chẳng
bao giờ Nam ăn cơm đúng bữa. Bà mẹ vẫn ngồi chỗ cũ, chiếc quạt mo vẫn đều đều
trên tay, miếng trầu đang nhai trong miệng đã đỏ thắm, mùi thơm nồng phả ra.
Nam đi lên, đặt cái chén xuống cái ghế rồi đi bê cái quạt ở dưới nhà lên:
– Để
con cắm quạt, mẹ con ta ngồi cho mát.
– Thôi,
mẹ quạt cái quạt này quen rồi. Con cắm làm gì cho tốn điện.
– Mẹ
cứ hưởng cái sung sướng dần đi. Chẳng mấy chốc, con phất lên rồi sẽ xây cho mẹ
một căn nhà khang trang, không thua kém nhà ông Hai Thời đâu.
– Mẹ
chẳng dám mơ. Mà Chúa ban cho cái gì thì hưởng cái đó con ạ. Chết rồi, giàu có
cũng mang theo được cái gì đâu. Có “cụ sáu” là được rồi và được mọi người đọc
kinh cầu nguyện cho là sướng nhất.
Nam
chỉ lắc đầu, rồi cắm quạt. Quạt thổi làm mái tóc Nam bay. Cái ngực Nam phanh ra
đón lấy gió. Chén cơm đã hết sạch. Bây giờ, Nam định lăn ra ngủ tiếp nhưng câu
hỏi của mẹ khiến Nam bật người dậy:
– Con
định khi nào cưới vợ? Liệu rồi cưới sớm sớm để mẹ còn trông con cho. Mai đây
không biết khi mô Chúa gọi. Nhỡ … không có cơ hội thấy cháu nội chào đời…
– Mẹ
cứ yên tâm. Con có mối rồi. – Nam trả lời vẻ tươi tỉnh hẳn.
– Con
nhà ai? Phải nói để mẹ còn liệu sớm.
– Khánh
Chi đó mẹ. Mẹ thấy được không? - Nam cười khoái chí.
– Khánh
Chi nào? – Bà nheo đôi mắt đã nhèm, ngước nhìn con trai.
– Khánh
Chi, con ông Hai Thời đó mẹ.
– Không
được đâu con! Nhà nó giàu có, mình sao với tới. Với lại, nhà nó không có đạo.
– Mẹ
cứ lo bò trắng răng. Rồi mẹ xem, Khánh Chi sẽ là vợ con. - Nam nói chắc như
đinh đóng cột.
– Mẹ
nói cho mà biết! Ông Hai Thời chịu cho mày làm thuê đã là một cái lạ trên đời.
Con gái một của ông, đời nào ông gả cho nhà mình. – Bà cố phân trần.
– Con
sẽ chăm chỉ, chắc chắn con sẽ phất lên. Ông ta sẽ cho con cưới. Với cả, chúng
con thương nhau lâu rồi.
– Mà
ông có biết chúng mày thương nhau không?
– Chưa
đâu mẹ. Mà có biết cũng không sao! Con cưới Khánh Chi và cho cô ấy theo đạo
luôn, cứu thêm được một linh hồn.
Bà im
lặng suy nghĩ, đôi mắt bà nhìn xa xa. Sự im lặng của mẹ không làm Nam phải bận
tâm nhiều. Nam vùi mình xuống ngủ cách ngon lành. Nam ngủ và mơ về những giấc
mơ đẹp.
***
Bà đọc kinh nhiều hơn để cầu nguyện cho con.
Cây Thánh Giá treo trên tường luôn được bà lau cẩn thận. Bà là giáo lý viên của
giáo họ. Thứ tư hằng tuần, bọn trẻ trong xóm họ đều đến nhà bà học giáo lý. Căn
nhà nhỏ của bà trở thành một lớp học. Bà thường cho chúng ăn khoai luộc sau mỗi
giờ học. Bà trồng mấy luống trước nhà để lấy dây cho heo, củ thì để ăn. Niềm
tin vào Thiên Chúa duy nhất và tình yêu nơi Thiên Chúa luôn được bà vun đắp cho
từng thế hệ học trò trong giáo họ.
Ngôi
nhà thờ nhỏ, rêu phong là nơi bà và các giáo dân trong giáo họ cùng nhau đọc
kinh cầu nguyện, tham dự Thánh lễ. Tiếng chuông nhà thờ vang lên. Bà tắm rửa
sạch sẽ, mặc chiếc áo dài hoa đã cũ rồi đi lễ. Hôm nay, bà không được đánh thức
cậu con trai như mọi lần. Bà thấy căn nhà thêm trống trải, buồn hơn và dường
như tuổi già của bà đến nhanh hơn.
Nam
đi làm gỗ thuê bên Lào đã được hơn năm tháng. Tháng trước, thằng bạn cùng làm
với Nam bị gỗ đè chết. Hình ảnh cây gỗ to lăn từ trên dốc xuống đè chết người
bạn ấy vẫn luôn ám ảnh Nam từng đêm. Biết Nam và con gái mình yêu nhau, ông Hai
Thời khéo léo đẩy Nam đi làm gỗ tận bên Lào để hòng chia cắt con gái với một
thằng “khố rách áo ôm” như Nam. Nam không ngờ được cái âm mưu thâm độc ấy của
ông. Nam hì hục làm việc, làm như một con trâu mộng. Sức vóc Nam được lắm, rất
hợp với công việc ấy. Tai nạn luôn rình rập, kể cả một thằng khỏe mạnh như Nam
cũng có thể gặp bất trắc bất cứ lúc nào. Bao nhiêu nguy hiểm không làm Nam chùn
bước.
Từ
ngày Nam lao vào công việc nguy hiểm hòng làm giàu và nhất là cưới được cô bé
Khánh Chi, bà có nhiều mối bận tâm hơn. Bà không ngừng cầu nguyện cho Nam. Ngày
trước, chồng bà cũng mong làm giàu. Ông qua Lào làm gỗ. Tai nạn đáng tiếc đã
xảy ra: một thanh niên cùng làm thuê với ông bị gỗ đè lên. Để cứu cậu, ông đã
phải hi sinh. Bà sợ, con bà sẽ rơi vào vết xe đổ của chồng.
***
Hôm
nay, Nam về. Dạo này, kiểm lâm lùng sục dữ quá nên anh em tạm thời đang thất
nghiệp. Nam không bị tai nạn nhưng ông Hai Thời đã tỏ thái độ phản đối rõ ràng.
Một mối khá giả, rất “môn đăng hộ đối” với nhà ông. Khánh Chi cũng tỏ ra lạnh
nhạt với Nam. Đã có lần, Nam định bỏ đạo để chiều theo ý Khánh Chi. Nhưng rồi
Nam nghĩ: “mình là con trai, “thuyền theo lái gái theo chồng”, nếu có lấy nhau
thì Khánh Chi phải theo đạo của mình.” Nam yên chí như thế. Bây giờ, người con
gái ấy đã phản bội Nam để lấy một đám khá giả hơn.
Nam
nằm trên đồi. Đêm nay, trăng tròn và sáng lắm. Nam nghĩ đến Khánh Chi, người
con gái xinh đẹp sẽ cùng Nam làm nên một tổ ấm yêu thương. Nam miên man nghĩ
ngợi. Trăng vẫn sáng nhưng Nam thấy tương lai bỗng đem sạm lại. Nam cố ngả mình
đón lấy ánh trăng và làn gió mát mơn trớn khắp da thịt nhưng người Nam vẫn nóng
ran lên. Những con muỗi vo ve chích vào chân, Nam vỗ đen đét. Nam nhớ lại những
lời bội bạc của Khánh Chi và lời thách thức của ông Hai Thời. Nam thấy uất ức
lắm. Nam sẽ không để cho ông khinh thường. “ Đói cho sạch, rách cho thơm”, Nam
sẽ cho ông thấy, giàu sang không có quyền khinh rẻ và bội bạc với người khác.
Nam còn trẻ và tương lai tươi đẹp đang chờ Nam phía trước. Nam đi về, tiếng chó
sủa dẫn Nam vào nhà ông Hai Thời.
Nam
xin nghỉ việc. Khánh Chi và chồng sắp cưới đang đùa vui trước sân, thấy Nam
đến, liền tránh đi chỗ khác. Ông Hai Thời đang ngồi trong nhà, thấy Nam, liền
đi ra. Ông cầm xấp tiền tính trả lương cho Nam. Nam xin ông nghỉ việc nhưng có
vẻ tiếc nuối một cái gì đã qua. Ông đặt số tiền lương vào tay và tỏ vẻ hiểu ý,
xua tay bảo Nam về.
Từ
ngày nghỉ việc, tuy không còn kiếm được nhiều tiền, đổi lại, Nam thấy lòng bình
an hơn. Nam được ăn những bữa cơm do mẹ nấu. Nam thấy mẹ đã già và ngày càng ốm
hơn. Nam ở nhà thường xuyên, Nam giúp mẹ Nam bổ củi, cày mảnh đất ngoài vườn.
Nam thấy một hạnh phúc nhỏ nhoi đang xâm chiếm. Tin Ông hai Thời bỏ trốn đồn ra
khắp xóm. Chuyến gỗ do ông thầu gặp tai nạn trên đường vận chuyển chết cả bốn
năm người. Nam thấy may cho mình khi nghỉ việc kịp thời. Ông bỏ trốn, căn biệt
thự của ông vắng tanh. Thỉnh thoảng, mấy anh cảnh sát đến điều tra. Thấy vậy,
Nam lắc đầu: “Không biết Khánh Chi bây giờ ra sao?” Nam bỗng thấy lo cho người
con gái bội bạc ấy. Nam vẫn còn thương Khánh Chi. “Nếu Khánh Chi chịu chờ mình
thì…”, Nam tự nhủ.
***
Đêm
nay, trăng sáng và tròn vành vạnh. Nam nhớ như in lời mẹ dặn Nam lúc lâm chung:
“Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì” (x. Mt 16,26 ; Lc
9,25). Con nhớ làm ăn lương thiện, nhất là lo đi nhà thờ, đi lễ thường xuyên để
cầu nguyện cho mẹ nghe chưa.” Nam thấy lòng thành trẻ con và muốn ở mãi trong
bàn tay yêu thương của mẹ. Thời trẻ, Nam ước mong được giàu có. Cái khí phách
tuổi trẻ của Nam khiến cho người mẹ luôn lo lắng. Nam nhớ tới lời hứa của Nam
với mẹ: “Mẹ cứ hưởng cái sung sướng dần đi. Chẳng mấy chốc, con phất lên rồi sẽ
xây cho mẹ một căn nhà khang trang, không thua kém nhà ông Hai Thời đâu.” Nam
thấy tiếc nuối vì mẹ đã đi xa. Nhắc đến tên ông Hai Thời khiến Nam rùng mình.
Từ khi ông bỏ trốn, cả xóm không ai biết tin tức gì nữa. Nam nhớ, mẹ thường
nói: “Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều nghèo khó. Con cứ khiêm tốn xin
Chúa điều gì con cần nhé.” Điều đó Nam luôn ghi nhớ trong lòng. Bây giờ, Căn
nhà đã được Nam xây lại khang trang hơn và luôn rộn lên tiếng cười của hạnh
phúc.
Câu
giáo lý Nam thuộc nằm lòng từ bé, thằng con đọc lên khiến Nam nghèn nghẹn ở cổ.
Vậy mà đã có lúc, Nam chán đi lễ, bỏ lễ; Thiên Chúa thật xa vời. Bây giờ, Thiên
Chúa, với Nam thật gần gũi và thân thương. Nam đã thật sự trưởng thành, là một
người cha mẫu mực, một giáo lý viên nhiệt thành. Nam nhận ra bàn tay yêu thương
của Thiên Chúa luôn dìu dắt và hướng dẫn Nam.
Tiếng chuông nhà thờ vang lên, Nam nhận thấy
niềm hạnh phúc dâng tràn. Nam sẽ dạy con cái mến Chúa yêu người. Dòng người hối
hả tiến về ngôi Thánh Đường nhỏ, rêu phong và cổ kính. Hòa trong dòng người,
thấp thoáng hình ảnh một gia đình nhỏ hạnh phúc…
Mã số: 15-019
– Có
ai ở nhà không? Có ai không? Ra nhận thư này!
Tôi
hối hả chạy nhanh ra. A! Thì ra là bác đưa thư.
– Con
chào bác! Có thư hả bác?
– Ừ!
Hình như là giấy báo kết quả thi đại học của mày hay sao đó.
Vừa
mừng, vừa sợ, cầm tờ giấy báo tôi chạy ngay vào nhà mà quên cả việc cảm ơn bác
Chín - người đưa thư của xóm tôi.
Cầm
giấy báo mà lòng tôi hồi hộp quá đỗi: Sẽ tiếp tục cầm viết để đến giảng đường
hay phải về nhà cầm cuốc? Sẽ làm hãnh diện cho gia đình hay lại chỉ mang tiếng
học cho lắm rồi cũng cầm cày? Bao nhiêu suy nghĩ làm tôi thấy sợ, tôi sợ chính
điều mình đang mong đợi. Tôi thu hết can đảm, sao mà tấm giấy này nặng quá, tôi
hồi hộp mở ra: Toán: 8,5; Lý: 9; Hóa: 8,5.
Tôi
sung sướng nhảy cẫng lên và chạy ngay đi tìm ba tôi. Ông đang cuốc cỏ ngoài
vườn… Ông sung sướng và chạy ngay đi tìm mẹ tôi. Tối đó cả gia đình được mẹ đãi
một bữa thịnh soạn hết sức.
Nhưng
rồi nỗi lo lại đến với nhà tôi. Tiền!
Sau
mới hai đêm mà tôi thấy mắt mẹ thâm quầng. Bà vẫn cố tỏ ra vui vẻ và bình thản
trước mặt anh em tôi, nhưng tôi biết rằng cứ mỗi đêm khi anh em tôi đã yên giấc
thì ba mẹ tôi thì thầm với nhau cả đêm để nghĩ cách kiếm tiền lo cho tôi. Tôi
lưỡng lự. Có nên tiếp tục hay không? Ba tôi cương quyết không cho tôi nghỉ học,
ông nói dù có bán đi miếng đất cuối cùng ông cũng phải lo cho tôi. Tôi thương
ba mẹ quá.
Cũng
xin nói thêm, gia đình tôi là người lương nhưng sống giữa một xóm đa phần là
người Công giáo, nên ba tôi có quen mấy người làm trong nhà thờ vì cùng có
chung niềm đam mê: cờ tướng. Nghe hoàn cảnh gia đình tôi như vậy nên họ khuyên
ba tôi nên tìm đến ông cha sở của họ xem có giúp được gì không, nghe nói ông
cha tốt bụng lắm. Thôi thì có bệnh vái tứ phương. Hai cha con tôi đánh liều đi
gặp ông cha. Trong tôi lúc đó ông cha phải ghê gớm lắm, chắc phải như Kim Mao
sư vương Tạ Tốn trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký, hay ít ra cũng “vai năm tấc rộng thân
mười thước cao” như Từ Hải của cụ Nguyễn Du nên tôi sợ lắm.
Bước
vào cổng nhà thờ, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tôi là một ông cụ người dong
dỏng cao đang cố gắng vác một khúc gỗ thật to tướng. Lúc đó không biết lấy can
đảm ở đâu, tôi vội chạy tới khiêng giúp cụ. Khiêng xong khúc gỗ, ông cụ mới hỏi
là hai cha con tôi đi đâu và cần gặp ai.
– Dạ
thưa bác, chúng tôi muốn gặp ông cha. - Ba tôi khẽ đáp.
– À,
thế ra con và chú bé này cần gặp ông cha hả? Nhưng gặp có việc gì không con?-
Ông cụ vừa cười vừa hỏi.
– Dạ…dạ…thưa
bác… chúng cháu…
– Thôi
đi vào nhà rồi có gì nói tiếp, bác sẽ dẫn đi gặp ông cha…
Đứng
trước ông cụ, cha con tôi có cảm giác vừa gần gũi vừa nể sợ. Bước vào phòng
khách, ngước mắt nhìn lên, tôi thấy hai bức hình. Ở trên cao hơn là một ông cụ
người nước ngoài nhìn hiền lành lắm, sau này tôi mới biết đó là Đức Thánh Giáo
Hoàng Gioan-Phaolo II. Dưới bức hình đó là hình ông cụ với chiếc áo chùng thâm
(lúc đó tôi cứ nghĩ ông cụ bận áo bà ba). Với sự nhanh trí của tuổi trẻ, tôi
lập tức hiểu ra, thì ra ông cụ là ông cha mà chúng tôi đang tìm.
Thấy
hai cha con tôi còn ngập ngừng ngoài cửa, ông cụ bèn bảo:
– Kìa
Bình, dẫn thằng Nam vào đi chứ, sao hai cha con lại đứng đó.
Ồ, ông
cụ biết cả tên hai cha con tôi. Điều đó làm tôi cảm thấy ngỡ ngàng nhưng vui và
an tâm hơn. Ông cụ tiếp tục mở lời mà không đợi ba tôi lên tiếng:
– Sao
rồi? Gia đình chuẩn bị đến đâu rồi? Nghe nói thằng Nam mới đậu đại học Y Dược
Sài Gòn phải không? Đó là niềm hãnh diện của gia đình mình và của cả cái xóm
nghèo này đó con.
Tôi
ngỡ ngàng, chuyện này ông cụ cũng biết sao? Trước giờ gia đình tôi đâu có qua
lại gì với nhà thờ đâu. Tôi thắc mắc định hỏi. Ông cụ tiếp:
– Hai
cha con vào đây vì chuyện tiền nong ăn học của thằng Nam phải không? Thôi vạn
sự khởi đầu nan, gia đình cứ cố gắng rồi mọi chuyện Chúa sẽ ban ơn cho. Mình
biết gia đình ta là người lương, không tin vào Chúa, nhưng chúng ta đều cùng
một Cha trên trời, Chúa yêu thương tất cả chúng ta không trừ một ai hết. Mình
thì không có nhiều tiền, nhưng giúp được gì mình sẽ giúp.
Nói
rồi ông cụ móc trong túi ra một bì thư đưa cho ba tôi. Ba tôi quá sức ngỡ ngàng
vì ông không nghĩ là mọi chuyện lại dễ dàng như vậy. Ông từng nói với tôi là cứ
lên gặp ông cha vì nể lời khuyên của mấy người bạn chứ chẳng trông mong gì hết…
Ấy vậy mà… bất ngờ, xúc động… Tay chân ông lúc đó như thừa thải, ông đứng như
trời trồng, đến nỗi ông cụ phải giục hai ba lần ông mới đưa tay ra nhận như một
cái máy. Còn tôi lúc đó bị đánh động bởi hành vi và nhân cách của ông cụ.
Sau
đó chúng tôi còn ngồi nói chuyện với ông cụ thật lâu. Kinh nghiệm và kiến thức
uyên bác của cụ làm tôi thật sự nể phục. Ngoài ra, những chuyện làng xóm, những
gia đình nào gặp khó khăn, những gia đình nào thiếu thốn, cụ đều nắm rõ. Tôi
lấy làm lạ lắm. Dường như đoán được suy nghĩ của tôi, ông cụ tươi cười đi lấy
một cuốn sách, rồi cụ lật ra một trang trong đó và chỉ cho tôi cái câu: “Chiên
Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta”. Rồi ông cụ nói thêm:
– Làm
ông cha là bước theo chân Chúa Giê-su. Ngài là ông cha nhân lành, hiền hòa, độ
lượng, khoan dung… Ngài biết và hiểu rõ từng đứa con của Ngài, nên làm ông cha
cũng phải biết rõ từng hoàn cảnh cụ thể của người mình có trách nhiệm.
Tôi
lấy làm ngạc nhiên. Giê-su là ông nào? Tại sao phải hiểu rõ từng người làm chi?
Nhưng tôi không dám hỏi.
Với
số tiền cha cho, gia đình tôi yên tâm hơn và phần nào đỡ được nỗi lo buổi ban
đầu lên Sài Gòn.
Một
tháng sau, tôi khăn gói quả mướp lên Sài Gòn tiếp tục dùi mài kinh sử. Lên tới
nơi, tôi cầm lá thư giới thiệu đến xin ở trọ nhà một người quen của cha. Thật
may mắn, gia đình ấy đón tiếp tôi hết sức nồng hậu và vui vẻ cho tôi ở trọ… Vui
hơn nữa là còn được ở miễn phí. Tôi thầm cảm ơn cha.
Trong
những năm học ở Sài Gòn, không ít lần cha ghé thăm tôi. Tôi thấy quý mến và
thân thiện với cha lắm, tôi chia sẻ với cha những khó khăn của mình. Tôi nhận
ra có cái gì đó nơi cha thật sự thu hút tôi. Gần gũi. Thân thương. Quý mến. Cảm
phục. Tôi muốn tìm hiểu nguyên nhân do đâu mà cha lại tốt, lại tuyệt vời như
thế. Tôi hỏi cô chủ nhà về cha, hỏi lý do tại sao cha lại tốt lành như vậy. Cô
nói với tôi chỉ vỏn vẹn một câu: “Vì Cha theo Chúa Giê-su”.
Lại
là Giê-su! Ông ấy là ai vậy? Tôi ngạc nhiên và khó hiểu. Từ đó tôi bắt đầu tìm
hiểu Giê-su là ai mà khiến một người như cha dành cả cuộc đời để đi theo, để
phục vụ. Tôi bắt đầu tiếp xúc với Kinh Thánh, những chỗ nào không hiểu, tôi hỏi
cô Nghi chủ nhà, đồng thời cũng là một giáo lý viên. Tôi say mê với những ý
tưởng trong Kinh Thánh. Đọc Kinh Thánh, tôi thấy cuộc sống trong xã hội này sao
mà thực dụng quá, những gì tôi đang học, những gì xã hội dạy cho tôi chỉ nhằm
một mục đích duy nhất: Kiếm tiền, kiếm tiền bằng mọi giá! Tôi thấy cuộc đời
thật vô nghĩa.
Sau
hơn 3 năm đọc, tìm hiểu Thánh Kinh dưới sự hướng dẫn của cô Nghi và sự chỉ dạy nhiệt
tình của cha trong những lần cha ghé thăm, tôi bắt đầu rung động vì đạo thánh
Chúa. Thế rồi một biến cố xảy đến với tôi…
Sáng
hôm đó, sáng 15-8, cha lên Sài Gòn và vào nhà cô Nghi.
– Sáng
nay con rảnh không? Đi với cha một chút.- Cha hỏi tôi.
– Dạ
rảnh, nhưng đi đâu vậy cha? Chiều nay con có tiết học.
– Không
sao, trưa nay là mình về rồi, không trễ học đâu con.
Tôi
đi theo cha. Cha đưa tôi tới ngôi nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở Kỳ Đồng. Nơi này
tôi đã ghé nhiều lần để mua sách hạnh các thánh nhưng chưa lần nào ghé vào bên
trong nhà thờ. Ra khỏi xe, tôi bỡ ngỡ vì số lượng người quá đông. Tôi nhìn thấy
nét mặt vui tươi hiện rõ trên mỗi người, ai cũng nở một nụ cười thân thiện chào
nhau. Tôi đoán là họ không quen biết nhau, nhưng chào nhau rất chân tình. Thấy
tôi ngạc nhiên và đứng như trời trồng, cha bèn hỏi:
– Con
thấy sao? Vui không?
– Dạ
con… con thấy run run cha ơi!- Tôi cảm thấy hơi sợ nhưng không biết mình sợ gì.
– Không
sao đâu con! Hôm nay là ngày lễ thụ phong linh mục nên có nhiều người như vậy
đó. Nhớ lại 45 năm trước, cha cũng trải qua giây phút thánh hiến này. Thật là
hồng ân Chúa bao la.
Ồ!
Thật hạnh phúc cho tôi vì đây là lần đầu tiên tôi tham dự thánh lễ mà lại là lễ
truyền chức nữa chứ. Lòng tôi lâng lâng khó tả.
– Con
kiếm chỗ nào mà ngồi nghen, cha đi vào dâng lễ.
Khoảng
8h30 thì thánh lễ bắt đầu. Tôi thấy có hai hàng linh mục (lúc này tôi đã làm
quen với các thuật ngữ Công giáo) đông ơi là đông từ ngoài đi vào nhà thờ rất
trang nghiêm, thánh thiện, trong đó có cha. Tôi đang mãi nhìn thì chợt tiếng
hát vang lên: “Từ ngàn xưa Cha đã yêu con,
Cha gọi con giữa muôn người… Giờ đây con hân hoan bước lên bàn thánh, dâng tiến
Cha xác hồn trắng tinh, như ánh quang rạng ngời, đưa bước tung gieo lời chân
lý, hầu cứu thoát muôn dân muôn đời…”. Lúc đó người tôi xao xuyến lạ, tôi
thấy lòng mình bị đánh động mãnh liệt. Tôi nghe như có tiếng thúc giục bên
trong tôi… Tôi mơ hồ không nhận ra là tiếng gì, nhưng tôi biết rằng mình bị
đánh động bởi thiên chức linh mục, tôi rung động mãnh liệt.
Thánh
lễ xong, tôi theo cha ra về, tôi không nói với cha về những gì tôi cảm nhận. Từ
đó tôi bắt đầu tìm hiểu ơn gọi linh mục tu triều, dĩ nhiên là cách âm thầm. Năm
đó là năm thứ 3 đại học.
Sau
hơn 7 năm miệt mài học tập trên Sài Gòn, tôi trở về Ninh Thuận quê tôi với tấm
bằng loại giỏi và lời đề nghị ở lại trường làm trợ giảng, nhưng tôi từ chối. Trở
về ngôi nhà nơi tôi sinh ra và lớn lên, tôi cảm nhận được tình thương mà ba mẹ
dành cho tôi. Tôi ấm áp và hạnh phúc khi về bên gia đình mình. Ở nhà được 4
tháng, thì có đứa bạn học cùng đại học đến kiếm tôi và nói rằng bệnh viện tỉnh
đang tuyển người, nó đã lo cho tôi vào đó rồi, lương khởi điểm cũng khá. Ba mẹ
tôi mừng lắm, vì ông bà sợ không đủ tiền để xin việc cho tôi, xã hội ngày nay
là vậy.
– Ừm,
cảm ơn bà nha, để tui nghĩ kĩ đã.
Ba mẹ
tôi hơi ngạc nhiên, nhưng ông bà tin vào tôi nên không nói gì. Đêm đó, tôi ngồi
uống trà với ba. Tôi thu hết can đảm để nói với ba một chuyện mà tôi ấp ủ bấy
lâu:
– Ba!
Ba thấy ông cha sao hả ba?
– Trần
đời ba chưa thấy ai tốt bụng, hiền hòa như cha.- Ba tôi hớn hở đáp.
– Vậy
hả ba! Ba… Con muốn… con muốn đi tu giống như ông cha vậy đó ba.
– Ý
con là sao? Ba chưa hiểu.
Rồi
sực bừng tỉnh, ba tôi nhìn tôi cách nóng giận, thế rồi ông bỏ vào nhà. Đêm đó
tôi nghe ba mẹ tranh luận về chuyện của tôi. Ông bà sợ tôi đi tu thì không còn
lo lắng gì cho gia đình nữa, sợ tôi bỏ luôn ông bà tổ tiên, ông bà sợ mất tôi.
Tôi thương ba mẹ quá, nhưng tiếng gọi bên trong cứ thúc bách tôi.
Suốt
tuần đó, bầu không khí căng thẳng, u ám bao trùm cả gia đình tôi. Không biết
nghe ai bày mà mẹ tôi bắt tôi lấy vợ, xem chừng bà cương quyết lắm:
– Một
là mày lấy vợ, hai là mày đeo tang mẹ. Mày chọn đi.
Mẹ ơi
làm sao con có thể chọn được? Con yêu mẹ lắm! Lòng tôi thổn thức mà không nói
nên lời. Thời gian đó tôi như người lạc vào mê cung không có lối thoát, tôi lần
mò trong đêm tối nhưng không tìm đâu lối ra. Tôi chọt nghĩ đến cha. Tôi cần cha
trong chuyện này.
Sáng
đó tôi chạy vào nhà xứ và trình bày với cha về chuyện của mình. Nghe xong cha
nói sẽ cố giúp tôi. Tôi an tâm hơn. Chiều đó cha ra nhà tôi. Ba mẹ vui mừng đón
tiếp cha. Vào nhà, cha tới trước bàn thờ gia tiên thắp một nén nhang cho ông bà
tôi. Sau đó cha còn ở lại ăn cơm với gia đình tôi. Suốt 3 tháng như vậy, cha
thường xuyên ghé thăm và nói chuyện với ba mẹ. Tôi nhận thấy ba mẹ dần dần thay
đổi rõ, ông bà thường xuyên nói chuyện với nhau, tôi nghĩ ba mẹ đang nói về
chuyện của tôi.
Một
hôm…
– Sao
con muốn đi tu hả Nam?- Mẹ tôi hỏi cánh trịnh trọng.
Tôi
biết đây là giờ phút quyết định cuộc đời mình, nên tôi chú tâm lắm.
– Dạ
con muốn làm linh mục để phục vụ nhiều người mẹ à.
– Nhưng
đi tu là con bỏ ông, bỏ bà, bỏ cái gia đình này con biết không?
Lúc
này tôi biết mẹ đã lung lay, bà cần một lời khẳng định từ chính tôi.
– Không
đâu mẹ, con đi tu là yêu gia đình, yêu ba mẹ, yêu các em nhiều hơn nữa đó.
Mẹ
tôi trầm ngâm không nói gì. Tôi yên lặng chờ một quyết định nơi mẹ…
Ba
tháng sau, sau khi đã tìm hiểu và học hỏi giáo lý cách nghiêm chỉnh, tôi được
lãnh nhận ba bí tích khai tâm Ki-tô giáo. Sau đó tôi xin phép ba mẹ dọn luôn vô
ở trong nhà xứ với cha. Thời gian đó dường như được ơn Chúa đánh động, ba mẹ
tôi cũng tìm hiểu đạo Chúa, các em tôi cũng vậy. Một năm sau đó, cả nhà tôi
được lãnh nhận các bí tích khai tâm Ki-tô giáo. Thật là một hồng ân to lớn và
đặc biệt với tôi.
Tháng
9 năm 2011 tôi gia nhập Tiền Chủng Viện với độ tuổi 28. Có lẽ là quá lớn tuổi,
nhưng tôi không cảm thầy buồn, vì hồng ân Chúa nhiệm mầu, chắc chắn Ngài luôn ở
bên tôi. Tôi thầm tạ ơn Chúa vì hồng ân Chúa ban, đồng thời cũng cảm ơn Chúa vì
đã gửi đến cho tôi một tấm gương mục tử hết lòng vì giáo hữu.
Tạ ơn
Chúa vì hồng ân ơn gọi.
Mã số: 15-020
Tây
Nguyên vào một chiều tối thứ bảy của tháng 10, tháng Mân Côi kính Đức Mẹ, tiết
trời se lạnh. Tôi và anh chị em trong giáo họ có thói quen đi đọc kinh liên
gia, mỗi tuần một gia đình.
Tối
đó, tôi và anh trai đi sớm hơn thường lệ một tiếng. Sở dĩ tôi phải đi với anh
trai mình là vì tôi không biết đường đi, dù tôi đã định cư ở đây hơn bảy năm
rồi. Tôi sinh ra ở Ninh Hòa, lớn lên ở Đaklak, năm mười ba tuổi lại xuống Nha
Trang để sinh sống và học tập, học xong tôi làm việc ở Quy Nhơn, mãi đến năm
hai mươi bảy tuổi tôi mới trở về Đaklak và định cư ở đây. Tuy đã sống lâu năm ở
đây nhưng vì đặc thù của công việc nên tôi không có điều kiện đi đây đi đó cho
biết.
Thế
là tôi phải đi theo anh trai, dù không muốn tí nào. Khi xe máy hai anh em dừng
lại trước một ngôi nhà khá sang trọng, nằm ở mặt tiền quốc lộ 26 mang tên nhà
nghỉ Quỳnh Nga, chúng tôi xuống xe. Tiếp đón chúng tôi là một phụ nữ trạc ngoài
ngũ tuần với nụ cười rạng rỡ và gương mắt trái xoan khá đẹp. Mời chúng tôi vào
nhà, tách trà rót ra làm tôi ấm lòng giữa tiết trời se lạnh. Tôi với chị vừa
uống trà vừa nói chuyện bâng quơ. Có điều kiện trò chuyện và nhìn chị kĩ hơn,
tôi thấy chị thật đẹp, cái đẹp mặn mà của tuổi năm mươi. Thầm nghĩ chắc hẳn chị
phải có cuộc sống sung sướng và nhàn hạ lắm. Trò chuyện một hồi, tôi thấy chị
thật gần gũi, có lẽ chị cũng cảm nhận được sự chân thành và thân thiện nơi tôi,
nên chị tâm sự với tôi, kể về cuộc đời của chị. Ôi! Thật đúng là hồng nhan bạc
phận.
– Đây
là lần thứ hai nhà chị được đọc kinh liên gia đó em à!
– Sao
lại là lần thứ hai hả chị?- Vì tôi nhớ phong trào này cách đây đã lâu rồi.
– Chị
là người đạo gốc, chuyển từ Quy Nhơn lên. Khi tới đây lập nghiệp, chị gặp anh,
một lương dân. Lúc đầu khi lấy nhau về, anh sốt sắng còn hơn chị, đôi lúc chị
còn bị anh nhắc nhở nữa chứ. Chị hạnh phúc vì điều đó lắm. Nhưng từ khi hai vợ
chồng phất lên, có của ăn của để, thì tính tình anh lại thay đổi. Còn nghèo khó
thì vợ chồng no đói có nhau, đến lúc giàu lên thì anh lại trở nên bê tha, hư
đốn. Anh bỏ nhà thờ, bỏ giờ lễ để lao vào các cuộc ăn nhậu trác táng cùng bạn
bè…
Nói
đến đây chị hơi ngập ngừng, dường như không muốn vạch áo cho người xem lưng.
– Rồi
sao nữa chị?- Giọng tôi trở nên ấm áp lạ.
– Rồi
anh cặp bồ với người phụ nữ khác. Anh bỏ luôn mấy mẹ con chị mà sống với cô ấy…
Tôi
thấy mắt chị ngấn lệ. Lòng tôi cũng thấy bùi ngùi. Xúc động, chị kể tiếp:
– Lúc
đó chị suy sụp hoàn toàn, chị chán nản, thất vọng và đau khổ. Thân gái một
mình, chị phải vất vả nuôi ba đứa nhỏ khôn lớn. Chị lao mình vào công việc, chị
muốn kiếm thật nhiều, thật nhiều tiền.
– Sao
chị không tìm đến với Chúa?
– Đúng
ra những lúc như vậy chị phải tìm đến với Chúa, nhưng ngược lại, chị thất vọng,
chị không còn niềm tin vào Chúa nữa. Chị trở nên bê tha… Cuộc sống dẫn chị ngày
càng xa Chúa. Mà không hiểu sao nha em, càng bê trễ, càng xa Chúa bao nhiêu chị
lại càng kiếm được nhiều tiền bấy nhiêu, càng ngày chị càng mờ mắt vì đồng
tiền. Lúc đó chị bị mờ mắt vì đồng tiền kinh khiếp luôn đó em… Đúng là ma lực
của đồng tiền ghê gớm thiệt!
Im
lặng. Ngập ngừng một lát chị kể tiếp.
– Lúc
đó chị bất chấp mọi chuyện chỉ để kiếm tiền, kể cả thân xác của chị.
Nói
tới đó nước mắt chị trào ra. Lòng tôi tự nhiên thắt lại, một nỗi xót sa trào
lên trong tôi. Tôi muốn an ủi chị, nhưng không biết phải nói như thế nào. Tự
nhiên tay tôi siết chặt tay chị.
– Ma
quỷ đã đem tiền bạc, danh lợi đến cho chị. Chị phải trả giá cho việc đó, nó kéo
chị càng ngày càng xa Chúa, càng xa niềm tin mà chị đã được trao ban cách nhưng
không, nó biến chị trở thành kẻ tôn thờ ngẫu tượng, thờ tiền tài…
Chị
ngập ngừng. Tôi nói:
– Chị
đừng buồn nữa, kể tiếp em nghe.
– Lạ
thay, lúc có nhiều tiền, chị lại mang nhiều thứ bệnh. Đi khám, bác sĩ nói chị
vẫn bình thường. Nhưng chị cảm nhận được sự đau đớn trong cơ thể chị. Thế rồi
bạn bè bảo chị đi xem bói, chị cũng đi không chút suy nghĩ. Thầy bói bảo chị bị
mắc đường âm, kêu chị cúng giải hạn, xong rồi phải lập cái miếu thờ ông thần
tài trước nhà. Chị làm theo hết.
Uống
một ngụm trà, nhìn vào đôi mắt tôi, chị thu can đảm kể tiếp.
– Ngày
chị xây miếu, lạ lắm nha em, chị đang đứng vậy mà tự dưng ngã xuống đất, rồi
tình cờ một chiếc xe chạy ngang qua người chị, làm chị bị gãy xương ống tay,
phải nằm viện điều trị gần một tháng.
– Chắc
đó là dấu chỉ Chúa muốn gửi tới cho chị đó.- Tôi nói.
Không
trả lời câu nói của tôi, chị kể tiếp.
– Điều
trị xong rồi, chị xuất viện. Hai ngày sau, đang nấu bếp, bỗng nhiên chị tối tăm
mặt mày, rồi ngất xỉu. Cũng may con bé người làm phát hiện đưa chị đi bệnh viện
kịp thời. Lúc tỉnh dậy, chị nghe bác sĩ nói là mình bị hở van tim. Lúc đó chị
dường như không tin vào tai mình nữa, chị đau khổ quá chừng, mọi thứ xung quanh
chị dường như trở nên vô nghĩa: tiền bạc, địa vị, nhan sắc… Trong lòng chị trở
nên trống rỗng. Lúc đó chị không còn thiết gì hết, chị không muốn làm bất kì
cái gì hết. Mấy đứa con chị cũng lo lắng cho chị, nhưng trong chị lúc đó thật
khó diễn tả lắm em à… Chị cảm thấy cuộc đời mình thật vô nghĩa.
– Rồi
sao nữa chị?- Tôi tò mò hỏi tiếp.
– Thế
rồi một hôm, nằm bên giường chị là một cô bệnh nhân cùng đạo với mình. Mới đầu
chị cũng không biết, nhưng tối thứ bảy đó chị thấy cha sở vào đem Mình Thánh
Chúa cho cô kia nên chị mới biết. Lúc đó chị bỗng cảm thấy bình an lắm, dường
như chị đã nhận ra được điều mình đang tìm kiếm. Chị bèn nói với cha cho con
xét mình để nhận phép cáo giải và đón nhận Mình Thánh Chúa. Mới đầu cha hơi ngỡ
ngàng, nhưng khi nhận ra chị, cha vui lắm, cha lập tức giúp chị. Chị cũng không
hiểu sao cha lại biết chị nữa hihi. Đón nhận Mình Thánh Chúa xong, cha xức dầu
cho chị, xức dầu xong cha nói: “Con yên tâm dưỡng bệnh nghen, vững tin vào
Chúa, có lẽ đây là thời gian Chúa muốn con suy nghĩ về những việc mình làm
trước đây. Nếu đẹp lòng Chúa, xin Người chữa lành cho con”. Nói xong cha chúc
lành cho chị rồi đi về. Chị bắt đầu lại. Đọc kinh. Lần chuỗi. Giống như thời
con gái chị vẫn làm. Chị cầu xin Đức Mẹ cho chị đủ can đảm để đương đầu với căn
bệnh và đương đầu với những cám dỗ. Chị không còn sợ cái chết nữa, chị bình an
hơn, chị cảm thấy mọi chuyện hạnh phúc hơn, thời gian ở bệnh viện không còn
khủng khiếp đối với chị nữa. Chị dọn mình thật kĩ để chờ ngày Chúa gọi về. Chị
khuyên ba đứa con của chị năng đi đọc kinh, tham dự thánh lễ. Chị cầu nguyện cho
anh mau hồi tâm chuyển ý mà quay về nẻo chính đường ngay… Thế nhưng ý Chúa
nhiệm mầu. Bệnh tình chị thuyên giảm. Chúa còn muốn chị sống ở trần thế để đền
vì những tội chị đã phạm đến Chúa, đến tha nhân. Việc đầu tiên khi chị về nhà
là đập bỏ ngay cái miếu thờ thần tài. Chị bắt đầu lại. Chị xét mình kĩ hơn để
xưng tội cho trọn. Chi trở lại với giáo xứ trong niềm vui của gia đình, trong
tình thương của cha sở và giáo xứ.
Nghe
đến đây tôi thở phào nhẹ nhõm và mừng cho chị. Tạ ơn Chúa vì muôn ngàn đời Chúa
vẫn trọn tình thương.
– Tuy
bệnh đã thuyên giảm nhưng lâu lâu chị vẫn lên cơn đau. Khoảng một tháng chị lại
nhập viện để điều trị một lần. Nhưng bây giờ thì chị khỏe hơn nhiều rồi. Thế
rồi chị mời cộng đoàn đến đọc kinh cầu bình an cho gia đình chị. Qua những biến
cố đó, chị nhận ra tình yêu bao la của Chúa. Dù chị đã bội nghĩa vong ân, đã xa
lìa Chúa, đã đặt Chúa qua một bên, nhưng Chúa vẫn không bỏ rơi chị, Chúa vẫn
làm mọi cách để dẫn chị về với Chúa. Thật đúng là Chúa vẽ đường thẳng bằng
nhũng nét cong. Bây giờ ước mong của chị là mấy đứa con của chị sống ngoan đạo
và nếu có đứa nào có ý định dâng mình cho Chúa thì chị mừng lắm.
Nói
đến đây thì mọi người đã lục tục kéo tới đông đủ. Thế là cuộc nói chuyện phải
nhường chỗ cho giờ kinh nguyện.
Từ
một người có đạo, trở nên một kẻ vô thần, dẫn đến những suy nghĩ lệch lạc, mất
đưc tin, không còn niềm tin vào Chúa. Để rồi giờ đây khi trở về với Chúa, khi
tìm lại được niềm tin, tìm lại được ý nghĩa của cuộc hiện sinh, tâm hồn chị
thật bình an, thanh thản. Bây giờ trông chị cười, tôi thấy rõ sự bình an trên
khuôn mặt của chị. Đức tin của chị đã bị thử thách, đã trải qua những đêm dài
tăm tối. Bây giờ nó tìm được ánh sáng, nó lớn mạnh hơn và vững vàng hơn.
Qua
câu chuyện đó, tôi thấy rằng tình yêu của Chúa thật bao la, vô tận. Dù tội ta
có đỏ như vải điều thì tình yêu Chúa cũng làm cho nó trở nên trắng như tuyết. Thật vậy chỉ có trong Chúa ta mới tìm được sự
bình an, một sự bình an mà thế gian không thể ban cho ta được, mà chỉ có Chúa:
“Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”.
Mã số: 15-021
Buôn
Hồ - một giáo hạt của Ban Mê Thuột, nơi đây có nhiều người tin vào Chúa. Trong
số những con chiên ngoan đạo ấy, có gia đình anh chị Ngọc Lan và An Bình, là
gia đình có niềm tin mãnh liệt vào Mẹ Maria. Bởi đâu mà tôi dám quả quyết như
vậy? Mời các bạn theo dõi câu chuyện sau:
Chị
Ngọc Lan là con gái duy nhất trong một gia đình khá giả. Khi còn nhỏ cho đến lúc
trưởng thành, chị luôn được ba mẹ cưng chìu hết mực. Tất cả tình yêu thương ông
bà đều dành cho chị, vì ba mẹ chị thuộc diện hiếm con. Cuộc sống của Ngọc Lan
cũng như bao đứa trẻ khác, cũng ăn, cũng học, cũng chơi đùa… Khi học hết phổ
thông, chị thi vào trường Cao đẳng nghệ thuật. Chính nới giảng đường này mà chị
đã biến đổi con tim của mình, từ một cô gái chỉ biết ăn, biết chơi, ăn chưa no,
lo chưa tới, chị trở thành cô gái biết rung động, biết yêu thương.
Trong
quá trình học tập, có một lần trường chị tổ chức buổi giao lưu với trường Cao
đẳng nghệ thuật dành cho người khuyết tật. Chính tại nơi đây, chính tại buổi
giao lưu này, chị gặp anh. Anh, một sinh viên ngành âm nhạc, một chàng trai
khuyết tật nhưng đầy nghị lực và tài năng. Cuộc đời của chị cũng bắt đầu gặp
giông tố kể từ đó, kể từ ngày cô gái Ngọc Lan hồn nhiên ngây thơ, đem lòng yêu
anh chàng An Bình dị tật mà tái năng và nhiệt huyết.
Trước
hết là bạn bè chị. Khi biết chị đem lòng yêu anh, một người không được bình
thường như bao người khác, họ đã khuyên chị không nên dính vào anh. Họ cho rằng
một cô gái xinh đẹp, duyên dáng, và khá giả như chị thì làm sao mà anh xứng với
chị. Vả chăng đang có hàng tá anh theo đuôi chị: con nhà giàu, xài hàng xịn,
nhà mặt phố… thế mà chị lại đem lòng yêu anh chàng mù hai mắt bẩm sinh. Bên
cạnh đó cũng không ít người dè bỉu, nói xấu chị… Thêm vào đó là gia đình chị.
Ba mẹ chị như một cây xanh đang thời kì tươi tốt bất chợt bị một cơn bão đi qua
tàn phá. Ba mẹ chị thật ngỡ ngàng trước quyết định của cô con gái rượu của
mình.
– Có
biết bao nhiêu thằng đàng hoàng tử tế, danh gia vọng tộc, con ông cháu cha mà
mày không chịu, lại đi yêu cái thằng mù đó là sao hả con?!
– Mày
muốn ba mẹ mày mau chết phải không?
Người
mẹ bao giờ cũng gần gụi con nhất. Bà đã rơi bao nhiêu nước mắt vì chuyện này.
Bà không hiểu được tại sao con gái bà lại có quyết định như thế. Phải chăng
tình yêu là một huyền nhiệm mà chính con người không thể hiểu được? Hay nói
cách khác, con tim có lý lẽ riêng của nó mà lý trí không thể nào giải thích
nổi.
Về phần
mình, Ngọc Lan đã rất đau khổ, chị cảm ơn bạn bè vì những quan tâm lo lắng cho
chị, chị bỏ ngoài tai những lời dè bỉu của chúng bạn. Đau khổ nhất là chị phải
lựa chọn giữa chữ hiếu và chữ tình… Chị vẫn nghe theo lời trái tim mình mách
bảo.
An Bình
cũng vậy. Ai cũng nói anh thật may mắn và tốt phước, nhưng trong tình yêu, nếu
anh yêu chị thật sự, anh không muốn nhìn thấy chị đau khổ. Anh mặc cảm về bản
thân dị tật của mình. Từ khi bắt đầu có trí khôn, biết nhận thức thì anh đã rất
đau khổ vì cuộc đời mang đến cho anh nỗi bất hạnh như vậy. Là đứa út trong gia
đình 3 người con, hai người đầu thì khỏe mạnh, riêng anh phải hứng chịu nghịch
cảnh: sinh ra và lớn lên trong tăm tối. Có lẽ là di chứng của chất độc màu da
cam quái ác nơi cha anh, anh đã gánh phần nặng nhất.
Đau
lòng vì số phận trớ trêu nhưng anh không đầu hàng số phận. Anh cố gắng đầu tư,
vươn lên trong học tập dù gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh những nỗ lực cố gắng
vươn lên không đầu hàng số phận của mình, bàn tay của Chúa luôn ở cùng anh, anh
là một người có lòng sùng kính Đức Maria Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi cách đặc
biệt. Trong túi của anh, dù anh đi bất kì nơi đâu, tràng chuỗi mân côi luôn là
hành trang không thể bỏ qua của anh. Ngày anh nhận giấy báo nhập học là ngày
anh hạnh phúc biết bao, những nỗ lực cố gắng của anh cũng đã phần nào được đền
đáp, anh thầm Tạ ơn Chúa, cảm ơn Mẹ đã nâng đỡ anh. Bây giờ, anh có được một
tấm chân tình từ cô gái Ngọc Lan, cô bé hồn nhiên, ngây thơ, vui tính. Cô bé mà
lần đầu nghe giọng nói của cô, trái tim anh đã rung động, nhưng anh không dám
nghĩ có ngày cô bé ấy lại nói lời yêu anh… Trong anh, hạnh phúc và đau khổ đang
song hành với nhau.
Gia
đình anh cũng vậy, họ mừng vì anh có được một tấm chân tình, nhưng biết thân
phận của mình, đũa mốc sao dám chòi mâm son, họ tan nát cõi lòng khi ngăn cản
anh, và họ phải ngăn cản anh: “Con là người mù, mà lại mù bẩm sinh, ba mẹ không
có ý kiến gì khi con muốn tạo lập một gia đình, đó là mong ước bình thường của
mỗi con người… Nhưng nếu con lấy một người cũng dị tật như con thì ba mẹ mừng
lắm, còn đằng này, Ngọc Lan nó là đứa… Ba mẹ trân trọng và yêu quý Ngọc Lan
lắm, nhưng ba mẹ sợ nó khổ, sợ nó không thích nghi được với lối sống của con,
và con cũng khó thích nghi với lối sống của nó”. Ba mẹ anh nói phải, hoàn toàn
có lý. Anh nhận thấy có rất nhiều vật cản anh và chị đến với nhau. Nếu có đến
được với nhau đi chăng nữa thì cũng còn nhiều khó khăn phải đối mặt khi hai
người chung xây hạnh phúc với nhau.
Trong
anh bây giờ thật khó tả. Vì yêu chị, anh không muốn nhìn thấy chị khổ, vì yêu
chị anh không muốn chị phải chịu thêm nhiều giày vò từ gia đình, vì yêu chị,
anh không muốn đến với chị, vì yêu chị… anh phải làm gì đây? Trong anh bây giờ
thật tăm tối. Anh nghĩ đến Mẹ Maria, anh cầu xin Mẹ chỉ cho anh con đường anh
phải chọn để đẹp lòng Chúa, đẹp lòng Mẹ.
Bao
khó khăn chồng chất, nhưng tình cảm chân thành hai người dành cho nhau đã chiến
thắng tất cả, anh chị đã cùng nhau gồng mình vượt qua những khó khăn của gia
đình và bạn bè. Để rồi một ngày anh chị dắt tay nhau bước vào nhà Chúa, dâng
trọn khối nối trọn mối tình, anh chị hiến dâng đời đôi lứa cho Chúa, cho Mẹ. Và
họ trở nên một xương một thịt.
Khi
yêu nhau đã gian khổ vậy, khi về sống chung, chắc chắn còn nhiều khó khăn hơn
nữa. Trong những ngày đầu sống chung, cuộc sống của anh chị thật vất vả: một
người sáng, một người mù. Tất cả những vật dụng của anh nhất thiết phải để
nguyên vị trí cũ. Còn chị tính còn con gái nên hay thay đổi lung tung… Có lẽ vì
những sự khác nhau đó mà thời gian đầu anh chị gặp rắc rối và có những bất hòa.
Đời không như mình nghĩ, khi yêu toàn màu hồng, nhưng khi lấy nhau, bắt đầu có
những mảng màu đen, rất đen.
Anh
đau khổ nghĩ về chị, chẳng lẽ anh phải từ bỏ chị sao? Không! Hai người đã nên
một rồi mà. Anh chạy đến với Mẹ Maria, cầu xin Mẹ cho anh, cho chị biết nhường
nhịn nhau. Về phần mình, thật hay làm sao, chị cũng chạy đến với Mẹ, xin Mẹ cho
chị biết hi sinh vì chồng, vì gia đình bé nhỏ của chị.
Thời
gian trôi qua, anh chị cố gắng hiểu nhau hơn, nhờ đó mà họ dần thích nghi với
cách sống của nhau. Chúa chúc phúc cho gia đình anh chị. Một năm sau đó, họ có
với nhau đứa con đầu lòng: một bé trai bụ bẫm và dễ thương vô cùng. Gia đình
tuy vất vả hơn, nhưng đầy ắp niềm vui nhờ có tiếng cười trẻ thơ. Nói cho đúng,
từ lúc biết mình mang thai, chị sợ lắm, chị sợ con mình sinh ra sẽ bị dị tật.
Nhiều người khuyên chị nên bỏ cái thai ấy đi, nhưng chị không nghe. Chạy đến
với Đức Mẹ, chị xin cho được ơn kiên dũng để vâng theo thánh ý Chúa. Chị không
cầu xin như ý chị, nhưng là theo ý Chúa. Và dường như Mẹ nhậm lời chị. Bé trai
bình thường như bao đứa trẻ khác.
Thời
gian thấm thoát thoi đưa. Ba năm sau, anh chị lại có thêm một bé trai nữa. Lần
này cũng như lần đầu, chị cũng lo sợ lắm. Nhưng Chúa lại ban ơn cho chị, bé
trai bình thường. Đã có hai bé trai nên anh chị cũng muốn có thêm một bé gái
nữa cho vui cửa vui nhà, vì con cái là hồng ân Chúa ban mà. Quyết định như vậy
nhưng có một chuyện làm cho anh chị hết sức lo sợ. Số là hai anh trai của An
Bình đều đã lập gia đình. Lạ một điều là cả hai đều bình thường, họ lấy những
người vợ bình thường, không khuyết tật gì, nhưng cả hai khi sinh đến đứa con
thứ ba đều bị dị tật: mù bẩm sinh, giống như gia đình của An Bình vậy. Lúc này
họ lờ mờ nhận ra rằng, gia đình anh có gen di truyền như vậy chứ không phải An
Bình bị chất độc màu da cam. Anh chị lo sợ lắm, họ thật sự muốn có với nhau đứa
con nữa, nhưng họ sợ đứa con thứ ba mà họ sinh ra lại giống như An Bình thì
sao? Làm sao có thể kiếm ra một Ngọc Lan thứ hai đây? Họ lo sợ.
Cuộc
sống cứ thế trôi đi. Hàng ngày chị vẫn đều đều buôn bán ở một sạp vải ngoài
chợ, còn anh vẫn đều đặn lên lớp giảng dạy âm nhạc cho các học viên kém may mắn
như anh ở ngôi trường dành cho người khuyết tật nơi anh từng học.
Khi
đứa đầu lên 10 và đứa thứ hai lên 7 thì một “tai nạn” xảy ra với gia đình anh
chị. Điều mà anh chị lo sợ bấy lâu nay đã xảy ra. Chị phát hiện trong người
mình khác lạ, rồi biết mình đang mang một sinh linh bé nhỏ nữa. Thay vì vui vẻ
đón nhận, anh chị lại lo sợ, anh chị sợ nó sẽ bị dị tật, sẽ thiệt thòi so với
những đứa trẻ khác. Bạn bè khuyên chị nên bỏ cái thai đó đi, đồng nghiệp cũng
khuyên anh như vậy. Nhưng ba mẹ hai bên lại khuyên con mình nên sống đúng với
lương tâm của một người Công giáo. Phần mình, anh chị cũng không thể nào lỗi
phạm với lương tâm của mình được.
Lo lắng.
Bồn chồn. Bất an. Chị chạy đến với Mẹ. Với một niềm tin vững cậy trông, chị cầu
xin Mẹ, cầu xin Mẹ ban ơn giúp sức cho chị để chị đủ can đảm đương đầu với
những biến cố xắp xảy đến với chị và gia đình:
– Lạy
Mẹ! Xin Mẹ dủ lòng thương con và gia đình con. Con biết con không có quyền đòi
hỏi gì, nhưng Mẹ ơi! Mẹ cũng từng làm mẹ như con, vậy ắt rằng Mẹ hiểu nỗi đau
của con khi thấy con mình đau khổ. Mẹ ơi! Mẹ đã tan nát cõi lòng khi thấy Chúa
chịu khổ hình, nỗi đau khổ đó thật lớn lao quá chừng. Con không mạnh mẽ như Mẹ,
con yếu đuối và mỏng dòn. Xin Mẹ ban cho con một đứa con thật bình thường nghen
Mẹ. Mẹ ơi, con thật tham lam phải không Mẹ, nhưng có người Mẹ nào lại không
tham lam khi dành tình cảm cho con mình. Dù vậy, nhưng xin cho ý Chúa được thể
hiện, xin Mẹ cho con biết nói lời xin vâng như Mẹ.
Suốt
chín tháng mười ngày mang thai, chị không đi khám thai định kỳ. Chị trông chờ
vào tình yêu của Mẹ, và chị luôn chuẩn bị tinh thần cho mình cũng như cho anh
để cả hai cùng nhau đối diện với điều xấu nhất có thể xảy ra. Cuối cùng em bé
cũng cất tiếng khóc chào đời. Đó là một bé gái như anh chị mong muốn. Ngày bé
cất tiếng khóc chào đời là ngày anh chị lo lắng nhất, họ không lo lắng cho họ
nhưng lo lắng cho đứa con bé bỏng của họ. Dù tin tưởng nơi Mẹ nhưng dù gì cũng
là con người yếu đuối, nên họ lo sợ. Họ sợ đứa con của mình không may mắn như
hai anh của nó.
Cơn
đau bụng khi sắp sinh làm chị đau khổ. Bác sĩ đưa chị đi xét nghiệm máu, đo
huyết áp… Đến lúc nằm trên bàn sinh mà đầu óc chị cũng còn khá tỉnh táo, miệng
chị lẩm bẩm, dường như là đang đọc kinh kính mừng.
Sinh
con xong là hầu như chị không còn biết gì nữa. Lúc tỉnh dậy, điều đầu tiên chị
làm là cầu xin Mẹ cho chị đủ can đảm để đón nhận điều mà chị không mong muốn,
đủ can đảm để đón nhận điều chị đang lo sợ. Mở mắt nhìn con, mắt chị ngấn lệ
nghẹn ngào… Nghẹn ngào vì đôi mắt của con chị… nó… vâng… nó bình thường như mắt
bao đứa trẻ khác… thậm chí có phần đẹp hơn, sáng hơn… Chị vỡ òa trong niềm sung
sướng.
Đúng
như lời chị nguyện xin. Không có người Mẹ nào là không thương con phải không
các bạn? Đức Mẹ cũng từng làm me, cũng từng trải qua nỗi đau khi thấy con mình
đau khổ. Mẹ là Nữ Vương giàu lòng xót thương, là bến bờ cậy trông của những tâm
hồn lẻ loi cô độc, vì xưa nay chưa từng thấy ai kêu cầu, mà Mẹ ngoảnh mặt làm
ngơ. Mẹ đã nhậm lời chị, đã chúc lành cho gia đình bé nhỏ của chị và anh.
Giờ đây, gia đình anh chị rộn rã tiếng
cười và đầy ắp niềm vui.
Mã số: 15-023
Kính
mừng Maria…
– Chúa ơi! Sao đau thế?
Trái tim con, như ai đang cầm gươm ngoáy vào
sâu tận, nhức buốt.
Thánh
Maria, đức Mẹ chúa trời…
– Chúa ơi! Con hết chịu đựng nổi rồi.
Trái tim con tan nát, như ai xé ra từng mảnh,
tê tái.
– Đức
Mẹ ơi! Hãy bảo vệ mẹ con cô ấy.
…
Người
phụ nữ ôm chặt đứa bé vào lòng quay lưng bước đi trong vô vọng, thế là hết!
Tình
yêu, lời thề non hẹn biển, bên nhau, phút chốc tan biến như bong bóng xà phòng.
Tâm ôm chặt con, chị lang thang, không biết đi về đâu. Lỗi tại chị, chị mê
mụôi, chị tin tưởng người ta, giờ vỡ lẽ ra, người ta chỉ lừa gạt chị, chị đau
khổ, người ta lại đi bên người khác. Hết! Dấu chấm hết tròn trịa.
…
– Mẹ
ơi, có chú lạ tìm mẹ.
– Con
mời chú vào nhà, chờ mẹ xíu, mẹ đang dở tay.
Chị
bước ra, mắt nhìn đăm chiêu vào người đàn ông trung niên, dờn dợn trong đầu,
nhưng rồi bẳng đi, sợi dây nhớ của chị tồi tệ thật, trống rỗng không còn gì
nữa. Mười năm trước, kể từ khi chị dọn đến nơi này, nó là vùng đất hoàn toàn
mới toanh với mẹ con chị, mười năm mưu sinh bằng nghề may vá đồ mướn. Lúc đầu
cũng chật vật, khó khăn, nhưng với bản chất chịu thương chịu khó, chị chắt chiu
dành dụm, thằng bé con chị giờ gần mười tuổi. Chị quên hết mọi sự, không hẳn
thế, vết thương đã lành, còn lại vết sẹo, nó minh chứng cho sức mạnh vì đã kinh
qua nỗi đau. Khô hoảnh, trong tim chị không còn chút gì, xem như chị còn may
mắn, còn đứa con để chị yêu thương, nổ lực sống vì con. Lắm lúc, con chị nài nỉ
chị sao ai cũng có Ba mà nó không có, chị lúng túng, khó giải bày với con,
nhưng rồi chị cũng hứa với con đến lúc con lớn chị sẽ kể con nghe. Nhưng trong
cung lòng chị, con chị chưa bao giờ lớn, và chắc sẽ không bao giờ lớn vì nó cần
sự che chở của chị, nó cần quên đi những gì thuộc về quá khứ để sống với hiện
tại tốt đẹp và tương lai tươi sáng.
– Một
lần thôi Tâm, một lần duy nhất thôi, anh van xin em, đưa thằng bé về cho nó gặp
cha nó đi, anh ấy không còn sống bao lâu nữa, nghĩa tử là nghĩa tận mà em. Anh
ấy đã hối hận gần cả đời, ngày ấy, không phải anh ấy tham sang mà phụ mẹ con
em, là do Ba anh ấy, Ba anh ấy không chấp nhận em vì em đạo Công giáo. Ba anh ấy
cầm chai thuốc sâu, uống tự vận, anh ấy đã quỳ xuống mà cam chịu vâng lời ba
anh ấy.
– Anh về đây, em đọc lá thư này, rồi tự em quyết
định, anh không có quyền, anh mãi mãi là bạn tốt của em.
Tính
đi rồi, Tâm mới hoàn hồn tỉnh lại, giọt nước mắt đang lăn dài trên má Tâm tự
bao giờ, vết thương năm xưa lại nhức nhối, nó bắt đầu mưng mủ. Tâm tưởng mẹ con
Tâm sẽ sống mãi nơi này mà không còn ai biết tới, màn cũ đã hạ xuống từ lâu,
Tâm đang diễn vai mới, đi đoạn đường mới, nào ngờ đâu, quá khứ vô hình vẫn trói
buộc Tâm.
…
Tha
thứ cho anh, anh có lỗi với mẹ con em nhiều lắm, anh không dám đòi hỏi và cũng
không có quyền đòi hỏi bất cứ điều gì ở em, chỉ van xin em một điều, hãy cho
anh gặp con anh. Em đã từng nói với anh Chúa dạy: “Phải tha thứ bảy mươi lần
bảy”. Hãy vì sự nhân từ của Chúa mà tha cho anh một lần thôi. Xin Đức Mẹ hãy vì
sự thành tâm của anh, mười năm qua ngày nào anh cũng đọc kinh kính mừng cầu xin
Mẹ che chở mẹ con em…
…
Đọc
tới đây nước mắt Tâm đã nhòe ra ướt đẫm lá thư. Vậy là những lời Tính kể là sự
thật sao?
…Thằng
Toàn nó đau khổ không thua em, mười năm nó phải chịu đựng bao nhiêu cay đắng,
giờ bịnh ung thư đang hoành hành nó, nó chẳng còn sống bao lâu. Lấy nhau được
hai năm, vợ nó bất mãn, vì nó chỉ có được cái xác mà không có cái hồn của Toàn.
Cô ta sinh tệ bạc, ăn chơi thâu đêm suốt sáng, cờ bạc, hư hỏng. Nhưng Toàn vẫn
chịu đựng, vì Ba nó, nó thà hứng hết đau khổ, cuối cùng ông mất đi, chắc ông
cũng đau lòng khi thấy Toàn như thế. Trước lúc chết ông cầm tay nó cứ nói Ba
sai rồi, Ba sai rồi, Ba xin lỗi con. Cuối cùng vợ thằng Toàn cũng bỏ nó đi theo
người khác. Toàn bây giờ đang khoắc khoải từng giây mong gặp lại mẹ con em. Anh
phải vất vả đi tìm hỏi tất cả những người bạn cũ, hy vọng mong manh tìm được em
để thằng Toàn nó an lòng ra đi. Nó đưa lại cho anh lá thư viết sẵn và bắt anh
hứa với nó dù cho nó có chết thì cũng phải tìm ra mẹ con em, mong được mẹ con
em tha thứ thì nó mới được rước về thiên đàng ở chung với mẹ con em.
Nó
nói nó tin lời hứa bên núi Đức Mẹ ngày xưa, Đức Mẹ sẽ che chở nó, che chở em.
Nó tin Chúa là Cha nhân từ mong đợi từng giây những đứa con về cùng Ngài sẽ
hiểu được lòng Nó mong gặp được con Nó là dường nào? Ngài sẽ chẳng từ chối Nó,
Ngài sẽ cất bớt gánh nặng trong lòng Nó như đã hứa: “Tất cả hãy đến với ta, hỡi
những ai khó nhọc và gánh nặng,Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi”(MT 11-29).
Những ngày nằm trên giường bệnh anh thấy Toàn cứ ôm cuốn kinh thánh của em tặng
mà đọc, Nó nói Tin Mừng sẽ mang lại cho Nó sự giải thoát, sẽ tha thứ cho những
gì nó đã gây ra cho em…
Những
lời của Tính cứ vọng lại, vọng lui trong đầu Tâm, nước mắt Tâm cứ theo dòng mà
chảy, trái tim tưởng chừng khô cằn của Tâm giờ xoáy lên từng nhịp từng nhịp đau
nhói, trái tim bắt đầu mền nhũng những yêu thương và thứ tha.
…
Thương ơi! Mẹ sẽ đưa con về với Ba như đã hứa, Mẹ sẽ kể con nghe về Ba của con,
sẽ kể bằng cả những yêu thương chìm trong nỗi nhớ, không có hận thù, không có
óan trách vì Ba con, một người ngoại đạo đã giữ tròn lời hứa bên núi thánh Đức
Mẹ.
Mã số: 15-024
Trời
còn mờ tối, sương đêm đang xuống dày. Vậy mà mẹ Hoàng đã dậy nấu cơm để đi làm
sớm. Ngày nào cũng vậy, mẹ Hoàng phải dậy lúc trời còn chưa kịp sáng. Để đến
lúc mặt trời bắt đầu ló dạng là ba mẹ đánh xe bò vào rẫy làm việc nhà nông đến
tối mịt mới về. Còn mấy chị em Hoàng ở nhà thì đến trường đi học. Vì trường học
không xa nhà bao nhiêu nên mấy chị em đi bộ tới trường. Vì thế mà con đường
làng trở nên thân quen đối với chị em Hoàng.
Làng
quê Hoàng còn nghèo và nhỏ. Con đường làng bằng đất đỏ trải dài từ đầu làng đến
cuối làng. Hai bên có những hàng dừa cao nghều nghệu. Những tàu lá dừa thật to,
che mát cả con đường. Con đường làng đơn sơ ấy đã gắn kết làng quê của Hoàng
với thế giới bên ngoài. Công dụng của nó thật nhiều vô kể. Đi học cũng nó, đi
làm cũng nó, đi nhà thờ cũng nó, đi chợ, đi chơi… hầu như tất cả mọi công việc
đều phải sử dụng tới nó. Nếu ai cũng nhìn thấy những điều ấy thì có lẽ sẽ quý
trọng con đường làng biết bao.
Hoàng
đang học lớp 12. Lớp học cuối cấp và nó mang tính chất quyết định cho tương lai
của chính Hoàng. Vào tuổi này người ta thường nói là tuổi mộng mơ. Mỗi sáng tới
trường, Hoàng và một người bạn lại chờ nhau cùng đi. Trang là một người bạn
thân của Hoàng. Cũng học lớp 12 nhưng khác trường. Nhà bạn ấy chỉ cách nhà
Hoàng một căn. Ngày nào cũng đi bộ. Đến trưa tan học, hai đứa lại chờ nhau về.
Trường của Hoàng học không xa trường của Trang bao nhiêu, chỉ độ vài trăm mét.
Hai đứa thường đi học và nói chuyện rất vui vẻ từ nhà tới trường và từ trường
về nhà.
Hoàng
hỏi:
– Trang
định thi vào trường nào? Chọn ngành gì?
Trang
lưỡng lự một lát.
– Mình cũng chưa biết nữa. Mình thích ngành Y
nhưng không biết thi có được không nữa. Còn Hoàng thi trường nào? Chọn ngành gì
vậy?- Trang hỏi.
– Mình
đang định thi vào ngành du lịch hay luật. Chỉ một trong hai trường đó mà thôi.
Trang
nghe Hoàng nói vậy thì ủng hộ và bảo:
– Hoàng
chọn một trong hai ngành đó được đấy, cố gắng lên nha.
Nói
rồi Trang nở một nụ cười thật trìu mến.
Trang
có khuôn mặt trái xoan, tóc ngang vai, có nước da trắng hồng thật dễ thương.
Lúc nào cũng tỏ ra vui vẻ, rất hiếm khi thấy Trang hờn dỗi ai. Mỗi lần có
chuyện không vui thì rất khó mà biết được. Mỗi lần bị đám bạn chọc thì chỉ mỉm
cười mà không hề nói lại câu nào. Hoàng và Trang vẫn thường rủ nhau đi sinh
hoạt ở nhà thờ. Hoàng tham gia lễ sinh của giáo xứ, còn Trang tham gia ca đoàn
thiếu nhi. Hai đứa cùng tham gia Legio của giáo xứ nữa.Thế rồi tình cảm nảy
sinh tự lúc nào mà chính Hoàng cũng chẳng biết. Lúc đầu thì rất đơn sơ và hồn
nhiên. Mấy đứa bạn trong nhóm hay ghép đôi hai đứa, nhưng có vẻ cả hai chẳng để
ý tới những lời trêu chọc đó. Với Hoàng thì khác, mỗi lần bị đám bạn chọc thì
Hoàng mất tự nhiên, cảm thấy ngại và càng tìm cách để né tránh. Không biết
Trang có suy nghĩ gì về những điều mà đám bạn trêu chọc hay không? Nhiều lúc
Hoàng tìm cách phản biện như để thanh minh cho sự ngây thơ của mình.Thế nhưng
làm sao mà nói lại được với mấy đứa bạn dẻo mồm dẻo miệng. Nhiều đứa còn nói:
“Không có lửa làm sao có khói!”. Khi nói không lại, Hoàng đành làm thinh, để
cho mấy đứa chọc gì thì chọc. Có một vài lần, vì không chịu nỗi sự trêu chọc
mãi của đám bạn, Hoàng đã phản ứng cách mạnh mẽ, may mà mấy đứa bạn khác kịp
thời can ngăn, không thì không biết hậu quả sẽ thế nào. Cũng từ đó, Hoàng có vẻ
thay đổi nhiều.
Càng
về cuối năm học, hai đứa càng ít đi
chung với nhau. Tuy vậy, mỗi lần gặp nhau lại nói biết bao là chuyện. Sau những
lần nói chuyện ấy, lúc về đến nhà Hoàng lại nghĩ ngợi và cảm thấy lòng nao nao.
Một cuộc đấu tranh nội tâm thật mãnh liệt trong Hoàng. Một mặt Hoàng suy nghĩ
những điều để khi gặp Trang thì sẽ nói. Mặt khác, khi gặp rồi thì không thể nào
mà nói được. Hoàng cảm thấy bối rối và mất tự tin mỗi lần gặp Trang.
Hôm
ấy trên đường đi học về. Trời nắng gắt, không một tí gió. Hoàng đi sau Trang
một khoảng không xa lắm. Vừa đi vừa suy nghĩ bâng quơ. Trên đường rất đông bạn
cùng trang lứa đang đi học về. Đứa đi xe máy, đứa thì đi xe đạp nhưng cũng lắm
đứa đi bộ. Lấy hết can đảm, Hoàng tiến lên đi ngang bằng Trang và nói:
– Bọn
mình ghé vào quán nước mía uống ly nước cho mát rồi về, trời nắng quá.
Trang
cười một cái rồi trả lời:
– Trang
phải về thôi, về trể sợ ba la, ba của mình khó tính lắm.
Thấy
vậy Hoàng lại đi thụt lùi đằng sau và nghĩ ngợi. Trang rủ lên đi chung cho vui
mà Hoàng tìm lý do để né tránh. Trang nói cũng đúng, vì bạn ấy là một đứa con
hiếu thảo. Mọi công việc trong nhà bạn ấy phải làm sau khi đi học về. Mỗi sáng
đi học, cùng đi chung con đường nhưng thấy xa vời vợi. Hoàng không biết trong
lòng Trang nghĩ gì về mình. Trang là một người bạn, một người bạn rất đặc biệt.
Đi cách nhau không xa mà thấy xa ngàn dặm. Từ dạo ấy, Hoàng không còn đi chung với Trang nữa. Nhưng nếu
có năm bảy đứa bạn đi cùng thì Hoàng mới dám đi. Đi cùng mà Hoàng cũng không
dám nói chuyện như trước.
Thời
gian cứ thế trôi đi. Ngày nào hai đứa cũng gặp nhau trên một con đường mà Hoàng
luôn giữ một khoảng cách. Thế rồi những ngày cuối năm học cũng đến.
“Ôi,
mình sắp phải đi Sài Gòn để thi đại học rồi. Biết làm sao mà nói cho Trang biết
những suy nghĩ của mình nhỉ?”. Cứ suy đi nghĩ lại mà lòng Hoàng thấy rối bời.
Sau cùng, Hoàng lấy giấy viết hết những suy nghĩ của mình một cách cẩn thận vào
tờ giấy, gấp lại rất đẹp rồi tìm dịp để đưa cho Trang. Hoàng không biết là
Trang có đọc nó hay không, nhưng Hoàng cảm thấy nhẹ lòng hơn rất nhiều. Hoàng
đã lên xe đi Sài Gòn để thi đại học. Một phần như là muốn trốn chạy chính mình
vậy. Lên xe ngồi mà lòng nặng trĩu với những suy nghĩ miên man. Hoàng tự nghĩ:
“Cho dù Trang có hiểu hay không thì tôi cũng cảm thấy trút bớt được một gánh
nặng thật lớn lao”.
Những
ngày ở Sài Gòn thi đại học mà tâm trí của Hoàng cứ để đi đâu, cứ suy nghĩ vẫn
vơ. Mặc dù Hoàng vẫn biết là phải tập trung để làm bài thi cho tốt. Thi đại học
về được mấy hôm thì Hoàng lại quyết định thi vào Chủng viện. Phải chăng đó là
một cách để Hoàng lẫn tránh chính mình? Chỉ có Hoàng mới hiểu mà thôi. Chủng
viện Hoàng thi vào là Chủng viện Giáo Phận. Được giấy giới thiệu của Cha xứ,
Hoàng đi thi và trúng tuyển. Điều này cũng khá bất ngờ đối với nhiều người.
Trước ngày lên đường nhập học, Hoàng vừa cảm thấy mừng vừa cảm thấy lo lắng.
Mừng vì ước nguyện của ba cậu bấy lâu nay đã thành hiện thực. Mừng vì được vào
học Chủng viện, nơi mà nhiều bạn trẻ độ tuổi Hoàng hằng mơ ước. Hoàng lo lắng
và buồn vì phải xa làng quê yêu dấu, đã gắn liền với tuổi thơ của Hoàng với
biết bao kỷ niệm đẹp. Buồn vì phải xa những người thân, bạn bè và gia đình. Lo
vì không biết mình có thích ứng được với môi trường mới ở Chủng viện hay không.
Đôi lúc Hoàng nhận thấy mình quá bé nhỏ khi nghĩ đến môi trường sống mới ở
Chủng viện. Hoàng cảm thấy mình như con chim non bé nhỏ ngày đầu ra khỏi tổ để
bước vào một thế giới rộng lớn và xa lạ. Nhưng Hoàng vẫn tin tưởng và hy vọng.
Với thế giới mới đang mở ra trước mắt, với môi trường đào tạo trong Chủng viện,
Hoàng sẽ học hỏi được nhiều điều và sẽ trưởng thành hơn khi sống ở quê nhà.
Thời
gian trôi thật nhanh. Mới ngày nào Hoàng ngập ngừng nữa muốn đi nữa muốn ở nhà,
mà bây giờ Hoàng đã là chủng sinh của Giáo phận. Một hôm, cha giáo đưa cho
Hoàng một lá thư, ngài trêu Hoàng:
– Có
thư của cô nào gởi cho thầy nè, chắc là có người nào thương, để ý rồi phải
không?
– Dạ,
dạ… thưa Cha! Con, con… không biết, ai mà thương con chứ.- Hoàng vừa rụt rè,
vừa ngập ngừng.
Ở ngoài thư đề “bạn phương xa”. Hoàng cảm thấy
thắc mắc, không biết ai đã gởi lá thư này cho mình. Vì lâu nay Hoàng rất ít khi
viết thư cho bạn bè. Tối về phòng trước khi ngủ, Hoàng cẩn thận mở thư ra đọc.
Hoàng nhìn xuống chữ ký cuối thư trước, đó là thư của Trang. Trong lòng Hoàng
cảm thấy hồi hộp. Hoàng đọc từng chữ, từng chữ một. Nội dung thư đại khái như
sau:
“Hoàng, bạn xa mến!
Vậy là đã gần một năm rồi mình không gặp
nhau. Nhiều lúc Trang cũng muốn liên lạc với Hoàng nhưng rồi thôi. Có nhiều lý
do lắm. Hôm nay, Trang đã suy nghĩ nhiều về việc viết thư cho Hoàng. Cách đây
gần một năm, lúc nhận được lá thư của Hoàng. Trang cảm thấy làm sao ấy, tự
nhiên không dám gặp Hoàng nữa. Trang cũng muốn trả lời thư lâu rồi nhưng không
đủ can đảm. Trang có lý do của Trang, có lẽ Hoàng không hiểu đâu. Hoàng trách
Trang lắm phải không? Từ khi nghe tin Hoàng thi vào Chủng viện, Trang cảm thấy
rất ngạc nhiên và mừng cho Hoàng. Trang không trả lời thư Hoàng là vì Trang đã
có ý định đi tu lâu rồi. Nếu trả lời thư mà chấp nhận đề nghị của Hoàng thì
không được. Còn từ chối thẳng thừng cũng không xong. Trang không muốn tình bạn
của chúng ta bị sứt mẻ. Trang chỉ muốn chúng mình mãi là bạn tốt của nhau. Giờ
Trang cũng đã vào nhà dòng. Chúng mình cùng cố gắng để yêu Đức Kitô cho trọn
nha Hoàng. Lúc nào có dịp sẽ gặp lại sau.
Mãi mãi là một người bạn.
Thân ái.
Ký tên: Phương Trang.”
Đọc
thư xong, Hoàng nằm trằn trọc suốt đêm. Nhiều ngày sau đó, những lời trong thư
cứ văng vẳng trong tâm trí của Hoàng. Vào nhà nguyện đọc kinh mà Hoàng cứ thấy
những dòng chữ trong lá thư. Hoàng suy nghĩ thật nhiều, cậu quyết định lên gặp
cha linh hướng vì Hoàng cảm thấy bất an trong lòng.
Lên
gõ cửa phòng, cha linh hướng mời ngồi, Hoàng hít một hơi thật sâu để lấy bình
tĩnh, cậu trình bày hết những điều làm cho cậu bất an mấy hôm nay, cha lắng
nghe tất cả. Khi Hoàng đã trình bày hết, cha nhẹ nhàng khuyên nhủ, chia sẻ và
khích lệ cậu. Cha hứa sẽ cầu nguyện cho cậu. Sau khi gặp cha linh hướng, Hoàng
cảm thấy bình an và yên tâm hơn. Hoàng không viết thư hồi âm. Hoàng chỉ viết
những suy nghĩ của mình vào trang nhật ký hằng ngày. Mỗi lần trãi lòng ra nơi
trang nhật ký thì Hoàng cảm thấy thoải mái hơn rất nhiều.
Đúng
là con gái khó hiểu thật. Nhìn bề ngoài thì có vẻ đơn giãn như vậy đó. Nhưng
thực chất họ như một thế giới bí ẩn. Giờ đây, đối với Hoàng, Trang là một người
bạn. Hoàng tôn trọng và ủng hộ quyết định của Trang, cầu nguyện nhiều cho
Trang. Trang cũng vậy, tôn trọng và ủng hộ quyết định của Hoàng. Bản thân Hoàng
cũng thật bất ngờ khi biết tin Trang vào nhà dòng. Vậy là giờ đây hai đứa ít có
dịp để đi chung với nhau trên con đường làng nhưng lại đi chung với nhau trên
con đường tận hiến. Con đường được Thầy chí thánh Giêsu mời gọi bước theo Ngài.
Hoàng
thầm thỉ: “Đường làng ơi, ta cám ơn mi nhé. Mi đã cho ta một người bạn thân. Đã
cho ta những khái niệm ban đầu về tình yêu là gì”. Hoàng không bao giờ hối hận
về quyết định và chọn lựa của mình. Lâu lâu, mỗi lần về quê, Hoàng lại có dịp
bước đi trên con đường làng quen thuộc để ôn lại những kỷ niệm xưa. Những kỷ
niệm của một thời áo trắng.
Mã số: 15-025
“Tạ
ơn” là điệp khúc vang lên mãi trong suốt cuộc đời anh, cho dù có những lúc anh
không sao hát nổi điệp khúc ấy. Trước khi ra về, cha Hoàng ghé vào tai anh,
chẳng biết ngài nói với anh câu gì mà thấy anh nở nụ cười thật tươi rồi đáp
lại: “Tạ ơn Chúa”.
Từ
ngày anh và Liên kết hôn đến nay đã có ba đời cha xứ. Nhưng cha nào về nhận xứ
cũng rất hài lòng với gia đình anh. Anh là một thành viên của ca đoàn và cũng
là một gia đình công giáo gương mẫu. Anh sống chan hòa với mọi người, ai cần gì
anh cũng sẵn sàng giúp đỡ. Nên trong làng ngoài ngõ ai cũng đều quý mến anh.
Anh cũng là người rất siêng năng đi lễ. Nhà anh cách nhà thờ không xa nên việc
đến nhà thờ tối sáng đã trở thành thói quen và ngấm vào máu huyết của anh. Liên
lấy anh rồi mới theo đạo nhưng ai cũng bảo Liên còn sốt sắng hơn những người
đạo gốc. Vì Liên cũng bị “lây chất thánh” của anh. Có hôm thấy anh mệt, Liên
bảo anh ở nhà nghỉ nhưng anh bảo: “Mình hy sinh một chút để cầu nguyện cho các
linh hồn em ạ”. Nghe anh nói vậy Liên không dám cản nữa. Những buổi sáng mùa
đông ở Miền Bắc, cái lạnh đến cắt da cắt thịt, chẳng ai muốn chui ra khỏi chăn.
Thế mà anh chị vẫn tới nhà thờ. Chính cách sống đạo và gương sáng của anh làm
cho nhiều người khô khan cũng được ơn hoán cải.
Nhưng
người ta thường bảo “ở hiền mà chẳng gặp lành”! Chẳng biết điều ấy có đúng
không nhưng cuộc đời của anh quả thực là lận đận. Anh và Liên lấy nhau đã gần
sáu năm mà hai người vẫn chưa có mụn con nào. Hai vợ chồng đã tìm thầy chạy
thuốc khắp nơi, ai bảo ở đâu là anh chị đều tới đó. Có lúc nhìn thấy những đứa
trẻ hàng xóm chạy lon ton gọi ba, gọi mẹ mà anh lại thấy thèm. Rồi có những kẻ
xấu miệng lâu lâu chêm vào một câu làm cho anh thấy tủi: “Cây khô không lộc,
người độc không con”. Nhưng anh không sống trên dư luận. Vì anh tin vào tình
thương và quyền năng của Chúa, anh nghĩ Chúa làm được những điều mà con người
không thể làm. Cho nên ngay cả những lúc xem ra đau khổ và lời cầu nguyện của
anh chẳng được Chúa nhận lời, anh vẫn không ngừng tạ ơn Chúa. Có lẽ vì thế mà
điều ước của anh đã được Chúa lắng nghe. Năm thứ bảy kể từ ngày anh lấy Liên,
Chúa đã ban cho anh điều mà anh mong ước bấy lâu, đó là một bé trai đã chào
đời. Vì sự chờ đợi của anh chị quá lâu nên ngày bé chào đời không những là niềm
vui cho gia đình, dòng họ mà cả xóm làng cũng vui lây. Ai nghe biết cũng đều
đến chúc mừng anh chị. Bé càng lớn càng đẹp người đẹp nết, lại chăm ngoan học
giỏi nên ai cũng đều thương mến. Anh chị coi bé là gia tài quý nhất của đời
mình. Có bé gia đình vui và nhộn nhịp hẳn lên.
Thời
gian trôi đi bé đã lớn và cũng đến lúc phải tung cánh để bay vào đời. Vì không
muốn con rơi vào cảnh “nông dân truyền kiếp” như mình, nên anh chị đã cố gắng
để con được lên thành phố học. Nhưng cuộc đời thật nhiều trớ trêu, chẳng ai
biết trước được số phận tương lai của mình sẽ ra sao. Niềm vui và nỗi buồn như
một ma lực cứ bám vào gia đình anh chị mãi không thôi. Ngày bé nhận được giấy
báo trúng tuyển đại học cũng là ngày chị bị tai nạn. Niềm vui đang dâng tràn
trong gia đình anh bỗng lịm tắt khi chị bị tai nạn giao thông. Thời gian ấy anh
phải tất tưởi chạy lên chạy xuống vừa chăm sóc cho chị, vừa phải lo giấy tờ cho
con. Rồi ngày anh chị tiễn bé lên thành phố học cũng đã đến. Khi thấy con sắp
vuột khỏi tầm tay mình, tâm trạng vui buồn cứ đan xen lẫn lộn nơi anh. Anh vui vì
trong ngôi làng bé nhỏ này, con của anh là người đầu tiên được bước vào giảng
đường đại học. Nhưng có lẽ anh buồn nhiều hơn vui nhưng anh không dám nói sợ
chị buồn thêm. Mấy ngày nay chị cứ khóc rấm rức vì nghĩ đến giây phút chị sẽ
phải xa người con độc nhất của mình. Chị không muốn bé đi xa chị chút nào, nếu
không phải vì tương lai của bé chị đã giữ bé ở lại bên mình. Vì chỉ có mình bé
nên bao nhiêu tình thương chị đều dành hết cho bé. Chị nghĩ đến cái cảnh ngôi
nhà trống trải lạnh lẽo như khi bé chưa chào đời chị òa lên khóc. Thấy chị
khóc, sợ làm cho con bịn rịn và không đi được nên anh động viên: “Con nó đi học
rồi lại về chứ nó có đi luôn đâu mà khóc”. Nói vậy nhưng trái tim anh lúc này
cũng xốn xang lắm.
Vì
thương ba mẹ cực khổ nên bé học rất giỏi. Năm học đầu tiên bé đạt học sinh giỏi
của trường, anh chị rất vui và tự hào về con. Hè năm ấy bé xin ở lại đi làm
thêm để đầu năm học đỡ tiền cho bố mẹ. Từ trường về nhà cũng chỉ mất sáu, bảy
chục cây số, nhưng mỗi lần nghĩ đến những đồng tiền thấm đẫm mồ hôi của bố mẹ
bé lại không dám về, vì về nhiều sợ tốn kém. Anh chị đọc ra được tình thương và
lòng thảo hiếu của con nên anh chị cũng không dám mong nó về. Nhưng không hiểu
sao hôm ấy chị thấy nhớ con. Ruột gan chị cứ bồn chồn và nóng lên như lửa đốt,
chị buột miệng: “Anh Tuấn ơi! Có lẽ ngày mai em đi thăm con, sao bỗng dưng em
thấy nóng ruột và nhớ con ghê lắm”. Nói thật anh cũng nhớ con lắm nhưng tình
thương của người cha có bao giờ tỏ lộ ra bên ngoài như tình thương của người mẹ
đâu. Nghe chị nói như vậy anh chiều ý chị và bảo: “Em cứ thu xếp đi đi, công
việc ở nhà để anh lo”. Hai vợ chồng đang còn bàn tính với nhau chưa hết câu chuyện
thì có điện thoại báo về: Con của anh chị bị tai nạn và đã qua đời khi còn đang
trên đường đến bệnh viện. Nghe tin sét đánh ấy chị không kiềm chế được, chị gào
lên như một người điên, chị ngã xuống và lịm đi. Khi tỉnh lại chị tiếp tục gào,
chị trách Trời tại sao lại đổ tai họa xuống đầu con chị, nó đâu có tội tình gì,
gia đình chị có làm gì thất đức đâu, chị hoàn toàn bất lực và không hiểu... Chị khóc và khóc mãi cho đến khi chị không
còn khóc được nữa, cho đến khi giọt nước mắt cuối cùng đã cạn. Chưa bao giờ chị
than trách Chúa điều gì nhưng lần này nỗi đau của chị quá lớn nên chị đã nói mà
không hiểu mình nói gì. Mọi người trong làng đều đến để chia sẻ nỗi đau với anh
chị. Anh không gào, không hét như chị, nước mắt của anh cũng không rơi nhưng
cõi lòng anh thì tan nát. Bao nhiêu hy vọng của anh và gia đình gởi gắm nơi con
giờ đã hết. Kẻ nối dõi tông đường là con giờ còn đâu. Anh thực sự không hiểu
tại sao Chúa lại nỡ lấy đi đứa con độc nhất mà chính Ngài đã ban cho anh. “Chúa
ơi! Lúc này con phải hát điệp khúc tạ ơn như thế nào? Ước chi Chúa chỉ thử con
như Ngài đã thử Apraham rồi Chúa sẽ lại cho con của con được sống”. Nhưng đấy
chỉ là điều ước thôi, con anh đã vĩnh viễn ra đi và không bao giờ trở lại.
Từ
khi đứa con độc nhất của anh đột ngột ra đi. Liên trở nên như người mất trí. Cả
ngày cứ điên điên khùng khùng, có lúc Liên cười khanh khách một mình rồi lại
khóc hu hu như đứa bé. Có đêm đang ngủ Liên bật dậy lao ra đường như một con
thiêu thân đang lao tìm ánh sáng. Anh phải vất vả lắm mới đưa được Liên về. Từ
đó mỗi khi đi đâu anh đều phải khóa cửa để Liên ở trong nhà. Thấy con gái của
mình chẳng còn ra người, được đứa cháu ngoại ông bà cưng nhất thì đột ngột ra
đi, bố mẹ Liên đến khuyên anh bỏ đạo. Theo ông bà khi xem tướng số họ tin rằng:
Tại anh là người có đạo nên anh gặp nhiều hoạn nạn, giờ chỉ cần anh bỏ đạo là
giải được oan nghiệt. Anh giải thích: “Theo đạo không phải là điều làm cho gia
đình anh gặp tại họa, nhưng chính Niềm Tin sẽ giúp cho con người hiểu được ý
nghĩa và giá trị của đau khổ”. Thấy anh vẫn trung thành với Niềm Tin của mình,
ông bà chửi mắng anh thậm tệ: “Đến nước này mà anh còn tin được à? Đấy, giờ vợ
con anh như vậy anh đã thỏa mãn với niềm tin chết tiệt ấy chưa?”.
Thấy
họ cố chấp như vậy anh chẳng nói gì, chỉ biết im lặng và im lặng. Đối với anh
có nói gì lúc này cũng chẳng giải quyết được gì. Anh cũng đau khổ lắm, nhất là
từ khi con anh chết và vợ anh điên, anh chẳng còn muốn sống nhưng anh vẫn tin.
Anh tin Chúa không tạo ra thập giá cho con người. Chúa cũng không muốn con
người khổ đau và bất hạnh. Anh vẫn thường nghe cha xứ giảng: “Vinh quang của
Thiên Chúa là con người được sống và sống dồi dào”. Nhưng anh vẫn thắc mắc tại
sao Chúa lại để cho anh gặp quá nhiều đau khổ như vậy? Cho đến một ngày, anh
ngộ ra rằng anh đang được đồng hình đồng dạng với Chúa. Chính lúc anh đau khổ
nhất thì Chúa cũng đang đau khổ và đồng cảm với anh: “Đến như Con Một của mình,
Chúa cũng chẳng tha nhưng đã trao nộp vì tất cả chúng ta”. Anh tự nhủ: “Chúa
Cha chỉ có mỗi người con độc nhất mà cũng ban tặng cho chúng ta, thì tình yêu
của mình dành cho Chúa đâu có thấm gì”. Nghĩ vậy anh thấy vui và càng vững tin vào
tình thương quan phòng của Chúa hơn.
Từ đó
anh không còn thấy buồn mỗi khi nhìn cái cảnh vợ điên điên khùng khùng nữa.
Nhưng anh dành thời gian để ở bên Liên nhiều hơn và nhất là để dẫn Liên đi dạo
vào mỗi buổi mỗi chiều cốt để cho Liên bớt căng thẳng. Hôm ấy được nghỉ nên anh
muốn dành trọn ngày hôm đó cho Liên. Từ sáng sớm anh đã chuẩn bị đồ ăn cho bữa
trưa và bữa tối. Thu xếp xong anh và Liên bắt đầu cuộc hành trình. Nói là cuộc
hành trình chứ thực ra chỉ là từ nhà anh di chuyển tới cánh đồng lúa. Nơi đó
lần đầu tiên anh và Liên gặp nhau. Khi dẫn Liên đi men theo con đường mòn hai
bên bờ lúa, mùi hương lúa thoang thoảng, mùi hương quen thuộc ấy như đang đi
vào đánh thức từng ngõ ngách trong tâm trí Liên. Anh rất thích chỗ này vì từ đó
nhìn ra hai bên là cả một cánh đồng lúa ngút ngàn. Anh quay lại bảo Liên: “Em
nhìn kìa, lúa năm nay tốt thật, bông nào bông nấy nặng trĩu hạt. Tạ ơn Chúa cho
bà con năm nay được mùa để dân làng bớt khổ”. Anh nói thì nói vậy chứ được mùa
hay mất mùa đối với Liên cũng như nhau vì Liên đâu còn biết gì. Anh bật cười vì
có lúc anh cho ăn rồi mà Liên còn bảo chưa được ăn.
“Em
muốn ăn cơm chưa?”- Anh quay về phía Liên hỏi. Dường như Liên hiểu điều anh
đang hỏi nên gật đầu, anh quay sang với hộp cơm rồi bảo: “Em làm dấu tạ ơn Chúa
rồi ăn nhé”. Từ ngày Liên bệnh, mỗi lần trước khi cho Liên ăn gì anh cũng đều
làm dấu cho Liên. Anh cầm tay phải của Liên đặt lên trán: “Em đọc nhân danh Cha
đi em…”. Liên đọc theo câu anh vừa đọc. Thật bất ngờ khi Liên mới giơ tay đọc
được câu “Nhân danh Cha…”, thì bao nhiêu ký ức như đang dội về trong Liên.
Những “mầm ký ức” vùi sâu trong tiềm thức tưởng chừng đã ngủ quên nay trỗi dậy.
Hình ảnh đầu tiên xuất hiện trong trí nhớ Liên là giây phút Liên và anh quen
nhau. Đó cũng là lần đầu tiên anh tập cho Liên làm dấu Thánh giá. Hôm đó cũng
vào buổi chiều như thế này, giữa cánh đồng bao la chỉ có anh và Liên, anh cầm
tay phải Liên đặt lên trán rồi bảo: “Em đọc nhân danh Cha đi em”. Không ngờ
“Mầm Tin” mà anh gieo vào lòng Liên chỉ bằng dấu Thánh giá ấy cứ lớn dần lên
mãi. Cho dù có những lúc “Mần Tin” ấy bị dập vùi bởi gió bão, nhưng khi gặp
điều kiện thuận lợi nó lại tiếp tục đâm chồi và phát triển. Để rồi chính Liên
lại là người gieo “Mầm Tin” đầu tiên vào lòng con qua dấu Thánh giá. Liên nhớ
lại những ngày anh chị dẫn nhau đến nhà thờ… Bao nhiêu hình ảnh đẹp về Chúa mà
anh đã gieo mầm nơi Liên cứ lần lượt hiện lên trong trí nhớ. Liên nhìn anh và bật lên:
– Anh
Tuấn!
Anh
đang cầm tay Liên, thấy Liên gọi anh tưởng mình đang mơ: “Có phải em gọi anh
đấy không?” . Liên nhìn anh một cách âu yếm: “Dạ, em gọi anh”. Lâu lắm rồi hôm
nay anh mới được nghe lại giọng nói thân thương và ánh mắt trìu mến của Liên,
ánh mắt và giọng nói ấy một thời đã làm cho trái tim anh chao đảo, anh vui
sướng đến nghẹn ngào. Anh ôm chặt Liên vào lòng rồi thì thầm: “Tạ ơn Chúa”.
Tin
Liên bình phục làm cho mọi người trong làng đều kéo đến phần vì tò mò và cũng
là để chia sẻ niềm vui với anh. Đặc biệt là cha Hoàng, nghe tin một cái là cha
tới ngay. Cha mừng cho anh đã vượt qua những “chướng ngại vật” cách xuất sắc.
Và để tỏ lòng quý mến anh chị, Cha đã chờ cho mọi người về hết rồi Cha mới ra về. Cả ba má của Liên cũng đến không phải
để chửi mắng anh như những lần trước nhưng để xin lỗi anh về những hành động
không phải của mình.
Đêm
hôm ấy, Liên nằm mơ thấy con hiện về với mình. Con khoác một áo choàng màu
trắng chung quanh có đính những viên ngọc lấp lánh. Gương mặt của con tỏa sáng
như được phủ một lớp hào quang, con tiến về phía Liên và gọi: “Mẹ ơi!”. Cái
giọng quen thuộc của con làm cho Liên tỉnh dậy. “Con đã về trời rồi, giờ con
đang được hưởng trọn niềm vui trong Chúa. Mẹ đừng buồn nữa nhé, con đi trước để
dọn chỗ cho ba mẹ đó”. Nói rồi Liên chẳng còn thấy gì nữa, Liên bật dậy lay
anh.
– Con
về anh ạ, con đã lên thiên đàng.
Tưởng
Liên trở lại tình trạng cũ. Anh ngồi dậy vỗ vào vai Liên: “Ngủ đi em, đừng suy
nghĩ nhiều về những…”. Anh chưa nói hết câu Liên đã ngắt lời: “Không, con chúng
ta đang sống anh ạ! Một sự sống trường tồn trong Thiên Chúa, một sự sống không
còn lệ thuộc vào những vật chất và thời gian. Giờ thì em hiểu rồi, tất cả những
gì xảy ra đều nằm trong tình thương quan phòng của Chúa. Em thấy con hạnh phúc
trong Chúa là em vui rồi anh ạ. Đối với em như vậy là đủ”. Rồi Liên quỳ gối
hướng về bàn thờ: “Con tạ ơn Chúa vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Thấy Liên nói một cách xác tín như vậy anh hiểu rằng vợ mình hoàn toàn tỉnh
táo. Và anh cũng hiểu “Mầm Tin” mà chính Chúa đã gieo vào mảnh đất đời Liên
đang tiếp tục lớn lên và vươn tới tầm vóc viên mãn trong Đức Kitô. Anh cũng quỳ
lên và hướng về bàn thờ rồi lập lại điệp khúc tạ ơn: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn
trọn tình thương”.
BẢN THỂ LỆ GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG
Cập nhật cho cuộc thi lần thứ ba - 2015
GIẢI
VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG được Ban mục vụ Văn hóa & Giáo dục Giáo phận Qui Nhơn
thực hiện trong khuôn khổ dọn mừng kỷ niệm 400 năm Tin Mừng của Chúa đến với
giáo phận Qui Nhơn (1618-2018), nhằm đào tạo cho Hội Thánh Việt Nam nhiều cây
bút văn xuôi. Thể lệ, chủ đề và cơ cấu tưởng thưởng của cuộc thi được ấn định như
sau.
I. THỂ LỆ
1.
Cuộc thi kéo dài sáu năm, năm năm đầu (2013-2017) mỗi năm trao giải một lần,
năm thứ sáu (2018) dành cho những người đã đạt giải trong các năm trước và trao
giải tổng kết.
2.
Cuộc thi dành cho các bạn trẻ Công giáo, trong cũng như ngoài giáo phận Qui
Nhơn, dưới 40 tuổi (năm dự thi – năm sinh theo sổ rửa tội ≤ 40). Người đã đạt
giải một lần, các năm sau có thể dự thi tiếp, dù đã hơn 40 tuổi. Các bạn trẻ dự
tòng cần có chứng từ đang theo học giáo lý dự tòng.
3.
Thể loại: Truyện ngắn, mỗi truyện không quá 3000 từ. Không nhận truyện phóng
tác. Phải là sáng tác mới, chưa đăng báo, website hay blogs và chưa gửi dự thi
ở bất cứ đâu.
4.
Truyện lấy ý từ một tác phẩm khác, xin ghi rõ xuất xứ tác phẩm gốc. Nếu bị phát
hiện sao chép của người khác hoặc dựng lại theo ý tác phẩm khác mà không ghi
xuất xứ, sẽ bị loại và cấm thi các năm tiếp theo.
5. Đề
tài: Truyện cần mang nội dung Kitô giáo, có tác dụng xây dựng đức tin cho Dân
Chúa và loan báo Tin mừng cho người chưa biết Chúa.
6. Mỗi
năm, mỗi tác giả có thể tham gia tối đa 05 bài dự thi, có thể gửi chung một lần
hoặc nhiều lần.
7.
Chỉ nhận bài dự thi qua điện thư email, gửi attach file với định dạng .doc hoặc .docx, không nhận bài gửi qua đường bưu điện.
8.
Đầu bài dự thi phải ghi rõ: họ và tên, bút danh, năm sinh, rửa tội tại đâu, năm
nào, địa chỉ nhà, giáo xứ, giáo phận, số điện thoại liên lạc, địa chỉ email. Dù
đã gửi nhiều email dự thi, đầu mỗi bài đều cần ghi như thế. Những bài thiếu các
chi tiết này sẽ không được nhập hồ sơ dự thi.
9.
Mỗi bài dự thi sẽ được nhập hồ sơ theo lần gửi đầu tiên, mọi chỉnh sửa về sau
đều không được chấp nhận.
10.
Địa chỉ nhận bài, xin gửi cùng lúc về 2 điện chỉ email: tinmunggiesu@gmail.com
và gopnhattho@yahoo.com.
11.
Thời gian nhận bài: trước ngày 01-3 mỗi năm. Những bài gửi về muộn hơn sẽ được
đưa vào hồ sơ dự thi năm sau.
12.
Tưởng thưởng: Mỗi năm sẽ có 06 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng,
theo cơ cấu và sinh hoạt như sẽ nói dưới đây.
13.
Kết quả cuộc thi hằng năm sẽ được công bố ngày 15-8 mỗi năm
14.
Lễ trao giải vào ngày 21-9 mỗi năm.
15.
Những tác giả được vào chung khảo mà không đạt giải sẽ được hỗ trợ một phần
tiền xe về dự ngày họp mặt trao giải.
16.
Các thông tin về cuộc thi sẽ được đăng trên trang mạng giáo phận Qui Nhơn http://www.gpquinhon.org
và những trang mạng ủng hộ chương trình này.
17.
Các tác phẩm đạt giải sẽ được in thành tuyển tập do Ban Tổ Chức giữ bản quyền.
II. TƯỞNG THƯỞNG
Cơ
cấu giải thưởng
Mỗi
năm, có 6 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng.:
- một
giải nhất: 20.000.000
$VN
- hai
giải nhì, mỗi giải : 12.000.000 $VN
- ba
giải ba, mỗi giải: 8.000.000
$VN
- 15
giải triển vọng, mỗi giải: 3.000.000
$VN
Tuyển
tập truyện ngắn riêng
Ngoài
phần thưởng bằng tiền mặt, những tác giả đạt giải, nếu có nhiều truyện khác có
giá trị, sẽ được Tủ Sách Nước Mặn hỗ trợ xuất bản một tuyển tập riêng dưới 200
trang với những truyện ngắn mang nội dung Kitô giáo.
Những
tác giả không đến dự lễ trao giải sẽ chỉ được nhận 50% tiền giải thưởng và
không được hỗ trợ in tuyển tập riêng. Những tác giả chỉ dự lễ trao giải 21-9 mà
không tham gia hành hương 22-9 chỉ được nhận 75% tiền giải thưởng, nhưng vẫn
được hỗ trợ in tuyển tập riêng.
III. TƯỞNG THƯỞNG DÀNH CHO ĐỘC GIẢ
1.
Bình chọn
Các
truyện dự thi đã qua vòng sơ tuyển sẽ lần lượt được đưa lên mạng internet. Mời
độc giả tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng
đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng
nhất sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao
giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
2.
Giúp phát hiện trường hợp sao chép
Những
độc giả giúp phát hiện đầu tiên những bài dự thi sao chép của người khác (xin
ghi rõ xuất xứ bài gốc) sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe
về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Ban
Tổ Chức chân thành biết ơn sự giúp đỡ của các ân nhân. Các hỗ trợ tiền bạc hoặc
hiện vật cho cuộc thi xin gửi về: Linh mục Võ Tá Khánh, 116 Trần Hưng Đạo, TP
Qui Nhơn – Email: gopnhattho@yahoo.com – Điện thoại: 0935-424-449.
Cập nhật
Qui Nhơn, ngày 23-9-2014
TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC
Lm Gioan Phêrô Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự)
Trưởng Ban MV Văn hóa & Giáo dục Giáo phận Qui Nhơn