GIẢI VIẾT VĂN
ĐƯỜNG TRƯỜNG 2015
BẢN TIN 08
Thưa quý độc giả và quý tác giả,
Có một sự trùng hợp bất ngờ thú vị và đầy ơn Chúa: Ba năm
qua hai giải truyện ngắn Kitô giáo bằng Việt ngữ đã được phát động gần như song
song trên mạng internet. Cùng lúc với Giải VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG của Ban mục vụ
Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn, là Giải truyện ngắn Cơ Đốc với chủ đề “VIẾT CHO
NIỀM TIN” của Đặc san Hướng Đi và trang web Sống Đạo thuộc Hội thánh Tin Lành
tại Canađa. Tối 21/9/2014, lễ trao giải Giải Viết Văn Đường Trường lần
thứ hai được tổ chức tại Chủng viện Qui Nhơn, với tuyển tập Nắng Mùa Đông, 219
trang, gồm 30 truyện ngắn của 22 tác giả. Tối 14/11/2014, lễ trao giải Viết Cho
Niềm Tin năm thứ hai được tổ chức tại Vancouver, Canada, với tuyển tập “VIẾT
CHO NIỀM TIN – năm thứ hai”, 550 trang, gồm 70 truyện ngắn của 53 tác giả. Hiện
nay, đang khi Giải Viết Văn Đường Trường lần thứ III phát đi những bản tin giới
thiệu các tác phẩm đã qua vòng sơ tuyển, Giải thưởng Viết Cho Niềm Tin năm thứ
ba cũng đang giới thiệu bài chọn đăng thứ 71. Quý độc giả có thể theo dõi cuộc
thi 2015 trên trang songdaoonline.com tại thư mục Vườn Êđen Mới. Cùng lúc, 40
truyện của Giải thưởng 2014 được chuyển thành audio book và giới thiệu tại thư
mục Sách Báo Cơ Đốc. Trong niềm hiệp thông giữa các con cái Chúa, Ban Tổ chức
Giải Viết Văn Đường Trường xin chúc mừng thành công rực rỡ của Giải truyện ngắn
Viết Cho Niềm Tin. Hy vọng với những nỗ lực của cả đôi bên, ngày càng có nhiều
truyện ngắn hay mang nội dung Kitô giáo, giúp mọi người thêm hiểu biết và yêu
mến Đạo Chúa hơn.
Chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu đến
quý độc giả 8 truyện dự thi đã được chọn qua vòng sơ loại. Hiện nay Ban sơ khảo
đang tiến hành chấm điểm vòng 1 để chọn những truyện nổi trội giới thiệu cho
Ban chung khảo.
Xin mời quý độc giả tiếp tục theo dõi, đánh giá và tham
gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng đạt giải nhất?
2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ được
tặng quà lưu niệm, đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và
hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Quý độc giả có thể gửi phiếu bình chọn ngay sau từng đợt
bài được giới thiệu. Khi đọc các truyện ở các đợt tiếp theo, nếu thay đổi ý
kiến, có thể gửi phiếu bình chọn mới. Chúng tôi sẽ tính theo phiếu gởi sau cùng
của mỗi người.
Cũng mong quí độc giả nào phát hiện có truyện dự thi đã
sao chép từ một truyện khác, xin gởi thông tin về cho Ban tổ chức qua email: gopnhattho@yahoo.com – Khi có đầy đủ bằng chứng xác thực, chúng tôi sẽ loại
bài đó và cả những bài khác của cùng tác giả ra khỏi cuộc thi.
Xin chân thành cám ơn các trang truyền thông Công giáo đã
và đang hỗ trợ truyền bá chương trình này, cám ơn quý tác giả đã gửi bài tham
gia và cám ơn quý độc giả đang quan tâm theo dõi cuộc thi. Chúc tất cả một Mùa
Phục Sinh đầy ơn phước Chúa.
Qui Nhơn, ngày 13-05-2015
Thay lời Ban Tổ chức
Linh mục TRĂNG THẬP TỰ
BÀI DỰ THI
Mã số: 15-089
Ngày
01/03/2001 âm lịch… Đây là ngày mà chuyến tàu hỏa tăng cường cuối cùng chở
những hành khách từ nông thôn vào lại Sài Gòn. Trên chuyến tàu mọi người xô đẩy
tấp nập, nào là tiếng khóc của mấy đứa trẻ được mẹ bế trên tay, nào là tiếng
giành khách của những ông phu chở thuê đồ vào tàu, nào là tiếng than thở của
mấy bà cụ già…
Ngồi
lên chiếc ghế cứng số 13 toa 5, Huy thở phào nhẹ nhõm khi đã sắp xếp gọn hành
lý. Cảm thấy nóng và mệt, Huy ngồi xuống và thiếp ngủ đi. Tỉnh dậy Huy thấy con
tàu lăn bánh lúc nào không hay biết. Ngó ra ngoài song cửa sắt, bây giờ Huy mới
để ý thấy Thiên Chúa tạo ra vũ trụ thật tài tình. Ngài đã tạo dựng vạn vật tốt
đẹp để cho con người hưởng dùng, thế mà con người lại không biết quý trọng và
lạm dụng một cách quá đáng. Giờ này mặt trời buổi ban mai đang ưỡn ngực vươn
vai, dọi xuống trên những rặng thông già, dọi vào những đám cỏ non xanh mượt,
dọi xuống những hạt sương long lanh đang đậu mềm trên lá; mặt trời cũng đang
dọi vào những con thú dữ hung tợn, những con nai ngơ ngác và cũng đang dọi vào
thế giới của con người để con người sinh tồn.
Những
tiếng xình xịch của con tàu cứ thế chuyển động đều. Chiều đến, con tàu leo lên
đến đèo Hải Vân, khung cảnh chiều giờ này như một thiên đường. Ánh hoàng hôn
lung linh mờ mờ, ảo ảo; xa xa đó bóng dáng những con thuyền đánh bắt xa bờ chỉ
còn thấy buồm chứ không thấy nguyên cả con thuyền, lúc này mới hiểu vì sao trái
đất tròn. Cả khung trời hoàng hôn dọi xuống biển lớn một màu đỏ sáng rực. Đàn
chim hải âu vỗ cánh nhịp nhàng bay về tổ ấm; đôi ba chiếc thuyền, chiếc ghe gần
bờ với dáng vẻ mệt mỏi sau một ngày trời làm việc. Khung trời chiều cũng như
chậm lại báo hiệu một màn đêm sắp tới. Cố quan sát cảnh sắc thiên nhiên, ấy thế
mà Huy cũng không phân định được ranh giới giữa ngày và đêm.
Màn
đêm dần buông xuống, đâu đó trên bầu trời một vài vì sao đang lấp lóe sáng. Con
tàu hỏa vẫn cứ thế chạy, nó chạy không biết mệt mỏi, nó cứ chạy dưới sự chỉ huy
của tàu trưởng, nó cũng chẳng thèm để ý hành khách trên tàu đang gặp phải
chuyện gì, nó cũng chẳng chờ đợi một ai lỡ chuyến, vì lịch trình nên nó cứ chạy
theo giờ quy định. Đêm tối đang phủ vây cả một khung trời rộng lớn và cũng đang
phủ vây cả một con tàu đang chạy trên đường ray. Giờ này mọi người đang chuẩn
bị cho một giấc ngủ vào đêm.
Khi
tiếng đồng hồ Huy đeo trên tay đã điểm 12 giờ đêm. Bỗng chiếc tàu chạy nhanh
hơn bình thường, hình như có một thế lực siêu nhiên nào đó đang điều khiển.
Vù… vù…
vù… Chiếc tàu hỏa lao nhanh khủng khiếp, trời đất như quay cuồng, gió kèm theo
bụi đất thổi mịt mù. Con tàu phóng nhanh như lao xuống vực thẳm. Giật mình tỉnh
giấc, Huy thấy chẳng còn một ai trên chuyến tàu. Con tàu cứ thế vút bay. Hoang
mang. Lo lắng. Huy liếc ngang rồi liếc dọc nhưng chỉ thấy toàn là bóng đêm, chỉ
có một ánh sáng điện nhỏ phía đàng xa đang chập chờn. Huy lo sợ đến toát mồ
hôi. Cả thân mình run lẩy bẩy, tóc dựng đứng. Ngoài kia, như có một trận giông
bão đang nổi lên, tiếng gió thét gào, tiếng cây cối dội vào nhau đập bụp bụp,
tiếng còi tàu kêu inh ỏi. Hốt hoảng, khuôn mặt Huy tái ngắt rồi Huy lịm ngất đi
lúc nào không hay biết.
Lúc
tỉnh dậy, trong đầu Huy vẫn boàng hoàng và sợ hãi, cả thân mình đau ê ẩm, nhức
đầu, chóng mặt. Chiếc tàu giờ này chạy chậm rãi hơn, khung cảnh trên tàu là một
mớ hỗn độn, quần áo bay tả tơi, lá cây kèm theo bụi bặm nằm ngổn ngang. Huy cảm
thấy lo lắng không biết mình đang đi về đâu, lo lắng vì sợ phải vào nhà dòng
trễ. Bỗng còi tàu kêu một tiếng dài đằng đẵng rồi dừng lại trước một khung cảnh
thiên nhiên hết sức khác thường và kỳ lạ. Cánh cửa chính toa 5 bỗng nhiên mở
ra. Huy đứng lên và bước đi một cách ngập ngùng như vẻ thăm dò một cái gì đó.
Khi bước ra khỏi con tàu, một khung trời khác lạ mở ra trước mắt. Do đói bụng,
mệt nên Huy chạy đi tìm cái để lót lòng. Và rồi Huy thấy hoa quả ở đây bát
ngát, to lớn khác thường. Những quả chuối bằng bắp đùi người lớn, chín đều từ
trên ngọn chín rủ xuống mặt đất mà chỉ cần lấy tay hái là có thể ăn được. Huy
vội vàng hái một quả nhỏ nhất. Ôi chao! mùi chuối thơm ngào ngạt như hương của
sữa quện mật ong rừng, cắn một cái mà hương thơm bay ngào ngạt. Đi tiếp một
đoạn, Huy thấy cả một vườn nho lóng lánh, đủ mọi màu sắc, nho to gấp 3 lần loại
nho mà Huy đã ăn, những chùm nho trĩu quả, treo lơ lửng trên một giàn rộng bát
ngát bao la, cái giàn nho thấp đủ để tay Huy với đến. Huy hái một chùm và nếm
từng quả, vị nho thanh ngọt đến tận trong cổ họng, những trái nho mát rượi và
không có hạt. Vừa cầm chùm nho, Huy đi từ khu này đến khu khác. Có những quả lê
sáng rực, những quả cam mọng nước thơm lừng và nhiều thứ quả trông thật bắt mắt
và ngon lành. Huy cũng thấy lạ là những con sư tử đùa giỡn với những con nai
ngơ ngác, những con hổ nằm chung với cừu non, những con cua sống chung với cá
sấu. Bất chợt khung cảnh trước mặt làm cho Huy càng tin đây là “Vườn địa đàng”
mà trong sách Sáng thế đã nói tới.
Huy
hồi hộp trong từng bước đi “Có thật mình đang ở trong vườn địa đàng hay không?
Có thật mình đang quay về thời Thiên Chúa tạo dựng đất trời?”. Những thắc mắc
hoang mang hiện lên trong đầu Huy. Huy đi tiếp và cứ tiếp tục đi, rảo qua từ
chỗ này đến chỗ khác. Và rồi, Huy đã gần đến giữa vườn. Quả thật như trong suy
nghĩ, Huy thấy một cây táo ngay giữa vườn, những trái táo đỏ rực và sáng cả một
vùng trời. Những cành nặng trĩu quả, lấp lánh. Cây táo nổi bật giữa các loài
cây ăn trái khác. Nhìn cây táo mà trong lòng Huy cũng nôn nao muốn nếm thử xem
cảm giác thế nào. Và rồi Huy đã thấy. Chính con rắn kia đã dụ dỗ ông bà Ađam,
Eva để rồi từ đó Chúa đuổi 2 ông bà ra khỏi vườn địa đàng. Con rắn bò lên cây
táo, rồi lại bò xuống. Dường như trong lòng nó như tự nhủ: “Mình sẽ cám dỗ 2
ông bà bằng cách nào đây? Mình sẽ làm sao để dụ ông bà sập bẫy?”. Nhưng nó nhớ
lại: Khi Thiên Chúa tạo dựng con người, Ngài đã để cho con người có tự do lựa
chọn. Do đó tự do của con người đã bị tội lỗi làm tổn thương. Vả lại con người
hay đề cao cái TÔI mình quá đáng nên thường sinh ra kiêu ngạo. Tự nhiên trong
mắt con rắn sáng lên và nó bò lên cây táo chờ 2 ông bà về.
Sau 2
tiếng đồng hồ đi ăn những trái cây trong vườn và thăm nom những con thú vật. Bà
Eva về đến giữa vườn, cạnh cây táo. Còn ông Ađam đang phải băng bó cho một con
cừu non bị tổn thương. Mệt mỏi, bà Eva ngồi xuống gốc cây táo và rồi con rắn ma
quái đã bò lại gần bên bà.
- Này
bà Eva, có muốn nếm thử những trái táo trên cây này không?
- Không
đời nào. Đó là cây mà Thiên Chúa đã cấm. Vì nó là cây biết lành, biết dữ.
- Tại
sao con người lại khờ đến như vậy được cơ chứ. Con rắn vừa nói vừa nhếch hàm
lên.
- Thiên
Chúa tạo dựng con người chúng tôi làm chủ muôn loài, chúng tôi là sản phẩm tốt
đẹp nhất trong chương trình tạo dựng của Thiên Chúa.- Bà Eva vừa nói vừa nhìn
thẳng vào con rắn.
- Vậy
tại sao Thiên Chúa lại phải cấm bà với Ađam ăn táo? Bà với ông là chủ của muôn
loài mà? Là chủ phải có tự do chọn lựa chứ? Và tôi chẳng thấy một chút chất chủ
gì ở con người hai ông bà cả.
- Hai
ông bà đã bị Thiên Chúa lừa gạt. Ngài muốn hai ông bà không được thông minh như
Thiên Chúa. Bà biết không, khi ăn trái táo trên cây này, hai ông bà sẽ thông
minh ngang tầm Thiên Chúa của ông bà. Hai ông bà sẽ có nhiều phép thuật, sẽ có
nhiều quyền năng như Thiên Chúa.
- Tôi
nói đây không phải ép hai ông bà ăn những trái táo này, vì tôi muốn tốt cho hai
ông bà và muốn hai ông bà được giỏi dang như Thiên Chúa. Còn ăn hay không là
quyền của hai ông bà, hai ông bà đã là chủ thì ông bà có tự do chọn lựa cái tốt
nhất cho hai ông bà. Nếu ăn vào ông bà sẽ thông minh nhất trần đời. Vậy bà có
muốn thử không?
- Thế
mày nói thật hay lừa bọn tao vậy? Có thật chúng tao ăn vào sẽ quyền năng như
Thiên Chúa không?
- Thế
tôi hỏi bà tại sao Thiên Chúa lại cấm? Chẳng là Thiên Chúa sợ hai ông bà quyền
năng như Thiên Chúa đấy thôi sao.
Bà Eva hoang mang. Nhìn những trái táo
chín mọng bà tự nghĩ: “Kể ra con rắn này nói cũng có lý. Đã lâu lắm rồi những
trái cây trong khu vườn ăn hoài cũng chán, chẳng lẽ lại cứ tiếp tục ăn trong
khi những quả táo ở đây ngon như thế này lại không được ăn. Hay là mình cứ thử,
biết đâu con rắn lại nói thật”. Và rồi bà Eva giơ tay cầm quả táo mà con rắn
đưa cho. Một làn môi mỏng chạm vào quả tảo đỏ lửng. Bà cắn một miếng, quả táo
sần sật, mát rượi tận sâu trong cổ họng. Khi đã ăn miếng táo xong, Eva thấy
mình trần truồng không mảnh vải che thân. Vừa lúc ấy Ađam bước về.
Thấy
Eva vừa phạm phải lỗi lầm, đã ăn trái Thiên Chúa cấm. Ađam ngậm ngùi đắng cay.
Nhớ lại lời Thiên Chúa dặn: “Nếu ăn trái cấm trong vườn thì sẽ bị đuổi khỏi
vườn địa đàng, sẽ phải làm lụng vất vả để kiếm của ăn, đàn bà sẽ sinh nở đau
đớn”. Nghĩ những lời của Chúa, trong lòng ông lại càng bùi ngùi, xót xa. Ông
thương cho thân phận Eva và cũng nghĩ cho thân phận chính mình. Ông biết Thiên
Chúa là Đấng Công Chính và luôn giữ đúng lời đã nói. Nếu như một mai, khi Eva
bị đuổi khỏi vườn thì ai sẽ là người chia ngọt, sẻ bùi với ông nữa đây? Ai sẽ
là người tâm sự với ông lúc chiều về? Ai sẽ chăm sóc, vỗ về ông mỗi khi ông gặp
chuyện buồn?
Còn
Eva. Bà cúi đầu, hai hàng mi đẫm lệ. Bà hối lỗi, nhưng sự lầm lỗi của bà đã đưa
đến một tai họa khó có thể cứu vãn. Đó là bà sẽ bị đuổi khỏi vườn địa đàng.
Nhìn Ađam, một người đàn ông của cuộc đời bà, một chuyện tình đẹp phải kết thúc
tại chốn này chăng? Ông bà sẽ xa nhau ư? Rồi bà sẽ phải đi đâu, về đâu khi
không còn ở chốn này? Ai sẽ là người kể những câu chuyện tình cho bà ngủ mỗi
khi đêm tối xuống? Ai sẽ là người nâng đỡ bà giữa nẻo đường cuộc sống? Ai sẽ là
người bảo vệ bà khi bà gặp gian nan? Bà sẽ cô đơn một mình ư? Nhìn Ađam mà nước
mắt bà cứ thế tuôn trào.
Nhìn
Eva đẫm lệ mà tâm trí ông cũng rối bời, ruột gan tan nát. Thương cho người đàn
bà đã cùng chăn gối với ông. Thương cho người đàn bà đã nhẹ dạ cả tin lời con
rắn mà phạm tội.
Hai
tay ông cầm chặt lên bờ vai của Eva, ông nhìn thẳng vào mắt bà. Ông thấy trong
mắt bà có bóng hình ông. Ông biết bà yêu ông lắm. Trong mắt bà có sự hối lỗi,
có sự yếu đuối của phận người mỏng dòn và sâu thẳm trong ánh mắt ấy cần sự nâng
đỡ, chở che. “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp thì loài người không được phân ly”.
Nhìn bà mà nước mắt ông cũng chực trào tuôn. Ông ôm bà vào lòng, siết chặt bà
trong tiếng khóc của phận người. Nghĩ về kiếp người và số phận tương lai khiến
nước mắt ông lại cứ chảy. Ông siết bà hồi lâu và không muốn rời xa bà phút giây
nào nữa. Ông không muốn mất bà, ông lại càng không muốn để bà chịu khổ một
mình. Và một quyết định táo bạo cuối cùng cũng đã đến. Ông cầm quả táo trong
tay bà, đưa lên bờ môi dính đầy nước mắt. Ông nhắm mắt và cắn quả táo. Ông cắn
quả táo như lưỡi gươm đâm thâu vào tim. Ông đang phản bội Chúa, không vâng lời
Chúa. Và ông biết cái giá phải trả. Ông chấp nhận tất cả, lãnh nhận tất cả vì
người đàn bà của cuộc đời. Miếng táo trôi vào cổ họng nhưng ông cố gắng nuốt.
Nuốt. Dồn hết sức để nuốt nhưng miếng táo đã mắc lại nơi cổ họng ông. Mặt ông
đỏ bửng, mắt trợn tròn.
Thấy
Ađam đau đớn. Chẳng giúp được gì cho ông cả. Bà vội vàng đưa bờ môi mỏng khẽ
chạm vào bờ môi của ông. Hai bờ môi đã chạm nhau. Trời đất như ngừng lại. Ông
bà đã phạm tội vì không nghe lời Thiên Chúa.
Và
sau khi phạm tội, vườn địa đàng bỗng trở nên kém cuốn hút, bị nhơ nhớp bởi tội
gây nên. Khung cảnh buồn, ảm đạm biết chừng nào. Như một mùa xuân đã chợt tắt,
một giọng hót của con họa mi bỗng lẳng lặng ngừng. Nỗi đau khổ tràn ngập khắp
khu vườn địa đàng khi bờ môi mỏng của bà Eva chạm vào quả táo.
Chiều
đến, đôi ba tia nắng còn sót lại trên nền trời xanh thẳm. Vài con chim nhỏ mỏi
cánh, chập chờn dìu nhau về tổ ấm. Từ khi tội lỗi xuất hiện trên chốn này, cảnh
vật dường như sặc sụa mùi đau thương. Thấy khung cảnh hôm nay khác thường, Chúa
mới hé gọi:
- Ađam,
Eva đâu rồi? Sao hôm nay các ngươi cũng kì quặc vậy? Liệu có chuyện gì không
tốt chăng?
- Ađam,
Eva ơi!
Thấy
tiếng Chúa gọi, hai ông bà núp sau một bụi cây rậm.
- Dạ.
Chúng con xấu hổ không dám ra? Chúng con đã phản bội Chúa rồi.
- Phản
bội cái gì? Các ngươi đã ăn trái táo giữa vườn mà ta đã cấm ư?- Ngài bỗng trầm
ngâm và hạ giọng.
- Chính
con rắn đã xúi giục con ăn.- Bà Eva nói trong tiếng nấc.
- Eva
đã đưa trái táo và con đã ăn. Chúng con đã phản bội Chúa.- Ađam với vẻ mặt hối
lỗi.
Thiên
Chúa nhìn con rắn tức giận và nói:
- Hỡi
con rắn độc ác và xấu xa, ngươi phải đi bằng bụng và ăn bụi ăn bờ. Rồi đây một
người phụ nữ sẽ đạp nát đầu ngươi.
Sau
bao ngày tạo dựng đất trời và tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Ngài cứ
tưởng là mọi sự đã hoàn tất và tốt đẹp. Ấy vậy mà chính hình ảnh giống Ngài đã
phá tan mọi thứ, tội lỗi đã xâm nhập vào con người. Ngài trầm ngâm một lúc lâu.
Nghĩ ngợi đủ điều. Nếu như đuổi Ađam và Eva khỏi vườn địa đàng thì ai sẽ làm
chủ muôn loài và vạn vật ở đây? Ai sẽ hưởng dùng hoa thơm, trái ngọt chốn này?
Ai sẽ tâm sự cùng Ta mỗi khi chiều về? Càng nghĩ Ngài càng thương cho hai ông
bà và lại càng căm ghét tội lỗi. Nhưng Thiên Chúa là Đấng toàn năng và quyền
phép. Rồi Ngài sẽ vạch ra ý định để thực hiện chương trình cứu độ con người.
Khi
hai ông bà rời khỏi chốn địa đàng. Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương và bảo vệ ông
bà. Chương trình của Ngài luôn đầy tràn tình thương và lòng bao dung.
Giật
mình tỉnh giấc. Huy chồm dậy. Mắt mở to. Sáng ngời. Nắng chiều vẫn đang le lói
trong căn phòng. Đôi ba cây cảnh có gió thổi nhẹ nhàng. Huy nhớ đến bài tập trả
phép tết cho cha giám đốc trong sách sáng thế chương 1. Chợt Huy cười bơ vơ hồn
nhiên giữa khung trời chiều.
Tiếng
chuông đổ liên hồi. Giờ kinh chiều đã tới. Trên góc tường nhỏ trong căn phòng
của Huy, cây Thánh giá chuộc tội cứ thế lấp lóe sáng ngời.
Mã số: 15-091
Ngọn
đèn đỏ cạnh nhà tạm trên bàn thờ leo lét như muốn tắt, thằng Tâm vội chạy đi
tìm ông từ:
- Chú
Thái! Chú Thái! Đèn nhà tạm như hết dầu rồi chú ơi.
Ông
từ Thái đang đóng dở chiếc ghế gỗ bị gãy chân ở cuối phòng thánh ngẩng đầu lên,
tay nhấc cái kính lão:
- Cái
thằng… Tắt gì mà tắt… Tao mới châm dầu hôm qua mà.
Dù
nói thế nhưng ông cũng buông vội cái búa xuống đất rồi tất tả đi vào nhà thờ.
Ông bước lên, giở cái đèn, nheo mắt nhìn. À, mà dường như dầu cũng hơi cạn đấy
chứ. Ông đặt cây đèn vào chỗ cũ, cúi đầu, rồi đi trở lại phòng thánh lấy chai
dầu. Vừa đi ông vừa lẩm bẩm điều gì đó, chắc có lẽ ông quên châm dầu thật. Lớn
tuổi rồi quả là lẩm ca lẩm cẩm.
Ông
Thái tự nguyện làm từ ở ngôi nhà thờ này đã hơn hai mươi năm, trải qua nhiều
đời cha sở. Mọi ngóc ngách trong ngoài nhà thờ ông đều thuộc lòng như trên bàn
tay. Giật chuông, dọn đồ lễ, thắp hương, thắp đèn hay bất cứ nghi thức phụng vụ
nào ông đều nhớ và làm đầy đủ không phải đợi nhắc. Thế mà giờ đây…Ông thường
bảo phải chi có mấy bà sơ về giúp ở họ đạo này thì hay quá!
oOo
Ngôi
nhà thờ này có lối kiến trúc đẹp hình thánh giá, nằm trên một khu đất rộng,
thoáng mát, chung quanh có trồng nhiều cây bàng và cây phượng vĩ. Mùa hè mấy
cây phượng vĩ nở hoa đỏ thắm; mùa đông mấy cây bàng trơ trụi, lá đổ đầy sân.
Đám học trò nhỏ chúng tôi được chia thành nhiều đội quét dọn xung quanh nhà thờ
mỗi ngày. Bọn con trai, con gái chúng tôi rất hồn nhiên, sau giờ học là cứ tụ
tập đến nhà thờ để làm công tác hay nếu không có công tác thì ở lại cho đến
xong giờ lễ chiều mới chịu về, quên cả chuyện cơm nước.
Lâu
lâu để thay đổi không khí, chúng tôi kéo nhau ra vườn bông chơi. Vườn bông cách
nhà thờ độ năm trăm mét, có trồng nhiều thứ bông kiểng thông thường, nhiều nhất
là hoa dâm bụt loại cánh dày mà chúng tôi gọi là bông bụp Đà Lạt. Bọn con trai
hái bông bụp cắm trên đầu bọn con gái. Rồi cứ thế, chúng tôi kéo nhau ùa chạy
về nhà thờ trước sự ngơ ngác của người đi đường.
Thỉnh
thoảng có mấy thầy ở Đại chủng viện về giúp xứ thật là vui. Mấy thầy dạy chúng
tôi học đàn, học hát, rèn luyện các kỹ năng cắm trại, chơi trò chơi lớn, làm
các thiệp chúc mừng bằng vật liệu có sẵn như vỏ trứng, bột màu, bìa tập…
Mấy
thầy còn bày ra cách hấp dẫn tụi nhỏ chúng tôi làm bó hoa thiêng hàng tháng để
cầu nguyện cho một ý lễ nào đó. Chúng tôi đua nhau viếng Chúa, lần chuỗi, hi
sinh hãm mình, làm việc bác ái… để ghi phiếu bỏ vào các kẽ ô trên mặt một cái
tủ con có nhiều ngăn.
Họ
đạo của tôi chỉ có hơn trăm gia đình công giáo. Phân nửa số đó ở lân cận chung
quanh nhà thờ, còn phân nửa ở rải rác trên con đường đổ ra chợ Sài Gòn. Dù vậy,
hàng ngày cũng có vài chục người đến dự lễ. Tôi đi học buổi chiều nên khi tan
học về cũng ôm cặp vào nhà thờ xem lễ luôn. Riết rồi trở thành thói quen, hôm
nào không đi lễ được thật là áy náy.
Tôi
có thói quen ngồi dự lễ ở cánh phía bên nam. Ánh Tuyết thì thường ngồi đối diện
ở cánh phía bên nữ. Lúc ban đầu, tôi cũng chẳng chú ý đến điều này, nhưng càng
về sau, tôi càng có cảm giác là lạ. Bởi vì lâu lâu tôi bắt gặp nàng lén nhìn về
phía tôi. Ánh Tuyết mới về nhập họ đạo nên chúng tôi còn rụt rè nhút nhát lắm.
Điều thích thú nhất của tôi lúc này là cả hai đứa được chúc bình an với nhau
trong thánh lễ.
Một
hôm, tôi có ý nghĩ táo bạo là sẽ tặng cho nàng một món quà bất ngờ. Tôi chuẩn
bị một cái hộp nhỏ gói giấy bông có thắt nơ, bên trong có một con “thằn lằn
bạch” to tướng bắt được ở cột nhà thờ. Sau lễ, tôi giả vờ gọi:
- Tuyết
ơi!
Nàng
bẽn lẽn:
- Gì
vậy?
- Có
cái này hay lắm.
- Cái
gì?
- Có
cái hộp ở chỗ… ghế ngồi trong nhà thờ…
- Chỗ
nào?
- Chỗ
Tuyết hay ngồi đó!
- Chi
vậy.
- Của
mình gởi.
- Cho
ai?
- Cho
Tuyết!
Thoáng
thấy má nàng ửng hồng, tôi vù bỏ chạy. Trước đó tôi đã nhờ thằng Tâm mang cái
hộp đặt ở đúng cái ghế thứ ba từ trên xuống, phía bên nữ. Cũng chính ngay vị
trí đó, trong một lần quét dọn nhà thờ, tôi đã ngồi thừ ra và để mặc cho tâm hồn
thẫn thờ, hồi hộp…Hôm nay tôi cũng hồi hộp núp ở gốc cây phượng để xem nàng mở
quà. Tôi chỉ kịp nghe tiếng á, cái vỏ hộp đã bị quăng lăn lóc, nàng vừa bỏ chạy
vừa thét lên vì sợ. Mấy đứa bạn nàng bám theo an ủi. Tôi hối hận quá. Biết
người ta sợ mà vẫn cứ trêu. Nàng giận tôi đúng một tuần không thèm tới nhà thờ
đi lễ…
oOo
Rồi
chiến cuộc bùng nổ. Trên Sài Gòn bất ổn. Biểu tình. Pháo kích. Tự thiêu. Đảo
chánh. Máy bay ném bom… Dưới quê, ông bà ngoại tôi như ngồi trên đống lửa, ông
bà hối thúc cả nhà tôi phải dọn về quê gấp. Tôi ra đi trong nước mắt. Chiếc xe
hàng chất đầy đồ đạc và cả chục con người trực chỉ miền Tây, cách xa Sài Gòn
mấy trăm cây số.
Sau
đó, gia đình tôi đã khép mình trong mọi sinh hoạt của họ đạo mới, một họ đạo
miền tây sông nước hữu tình, con người hiền hòa chất phác nhưng lúc nào tâm hồn
tôi cũng canh cánh nhớ mong về nơi xa ấy, một nơi có đầy những kỷ niệm đẹp của
một thời thơ trẻ.
Về
đây, tôi nhớ da diết những mùa chay ở Sài Gòn như có vẻ nặng nhọc với ngày thứ
sáu hàng tuần phải ăn chay kiêng thịt; nhớ tuần thánh cùng bạn bè rủ nhau đi
xin lá dừa non về thắt để kiệu lá vào chúa nhật lễ lá, nhớ những buổi đi nghe
ngắm lễ đèn, nhớ chiều thứ sáu đi hôn kính Thánh giá mang theo chiếc túi con
con để hốt bắp nổ, nhớ đêm vọng phục sinh với nhiều bài đọc thật dài… Lúc ấy,
mấy chú cầm thánh giá đèn hầu và Cha sở mồ hôi ướt đẫm cả áo. Đặc biệt tôi nhớ
lắm tiếng nhạc réo rắt mùa giáng sinh cùng với cây thông, dây đèn, máng cỏ; nhớ
lúc đi tìm mua bộ tượng Chúa Hài đồng dọc theo đường Nguyễn Thông để tặng nàng;
nhớ chiếc áo dài màu xanh lam nàng mặc trong đêm huyền diệu…Bây giờ tất cả chỉ
là nỗi nhớ vô vọng…
Mã số: 15-092
Cơn
gió mạnh ùa vào nhà, tạt lên vết thương còn đang hở miệng trên khuôn mặt nhỏ
nhắn của Dung. Em đưa hai tay bịt kín vết thương lại. Nhìn thấy cảnh đó, lòng
anh xót xa vô cùng. Kéo con vào lòng, anh hôn nhẹ lên mái tóc mềm:
- Đau
lắm hả con!
- Dạ
đau!
- Để
ba bôi thuốc cho con nha.
Em
ngồi tiu nghĩu, mắt trông xa xa về hướng đó, hướng mà em đã nhìn thấy con chó
yêu của mình lần cuối.
***
Ngày
em ra đời là ngày mẹ em qua đời. Trong thánh lễ an táng vợ, anh như người mất
hồn. Đau khổ đã đè nén trái tim anh, khiến nó chẳng còn biết đập để làm chi
nữa. May sao lúc đó anh vẫn còn nhận ra tình thương Chúa ở nơi đứa con của
mình. Thiếu mẹ, em thiếu đi một bàn tay dịu dàng chăm sóc, thiếu đi một giọng
nói êm đềm trò chuyện. Anh cố gắng dành hết tình thương cho con, vì cô bé là
cuộc sống của anh.
Anh
thức cùng con mỗi đêm bị sốt, tập cho con bước đi đầu tiên trong đời, dạy cho
con gọi tên các tạo vật của Chúa. Anh đặt vào môi miệng con những lời kinh Lạy
Cha, Kính Mừng, để rồi tối đến, hai cha con cùng đọc chung. Anh kể cho con nghe
chuyện cổ tích đã có thật, chuyện về một vị hoàng tử vì yêu con người nên đã
sinh xuống thế gian giữa tuyết trời lạnh lẽo… Những lúc như thế, cô bé nhìn anh
say sưa như không muốn bỏ sót một lời nào từ miệng anh.
- Con
biết không, con giống mẹ con lắm, như một thiên thần vậy!
- Mẹ
đang ở đâu vậy ba?
Anh
chỉ tay lên bầu trời đêm, một ngôi sao sáng nhất, thỏ thẻ với con:
- Mẹ
con đang ở trên thiên đàng, đang chờ hai cha con mình đó!
Từng
ngày trôi qua, anh chăm chỉ tưới vào cuộc đời con những bài học đầy tình người.
***
Ngày
sinh nhật lần năm, anh tặng cho con một chú chó. Cô bé reo lên và gọi chú chó
là Cò, bởi bộ lông trắng muốt của nó. Em thích lắm, cứ nâng niu nó hoài, đến
nỗi anh phải nhắc nhở: “Con phải để cho Cò đi lại thì Cò mới lớn được”. Cò trở
nên một người bạn thân thiết của cô chủ sau những giờ học ở trường. Cô dẫn Cò
chạy nhảy khắp nơi, đưa cho nó những đồ chơi mà mình thích. Thỉnh thoảng, cô bé
hớn hở chạy đến kể cho anh nghe những màn biểu diễn hấp dẫn mà em đã tập cho
nó. Nhìn thấy con cười vui, lòng anh cũng được an ủi nhiều.
Một
buổi tối nọ, khi hai cha con đang râm ran đọc kinh tối. Đột nhiên, có tiếng xe
máy dừng lại, rồi mấy tiếng “bịch”, sau đó là vài tiếng kêu nhỏ lần của Cò. Cô
bé nghe tiếng kêu thảm thiết của bạn mình thì hốt hoảng, lao ra ngoài cổng,
thấy một gã ngồi sau xe, tay vẫn còn ôm con chó yêu của mình, em kêu gào lên.
Ngay lúc đó, em bị một cái chai chọi mạnh vào đầu, rồi ngã gục xuống đất. Chiếc
xe phóng đi nhanh lẹ, tan biến vào trong bóng đêm, để lại đứa con yêu của anh
máu me chảy đầy trán. Ôm con trên tay, lòng anh đau xót biết sao kể. Cả tuần
đó, anh túc trực trong bệnh viện chăm con. Con anh dần cũng hồi tỉnh và bình
phục, chỉ còn vết thương hở thật to trên trán. Anh càng đau lòng bao nhiêu thì
càng giận cay đắng kẻ đã đánh con mình bấy nhiêu. Từ khi mất đi chú chó, cô bé
cứ hay khóc và ngồi một mình. Hình ảnh khuôn mặt của gã kéo lê con chó trong
đêm đó, cứ ám ảnh trong tâm trí em mãi. Ánh mắt yếu ớt của Cò, ánh mắt nhìn cô
chủ lần cuối, mỗi lần nhớ lại thì em lại rơm rớm nước mắt.
- Con
cứ yên tâm, các chú sẽ bắt những gã đó đền tội, những thằng khốn đó phải chết!
Tiếng
của những anh thanh niên trong xóm. Nghe họ nói thế, anh vội ngăn lời:
- Ấy,
các chú đừng có nói đến chuyện chết chóc trước mặt trẻ con chứ…
Nghe
nói thế, nhóm thanh niên đến vỗ về an ủi cô bé:
- À,
không sao đâu con… rồi con sẽ bình phục và sẽ có thêm nhiều bạn mới thôi! Sẽ có
thêm bạn mèo nè… bạn chim nè…
Mỗi
lần kể ra tên một con vật nào, các chú đưa tay làm hiệu con vật đó, kèm theo là
tiếng kêu của chúng, khiến cho anh còn phải cười huống chi là cô bé đang rơm
rớm nước mắt cũng cười sặc luôn. Dân trong làng đều thương cô bé, vì biết hoàn
cảnh mất mẹ của em. Họ cố gắng mang đến nhiều niềm vui cho em. Họ nói với anh:
- Anh
muốn nhập bọn chúng em không?
- Để
làm gì?
-
Đánh lộn.
Anh
cũng chưa hiểu rõ, nhìn họ ngơ ngác.
- Bọn
em định mai phục bọn bắt chó, đánh chết bọn đó luôn!
Anh
thấy con đang ở gần đó, sợ con nghe thấy, anh bảo:
- Con
qua nhà các bạn chơi đi, để ba với các chú nói chuyện.
Chờ
cô bé đi rồi, anh mới nói:
- Các
chú nói thật hả?
- Bọn
em đã chuẩn bị xong vũ khí rồi, định tối nay rủ thêm mấy người nữa rồi mai phục
bọn đó.
Thấy
anh còn chần chừ, một người khác nói:
-
Chẳng lẽ anh lại để cho bọn nó cứ cướp phá, đánh đập người xóm mình sao?
- Các
chú nói ai, con tôi hả?
Một
người khác nói chen vào:
- Anh
không biết cũng phải vì lúc đó anh ở bệnh viện mà. Khi đó, ở nhà cũng liên tiếp
xảy ra những vụ mất chó. Từ đầu xóm đến cuối xóm, nhiều nhà bất bình trước cảnh
con vật cưng của mình bị cướp. Những tên cướp không chỉ bắt chó, chúng còn chủ
động tấn công những người trong nhà khi họ la toáng lên, có người bị đánh bể cả
xương hàm, què cả chân hay là tét đầu như con anh… Ngay cả chó trong nhà chùa
hay nhà thờ, chúng cũng không tha. Mới sáng sớm, một vị sư vừa thả chó của mình
ra thì một tên đứng chực sẵn ngoài cổng lao đến đập mấy phát, rồi kéo lên xe.
Trước khi đi, tên đó còn “nhắn nhủ” đến vị sư: “Thầy có, con không có!”. Nghe
vừa cười, vừa tức. Chó giữ nhà, bây giờ nhà nào cũng giữ chó. Cả làng trên dưới
đều phẫn nộ trước hành vi ngang ngược của chúng. Chính quyền thì chậm trễ quá.
Anh nghĩ xem, có tha cho bọn đó được không?
-
Đúng là mấy người đó bạo hành quá! Tôi đây cũng tức giận khi nhớ lại chuyện của
con tôi.
- Anh
xem, chúng em đã chuẩn bị rồi nè: những tấm ván chi chít đinh nhọn, gậy gộc,
dây thừng… Chúng em định tối nay bắt đầu hành động, anh đi với chúng em không?
Anh
đưa mắt nhìn lên bàn thờ có cây Thánh giá treo Chúa khổ nạn. Anh suy nghĩ gì
đó, rồi đột nhiên trả lời:
- Tôi
không đi được. Tôi phải ở bên con tôi. Các anh phải cẩn thận nha…
- Ừ,
đúng rồi, anh phải ở bên con.
Vừa
lúc đó, em từ ngoài cổng chạy vào, khóc sướt mướt:
- Ba,
có phải Cò đã bị chết rồi không? Có phải người ta đã giết rồi không?
Anh
ôm đứa con vào lòng, vặn hỏi:
- Sao
con lại nói thế?
- Các
bạn con nói thế…
Nói
đến đây, giọng em nghẹn lại, nấc thành tiếng. Các chú cũng đau lòng, liền đứng
dậy:
-
Chúng em đi đây, anh an ủi con nha!
***
Đã ba
đêm liền, nhóm thanh niên đó vẫn mai phục ở các con đường. “Có khi nào bọn nó
biết ta ở đây không?”, “Làm sao chúng biết được, tiếp tục chờ thử xem sao”. Vài
nhà trong xóm tắt đèn tối om. Văng vẳng đâu đó vài tiếng chó sủa, cũng chẳng có
dấu hiệu gì khả nghi. Có cơn gió bấc thổi lên, mây đen ùn ùn ở phía chân trời.
“Tối nay, chắc là bọn nó biết trời mưa nên không đi cũng nên”. Khi họ vừa lên
xe quay về, từ phía sau có tiếng xe máy chạy vụt qua. Một anh hét to:
-
Nghe giống tiếng xe đó lắm!
Cả
nhóm rượt đuổi. Chiếc xe thấy có người đuổi theo liền hết tay ga vọt lẹ.
-
Chính nó rồi!
Một
người đã báo động cho nhóm ở đầu kia, mai phục sẵn, đặt những tấm ván đinh để
chặn đường. Đang chạy tốc độ cao, chiếc xe máy thấy có vật lạ trên đường thì bẻ
tay lái né tránh. Chiếc xe bị mất tay lái, trượt bánh, làm văng gã ngồi sau
xuống đường. Tên lái xe quay mặt lại thấy đám đông đang rượt đuổi thì vọt luôn,
bỏ đồng bọn ở lại. Nhóm thanh niên lao đến bắt tên còn đang lom ngom bò dậy.
Hắn bị trầy xước cả chân tay khi té xuống đường, sau đó bị nhóm lao tới đập mấy
phát…
***
Từng
cơn gió thổi mạnh, lay những những tàu là chuối ào ào, hòa với tiếng kinh râm
rang trong nhà. Anh và con đang lần chuỗi với nhau. Có tiếng gì sột soạt ở bụi
chuối bên hiên, kèm theo tiếng thở hổn hển làm anh im bặt lời kinh để lắng
nghe. Anh đi ra phía bụi chuối. Một người thương tích đầy người đang rên rỉ
thảm thiết:
- Cứu
tôi với, cứu tôi…!
Sau
giây phút thất thần, anh bình tĩnh lại, đến đỡ người đó dậy, và hỏi:
- Anh
bị sao mà ra nông nỗi này!
- Có
người đánh tôi, tôi đang đi thì…
Anh
dìu người đó vào nhà, dưới ánh điện sáng trưng, khuôn mặt gã be bét máu, cả
chân tay đều trầy xước. Anh mãi cứu chữa cho gã mà quên để ý đến vẻ ngơ ngác
của con mình. Em nhìn chằm chằm vào gã. Gã kinh hãi, sợ ánh mắt đó, ánh mắt soi
rọi vào lòng gã như ánh đèn điện trong đêm tối. Nhất là khi thấy vết thương
trên trán em, gã cúi gầm mặt xuống, lấy tay che vết thương trên đầu.
- Con
lấy cho ba hộp cứu thương trong tủ đi!
Em
liền chạy đi lấy.
- Tôi
sẽ sát trùng cho anh… sẽ đau lắm đó!
Tấm
lòng thương người khiến anh chẳng ngần ngại gì chữa trị cho một người mà mình
không quen biết. Nhìn ba mình tất bật chăm sóc cho gã, cô bé hiểu được thương
người là thế nào. Thỉnh thoảng cô bé cũng phụ ba đi lấy chiếc khăn, múc ca
nước,… Cô bé ngoan ngoãn làm theo tất cả những lời anh sai bảo. Cô bé đứng gần
sát bên gã an ủi:
- Chú
sẽ không sao đâu…rồi chú sẽ bình phục và có thêm nhiều bạn mới thôi!
Câu
nói làm gã giật mình, chỉ nghe tiếng “ừ” nho nhỏ.
-
Thật may cho anh, vết thương không có gì nghiêm trọng. Tôi đã cầm máu và băng
bó lại rồi, anh cứ nghỉ ngơi đi, sáng mai tôi sẽ chở anh đi bệnh viện để khám
kỹ lại… Ai mà lại đánh anh ra nông nỗi này cơ chứ…!
- Chú
ơi, con chó của cháu sao rồi chú? Con nghe các bạn con nói là nó chết rồi hả
chú?
Câu
hỏi bất ngờ của em làm cả gã và anh cùng kinh hoàng. Anh giọng run run:
- Sao
con lại hỏi vậy?
Em
đơn sơ trả lời:
- Hôm
đó con thấy chú ôm Cò đi mà, phải không chú?
Anh
nhìn sang gã, gã ấp úng năn nỉ:
-
Đừng, xin anh…
Nhìn
điệu bộ của gã, anh biết chắc chính gã là kẻ cướp chó, là kẻ đã đánh con anh.
Anh vừa tức vừa sợ, ẵm con mình ra góc xa.
- Thì
ra là mày…cút…cút đi khỏi nhà tao. Ở đây không chứa chấp tên gian ác như mày…
Gã cố
gắng chồm người dậy, nhưng chân đau quá làm gã ngã lăn xuống giường, đập đầu
xuống nền nhà. Cô bé giật khỏi tay người cha, chạy đến xuýt xoa đầu gã:
- Chú
cứ nghỉ ngơi đi…
Anh
thấy con lao về phía gã thì lấy làm ngạc nhiên và kéo con lại:
- Con
không biết đây là ai sao? Là kẻ đã giết con Cò và đánh con.
- Chú
ấy đang bị đau… ba đừng đuổi chú ấy đi…đừng đuổi mà ba…
Nói
đến đó thì nước mắt cô bé cứ tuôn ra cùng lúc với tiếng rì rào trời mưa bên
ngoài. Anh chỉ tay vào vết thương trên trán cô bé mắng nhiết:
- Anh
xem đi, nhìn cho rõ đi… chính anh gây ra đó… Một đứa trẻ, nó còn nhỏ như thế mà
anh lại… Đã thế, nó hết lòng năn nỉ cho anh.
- Tôi
xin lỗi… Xin anh đừng đuổi tôi đi, tôi sẽ chết mất. Hôm nay tôi đã biết tội rồi,
bạn của tôi thì bỏ rơi tôi, còn người mà tôi ra tay hãm hại thì lại cứu chữa
tôi… Tôi… tôi xin chừa mà…
Anh
vừa nói, vừa cắn môi, thở hổn hển dằn cơn đau. Có tiếng người hô hoán ngoài
đường, kêu gọi nhau om xòm, làm thức giấc cả xóm làng. Gã sợ hãi, van anh:
- Xin
anh đừng để họ bắt tôi, tôi chết mất.
Cơn
mưa mỗi lúc một nặng hạt. Cô bé vẫn nhìn gã bằng ánh mắt đầy tình thương. Anh
tự hỏi điều gì đã làm cho con mình quên đi những đau khổ mà người khác đã gây
ra? Đôi mắt anh dừng lại ở bàn thờ. Anh nhìn lên Thánh giá Chúa khổ nạn. Đầu bị
gai nhọn đâm thấu, cả thân mình dày đặt vết thương, chân tay thì bị ghim chặt
vào Thánh giá. Trong cơn đau tột cùng đó, Chúa vẫn rướn người lên để nói một
điều gì đó… Phải rồi, Chúa xin Chúa Cha tha tội cho quân dữ hành quyết mình.
Chúa tha thứ cho họ vì Chúa yêu thương họ và hiến cả mạng sống mình cho người
mình yêu. Có phải chăng con mình vì yêu người mà quên đi cả đau khổ người khác
gây nên, một tình yêu đơn sơ trong lòng một đứa trẻ đến chữ tha thứ còn chưa
hiểu hết. Thoáng hiện nụ cười trên khuôn mặt của anh. Con anh thấy thế cũng
cười theo. Thấy hai cha con cùng cười, gã không hiểu gì cũng cười theo. Anh nói
với gã:
- Tôi
sẽ cứu anh nhưng anh sẽ phải ra nhận lỗi với hết những ai mà anh làm hại đó!
Gã ừ
ừ, gật gật lia lịa. Anh dìu gã vào ở phòng trong, dọn giường và đắp chăn cho gã
ngủ, còn anh với con lại tiếp tục đọc kinh.
“Xin
Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày
Và
tha nợ chúng con,
như
chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…”.
Nghe
tiếng đọc kinh của hai cha con, nhóm thanh niên cũng chẳng vào nhà anh để tìm
tên cướp. Tiếng mưa vẫn rả rích bên ngoài hòa điệu với lời kinh râm ran của hai
cha con. Lời kinh cứ thế thấm dần vào tâm hồn của cô bé và cả tâm hồn của gã
như giọt mưa thấm đất.
***
Ngay
từ sáng sớm, anh thức dậy nhưng không thấy gã đâu. Tấm chăn gã đắp tối hôm qua
đã được xếp lại gọn gàng.
- Chú
đó đâu rồi hả ba?
-
Chắc là đi rồi!
-
Không biết chú đó đã khỏe chưa?
- Con
không giận chú ấy à? Con không còn thương Cò à?
- Dạ
có, con nhớ Cò lắm nhưng con cũng thương chú ấy, tội nghiệp chú ấy…
Anh
ngồi xuống, ôm con vào lòng để cho con nghe được lòng anh vui như thế nào. Mặt
trời mọc lên xua tan đi đám mây mù tối qua. Dấu vết còn lại của trận mưa đêm
qua là cả mặt đất đã ướt đẫm, nổi lên vài vũng nước lấp lánh, chiếu rọi tia
nắng mặt trời lên khuôn mặt em, nơi vết thương, da non đang hình thành xóa đi
dấu vết của một chuyện buồn đã qua.
Mã
số: 15-095
Lão
Năm Cù ngồi đó, đôi mắt đờ đẫn nhìn về phía cổng làng, bóng thằng con trai lão
mất hút dần sau rặng tre xanh.
Ở cái
tuổi mà người ta cho là “tri thiên mệnh” lão mới có được một mảnh tình vắt vai.
Cưới nhau được hai năm thì vợ lão chết vì bạo bệnh, để lại cho lão mụn con trai
còn khóc đòi sữa mẹ.
Vò võ
một mình nuôi con mười tám năm trời, hai cha con vui với cái nghèo chân chất
của người miền trung.
Đùng
một cái, thằng Dĩnh, con trai lão nhất quyết xin đi vào Sài Gòn kiếm việc làm.
Gặng hỏi mãi lão mới biết, tối qua ở lớp học bổ túc, mấy đứa bạn chê nó nghèo.
Lão nghe mà cay cay sống mũi.
Lão
nghèo thiệt, căn nhà nhỏ không đủ sức bảo vệ hai cha con khỏi ướt trong những
đêm mưa tầm tã. Mấy manh lưới rách chỉ dủ nuôi sống hai cha con khỏi cái đói
của miền quê nghèo.
Thằng
Dĩnh đi, lão chỉ dặn nó:
- Chịu
khó mà làm ăn…đừng có lo cho tao… Cầm theo cuốn sách kinh mà đọc…lễ lạy đừng có
bỏ…!
*** ***
***
Dĩnh
chân ướt chân ráo vào Sài Gòn. Lang thang dọc hết khu phố này tới khu phố khác
mà vẫn không biết phải đi đâu
Khẽ
chậc lưỡi, Dĩnh cứ bước, anh đi dọc con phố tới một công viên nhỏ. Thấy trong đó
có người đi dạo nên Dĩnh đánh bạo đi vào. Chắc tối nay phải ngủ ngoài này rồi.
Dĩnh thầm nghĩ.
Cuộn
vội cái túi lại cho tròn làm gối, Dĩnh dặt lưng nằm xuống cái ghế đá mát lạnh,
miệng không quên đọc kinh dâng đêm để tạ ơn Chúa. Mệt mỏi vì chuyến đi xa, vừa
dặt lưng xuống là hai mắt Dĩnh đã ríu lại.
Mới
chợp mắt được một lúc, Dĩnh nghe tiếng khóc của ai đó. Giật mình thức dậy, Dĩnh
thấy ba bốn thanh niên đứng vây quanh một cô gái đang khóc. Nhìn quanh không có
ai, vốn bản tính nhân hậu, Dĩnh bước đến:
- Sao
các anh lại bát nạt một cô gái thế?- Dĩnh hỏi.
Thấy
có người xuất hiện, mấy thanh niên có vẻ hơi sợ, nhưng chúng nhận ra Dĩnh chỉ
có một mình nên lấy làm tự tin.
- Chuyện
bọn tao, mày xen vào làm gì, khôn hồn thì biến đi.
- Tôi
không biết các anh làm gì, nhưng các anh là con trai sao lại bắt nạt một cô
gái.
- Nó
mắc nợ bọn tao, bọn tao đòi nợ nó, không phải chuyện của mày…biến đi!
Nhìn
thấy vẻ mặt như cầu cứu của cô gái, Dĩnh biết chuyện không đơn giản như mấy
thanh niên đó nói, nhưng anh không dám hỏi thêm vì dù sao anh cũng mới đến đây
nên không tiện can thiệp. Dĩnh quay lưng bước đi thì cô gái la lên:
- Anh
gì ơi cứu em với, bọn nó cướp tiền của em đấy…!
- Im
miệng đi con ranh…!- Tiếng một thanh niên gằn dọng.
Dĩnh
quay lại, anh nói:
- Các
anh nói dối... các anh cướp tiền của người ta…
-
Chuyện gì đến mày… cút đi!
Dĩnh
bình tĩnh giải thích:
- Các
anh thả cô gái ra đi… làm vậy là không tốt.
- Mặc
kệ thằng cha… lấy đi rồi chuồn lẹ.- Vừa nói một thằng vừa cầm con dao nhọn dọa
dẫm.
Hắn
vừa nói xong thì con dao trên tay hắn bị hất tung ra xa. Dĩnh đã lao tới như
một con sóc, gạt phăng ba tên côn đồ sang một bên. Quá bất ngờ với hành động
của vị khách lạ, ba tên côn đồ bực tức vì bị kì đà xỏ mũi. Chúng nhất loạt xông
vào. Dĩnh bình tĩnh hạ từng tên một. Không ngờ chỉ mấy miếng võ Dĩnh học được
khi ở nhà mà cũng khiến cho ba tên côn đồ phải bỏ chạy.
Quay
sang cô gái đang đứng như trời trồng, Dĩnh hỏi:
- Bọn
nó lấy gì của cô chưa?
- Dạ
chúng chưa lấy gì… Cám ơn anh đã cứu…nếu không thì..!- Cô gái bỏ lửng câu nói
vì tiếng nấc.
- Không
có gì… Thôi cô đi về đi kẻo khuya rồi..!- Dĩnh vừa cúi xuống phủi bụi quần vừa
nói.
- Dạ,
cám ơn anh…!
Cô
gái dắt vội chiếc xe đạp đi, được mấy bước vội quay lại nói với Dĩnh:
- Anh
cẩn thận kẻo bọn nó quay lại trả thù anh đấy.
- Cám
ơn cô đã nhắc…!
Dĩnh
nhìn theo bóng cô gái khuất dần trong màn đêm. Anh thở phào một cái, hít một
hơi thở thật dài. Nghĩ tới lời cô gái, Dĩnh cầm vội cái túi xách rồi lại lủi
thủi đi mà không biết mình sẽ đi đâu. Mệt quá, Dĩnh ngồi xuống một gốc cây ở
vỉa hè đánh một giấc ngon lành.
Trời
gần sáng, Dĩnh thức dậy, theo thói quen, anh đọc kinh dâng ngày rồi lững thững
bước đi, bụng thầm nghĩ sẽ tìm đường đến chợ, vì ở đó sẽ có nhiều việc làm. Hỏi
mãi Dĩnh mới tìm được đường đến chợ.
Chán
nản vì không tìm thấy chỗ nào cần người làm, Dĩnh thở dài định bụng đi xem có
nơi nào mướn người nữa hay không. Vừa đi được mấy bước thì có tiếng một người
đàn ông trung niên gọi giật lại:
- Chú
gì ơi…có phải chú tìm việc làm không?
- Dạ…cháu
đang tìm việc làm bác ạ.- Dĩnh mừng trong bụng.
- Chú
có biết phát cỏ vườn không?
- Dạ
có bác ạ…ở quê cháu vẫn hay làm.
- Vậy
thì tốt rồi…chú theo tôi nhé.
Đi
qua bên kia con đường thì đến một căn nhà ba lầu với khuôn viên rộng lớn.
Người
đàn ông dừng lại, tay mở cánh cổng rồi nói:
- Đây
là nhà tôi.
- Nhà
bác rộng lớn quá…ở quê cháu chưa thấy ngôi nhà nào to như ngôi nhà bác.
- So
với nhiều nhà khác thì nhà tôi nhằm nhò gì.
- Cháu
thấy như vậy là to lắm rồi… Thế cháu phải làm những gì ạ?
- À…!
Chú đi theo tôi…ra ngoài vườn này tôi sẽ chỉ cho chú.
Đi
một đoạn khá xa người đàn ông chi vào cái kho kề hàng rào lưới B40 rồi nói:
- Trong
đó có đủ cuốc xẻng…chú phát hết đám cỏ dọc theo bờ ranh lưới B40 cho tôi nhé.
Xong lúc nào tôi tính tiền lúc đó. Buổi trưa chú vào trong này dùng cơm với
tôi…nhà chỉ có mình tôi nên cũng hơi buồn.
- Dạ…để
cháu làm.
Dĩnh
bắt tay vào làm việc một cách say sưa, trời càng về trưa càng nóng bức, mồ hôi
toát ra như tắm. Với đôi tay rắn chắc, Dĩnh vẫn miệt mài cuốc từng vạt cỏ một
cách kỹ càng và sạch sẽ.
Chiều
đến, Dĩnh làm xong, cất hết đồ dùng vào kho rồi đi vào.
- Dạ
cháu làm xong rồi bác ạ!
- Chú
vất vả quá…để tôi gởi tiền công cho chú…Tôi gởi cho chú ba trăm ngàn nhé.
-
Nhiều vậy hả bác… Ngoài quê cháu đi làm cả ngày cũng có mấy chục bạc à.
- Thôi
cứ nhận…coi như tôi giúp chú mới vào trong này đi làm. Khi nào có việc tôi lại
gọi chú.
Vừa
nhận tiền, Dĩnh vừa gãi đầu ái ngại.
- Dạ
cháu cám ơn bác.
- Không
có gì đâu chú…chú đừng ngại.
- Dạ
cháu xin phép bác cháu về ạ.
- Ừ
chú về mạnh giỏi..!
Dĩnh
vừa quay người bước đi thì cô gái út ông chủ nhà cũng vừa đi học về, với vẻ mặt
ngạc nhiên cô kêu lên:
- Ủa…anh…
anh làm gì ở đây?
Dĩnh
ngạc nhiên trước câu nói của cô gái, anh không nhận ra cô gái là ai. Anh ngập
ngừng hỏi:
- Cô
biết tôi à?
Không
trả lời Dĩnh, cô gái quay sang nói với ba mình:
- Ba…
đây là cái anh mà tối qua con nói với ba đó… không có ảnh là con bị mấy kẻ xấu
giở trò rồi.
- Vậy
sao?- Ông Quang ngạc nhiên hỏi.
Dĩnh
bây giờ mới nhận ra cô gái tối qua anh đã gặp ngoài công viên, mặt đỏ ửng, Dĩnh
vừa gãi đầu vừa nói:
- Thì
ra cô là con gái bác Quang…!
Ông
Quang vội bước tới:
- Thì
ra chú là ân nhân cứu nạn của con gái tôi… Vào nhà… vào nhà nói chuyện đi… Tối
nay chú ở lại đây dùng cơm với hai cha con tôi.- Vừa nói ông Quang vừa cầm tay
Dĩnh kéo vào nhà.
Bữa
cơm thân mật diễn ra thật vui vẻ. Dĩnh được biết thêm về gia đình ông Quang.
Con gái ông Quang tên là Ngọc Ni. Dĩnh nhận ra gia đình ông Quang có đạo nhưng
dường như ông không còn thực hành đức tin nữa, ngay đến ăn cơm ông cũng không
làm dấu, điều đó ảnh hưởng tới cả cô con gái. Ngoài Ngọc Ni, ông Quang còn có
một người con trai nữa đang đi làm cho một công ty ở bên Nhật.
Ông
Quang có nhả ý muốn Dĩnh ở lại nhà ông, giúp ông chăm sóc vườn cây cũng như
chăm sóc khuôn viên chung quanh nhà. Dù sao thì ông cũng dự định nay mai kiếm
người về làm vườn cho ông. Ông thay đổi cách xưng hô với Dĩnh, ông gọi Dĩnh là
cháu và xưng mình là bác.
Dĩnh
mừng lắm vì đã có việc làm ổn định nên anh nhận lời ngay. Ông Quang thu xếp cho
Dĩnh một căn phòng có cửa sổ hướng ra khu vườn, ban đêm có thể bước ra lan can
ngồi ngắm trăng rất đẹp.
Từ
ngày có Dĩnh căn nhà bớt hiu quạnh hơn, mọi thứ được dọn dẹp rất ngăn nắp. Hằng
ngày, trong lúc hai cha con ông Quang đang say giấc, thì Dĩnh đã dậy để đi lễ ở
nhà thờ gần đó.
Vườn
cây kiểng được chăm sóc vun xới nên xanh tốt hẳn lên. Ông Quang cảm thấy rất
vui. Dĩnh còn kiêm luôn nhà nội trợ. Những món ăn dân dã Dĩnh nấu khiến hai cha
con ông Quang rất thích.
Ngọc
Ni tuy coi Dĩnh là ân nhân của mình nhưng trong con mắt cô, dường như cái mác
nhà quê của Dĩnh khiến cô khinh thường anh. Suốt ngày cô chỉ biết đi học, hết
học lại theo bạn bè đi chơi. Ông Quang cũng không đả động gì đến việc học hành
của con gái. Lâu lâu, Dĩnh bắt gặp cái thở dài sầu não của ông khi nhìn con gái
dẫn theo đám bạn về nhà ăn uống chán rồi lại đi chơi mà không một lời khuyên
nhủ.
*** ***
***
Ngày
tháng trôi qua. Kể từ khi Dĩnh tới đây đã gần một năm. Kỳ thi tốt nghiệp vừa rồi Ngọc Ni không đủ
điểm, cô đâm ra chán nản, suốt ngày chỉ biết đi chơi với bạn bè. Dĩnh nhớ nhà,
nhớ quê, anh muốn trở về thăm bố. Nhưng cảm cái cảnh ông Quang đang bệnh nặng
mà không người chăm sóc nên anh lại nén lòng ở lại giúp ông.
Đêm
nay trăng sáng. Dĩnh cầm cái ghita mà anh mới mua được ở tiệm đàn cũ ra ngồi
ngoài hiên nhà. Dưới ánh trăng, Dĩnh đệm những bài hát quen thuộc mà khi ở nhà
anh đã được bố dạy cho. Giọng trầm ấm, anh hát khẽ nhẹ nhàng… “Quê hương là
chùm khế ngọt… cho con trèo hái mỗi ngày...”. Dĩnh không biết rằng, Ngọc Ni
đang ngồi ở hành lang trên lầu. Cô lặng lẽ ngồi lắng nghe Dĩnh hát. Không hiểu
cô đang nghĩ gì. Bất giác cô đứng dậy, chạy xuống lầu, nghe tiếng động, Dĩnh
ngừng không hát nữa.
- Anh
hát hay quá… Từ trước tới giờ không thấy anh hát.- Ngọc Ni nói khi vừa bước đến.
- Cô
chưa ngủ à?
- Chưa..!
Nghe anh đánh đàn hát hay quá nên muốn xuống nghe.
- Tôi
chỉ biết đôi chút hồi ở nhà bố tôi chỉ cho thôi.
- Khi
nào anh dạy cho tôi với nhé… tôi cũng thích học đàn lắm.
- Cô
muốn học thì tôi chỉ cho… nhưng cô đi suốt ngày lấy giờ đâu mà học.
- Tôi
sẽ không đi chơi nữa là được chứ gì..!
- Tôi
phải làm việc suốt ngày lấy giờ đâu chỉ cho cô.!
- Thì
tôi sẽ phụ anh làm việc… làm xong anh dạy tôi!
- Cô
nói phải giữ lời đấy.
- Cứ
vậy đi… từ ngày mai tôi sẽ ở nhà phụ anh làm việc rồi anh dạy tôi đàn.
-
Khuya rồi đi ngủ thôi… Chúc cô ngủ ngon.
- Anh
cũng vậy.
*** ***
***
Ông
Quang tính mở rộng để kinh doanh cây bon sai, đây cũng là việc ông muốn làm lâu
rồi mà còn ngại chưa dám làm. Thấy Dĩnh là người siêng năng thật thà, lại có
khả năng đảm đang được việc này, nên ông xúc tiến việc kinh doanh.
Ngoài
giờ làm việc ra Dĩnh lại chỉ đàn cho Ngọc Ni. Nhìn thấy cô con gái mình thay
đổi một cách lạ lùng, ông Quang lấy làm hết sức ngạc nhiên, nhưng trong cái ngạc
nhiên đó, ẩn chứa một niềm vui khôn tả, ông mừng lắm. Dĩnh biết điều đó, nhưng
trong lòng anh vẫn thao thức làm sao để hai cha con ông Quang trở về cùng Chúa.
Dĩnh vẫn viết thư và gửi tiền về cho ông Năm hàng tháng, trong thư, anh kể với
bố về tất cả những gì anh đang sống, đang thực hiện cũng như thao thức của anh.
Ngọc
Ni ngày càng quý mến Dĩnh. Suốt ngày cứ quanh quẩn bên Dĩnh, hết hỏi cái này
rồi lại hỏi cái kia, khiến Dĩnh không nhịn được cười. Ở bên Dĩnh cô dần khám
phá ra một con người tràn trề sức sống và niềm vui, nhất là đời sống đạo đức
của anh. Trong cô, cái mác nhà quê của Dĩnh dần dần biến mất.
*** ***
***
Rồi
cái ngày mà Dĩnh thao thức cũng đến, nó dến một cách đột ngột khiến Dĩnh không
ngờ đến. Chiều thứ bảy hôm đó, sau khi dọn dẹp tất cả, Dĩnh tắm rửa để đi lễ
như mọi khi, khi anh vừa bước ra khỏi phòng thì gặp Ngọc Ni đã đứng ngoài sân
từ lúc nào:
- Cô
đi đâu mà mặc đẹp thế cô út?- Dĩnh hỏi.
- Đi
lễ chứ đi đâu...!
- Cô
cứ đùa... trước giờ cô có đi đâu…!
- Thì
hôm nay đi… Anh thấy lạ lắm à?
Dĩnh
cười với nụ cười thật hồn nhiên. Dĩnh vui lắm, một niềm vui thật khó mà diễn tả
được.
Tối
hôm nay, Ngọc Ni khơi chuyện, cô ôm lấy cổ ba mình và nói:
-
Ba...! Kỳ thi này con thi đậu thì ba sẽ thưởng con cái gì?
Thế
con muốn ba thưởng cho con cái gì nào?- Ông Quang vui vẻ đáp lời con gái.
- Thưởng
cái gì được anh Dĩnh nhỉ?- Vừa nói cô vừa nhìn Dĩnh tế nhị.
- Ba
phải hứa với con đã.
- Con
nhỏ này tính gài ba đó hả!- Ông Quang cười sảng khoái.
- Ba
hứa đi...!
- Ừ...
ba hứa..!
- Nếu
con thi đậu thì ba phải đi lễ với tụi con vào mỗi chiều chủ nhật... nha ba!
- Con
nhỏ này ... Hai đứa bọn bây ăn rơ với nhau quá ha.
Điều
ông thao thức bấy lâu giờ đã được giải tỏa, ông thấy mình như trút được gánh
nặng trong tâm hồn. Không cần cho Ngọc Ni phải thi đỗ, cuối tuần ông đã cùng
với Ngọc Ni và Dĩnh đi lễ.
Ngôi
nhà càng trở nên ấm cúng hơn, càng thêm tiếng cười hơn. Người vui nhất phải nói
là Dĩnh. Anh biết Chúa đã nhậm lời anh.
Công
việc làm ăn của ông Quang ngày càng phát triển mạnh. Ông thuê thêm nhân công để
làm việc. Đối với Dĩnh, ông đã có dự tính cho anh. Ông cho Dĩnh đi học thêm ở
lớp bổ túc. Trong cái nhìn của ông thì Dĩnh sẽ là người kế nghiệp, vì ông coi
anh như chính con mình. Ông nghĩ đến chuyện vun đắp tình cảm cho Ngọc Ni và
Dĩnh, vì ông thấy dường như cả Ngọc Ni và Dĩnh có tình cảm với nhau nhưng chưa
dám nói ra.
Đối
với Ngọc Ni, cô đã yêu Dĩnh từ lúc nào chính cô cũng không nhớ nổi, cô chỉ biết
giờ đây nếu không có Dĩnh không biết cô có giữ được cái niềm vui và hạnh phúc
mà cô đang nắm giữ hay không.
Dĩnh cũng
thế, anh đem lòng yêu Ngọc Ni từ lâu nhưng nghĩ phận người ở như mình sao dám
“đũa mốc mà chòi mâm son”. Anh chôn giấu tình cảm của mình trong tim mà không
dám nói ra.
Tối,
trong lúc ăn cơm, ông Quang cười nói:
- Nay
cũng đã nghĩ hè... hai đứa bay thu xếp về thăm ông cụ ngoài quê đi...việc nhà
đã có ba lo rồi. Hai đứa ăn sau...ba lên phòng trước có chút chuyện.
Dĩnh
nghe ông Quang nói mà trong lòng như muốn reo lên. Đã hai năm anh không về quê.
Anh nhớ ba lắm. Ngọc Ni cũng mừng lắm. Cô biết ba đã đồng ý để cô yêu Dĩnh.
Tối
nay, dưới bầu trời đầy sao sáng, Ngọc Ni ngồi tựa đầu vào vai Dĩnh. Tay khẽ
vuốt mái tóc mượt mà của Ngọc Ni, Dĩnh đã nói tiếng yêu đầu đời.
Mã số: 15-096
Thế
là đã hết! Tiếng của Hải cất lên trong nỗi buồn và tuyệt vọng khi anh nhận được
những dòng tin nhắn của Thư trong điện thoại: “Anh đừng tìm em nữa, một người
con gái hư hỏng như em không xứng đáng nhận được tình yêu cao cả của anh đâu.
Em cảm thấy hạnh phúc khi được anh yêu thương và đón nhận em dù em đang ở trong
hoàn cảnh này, nhưng em không thể ở lại đây được nữa. Chào anh nhe! Anh giữ gìn
sức khỏe và tìm cho mình một người con gái nết na đức hạnh và kết hôn với cô
ấy”. Những dòng tin nhắn làm cho trái tim của Hải đau nhói và thương Thư quá
đỗi. Thư và Hải thương nhau đã lâu rồi. Khi còn là bạn học phổ thông cùng
trường, hai đứa đã quen nhau rồi. Vì là học chung lớp và cùng theo đạo Công
Giáo nên hai đứa quý mến nhau lắm. Thư được sinh ra trong một gia đình gia
giáo, mẫu mực. Bản thân Thư cũng là một người con gái ngoan. Thư học giỏi và là
một người con gái đẹp người đẹp nết. Là con gái út trong gia đình nên cũng được
ba mẹ nuông chiều và các anh chi yêu thương. Nhưng không vì thế mà cô tỏ ra hư
hỏng hay tiểu thư đài các. Khi lên cấp III thì cô càng dễ thương và được các
chàng trai để ý, nhưng Thư vẫn không để ý đến ai ngoại trừ Hải. Có lẽ cái duyên
Công Giáo đã làm nên tình bạn thắm thiết giữa Thư và Hải.
Sau khi
tốt nghiệp 12 xong, Thư tiếp tục sự nghiệp của mình ở giảng đường đại học. Một
tương lai rạng rỡ đang đến với cô. Một người con gái có thể nói là đầy đủ tài
sắc. Còn Hải thì ở nhà với mẹ, vì gia đình Hải có hai anh em. Ba của Hải mất
sớm nên gia đình có 3 mẹ con sống nương tựa lẫn nhau. Anh của Hải thì học xong
đại học nên ở lại Sàigòn làm luôn. Thế là trách nhiệm chăm sóc mẹ đặt nặng lên
vai Hải. Hải là một thanh niên hiền lành chăm chỉ, mọi công việc trong nhà
ngoài rẫy đều một mình anh làm. Hiểu được mẹ đã vất vả cho hai anh em ăn học
qua bao nhiêu năm tháng nên anh thương mẹ rất nhiều. Anh lo lắng cho mẹ từng
cái ăn, cái mặc và đến cả giấc ngủ. Không bao giờ anh đi ngủ trước khi mẹ chưa
ngủ. Nhìn vào anh, ta thấy một con người mẫu mực và đầy tình yêu thương dành
cho người khác.
Thế
rồi thời gian cũng dần trôi qua đi, thấm thoát đã 4 năm. Trong thời gian 4 năm
đó Thư và Hải cũng không thường xuyên liên lạc vì cuộc sống của mỗi người mỗi
khác, người thì lo học, kẻ thì lo làm, vì thế mà sự quan tâm thăm hỏi không
được nhiều. Nhưng khi biết tin Thư đã trở về nhà sau khi tốt nghiệp đại học thì
Hải đã đến thăm và chia sẻ niềm vui của người bạn đã bao năm xa cách. Qua đó có
thể nói tình cảm giữa Thư và Hải vẫn còn dành cho nhau nhiều. Nhưng thời gian
đâu có dừng lại để chờ đợi một ai. Nó cứ lặng lẽ trôi một cách êm đềm, rồi đến
ngày Thư cũng phải đi tìm tương lai cho mình. Thư muốn bay vào những thành phố
lớn để thực hiện ước mơ của mình và tìm cho mình một sự nghiệp sau 4 năm vất vã
đèn sách miệt mài. Ở nơi vùng quê của tỉnh lẻ này không có chỗ cho cô tìm việc
làm phù hợp. Chẳng bao lâu sau cuộc gặp gỡ ấy, Thư và Hải đã phải nói lời tạm
biệt nhau. Thư lại khăn gói lên đường bay vào Sàigòn để tìm việc. Hải lại quay
về với cuộc sống của một người con hiếu thảo, sáng vác cuốc vào rẫy, chiều về
chăm sóc mẹ và vườn nhà. Hải cũng đã đến tuổi lập gia đình và tìm hạnh phúc cho
bản thân nhưng có một điều gì đó như đang ngăn cản Hải. Với một con người như
thế thì Hải không thiếu gì các cô gái đẹp theo đuổi và ước mơ có được anh. Thế
nhưng cái duyên vẫn chưa đến! Mẹ của anh cũng đã nhiều lần hỏi anh về vấn đề này
nhưng anh chỉ cười và nói: Con chưa muốn mẹ ạ! Làm cha làm mẹ chỉ mong con cái
mình hạnh phúc và tìm được một chổ để dừng chân, cũng muốn có cháu để mà bồng
mà ẵm. Đó là hạnh phúc và là lẽ thường của cuộc sống. Đôi lúc các bậc cha mẹ
vẫn thường nói chuyện với nhau rằng: Bọn trẻ bây giờ khó hiểu lắm! Sao mà khác
với chúng ta ngày xưa quá. Ngày trước thấy nhà ai có con gái đã đến tuổi lấy
chồng là bao nhiêu chàng trai đến nhà chơi. Con trai thì háo hức để mà chiếm
được các cô nàng ấy, có khi còn xảy ra các cuộc so tài chỉ vì cùng chung một
đối tượng. Ngày nay thì con trai ở nhà để chờ con gái đến chơi. Thật là không
hiểu nỗi! Đôi lúc mẹ của Hải cũng buồn vì trong nhà chỉ có hai mẹ con. Đi ra đi
vào lại đụng nhau cũng chán. Những ngày lễ nhà người ta thì đông vui còn nhà
Hải thì vẫn cứ như mọi ngày, nếu bạn bè của Hải không đến chơi. Anh của Hải thì
một năm về được 1 đến 2 lần, chủ yếu là vào những dịp tết hay có đám cưới của
người thân và bạn bè. Lúc còn ở nhà thì Thư cũng đã đến nhà của Hải chơi vài
lần rồi. Mẹ của Hải cũng đã hỏi thăm Thư dạo này thế nào? Hải nói với mẹ là Thư
đang làm việc ở Sàigòn. Chúng con chỉ liên lạc với nhau trên điện thoại khi có
dịp thôi.
Khoảng
5 tháng sau, Thư trở về nhà để giúp gia đình thu hoạch mùa cà phê vì gia đình
Thư cũng không còn ai phụ giúp việc nấu ăn và các công việc lặt vặt. Được biết
tin Thư trở về nhà thì Hải lại lên thăm và cũng hẹn hò để uống cà phê. Thư và
Hải vẫn giữ được một tình bạn thân thiết như trước. Nhưng dần dần thì tình cảm
giữa hai người cũng nảy sinh. Gia đình của hai người cũng đã biết và không ngăn
cản sự đi lại của cả hai. Bỗng một ngày Thư không thể giấu gia đình và Hải được
nữa vì cái bụng nay đã dần dần to ra rồi. Thư đã thú thật với gia đình trước.
Thư vừa nói vừa quỳ xuống trước mặt ba mẹ. Con xin ba mẹ đánh phạt con vì con
đã làm cho gia đình mình mang tiếng và ba mẹ phải nhục nhã xấu hổ trước mọi
người. Con đã lầm lỡ vì đã không nghe lời căn dặn của ba mẹ mà phải nhận lấy
hậu quả này. Ba mẹ của Thư như chết ngất trước hoàn cảnh của con, vừa tức giận
nhưng cũng thương xót cho con mình. Thư xin ba mẹ cho cô kể rõ sự tình để ba mẹ
biết và trách phạt cô thế như thế nào cũng được. Thư nói: Cái thai này con thật
sự không biết là của ai. Trong một lần công ty con tổ chức liên hoan tại một
nhà hàng nọ, sau khi ăn uống xong chúng con có đi hát Karaoke, khi tỉnh dậy thì
con thấy mình đang nằm một mình trong khách sạn. Con hiểu rõ sự tình đã xảy đến
với con, con định tìm đến cái chết nhưng vì con nghĩ đến ba mẹ và mọi người nên
con cố gắng sống cho đến ngày hôm nay và muốn được thưa với ba mẹ mọi chuyện.
Ôm con trong lòng, mẹ của Thư khóc thương con đã chịu đựng đau khổ trong suốt
thời gian qua một mình. Còn ba của Thư thì buồn bã lặng lẽ bước đi. Cái buồn
của ông không được thể hiện bằng tiếng khóc nhưng là bằng sự chịu đựng âm thầm
của một trái tim có lẽ đã trải qua nhiều đau khổ rồi. Một ngày sau, mọi người
trong gia đình của Thư đã có mặt đông đủ để cùng nhau dàn xếp cho Thư. Là một
gia đình Công Giáo nên lương tâm không cho phép phá bỏ cái thai. Đó là một nền
tảng đạo đức luân lý Kitô giáo. Sự sống phải được luôn bảo vệ cho dù là một bào
thai vô tri vô giác. Nhưng gia đình của Thư cũng không thể để Thư ở nhà được vì
tiếng tăm của gia đình. Bản thân Thư cũng không làm cho ba mẹ mình đi mà không
ngước mặt lên nhìn bà con làng xóm. Mẹ của Thư thì muốn Thư ở nhà để mẹ con
chăm sóc lẫn nhau. Các anh chị của Thư muốn đón em về nhà mình để mà giúp đỡ em
trong lúc khó khăn. Còn Thư thì không muốn mình gây thêm rắc rối nào cho gia
đình của ai nữa.
Chiều
tối hôm ấy, trời Đắklắk vào tháng 12 lạnh và mưa, Thư đã lặng lẽ xếp đồ để ra
đi một mình. Thư dự định sẽ vào một nơi
nào đó trong Sàigòn để vừa làm vừa chờ ngày sinh. Thư viết một bức thư để lại
cho ba mẹ và đã lặng lẽ ra đi trong chiều mưa lạnh lẽo. Đại ý của nội dung bức thư
được viết như sau: “...Kính xin ba mẹ và anh chị thứ lỗi và hiểu cho con, vì
con ra đi mà không một lời từ biệt. Con không đủ can đảm để đối diện với ba mẹ
để nói lời từ biệt vì con sẽ không sống nỗi khi nhìn ba mẹ đau khổ vì con. Con
sẽ tìm đến cái chết khi thấy những giọt nước mắt của ba mẹ rơi xuống vì con,
đứa con hư hỏng này... Xin ba mẹ cầu nguyện cho con và đừng lo lắng cho con nữa
vì con có thể tự nuôi lấy mình và con của con sau khi con sinh nó... Một lần
nữa con quỳ gối kính xin ba mẹ thứ lỗi và cho con được chào đi. Con sẽ trở về
thăm ba mẹ vào một ngày khi mọi chuyện đã qua đi...”. Sau khi đọc lá thư của
con, ba mẹ của Thư đã không cầm được nước mắt vì thương con đã phải ra đi trong
đêm lạnh, một mình bơ vơ biết sẽ về đâu? Ai sẽ cưu mang con mình trong hoàn
cảnh đó. Càng nghĩ càng thấy xót xa cho con. Và rồi ba mẹ của Thư đã điện thoại
cho Hải, nhờ Hải tìm Thư về vì nghĩ rằng chỉ có Hải mới có thể tìm Thư vào lúc
này mà thôi. Sau khi biết tin Hải đã vội vàng đến nhà của Thư xem thế nào. Anh
cố liên lạc với những chiếc xe sẽ đi Sàigòn vào tối nay. Anh đứng một mình trên
con đường quốc lộ và cứ gọi hết số điện thoại của xe này qua xe khác, mong tìm được Thư. Anh nhờ các bạn bè gọi và
tìm kiếm Thư giúp anh. Cuối cùng anh cũng biết được Thư đang ngồi trên một
chiếc xe trong huyện sẽ xuất bến vào lúc 21h tối hôm đó. Anh đã vội chạy đến và
đưa Thư xuống. Anh đưa Thư đến một quan cà phê để Thư nghỉ ngơi và cùng Thư dàn
xếp. Anh nói với Thư: Em đừng lo lắng, em đừng suy nghĩ gì. Anh biết anh không
phải là ba của đứa bé, và em cũng không muốn anh phải có trách nhiệm gì với đứa
bé. Nhưng tình yêu anh dành cho em là một tình yêu thật lòng. Anh sẽ cùng em
nuôi đứa bé và xem nó như là con của hai ta. Anh không muốn để em phải bơ vơ
một mình, đứa con em sinh ra mà không có ba... Anh đã ở đó suốt đêm với Thư,
ngồi bên cạnh Thư khi Thư đau khổ, cùng đường. Ngày hôm sau, anh không chần chừ
và suy nghĩ, anh đến gặp ba mẹ của Thư và xin được cưới Thư. Anh nói: Anh xin
đón nhận Thư và nuôi đứa bé như con ruột của mình. Anh cũng xin mọi người trong
gia đình của Thư giữ bí mật điều này. Nếu gia đình anh có hỏi thì cứ nói đó là
con của anh với Thư. Thế là anh bỗng trở nên tội nhân và mang tiếng đứa con hư
hỏng. Tình yêu đã vượt qua những giới hạn của lý trí con người. Tấm lòng của
anh thật cao cả, anh không bỏ rơi Thư lúc mà Thư đang gặp đau khổ và bế tắc
trong cuộc đời. Tấm lòng của anh nhân hậu và giàu tình thương. Anh đã đến đúng
lúc khi Thư đang rất cần một chỗ dựa, anh đã mở lối thoát cho Thư khi con đường
dường như đã tận cùng và tối mịt. Còn Thư, tuổi xuân của môt người con gái đã
trải qua nhiều buồn vui, cay đắng của cuộc sống. Cuộc sống xa hoa của chốn thị
thành đã nhẫn tâm cướp đi tương lai và sự nghiệp của Thư. Đàng sau những chốn
phồn vinh xa hoa đó là cả một dãy núi cạm bẫy của những kẻ tìm cách hủy hoại
cuộc đời của con người. Hãy cẩn thận và tránh xa nó hỡi những ai đang lạc bước
vào đó.
Ngày
cưới của Thư và Hải cuối cùng cũng đã đến. Ly rượu hồng đã kết duyên mối tình
ấy qua thời gian 8 năm. Mối tình đó đã được đan dệt bởi thời gian, bởi duyên
số, trong đó có cả buồn vui, hy sinh,cay đắng và nước mắt. Tình yêu đã phủ lấp
mọi khoảng cách. Bây giờ anh đã có chốn
dừng chân, chị đã có nơi nương tựa. Hạnh phúc nhé những trái tim đau khổ và
quảng đại.
Mã số: 15-098
Từ
ngày chồng mất, nụ cười vắng bóng trên khuôn mặt bà Lan, nỗi buồn cứ đeo bám bà
và in hằn lên mắt. Đụng chuyện gì, chỉ biết lặng thinh, rồi khóc. Hằng ngày, bà
bận bịu với việc buôn bán trong cái quán tạp hóa trước nhà. Vì mất đi đôi chân
trong một tai nạn ngoài ý muốn, nên việc kiểm soát hàng hóa bị hạn chế đi. Chỉ
mong sao, người ta sống có đạo đức, không gian lận, không lấy cắp đồ của bà. Bà
nghĩ vậy, bởi đây là cái xóm Đạo và sống tình làng ngĩa xóm. Được lúc nhàn rỗi,
bà lại lần chuỗi, đọc kinh, lâu lâu thì trò chuyện với mấy người hàng xóm và
thằng con. Cái Nam là đứa con duy nhất của bà. Cậu hiền lắm, học giỏi và luôn
tích cực trong mọi hoạt động nhà thờ cũng như ở trường. Năm nào cũng rinh phần thưởng
về nhà, tường nhà nhờ vậy mà kín mít giấy khen và bằng chứng nhận. Bởi thế, cậu
là niềm vui và là hạnh phúc của bà. Là người để bà đi được đâu là khoe với
người ta rằng: “Đó là thằng Nam con tôi”.
Một
ngày hè, sau bốn tuần làm thêm; khoảng thời gian Nam dối bà Lan đi học nhóm với
lí do là năm cuối cấp. Nhưng không, cậu đi làm gia sư, dạy cho đứa học trò lớp
tám, tuốt ở huyện. Tối đó, cậu háo hức về gặp mẹ lắm nhưng quảng đường như kéo
dài thêm, vì sự ngóng trông sớm về tới nhà.
“Lạy
Cha chúng con ở trên trời… Kính mừng Maria đầy ơn phước…”. Miệng cứ lẩm bẩm
những lời kinh giữa bầu trời tối đen, có lẽ cậu sợ ma, nhưng nét mặt cố bình
tĩnh vì sắp mang cái hạnh phúc nhỏ nhoi gì đó về cho mẹ. “ Leng keng” rồi lại
“cót két”, âm thanh của chiếc xe đạp cũ, hòa cùng tiếng ếch nhái cứ kêu in ỏi
giữa con đường vắng tanh. Chỉ hắt từ xa một vài ánh đèn pha của những chiếc xe
chạy ngược. Cách mấy trăm mét mới có một cột đèn đường, có khi cả cây số. Bỗng
dưng…
- Ê…!
Xuống mày, đưa xe cho tao rồi biến.
- Lấy
cái trên tay nó nữa mày.- Thằng khác nói.
Tim
Nam đập loạn nhịp ngay lúc đó vì sợ. Nam lúng túng, chẳng biết chuyện gì đang
xảy ra? Cả tháng trời không có chuyện gì, sao lại đụng chuyện ngay hôm nay chứ,
chẳng lẽ vì về khuya hơn mọi ngày ư. Rồi chúng bỏ đi. Nam đuổi theo, cứ cắm
đầu, cắm cổ mà chạy, hét lớn: “Trả lại cho tao”.
Ầm! Chiếc
xe đi ngược chiều đâm thằng vào người, Nam ngã xuống, cậu nằm dài trên đường.
Phần bà Lan ở nhà, như có linh cảm không tốt, đẩy xe lăn lui tới trong nhà,
quay nhìn mâm cơm, đợi Nam về dọn quán rồi cùng ăn. Bà có vẻ sốt ruột lắm, sống
lưng lạnh từng cơn. Đột nhiên, ông Chú của Nam chạy sang báo tin: “Thằng Nam bị
tai nạn rồi”. Tim bà như vụn ra từng mảnh ngay lúc đó, mặt biến sắc, bà trở nên
hốt hoảng, đẩy nhanh chiếc xe lăn, bà ngã quỵ xuống đất. Bà sợ. Bà lo lắng. Bà
vẫn ám ảnh cái tai nạn ngày xưa. Bà sợ Nam cũng bị như bà. Ở nhà ngóng tin, vì
không đi được càng làm bà nóng ruột, bồn chồn, cứ khóc mãi, khóc hoài.
Nam
được đưa vào bệnh viện Đa Khoa huyện, vết thương có vẻ nghiêm trọng lắm. Nằm
tại phòng cấp cứu, Nam lúc tỉnh, lúc mơ, cứ kêu “mẹ…mẹ ơi!”. Bất chợt Nam mở
mắt, cô bác sĩ đứng cạnh nhìn Nam chằm chằm, cô cố gắng nghe những lời Nam muốn thốt thành lời.
Câu nói chữ được chữ mất: “Mẹ…sổ…cặp…”, dường như Nam muốn cô ta thực hiện điều
gì đó, rồi lại chìm vào cơn hôn mê. Vội với lấy cái cặp nhỏ người ta đặt dưới
chân Nam. Cô muốn tìm cái Nam nói, muốn giúp Nam thực hiện điều gì đó. Lục tung
đống sách vở trong cặp, đập vào mặt cô là cuốn sổ tay nhỏ, như là cuốn nhật ký
của Nam. Cô tò mò, lật vội vài trang, khẽ đưa tay gạt sợi chỉ đỏ.
“Khuya
ngày 13-6-2014
Tôi
trở về sau Thánh Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Thực sự bất ngờ khi thấy mẹ nằm
bất động, mắt lờ đờ. Nghĩ mẹ có chuyện gì, ôm mẹ khóc nức nở.
Giờ
mẹ đã ngủ, chắc mẹ mệt lắm, trúng gió bất ngờ làm mẹ xanh xao và khó ngủ. Tôi
cũng đã thấm mệt, cứ lui tới mãi bên mẹ, sợ mẹ buồn, lấy nước, thoa dầu và trò
chuyện. Tôi muốn tạo cho mẹ cảm giác an toàn vì không có ba ở bên và làm vơi đi
nỗi buồn cứ in hằn trong mắt mẹ. Nhìn mẹ ngủ mà tôi thương. Nước mắt tôi rơi
khi thấy những sợi tóc bạc, những nếp nhăn bắt đầu nhiều thêm trên khuôn mặt mẹ
vì sự lo lắng cho tôi. Tôi phải cố gắng trong mọi việc để không phụ lòng mẹ.
Nguyện xin Chúa luôn giữ gìn tôi và mẹ luôn được bình an, mạnh khỏe.
Đúng rồi, tôi đã nghĩ ra món quà đặc biệt để
tặng mẹ ngày bổn mạng sắp tới: Maria Mađalêna (22-7).
Tôi
sẽ làm gì đây?
Cảm ơn Chúa vì một ngày đã qua và một buổi tối
đầy yêu thương bên mẹ yêu”.
Cô
như bị cuốn vào những dòng nhật ký của Nam, những lời tâm sự xuất phát từ con
tim của cậu. Thì ra cậu ta cũng là người có Đạo, cô ta nghĩ vậy. Bỗng dưng, cô
ta giật bắn mình, lễ thánh Maria Mađalêna, hôm nay ư? Cô tự hỏi bản thân, cô
suy nghĩ. Gấp vội cuốn sổ rồi chạy đi, dường như có chuyện gì đó.
Khoảng
thời gian ở bệnh viện, cô bác sĩ và Nam trở nên thân thiết lắm. Sau gần một
tháng chăm sóc, tới ngày Nam xuất viện, chính cô đã đưa cậu trở về nhà. Nước
mắt bà Lan lăn dài khi thấy Nam bước vào. Ôm chầm lấy mẹ, Nam cũng khóc. Chợt
cắt đứt mạch cảm xúc của hai mẹ con, cô bác sĩ nói: “Đây là món quà bổn mạng
trễ tôi muốn tặng cho bà, bà thật hạnh phúc khi có một người con như Nam”. Bà
Lan thực sự bất ngờ khi cô bác sĩ nói như vậy. Sau đó, cô ta đặt vào tay Nam
một sợi dây chuyền Thánh Giá bằng bạc: “Đây có phải là món quà đặt biệt, con
muốn tặng mẹ không?”. Nam ngơ ngác, nhưng hạnh phúc vỡ òa trong người cậu.
“Trao quà cho mẹ đi, cô đã nghe con đòi nó trong lúc hôn mê”. Nam bật khóc vì
những lời của cô bác sĩ. Bà Lan cũng không cầm được nước mắt khi biết lí do Nam
bị tai nạn là vì bà. Vì sợ bà trúng gió lần nữa nên tặng bà sợi dây chuyền bạc,
để cản gió, như dân gian người ta thường nói. Hơn nữa, Nam hy vọng, Chúa sẽ gìn
giữ sức khỏe cho bà luôn mãi. Tình cảm của mẹ con bà Lan như đã thức tỉnh cô
bác sĩ. Có lẽ mẹ con họ không hiểu được lí do vì sao cô lại tốt với họ như vậy.
Sau đó cô thú nhận trong nước mắt với mẹ con bà Lan. Cô cũng là người Công
Giáo, nhưng là con chiên đã xa Chúa bao năm. Mấy năm về trước, khi sinh non đứa
con gái đầu tiên, cô mang nó đến nhà thờ rửa tội. Cô hi vọng Chúa sẽ gìn giữ
nó, nhưng rồi nó đã chết. Dường như cô mất đi niềm tin vào Chúa ngay lúc đó.
Hơn nữa, vì sự đam mê cuộc sống thế gian, chạy theo của cải vật chất cô đã phớt
lờ đi tình thương của Chúa. Và rồi cô chợt tỉnh giấc khi đọc những dòng tâm
tình thầm kín của Nam, cảm nhận niềm tin mạnh mẽ nơi cậu. Bỗng dưng thấy và sực
nhớ hôm ấy cũng chính là ngày bổn mạng của cô. Cô quyết định thay đổi chính
mình.
Căn
nhà bà Lan hôm ấy bỗng dưng trở nên nhộn nhịp, đã lâu lắm rồi mới có những tiếng
khóc của sự hạnh phúc và tình yêu thương. Sau đó, cô bác sĩ quyết định tự mừng
bổn mạng mình bằng việc hòa giải với Chúa và sống tâm tình con thảo với Ngài .
Quả thật, đó là những món quà bổn mạng muộn đầy ý nghĩa họ trao cho nhau xuất phát từ con tim chân
thành.
Mã số: 15-100
1.
Cầm
trên tay kết quả khám thai, Tuyết Lam ngỡ ngàng không thể tin vào thực tại, tay
nàng run rẩy sờ vào hình ảnh sinh linh bé bỏng trong bảng siêu âm. Đôi mắt
trong veo ngày nào giờ đã rưng rưng lệ ướt.
- Tôi
rất lấy làm tiếc, nhưng con của chị đã mắc hội chứng dị tật bẩm sinh. - Vị bác
sĩ nhẹ giọng.
Căn
phòng trở nên yên tĩnh, một sự yên tĩnh tưởng chừng như có thể bóp nát trái tim người mẹ trẻ.
- Chị
có thể bàn với chồng chị về việc phá bỏ đứa trẻ này. Anh chị còn nhiều cơ hội
để sinh những em bé khỏe mạnh.
Gạt
nước mắt đứng dậy, Tuyết Lam im lặng lấy tất cả giấy tờ siêu âm bỏ vào túi xách
rồi đi ra khỏi phòng khám, để lại trên gương mặt ông bác sĩ đầy vẻ ngạc nhiên
khó hiểu.
Chiều
hoàng hôn đỏ thẳm đổ dài trên mặt nước. Những tia nắng được mặt trời chiếu tỏa
khắp nơi. Nắng nhảy nhót cùng sóng nước, nắng vui đùa với mây rồi nắng hòa
quyện cùng gió, mang theo hương vị mặn nồng của biển luồn vào mái tóc bồng bềnh
ngang vai của Tuyết Lam. Bãi biển chiều nay thật đông người, mọi người ai cũng
cười nói ríu rít vui vẻ. Tụi trẻ con thì bơi lội dưới nước như những chú cá con
đang tung tăng giữa đại dương xanh ngát. Xa xa, những chiếc thuyền nhỏ lênh
đênh theo nhịp sóng. Tất cả tựa như bức tranh khắc họa lại tất cả mọi vẻ đẹp
của tạo hóa. Sống động vui tươi nhưng bình yên đến lạ.
Nếu
bây giờ Huy đang ngồi cạnh Tuyết Lam, chắc chắn bức tranh ấy sẽ tuyệt vời đến
dường nào.
2.
- Đến
chưa hả anh? Anh kì thật, sao lại che mắt em rồi đưa em đi đâu thế này?
- Rồi,
giờ thì em mở mắt ra đi Lam.
- Để
xem nào, anh muốn cho em xem gì vậy ta?
Khung
cảnh dần hiện trong đôi mắt long lanh của Tuyết Lam. Nàng đang ở trong một tòa
nhà rất rộng lớn. Chỉ có điều….? Nàng nhìn xung quanh thì nhận thấy có rất
nhiều hàng ghế dài được sắp thẳng tắp. Hai bên tường thì vô số cánh cửa gỗ lớn
đã đóng cẩn thận, trên đấy được chạm khắc những hoa văn tinh xảo nghệ thuật.
Nàng ngạc nhiên nhìn Huy như muốn hỏi: Nơi nào mà lạ quá vậy anh? Huy mỉm cười
xoay người nàng lại. Đập vào mắt nàng lúc này là hình ảnh cây Thánh Giá với bức tượng Chúa Giêsu chịu
nạn được cố định trên tường. Trong bóng tối mờ ảo dưới ánh đèn chầu leo lét,
nàng quay lại nhìn Huy như vừa hiểu ra điều gì đó.
- Đây
là nhà thờ phải không anh?
- Ừ,
em! - Huy cười. Vẫn là nụ cười hiền lành ấm áp ấy, nụ cười mà nàng đã yêu ngay
từ lần đầu gặp gỡ.
- Sao
anh lại đưa em đến đây? Anh là người Công giáo?
Huy
chẳng nói gì, chàng nhẹ nhàng nắm tay nàng, đưa nàng đến chiếc ghế cuối cùng
trong nhà thờ. Cả hai ngồi lặng im như vậy mà nhìn lên Thánh Giá. Tuyết Lam
chưa bao giờ thấy Huy lạ như vậy. Trong lòng nàng lúc này có biết bao điều thắc
mắc, nhưng lại không dám lên tiếng hỏi Huy. Nàng sợ phá vỡ bầu không khí trầm mặc lúc này; hay
đúng hơn là nàng muốn được ngồi nắm tay Huy, cùng chàng hướng lên bức tượng
Chúa Giêsu chịu nạn và cùng cảm nhận sự thánh thiêng trong chính ngôi thánh
đường này.
Đây
là nơi mà anh đã trải qua trong suốt những năm tháng tuổi thơ của mình. Ngay từ
bé anh đã là trẻ mồ côi và sống trong trại mồ côi của các sơ phía sau nhà thờ
này. Cuộc đời anh tưởng chừng đã kết thúc sau cái chết của ba mẹ anh. Nhưng
Thiên Chúa chẳng hề bỏ rơi anh, Ngài ban cho anh một gia đình mới, đó là các sơ
và các bạn trong trại mồ côi. Họ giúp anh lấy lại tinh thần. họ giúp anh lạc
quan hơn, họ chính là động lực để anh có thể bước tiếp và có được thành công
như ngày hôm nay.
Tuyết
Lam tròn xoe mắt nhìn Huy. Bỗng nhiên nàng cảm thấy yêu Huy nhiều hơn sau khi
biết rõ về cuộc đời chàng. Trước kia, đôi lúc Tuyết Lam cũng hay hỏi thăm về
gia đình Huy, nhưng lúc ấy chàng chỉ nói rằng rồi sẽ đưa nàng ra mắt gia đình.
Nàng từng tưởng Huy cũng là một người con xa quê, lên thành phố học và kiếm
sống như bao người; giờ thì nàng rất đỗi ngạc nhiên khi biết chàng lại có một quá
khứ chẳng giống như những người khác tí nào.
- Anh
đã từng nói với em là anh sẽ đưa em ra mắt gia đình anh. -Huy trìu mến nhìn
nàng.
- Vậy
giờ chúng ta sẽ thăm trại mồ côi và các sơ đúng không anh?
- Ừ!
Chúng ta sẽ đến đấy. Nhưng em có biết vì sao anh lại đưa em vào nhà thờ trước
không?... Lam à! Ngôi thánh đường này
mới thực sự là căn nhà tuổi thơ của anh. Nơi này luôn có sự hiện diện của Thiên
Chúa, chính là người Cha kính yêu nhất mà anh hằng thờ phượng. Ngoài những giờ
sinh hoạt với mọi người trong trại mồ côi, anh luôn đến đây để cầu nguyện cùng
Cha. Anh tìm thấy sự bình an trong những giây phút tĩnh nguyện, để từ đó anh
biết mình còn rất may mắn vì được Cha cho anh nhận biết Ngài. Cha luôn ở bên
anh mỗi khi anh gặp khó khăn, Cha xoa dịu nổi đau và ủi an vết thương trong
lòng anh. Cha còn ban cho anh một món quà lớn nữa. Em biết không, món quà ấy
chính là em.
Đôi
mắt Huy âu yếm nhìn nàng.
- Có
thể những gì anh nói hơi khó hiểu đối với một người ngoại đạo như em, nhưng anh
muốn cho em biết về Thiên Chúa, về người Cha rất mực yêu thương con của mình,
luôn luôn bên cạnh con cái để bao bọc che chở và sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm
nếu đứa con ấy biết ăn năn hối lỗi. Thiên Chúa là Tình Yêu, một Tình Yêu đã
gieo những hạt mầm nhân ái và nuôi dưỡng chúng lớn lên trong tâm hồn anh. Giờ đây, anh muốn em cũng sẽ
sống cùng anh trong chính Tình Yêu ấy.
Huy
nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của Tuyết Lam, nhẹ nhàng mang vào ngón áp út chiếc
nhẫn đã được anh chuẩn bị từ trước.
- Đồng
ý làm vợ anh nhé !
…
Ngôi
Thánh đường tràn ngập ánh nến lung linh và hoa muôn sắc. Khúc hòa xướng vang
lên như muốn hòa quyện cùng niềm vui của đôi tân hôn. Chú rể với bộ veston đen
sang trọng bên cạnh cô dâu xinh đẹp trong chiếc đầm cưới trắng thuần khiết. Tay
trong tay, chàng và nàng tiến vào cung thánh. Tay trong tay, họ dâng lời nguyện
ước trăm năm.
…
Có lẽ
Tuyết Lam sẽ là cô gái hạnh phúc nhất thế gian nếu như Huy không rời khỏi cuộc
đời nàng sớm như vậy. Huy mất trong một vụ tai nạn máy bay khi anh đang đi công
tác đến Paris. Anh qua đời quá đột ngột,
bỏ lại nàng cùng sinh linh yêu dấu, chỉ
mới tựu chừng ba tháng.
3.
Tuyết
Lam sinh bé Ân.
Mặc
cho bao lời can ngăn của cha mẹ và bạn bè, nhất là khi họ biết nàng đang mang
một cái thai dị tật. Mặc cho nàng biết rằng nàng còn trẻ và nàng còn có nhiều
cơ hội; bỏ cái thai để bắt đầu một cuộc sống mới, chính là sự lựa chọn hợp lí
nhất trong hoàn cảnh lúc này.
Đôi
khi Tuyết Lam tự hỏi phải chăng vì tình yêu mà nàng dành cho Huy đã khiến nàng
quyết định sinh bé Ân. Nhưng từ sâu thẳm trong lòng, Tuyết Lam cảm nhận được có
một sức mạnh siêu nhiên vô hình khác đã níu giữ lương tâm nàng lại. Có lẽ đó là
Tình Yêu, một Tình Yêu vĩ đại mà Huy đã từng nói với nàng: “Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để
nhờ Con Một của Người mà ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này, không phải
chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và
sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.” (1Ga 4,9-10)
Tình
Yêu đã làm tất cả vì nhân loại; còn nàng, không lẽ nàng nhẫn tâm giết chết con
mình chỉ vì một cuộc sống tương lai vô vị.
Bé Ân
năm nay đã lên bốn tuổi. Căn bệnh bẩm sinh khiến hai chân em bị teo lại, mọi
sinh hoạt đều phải nhờ mẹ giúp đỡ. Tuy nhiên, Ân là cô bé rất dễ thương bởi
gương mặt bầu bĩnh và đôi mắt trong veo thuần khiết.
Hàng
ngày, sau giờ làm việc ở công ty, Tuyết Lam ghé sang nhà ngoại để đón bé Ân,
sau đó hai mẹ con cùng nhau đến nhà thờ dự thánh lễ chiều. Ngày lại ngày, cuộc
sống nàng và bé Ân vẫn cứ trôi đều theo dòng chảy thời gian. Nhưng có lẽ chẳng
ai biết được, nàng chỉ chăm sóc và nuôi dưỡng bé Ân như làm bổn phận của một
người mẹ.
Trong
lòng nàng biết rõ, nàng không yêu bé Ân nhiều như nàng đã yêu Huy.
Nàng
cảm thấy khó chịu khi mỗi ai đó ôm bé Ân và nựng nịu bằng những câu đại loại:
“Ôi, con bé dễ thương quá”. Lúc ấy nàng chỉ muốn hét lên rằng: “Giả dối, các
người đang nghĩ trong bụng rằng con tôi là một đứa què chứ gì! Các người cho
rằng chỗ con tôi là phải ở trong bệnh viện chứ không phải ở đây phải không?”.
Những
cơn giận dữ ấy vơi đi thành nỗi buồn, và nỗi buồn dần phôi phai thành thái độ
hững hờ xa cách.
4.
- Con
đã làm cái gì thế này? - Tuyết Lam đưa mắt nhìn con đang ngồi bên đống thủy
tinh vỡ vụn trên sàn nhà.
- Mẹ
ơi con xin lỗi, con chỉ muốn xem những bông hoa mẹ cắm trong lọ thôi. -Bé Ân
rơm rớm nước mắt sợ sệt nhìn Lam.
Nàng
chán nản nhìn con bên đống đổ vỡ. Nàng không phải là người mẹ ích kỉ đến mức
giận dữ con mình chỉ vì chuyện nhỏ nhặt nầy. Nhưng chiếc lọ bé Ân làm bể là
chiếc lọ cắm hoa Huy đã tặng nàng. Mỗi ngày nàng đều cắm những đóa hồng vào đấy; mỗi ngày nàng nhìn nó và cảm nhận Huy vẫn còn
sống trong ngôi nhà này. Bao nhiêu mệt mỏi cùng áp lực công việc dồn nén bấy
lâu chợt vỡ òa. Nàng đổ hết bữa ăn tối, đưa con gửi sang nhà ngoại, rồi một
mình lái xe đi trên đường phố giữa trời đêm lạnh lẽo.
Tuyết
Lam phóng chiếc ô tô lao về phía trước, thả hồn vào nổi cô đơn bất tận.
- Xin
hãy dừng xe. -Một bà cụ nhỏ bé đang vẫy tay, đứng ngay rìa đường, bên cạnh
chiếc vali đặt dưới chân, mắt hướng về xe nàng.
- Bà
cần gì ạ?
- Có
thể chở bà đến một nơi được không?
Căn
nhà phía sau lưng bà cụ trông thật hiu quạnh; có chút gì đó cô đơn lạnh lẽo hệt
như bà lúc này. Nhìn bà cụ với khuôn mặt
nhân hậu một mình trong đêm khuya giá rét. Tuyết Lam chạnh lòng thương.
- Dạ
được. Mời bà lên xe.
Khi
vào xe, bà cụ đưa cho nàng địa chỉ nơi cần tới.
- Con
có thể đi vòng qua khu công nghiệp được không?
- Nhưng
đó không phải là đường ngắn nhất để đến địa chỉ này, bà ạ.
- Bà
không vội mà.- Ngừng lại một lát bà nói tiếp- Bà biết, bà đang đi đến viện
dưỡng lão.
Tuyết
Lam chở bà cụ đi qua khu công nghiệp, đến những nơi bà muốn đến. Bà chỉ cho
nàng khu chung cư mà vợ chồng bà đã thuê khi họ mới cưới, xóm chợ mà trước kia
bà ngồi đó bán rau, ngôi trường mà các con bà đã từng học. Thỉnh thoảng bà bảo
nàng đi chậm qua một công viên hay một góc phố đặc biệt nào đó, dừng lại trong
bóng tối và im lặng.
- Thế
cụ ông và các con của bà đâu ạ?- Nàng hỏi để phá vỡ bầu không khí yên tĩnh lạnh
lẽo lúc này.
- Ông
ấy mất lâu rồi. Hai đứa con lớn thì đang định cư ở Mỹ. Chỉ có đứa út là ở với
bà, nhưng nó cũng đã qua đời hơn một tháng vì căn bệnh bẩm sinh.
- Đó
là bệnh gì vậy ạ?- Tuyết Lam tò mò.
- Hội
chứng Down. -Đôi mắt bà ươn ướt- Nó là đứa con bà yêu nhất. Hai đứa lớn tuy
giỏi giang hơn, học rộng hơn, nhưng cuối cùng thì cũng bỏ bà bơ vơ trong căn
nhà lạnh lẽo. Mỗi năm tụi nó về có một lần, đến khi lập gia đình rồi thì chỉ
gửi tiền cho bà rồi trốn luôn bên ấy.
Khuôn
mặt nhăn nheo lộ rõ vẻ u sầu mệt mỏi, bà cụ tiếp tục kể như được trải nổi lòng
bấy lâu bị sự cô đơn đè nén.
- Khi
bà vừa sinh thằng út, bà ghét nó lắm, không muốn nhìn thấy nó. Lúc ấy bà không
tin rằng bà lại sinh ra một con quỷ như nó. Nhưng sự đời nổi trôi, bao nhiêu
biến cố xảy ra, chỉ còn nó là ở với bà, chia sẻ mệt nhọc với bà. Đến khi bà
thực sự yêu nó thì nó lại bỏ bà mà đi mãi mãi…
Trời
càng về đêm càng lạnh. Cả hai người phụ nữ, đều lặng im trong những suy nghĩ
cuộc đời.
Xe
dừng lại trước viện dưỡng lão. Bà cụ bước xuống, rút ví ra, dịu dàng nói với
Tuyết Lam:
- Cám
ơn con. Bà còn ít tiền, con cầm cho bà vui.
- Dạ
không. Cảm ơn bà. Bà đã cho con rất nhiều. - Tuyết Lam trìu mến nhìn bà cụ.
Bà cụ
ôm nàng thật chặt rồi bước về phía cổng. Trước khi đi vào, bà quay lại nhìn
nàng, hiền từ nói: “ Hãy yêu thương, ngay khi còn có thể, đừng để sau này phải
hối hận, con à!”.
Âm
thanh tiếng đóng cổng vang lên, âm thanh khép lại một cuộc đời.
Huy
đã từng nói với nàng: “Đôi khi Thiên Chúa dùng những biến cố giản đơn để thức
tỉnh ta khi ta đang u mê trong vũng nhơ tội lỗi”. Bất giác, nàng cảm thấy mình
hạnh phúc xiết bao. Ít ra nàng cũng hiểu rằng, sự cô đơn trong trái tim của một
người từng bất hạnh như nàng vẫn còn có thể lấp đầy bởi nhiều yêu thương khác.
*****************
Đêm
đã khuya. Ánh trăng vàng tỏa ánh sáng dịu dàng qua khung cửa sổ phòng ngủ.
Tuyết Lam ngồi lặng lẽ ngắm khuôn mặt đứa con yêu đang say giấc. Đôi mắt bé Ân
chợt mở. Vừa nhìn thấy nàng, bé Ân liền ngồi dậy, dùng tay và cơ thể di chuyển
rồi ôm choàng lấy mẹ.
- Mẹ
ơi,con sẽ không hư nữa, mẹ đừng bỏ đi nữa nha mẹ. Con sợ lắm.
Tuyết
Lam siết chặt con. Đôi mắt nàng đỏ hoe, nghẹn ngào bật lên tiếng nấc.
- Con
ơi. Mẹ xin lỗi.
Đâu
đó trên bầu trời đêm huyền ảo có một vì sao chợt bừng sáng.
Mã số: 15-103
Dãy
phòng trọ vắng tanh. Chút ánh sáng lờ mờ hắt vào hành lang âm u. Mọi người đã
về Tết. Chợt tiếng công tắc đèn bật nảy lên, vẫn còn người ở lại: Tết này Nhật
không về và đó là lý do tại sao tôi có mặt ở đây, lúc này, đêm 29 Tết.
Tôi
gõ cửa, anh ra mở cửa, trên tay vẫn còn cầm đôi đũa nấu ăn:
- Cậu tới rồi à! Chờ tôi chút!
Mời
khách vào nhà xong anh lại lúi húi chuẩn bị đồ nhấm. Xiên thịt nướng nhỏ nước
xuống bếp than hồng kêu xèo xèo, bay mùi thơm phức. Bụng tôi đói cồn cào, vừa
tan ca trực thì anh gọi, có kịp ăn uống gì đâu. Tôi nhìn qua phía khác để đánh
lạc hướng cái dạ dày đang réo ùng ục. Chợt tôi thấy trên tường có một cây Thánh
Giá, bên dưới là câu Lời Chúa: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv, 20, 35). Thấy
lạ, tôi đứng lên xem thì phát hiện ra dưới câu Lời Chúa còn có một dòng chữ
nghệch ngoạc, chắc là chữ của anh: “Lạy Chúa, con có gì để cho?”. Tò mò, tôi
buột miệng hỏi:
- Anh
theo đạo Công giáo à?
- Ừ!
Từ nhỏ.
- Anh
hay bố thí người nghèo sao lại không có gì để cho?
Anh
bỏ xiên thịt ra đĩa, quay sang phía tôi, thấy tôi đang đọc câu lời Chúa, anh
cười chua chát:
- Tiền bạc không phải là thứ để cho…
Tôi
không hiểu nhưng thôi, có hiểu cũng chẳng làm gì, không khéo thành kẻ nhiều
chuyện. Đồ nhậu anh đã chuẩn bị xong, anh dọn ra mâm, một đĩa nem chua, ba xiên
thịt nướng, vài con mực khô, vậy là thịnh soạn rồi. Anh khui bia, mời tôi:
- Lâu
rồi mới nhậu với cậu, lâu nay sao rồi?
- Tôi
vẫn như vậy, người ta đau ốm không chừa ngày, công việc của tôi không lúc nào
được nghỉ!
- Thế
Tết này cậu có trực bệnh viện không, qua lai rai với tôi vài lon?
Tôi
đưa lon bia lên miệng, đánh ực một hơi, mùi men sộc lên mũi rần rần:
-
Chắc hẹn anh khi khác, Tết nay tôi trực rồi…Mà sao nay anh về muộn vậy?
- Tôi
chờ lão ăn mày! - Anh vừa nhai vừa đáp.
- Lão
ăn mày nào?
- Lão
ăn mày trước cổng nhà thờ.
Tôi
lục lại bộ nhớ, hình như trong đó chả có lão ăn mày nào cả. Tôi hỏi anh:
- Tôi
có biết lão không?
-
Thôi bỏ đi, hôm nay tôi đang vui, đừng nhắc mấy chuyện đó…Uống đi…Uống mừng vì
không thấy lão ăn mày…
Hai
long bia chạm nhau, đánh cốp. Anh trước giờ vẫn vậy, nhiều việc anh làm chỉ anh
mới hiểu. Ví như việc ba năm nay anh chưa một lần về Tết. Có lần đi nhậu tôi
hỏi anh:
- Sao
Tết anh không về?
- Tôi
không dám về. Tôi sợ…- Anh chậm rãi trả lời.
-
Trộm cắp lúc nào cũng có, anh giữ đồ cẩn thận hơn là được, sợ gì…
-
Không phải. Tôi là thằng hèn. Thằng hèn khốn nạn. – Anh nói như chửi vào mặt
mình.
- Anh
nói sao tôi không hiểu… Anh ăn ngay ở
thẳng, ai dám nói anh hèn?
Trong
hơi men ngà ngà, anh ngậm ngùi kể:
Cách
đây ba năm anh yêu một cô gái, hai người quyết định đến với nhau nhưng cha mẹ
hai bên không đồng ý. Gia đình cô là cán bộ, họ không muốn con mình theo đạo,
còn ba mẹ anh là người nghiêm khắc, không chấp nhận một đứa con dâu ngoại đạo.
Khi anh ngỏ ý muốn xin được làm phép chuẩn cho đạo ai nấy giữ, ba anh tức giận
quát:
- Nếu
mày lấy nó thì cút cho khuất mắt tao.
Anh
rơi vào tình huống khó xử, anh không muốn mất cô nhưng anh cũng không muốn trái
ý cha mẹ. Trong khi anh còn phân vân chưa biết phải làm gì thì cô đã ra đi mãi
mãi…trong một tai nạn bất ngờ…Anh đau đớn tột cùng, trong lúc mất hết lí trí,
anh đã bỏ nhà đi, trước lúc đi anh còn tuyên bố rằng: Khi nào tha thứ cho cha
mẹ anh sẽ về.
Là
một bác sĩ, tôi hiểu tâm trạng lúc đó của anh. Khi một người bị tước đoạt đi
thứ mình yêu quý nhất, họ sẽ không còn đủ lý trí để suy xét đúng sai và đương
nhiên họ sẽ hành động sai lầm.
- Vậy
tới nay anh vẫn chưa tha thứ cho gia đình sao?
-
Nhiều đêm không ngủ, tôi đã suy nghĩ lại, dù gì họ cũng là cha mẹ tôi, hơn nữa
họ làm như vậy là đúng. Chỉ có Thiên Chúa là trêu chọc tôi…-Anh thở dài, mùi
bia phả ra sau nụ cười méo mó.
- Vậy
sao anh chưa về?
- Tôi
chưa tha thứ cho mình…
- Tha
thứ? Tha thứ cái gì? –Tôi ngớ người không hiểu.
- Bỏ
nhà đi là bất hiếu, hơn nữa ba năm nay tôi chưa làm nên trò trống gì, tôi không
có mặt mũi để về!
- Cha
mẹ nào cũng thương con, họ không trách anh đâu, anh về đi…
- Cậu
là người thành đạt, cậu không hiểu đâu, tôi phải thành đạt, nhất định phải
thành đạt để lấy lại sĩ diện và sau này còn gặp lại cô ấy nữa…
Lại
là sĩ diễn, tại sao người ta cứ bất chấp mọi thứ để giữ lấy cái sĩ diện hão ấy,
trong khi vì nó mà ba năm nay anh chưa một lần về thăm gia đình, liệu có đáng
hay không? Nhưng thôi, tôi không dám cản anh vì tôi biết tính anh cố chấp, cái
gì đã quyết thì sẽ làm tới cùng, bất chấp mọi chuyện xảy ra.
Đêm
30 Tết, anh lại gọi tôi qua. Vẫn là nem chua, vẫn thịt nướng và mực khô. Anh
bóc nem, chấm vào chén tương ớt sền sệt, rồi đưa vào miệng cắn sực:
- Ăn
đi, đặc sản Bình Định đó.
- Sao
nay anh vui vậy?
- Vẫn
không thấy lão ăn mày. - Anh cười nham nhở.
- Anh
hay quan tâm đến lão nhỉ? Lão là người quen anh à?
-
Không quen nhưng rất quen.
Thấy
tôi ngơ ngác, anh cụng lon bia đánh cốp, ngửa cổ uống một hơi, rồi từ từ nói:
-
Ngày đầu tiên vào đây tôi đã thấy lão, lão gầy gò như ba tôi nhưng đôi mắt lão
lại giống mẹ tôi, đôi mắt buồn bã đợi chờ điều gì đó. Mỗi khi nhắm mắt lại, tôi
lại thấy lão…
-
Chắc anh bị ám ảnh rồi…
- Ừ!
Có lẽ vậy, cứ thấy lão lòng tôi lại ray rứt. Lúc nào lão cũng đội cái mũ lụp
xụp, miệng thì luôn lảm nhảm... Vừa giống như cảm ơn những người đã bố thí cho
lão, vừa như chửi rủa ai đó...
- Mấy
người đó kể cũng tội, già như vậy mà không người chăm sóc, không biết con cái
lão ở đâu? – Tôi thở dài đồng cảm.
-
Chắc lũ con lão cũng là kẻ khốn nạn như tôi. - Anh cười mỉa, nốc cạn lon bia.
-
Hình như sự mất tích của lão khiến anh vui thì phải?
- Ừ!
Tôi thấy như trút được gánh nặng, bớt ray rứt hơn nhưng…
- Bất
an, lo lắng phải không? – Tôi tiếp lời.
- Sao
cậu biết?
- Ai
cũng vậy thôi, khi thiếu đi những gì quen thuộc, sẽ cảm thấy trống trải vô
cùng.
Anh
khui lon nữa, khuôn mặt chuyển từ nham nhở sang nghĩ ngợi:
- Ừ.
Cậu nói đúng. Không biết bây giờ lão ở đâu?
- Có
khi lão chết rồi, mấy hôm trước tôi thấy có đám tang gần đó.
-
Chết…Chết rồi…Lão chết rồi? – Anh lắp bắp.
- Già
thì chết, ai mà chẳng vậy!
- Già
thì chết? Chết…Chết… - Anh giật mình như
tỉnh cơn mộng du. - Từ nay tôi sẽ không thấy lão nữa sao? – Anh bật dậy.
- Anh
Nhật…Anh bị sao thế? Anh say rồi à, hay anh bị trúng gió?
- Tôi
muốn về nhà, tôi phải về thăm ba má tôi. Tôi không muốn ba má tôi chết. – Anh
nói như mếu. Khuôn mặt anh dãn ra, hình như anh đang trẻ lại như đứa trẻ vừa
nhận được quà.
Nhìn
anh, tôi nhận ra anh khồng hề say, mà ngược lại, lúc này anh tỉnh hơn bao giờ
hết, tỉnh lại sau bao nhiêu năm say. Anh bảo tôi:
- Tôi
biết Chúa muốn tôi làm gì rồi. – Mắt anh sáng lên. - Chúa muốn tôi cho đi sự cố
chấp và cái sĩ diện hão của mình. Chỉ khi nào vứt bỏ hết những điều đó tôi mới
thực sự bình an và dám nhìn mặt cha mẹ mình…
Nói được những điều đó chắc anh đã bình an lắm
rồi, có lẽ anh đã tha thứ cho chính mình. Vậy là Tết nay anh sẽ về nhà, anh đã
tìm được một món quà ý nghĩa. Còn tôi, tôi sẽ cho đi thứ gì?