GIẢI VIẾT VĂN
ĐƯỜNG TRƯỜNG 2016
BẢN TIN 02
Thưa quý độc giả và quý tác giả,
Theo qui định trong bản thể lệ, những tác giả đạt giải,
nếu có nhiều truyện khác có giá trị, sẽ được Tủ Sách Nước Mặn hỗ trợ xuất bản một
tuyển tập riêng. Nước Mặn là tên một xóm nhỏ thuộc xã Phước Quang, huyện Tuy
Phước, tỉnh Bình Định. Tại đây năm 1618 các thừa sai Dòng Tên đã lập cư sở để
khởi sự loan báo Tin mừng về Chúa Kitô Cứu Thế. Các nhà truyền giáo ấy, đặc
biệt là cha Francisco de Pina, đã bắt đầu tìm cách phiên âm tiếng Việt theo mẫu
tự ABC (mẫu tự La-tinh) và phôi thai hình thành hệ thống chữ quốc ngữ.
Ngày 13/01/2016, Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Bình Định đã tổ chức
một hội thảo khoa học mang tên “Bình Định và chữ quốc ngữ”. Hội thảo đã diễn ra
với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu có uy tín trong và ngoài nước, đóng
góp những thông tin đáng giá về lịch sử chữ quốc ngữ, về ngữ học cũng như về
quá trình phổ biến chữ quốc ngữ để phát triển văn hóa giáo dục tại Bình Định.
Với những tài liệu hiện nay Nước Mặn có thể được xem là “cái nôi” sớm sủa nhất
của chữ quốc ngữ. Chiều hôm trước, 12/01, đoàn Hội Thảo đã đi thăm đài kỷ niệm
Nước Mặn và di tích nhà in tại Chủng viện Làng Sông. Xin mời xem thông tin tại:
http://svhttdl.binhdinh.gov.vn/
và
http://gpquinhon.org/qn/news/nuoc-man/
“GS. Phan Huy
Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, phát biểu kết luận tại Hội thảo:
“Tôi thích ý tưởng của linh mục Võ Đình Đệ. Ông coi sự ra đời của chữ Quốc ngữ
như một dòng sông, và nguồn của dòng sông đó là Nước Mặn. Tôi chỉ bổ sung thêm
dòng sông chữ Quốc ngữ do nhiều con suối tạo nên, trong đó Nước Mặn là 1 con
suối, Thanh Chiêm là 1 con suối, Hội An là 1 con suối.
Tôi nghĩ rằng
không nên coi chữ Quốc ngữ là 1 sự kiện gắn với 1 con người, 1 địa điểm quá
chật quá hẹp. Đây là hiện tượng văn hóa - xã hội có cả quá trình dài với sự
tham gia của nhiều người. Vì vậy, đi tìm 1 người, 1 nơi khởi nguồn chữ Quốc ngữ
là điều hết sức chủ quan. Phải nhìn rộng ra Bình Định trong vị trí của dinh
Quảng Nam, trong vị trí của Đàng Trong thì đây là một trong những nơi có
thể là ra đời sớm nhất của chữ Quốc ngữ cùng với Hội An, Thanh Chiêm. Trong 3
trung tâm này thì Nước Mặn có quyền tự hào là nơi ra đời chữ Quốc ngữ sớm hơn.
Bình Định trong đó có Nước Mặn giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu phôi
thai nảy nở chữ Quốc ngữ. So với những nơi khác, Nước Mặn vẫn còn một số di
tích cần được quan tâm gìn giữ, nghiên cứu thêm.” (Hoài
Thu, Nước
Mặn - Bình Định: Vai trò quan trọng hình thành chữ Quốc ngữ, Baobinhdinh.com)
Trở lại với cuộc thi Giải Viết Văn Đường Trường lần thứ 4
(2016), Ban Tổ chức xin cảm ơn các trang truyền thông Công giáo đã giúp đỡ nhiệt
tình để cuộc thi được nhiều người biết đến, hứa hẹn sẽ có nhiều tác giả ở khắp
các Giáo phận trong nước tham gia.
Trong bản tin số 1 chúng tôi giới thiệu 7 truyện đã qua
vòng sơ loại được chọn trong số 15 tác phẩm dự thi đợt đầu tiên. Hôm nay chúng tôi
hân hạnh giới thiệu tiếp 7 truyện mới được chọn trong số các bài dự thi tiếp
theo có số thứ tự từ 016 đến 024. Với tỉ lệ bài được chọn có chiều hướng gia
tăng này, cuộc thi hứa hẹn sẽ ngày càng có nhiều tác phẩm giá trị.
Nhằm tìm kiếm và xây dựng các tài năng văn xuôi cho văn
học Công giáo, Giải Viết Văn Đường Trường được tổ chức liên tục trong 6 năm
liền (2012-2018) dành cho những truyện ngắn có nội dung Kitô giáo. Cuộc thi lần
thứ ba đã được trao giải tại Qui Nhơn ngày 19-9-2015. Các tác phẩm đạt giải
được giới thiệu trong tuyển tập “Người Gieo Hạt”, có thể xem tại
http://gpquinhon.org/qn/download/van-hoa/Nguoi-gieo-hat/
Hiện nay cuộc thi lần thứ 4 (2016) vẫn đang tiếp tục nhận
bài dự thi. Ước mong quý vị và các bạn giúp giới thiệu chương trình này thật
rộng rãi. Và mong quý tác giả tiếp tục gởi bài dự thi thật rầm rộ để cuộc thi
đạt được kết quả mong muốn.
Xin mời xem thể lệ cuộc thi ở cuối bản tin này và các
thông tin khác về cuộc thi tại
http://gpquinhon.org/qn/news/viet-van/
Xin cám ơn Bác Nguyễn Văn Tuy ở Sài Gòn đã cho biết thông
tin chính xác về bài dự thi mã số 16-002 (Hi Giêsu!) trên bản tin 01. Theo quy định trong thể lệ,
những độc giả giúp phát hiện đầu tiên những bài dự thi sao chép của người khác
(xin ghi rõ xuất xứ bài gốc) sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ
tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Xin chân thành cám ơn.
Qui Nhơn, ngày 14-01-2016
Thay lời Ban Tổ chức
Linh mục TRĂNG THẬP TỰ
Mã số: 16-016
- Ê! Nhãi con! Có tiền không cho anh mày xin một ít. Hôm nay,
anh mày đi học mà quên đem tiền theo rồi.
- Tôi không có tiền mà cho các anh.
- Hả? Mày nói sao cơ? Bữa nay ăn trúng gì mà mạnh miệng quá nhỉ?
Một đám con trai lớn hơn, khoảng chừng bảy tám đứa đứng gần đó,
ôm bụng cười ngặt nghẽo.
- Không có xu nào cho mấy anh đâu. Đừng hòng!
- Tụi bây! Đánh nó cho tao.
Thế là cả bọn xúm lại, đánh tới tấp vào người Biên. Cu cậu cố
gắng kêu cứu, giãy giụa cũng chả ăn thua gì vì nơi đây là một ngõ hẻm hẻo lánh,
ít người qua lại. Mà nếu có cũng chả ai dại gì mà dây vào lũ thanh niên đầu
đường xó chợ có tiếng này. Chúng vừa đánh, vừa nghiến răng nói:
- Cho mày chết này, có tiền trong người mà dám xạo tụi anh hả?
- Anh Hai ơi! Cứu em, cứu em với!!!
- Nó gọi anh Hai kia mày ơi! Thằng này bị đánh đến nỗi điên rồi
bây ơi!
Một tên trong bọn dừng
lại, nhếch mép cười, tỏ vẻ đầy khinh rẻ rồi nói:
- Anh Hai mày ư? Một thằng mồ côi, không nơi nương tựa như mày thì
anh Hai đào đâu cho ra. Mày điên thật rồi!
- Không! Tôi nói thật. Anh Hai sẽ đến cứu tôi cho mà xem. Các
anh cứ chờ đó.
- Cứu mày hả? Thôi được! Để rồi xem ai sẽ cứu mày. Tụi bay đánh
tiếp cho tao.
- Anh Hai ơi! Mau đến cứu em!
- Này! Các cậu làm gì vậy? Sao lại đi đánh một thằng nhóc hả?
Tôi báo công an rồi đó. Khôn hồn thì chạy đi!
Một cậu thanh niên vạm
vỡ, khoảng chừng hai mươi tuổi gằn giọng, quát. Quay người lại, thấy tên quát
mình to lớn hơn rất nhiều cộng với nghe thấy hai từ công an, cả bọn kiểu như
không muốn dính vào rắc rối lần nữa, liền tháo chạy, tản ra như đàn kiến vỡ tổ.
- Cậu bé, em không sao chứ?
Từ trong góc hẻm, Biên lồm cồm bò dậy. Cu cậu lê từng bước, gắng
sức ngồi dựa mình vào tường rồi thì thào nói:
- Em không sao! Cảm ơn anh đã giúp em.
- Sao lại bị đánh đến nỗi này? Để anh đưa em về.
Nói xong, người thanh niên bế thốc Biên lên sau lưng rồi thu dọn
cặp sách vở bị vung vãi của cu cậu. Vừa đi vừa cõng Biên trên lưng, người thanh
niên ân cần hỏi:
- Sao em lại bị bọn chúng đánh như vậy?
- Bị đánh là chuyện thường ngày của em rồi anh ạ. Bọn chúng học
cùng trường với em. Chúng đánh em vì em là đứa mồ côi, không cha không mẹ. Ỷ
thế mạnh mà ức hiếp em.
- Sao em không nói với người lớn?
- Em đâu còn người thân đâu mà nhờ họ giúp. Em sống cùng với
những bạn khác ở trại trẻ mồ côi gần đây, các bạn ấy thỉnh thoảng cũng bị đánh,
bị trêu ghẹo như em thì làm sao em nhờ các bạn giúp em được. Không ai giúp tụi
em cả, chỉ có các sơ mới thương tụi em.
Biên nghẹn ngào nói, dường như cu cậu đang khóc, người thanh
niên cảm nhận rõ những giọt nước mắt đau đớn rơi xuống từ trên vai mình. Nó
khiến lòng anh cũng đau buồn theo, thở dài, anh tiếp lời:
- Vậy sao em không nói với các sơ?
Trên lưng người thanh niên, Biên khẽ lắc đầu rồi đáp với một giọng
điệu buồn rầu:
- Em sợ các sơ buồn, lo lắng vì em. Các sơ còn phải bận tâm
nhiều việc lắm, em không nên làm phiền các sơ anh ạ.
- Em thật biết suy nghĩ đấy nhóc! Nhưng lúc nãy anh có nghe em
gọi anh Hai gì gì đó mà? Sao em không nói với người đó chuyện này.
Nghe tới từ anh Hai, mặt Biên sáng bừng lên, khuôn mặt vui vẻ
hẳn. Nó dang mạnh đôi tay sang hai bên và hít thở thật sâu không khí trong lành
nơi mảnh đất đầy thân yêu cũng như đầy nỗi buồn này, rồi dõng dạc nói:
- Anh hỏi về anh Hai em sao? Không phải khoe chứ anh Hai em cực
tốt, siêu tuyệt vời luôn!
- Thật sao? Người thanh niên tỏ vẻ ngạc nhiên nhưng cũng đầy
thích thú.
- Vâng. Anh Hai em luôn ở bên cạnh em, các bạn cũng như các sơ
đó. Anh luôn mỉm cười với chúng em và đặc biệt là luôn giúp đỡ chúng em trong
lúc khó khăn nhất.
- Vậy sao lúc nãy người đó không đến giúp em?- Người thanh niên
nói với vẻ hoài nghi.
- Là thật đó. Chỉ tại lúc đó anh đến trước anh Hai em một xí xi
thôi. Không thì ảnh cũng đến cứu em cho mà xem.
- Thật không đó?
- Thật mà! Hay lát nữa anh đưa em về tới trại mồ côi em sẽ chỉ
anh Hai cho anh coi nhé.
- Ừ! Được thôi.
Nằm trên lưng người thanh niên, Biên thấy rất êm ái và dễ chịu,
không hiểu vì sao lại cảm thấy thân thuộc đến như vậy. Thỉnh thoảng lén nhìn
sang khuôn mặt anh, có một cảm giác gì đó rất kì lạ, ban đầu Biên hơi ngờ ngợ
nhưng lúc sau lại cảm thấy khuôn mặt này vô cùng thân quen, có vẻ như cu cậu đã
nhìn thấy khuôn mặt này rất nhiều lần rồi thì phải. Biên để ý bước đi của anh
dường như rất nhẹ nhàng, có vẻ như sợ đụng vô những vết thương hay làm đau đến
Biên. Mặc kệ, Biên tặc lưỡi, khẽ thở dài cho qua.
Chẳng mấy chốc người thanh niên đã cõng cậu về đến trại trẻ. Anh
khẽ lay mình cậu.
- Này nhóc, xuống đi, tới nơi rồi! Anh Hai nhóc đâu sao chả thấy
ai hết trơn đây nè?
- Anh Hai em kia kìa!
Nói đoạn, cu Biên lấy tay chỉ thẳng vào trong nhà thờ, nơi có
bức tượng chúa Giê Su đang treo mình đau đớn trên thập giá, rồi nói:
- Anh Hai em đó, ngày nào đi học về anh ấy cũng đợi em. Ngày nào
cũng lằng nghe em tâm sự, ngày nào cũng mỉm cười an ủi em vượt qua mỗi trận đòn
của đám côn đồ kia.
Biên say sưa nói mà không để ý rằng cũng có một người thanh niên
đứng phía sau đang mỉm cười y như vậy.
- Ai bảo em thế?
- Các sơ đó! Các sơ nói chúng em có chung một cha trên trời, còn
đó là con Người nên cũng là anh Hai của chúng em. Thế nên em không còn phải sợ
những tên đánh em nữa, bởi vì đã có anh Hai luôn ra tay giúp em.
Cu cậu vừa nói vừa cười
thật tươi, không màng đến những đau đớn lúc nãy. Đôi mắt ánh lên niềm hạnh phúc
- Vậy sao nhóc?
- Vâng, đúng vậy! Em không còn đơn độc nữa. Anh Hai sẽ luôn bên
cạnh và bảo vệ em. Anh thấy đúng không?
Biên quay đầu lại hỏi người thanh niên. Nhưng lạ thay cu cậu
chẳng thấy anh ấy đâu nữa cả. Xung quanh cậu bây giờ chỉ là một khung cảnh tĩnh
lặng. Cậu ngơ ngác đưa mắt tìm kiếm rồi quay lại nhìn thánh giá. Lúc này đây,
Biên sững sờ chợt nhận ra rằng khuôn mặt trên thánh giá kia cũng chính là khuôn
mặt người thanh niên đã giúp mình lúc nãy.
--**--
- Biên tỉnh lại đi con. Con làm các sơ lo quá!
Biên từ từ mở mắt ra, ngạc nhiên khi thấy các bạn lẫn các sơ yêu
quý đang ngồi cạnh mình. Cu cậu không hiểu chuyện gì đang xảy ra, ngơ ngác nhìn
chung quanh rồi hỏi:
- Tại sao con lại nằm đây?
- Con không nhớ sao? Sơ đi công chuyện về thì đã thấy con nằm
ngất trước cổng nhà thờ rồi. Con bị đánh nặng như vậy mà vẫn cố về tới nhà.
Thật tội cho con. Sơ đã biết hết mọi chuyện rồi. Sơ sẽ chuyển trường cho con.
Không để con bị đánh nữa.
Vị sơ già nghẹn ngào, vừa rưng rưng nước mắt vừa nói. Biên khẽ
mỉm cười rồi thì thầm trong miệng:
- Vậy là hôm qua mình đã gặp anh Hai, anh đã đến giúp mình thật
rồi.
- Sao cơ?
- À không có gì! Chỉ là con đã gặp được anh Hai rồi.
Mọi người chẳng hiểu Biên đang nói gì, cứ nghĩ rằng Biên vẫn còn
mệt, cần tĩnh dưỡng nên ai nấy đều nhẹ nhàng đi ra khỏi phòng. Chỉ có Biên mới
hiểu rõ mình đã gặp chuyện gì. Chỉ biết tối hôm đó, các bạn của Biên đã thấy cu
cậu ngồi rất lâu dưới cây thánh giá, miệng luôn tươi cười và thì thầm điều gì
đó. Ánh mắt hiện rõ niềm hạnh phúc khôn tả.
Mã số: 16-017
Chợt tỉnh giấc, Lâm thấy mình đã tới đồi thông. Lấy tay dụi mắt,
cậu ta cựa mình, ngồi thẳng dậy. Ôi chao, đến là mỏi. Tê hết cả cánh tay vì
phải dùng nó làm điểm tựa cho cái đầu. Ngủ trên xe bus như vậy quả là chẳng dễ chịu
chút nào, nhưng đối với một sinh viên, việc làm này đã quá quen thuộc đến nỗi
cậu ta thấy rất hài lòng khi được giấc ngủ ngon, dài từ Hà Nội về tới Vĩnh
Phúc. Chỉ còn khoảng ba cây số nữa là đến điểm dừng của mình, Lâm không bỏ lỡ
cơ hội đưa mắt sang ngắm nhìn hồ Đại Lải trước mắt. Đây là một hồ nhân tạo chứa
nước phục vụ cho nông nghiệp, nhưng tới nay, nó trở thành một điểm du lịch của
vùng quê này. Trong mắt Lâm, cậu thấy khung cảnh hài hòa, có đồi, có hồ, y như
các nhà du lịch học nhìn thấy tiềm năng của một điểm đến có núi với biển nằm kề
nhau vậy. Với một miền quê chẳng bao giờ thấy biển như nơi đây thì sự so sánh
ấy cũng chẳng có gì là quá đáng. Và cứ nghĩ tới ngày mai, cả đám bạn rủ nhau
lên chiếc cầu ở gần đập, rồi nhảy xuống hồ bơi lội, Lâm thấy phấn chấn hẳn lên.
Một ngày tự do, không bài vở, không lo học hành, không có tiếng nói của cô giáo
dạy Triết. Cậu ta mừng tới mức như muốn nhảy lên mà la hét. Đang mộng mơ với
những kế hoạch cho ngày cuối tuần, Lâm giật mình vì đã đến điểm xuống. Cậu chỉ
kịp chạy, phóng ào xuống trước khi cánh cửa đóng lại.
- Hù. Thật là may, xuýt nữa lại phải đi bộ trở lại thì mệt.
Vừa mải nhìn bóng chiếc xe bus đi qua trong làn khói bụi mù, Lâm
nghe thấy khóc, tiếng đấm, tiếng đá uỳnh uỵch, tiếng chửi thề ồn ào bên đường:
- Chết mày đi, chết này! Cho chừa cái thói nhìn đểu.
- Hự… Hự…
- Quả đấm này dành cho con mắt của mày này.
…
Vừa nói, hai thằng bé vừa lao vào đánh, chúng lên gối, đấm những
cú mạnh, thẳng vào mặt nạn nhân. Lâm vội chạy tới, hô to, hai kẻ du côn chạy biến
mất, để lại người bị đánh lăn lộn dưới đất. Tiến lại gần, cậu nhận ra Hồng hâm
ở xóm bên. Anh này hơn Lâm hai tuổi, nhưng khi sinh ra đã không bình thường.
Người man mát, mắt thì bị lác, suốt ngày đi lang thang, chẳng biết làm gì. Tới
giờ cơm là bà mẹ phải đi tìm về. Nhà chỉ có hai mẹ con. Bà mẹ cũng đã ngoài năm
mươi. Chắc giờ này, bà lại phải khốn khổ đi tìm anh ta. Lâm đỡ lấy anh dậy. Anh
ta nặng quá, hơn hẳn cái thân hình gầy gò, thư sinh của cậu. Người thì lấm lem,
mùi hôi bốc lên, anh ta rên như người sắp về thế giới bên kia chuẩn bị nói
những lời từ giã cuối cùng, thật khó chịu. Cái thân xác thì to béo mà đần, chỉ
khổ cho bà mẹ - Lâm lẩm bẩm. Phải cố gắng lắm, cậu mới dìu được anh ta đi tới
cổng làng. Tới đây, vừa hay gặp bà mẹ. Thấy cái mặt tím bầm, quần áo bẩn thỉu,
bà đoán ngay ra sự việc. Chẳng hề quan tâm tới người đi cùng con trai mình là
ai, bà kêu lên, tru tréo như đã quen:
- Trời ơi là trời, sao tôi lại khổ như thế này, sao ông trời
không cho tôi chết quách đi cho đỡ khổ. Có mỗi thằng con mà chẳng trông chờ gì
được. Suốt ngày chỉ đi lang thang, khi thì bị xe tông, khi thì bị bọn trẻ con
nó đánh… to xác mà chẳng biết gì cả. Ông trời có mắt không khi cho tôi cái
thằng con này.
Hồng hâm nghe thấy tiếng mẹ thì cũng mếu máo theo. Lâm gượng
nhìn và định nói gì đó. Nhưng cậu không nói lên lời bởi chẳng biết phải nói gì
và nói với ai, với Hồng hâm hay mẹ anh ta. Cậu im lặng. Bà mẹ dắt thằng con
trai về, Lâm cũng đi về nhà mình.
***
Mở “list” nhạc trong chiếc laptop đặt ở bàn, Lâm nằm sõng soài
trên giường, ngâm nga theo những bài hát cậu yêu thích.
“Xin
Cha cho con một ngày để nhớ, để mơ
Thương
yêu như là cơn gió buộc con
Xin
Cha cho con an bình bên trong chính con
Con
nay, bơ vơ không còn tha thiết đánh nhau trong lòng mình”.
- Thần thánh, Thiên Chúa chỉ là hình ảnh lý tưởng của con người
về bản thân. Người ta phóng chiếu lên những nhân vật đó cái siêu thực. Khi cuộc
sống đấy những bất hạnh, khó khăn, người ta mơ tới một cõi như thiên đường. Ở
nơi đó, người ta thoát khỏi hiện tại, mơ tới một cuộc sống hạnh phúc. Bởi vậy,
nó không có thực…. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân là thế.
- Rồi một ngày, tôn giáo sẽ biến mất.
- Nếu em tin Chúa an bài mọi sự, em còn đi học làm gì, ở nhà
Chúa sẽ lo liệu cho.
- Trời ơi là trời, sao tôi lại khổ như thế này. Sao ông trời
không cho tôi chết quách đi cho đỡ khổ.
- Em lý giải đi, tại sao Chúa để con người phải đau khổ? Thiên
Chúa ở đâu?
- Mẹ ơi, đau quá, hu hu…
- Không, không phải như vậy…. Đó không phải là sự thật. Em không
biết. Không phải thế.
Tiếng khóc, tiếng nói thách thức vang lên, Lâm hét lên thật to.
Thì ra, Lâm đang mơ. Nhưng không, đó không chỉ là giấc mơ, nó còn là hiện thực.
Dù muốn quên đi, nhưng những gì xảy ra trong ngày vẫn ám ảnh cậu. Chuyện tiết
học trên lớp, chuyện người thanh niên dở hơi bị đánh…. Tất cả còn in sâu trong
tâm trí Lâm. Tất cả là thực đi vào trong mơ và cũng trở lại thực. Lâm không
chạy trốn được. Lâm tin vào Chúa, nhưng những gì cậu tin sao mờ nhạt vậy, chẳng
có gì làm cơ sở để có thể chứng minh cho người ta thấy và cũng chẳng có lý lẽ
nào đủ để tự giải thích cho chính mình. Thách đố bây giờ không chỉ là lý giải
cho người khác nhưng Lâm còn cần một câu trả lời cho chính mình. Những gì người
ta hỏi cậu cũng rất có lý. Chúa của cậu ở đâu? Chúa thương con người ta như vậy
mà sao Chúa để họ phải khổ? Chúa có đang nghe tiếng than khóc của loài người
hay Ngài quay đi? Tại sao Chúa không làm những phép lạ cho tất cả thế giới này
biết có Ngài hiện hữu, để Lâm khỏi phải hổ thẹn như vậy trước cái nhìn chế nhạo
của những kẻ muốn chất vấn cậu. Bao câu hỏi dội lên trong đầu Lâm, hình như cậu
đang nghi ngờ chính niềm tin của mình? Không, cậu chỉ muốn củng cố cái niềm tin
yếu đuối đó thôi. Lâm ước gì có ai đó giúp, đưa cậu thoát khỏi cái đám bòng
bong này.
***
Sáng Chúa nhật, nhà thờ giáo xứ rộn ràng chuẩn bị cho thánh lễ
giới trẻ hàng tuần. Không khí nhộn nhịp, mọi người đã đến khá đông, nhưng Lâm
chưa thấy bóng dáng đám bạn thân đâu cả. Tranh thủ đứng chờ, cậu tiến tới bảng
thông tin cuối nhà thờ. Tin tức Giáo hội, các hoạt động của nhà xứ,… được cha
xứ đưa lên một cách ngắn gọn mà đầy đủ. Một mẩu tin nổi bật ở góc bảng thu hút
Lâm. Nó nổi bật không bởi hình ảnh sinh động như các tờ bướm quảng cáo, nhưng
vì đó là một tờ giấy cũ hơn các tờ giấy khác.
“ Đã
bao giờ bạn tự hỏi mình về ý nghĩa của cuộc sống này?
Đã
bao giờ, bạn thao thức muốn làm một điều gì đó tốt đẹp cho những người xung
quanh mình?
Đã
bao giờ bạn nhìn lên Thầy Chí Thánh Giê-su để khao khát, ước muốn?
Hãy
đến với chúng tôi – nơi ươm mầm ơn gọi linh mục triều”
Tờ tin cũ mà đến hôm nay Lâm mới để ý tới. Chưa bao giờ Lâm nghĩ
tới ý định này, nhưng nghe cũng có vẻ hấp dẫn. Thêm vào đó, tấm ảnh phía dưới
với dòng chữ “anh em ứng sinh” càng làm cậu hào hứng. Những gương mặt vui tươi,
tràn đấy sức sống như đang lôi kéo cậu sinh viên vậy. Nhìn trăm khuôn mặt trẻ,
Lâm nhớ tới hình ảnh cả trăm người trên giảng đường đang nhìn cậu, và ánh mắt
của Hồng hâm chờ cậu tới nâng dậy. Một bàn tay đặt trên vai làm Lâm giật bắn
mình:
- Mừng lễ các thánh.
Lâm ngạc nhiên khi thấy Tùng, người bạn thân từ hồi nhỏ xuất
hiện. Đã hơn một năm, nay mới gặp lại. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, mỗi người
một con đường, Lâm vào đại học Kiến trúc, còn bạn thì đi tu. Buổi gặp gỡ này
quả là bất ngờ.
- Sao cậu lại ở đây? Chẳng phải đang ở nhà ứng sinh sao?
- Đúng là thế. Nhưng ngày mai là lễ cầu nguyện cho các tín hữu
đã qua đời, cha giáo cho anh em về quê thắp hương cho ông bà tổ tiên nên giờ
này mình mới có mặt ở đây đấy. Cậu khỏe chứ?
- Tớ khỏe. Đang nhìn xem cậu ở đâu đây này.
Vừa nói, Lâm chỉ cho Tùng thấy tấm hình trên bảng thông tin.
Trong ảnh, nhìn ai cũng như ai, Lâm không thể dò được chỗ bạn mình đứng nữa.
Quay lại nhìn Tùng, Lâm thấy bạn mình chững chạc, rạng rỡ quá, khác hẳn cái vẻ
u sầu, gầy còm cùng biệt danh “Tùng quắt” ngày xưa: chiếc áo sơ mi trắng, quần
tây đen đúng chất nhà tu, nét mặt hiền hiền, cử chỉ điềm đạm toát lên sự thánh
thiện.
- Đây là ảnh anh em chúng tớ chụp từ hồi tháng tư trong lễ quảng
bá ơn gọi. Vậy mà cha xứ vẫn giữ lại trên bảng thông tin.
- Phải giữ tới hôm nay để cho tớ đọc chứ – Lâm cười hài hước,
rồi vồn vã hỏi về cuộc sống của bạn - Ở đấy cậu làm những gì, thấy thế nào, bạn
hiền?
- Ở nhà ứng sinh, chúng tớ được học cầu nguyện, nhân bản, những
môn về giáo lý, kinh thánh, đàn nhạc, tu đức,…. Ngoài việc học, chúng tớ có
những giờ thể thao, lao động, sinh hoạt với giới trẻ, thực hành mục vụ, thăm
hỏi người nghèo, lương dân. Nhìn chung đa dạng lắm. Thời gian qua, tớ thấy bình
an và hạnh phúc vì con đường tớ đã lựa chọn. Phải nói thế nào nhỉ, thật khó
diễn tả, nhưng cậu cứ vào tu sẽ biết.
Lâm tròn đôi mắt với câu nói không biết thật hay đùa của Tùng –
Nhưng biết đâu được đấy – Cậu cười nhạt để đánh trống lảng cho sự bối rối của
mình. Tùng chắc hẳn đang rất hài lòng với cuộc sống cậu ấy chọn. Còn Lâm, bước
đường tiếp theo của cậu sẽ ra sao? Lâm đã luôn tự tin vào khả năng của bản
thân, để khi ra trường, cậu có quyền nghĩ tới một cuộc sống ổn định với công
việc thiết kế xây dựng và một gia đình hạnh phúc. Thế hệ của Lâm dí dỏm về một
mục tiêu phấn đấu: một vợ, hai con, nhà ba lầu, xe bốn bánh, du lịch năm châu.
Vậy mà giờ đây, Lâm thấy giấc mơ đó sao mà nhỏ nhoi vậy. Cậu đang khắc khoải
tới một điều gì lớn hơn, vượt lên trên những tính toán cho bản thân, một cuộc
sống đầy ý nghĩa và có giá trị. Dòng suy tưởng chưa kịp thành hình quấn lấy tâm
trí cậu. Vừa hay, mấy người bạn tới, họ rôm rả chuyện trò. Bạn bè gặp nhau là
đầy ắp tiếng cười mà không hết chuyện. Nhưng từ sâu thẳm tâm hồn, Lâm thấy mình
dường như trống rỗng tột cùng. Lòng cậu đang khao khát, thao thức một điều gì
đó mà chính bản thân cậu chưa thể gọi tên. Lâm chưa bao giờ được tiếp nhận một
kinh nghiệm như thế này. Nó không rõ ràng như các hình khối trong những bản vẽ
cậu được học trên ghế nhà trường. Càng không phải là những triết thuyết của các
tư tưởng gia cậu đã từng đọc. Mắt Lâm mơ hồ hướng lên bàn thờ, nơi có vị linh
mục dang tay đọc lời cầu nguyện. Chiếc áo lễ trắng phủ kín tầm nhìn suy tư của
chàng trai trẻ. Ý chí dường như bị khựng lại, Lâm thấy lòng mình lắng xuống,
một cảm giác nhẹ nhàng, thanh thoát.
* * *
Chỉ chờ cha xứ bước ra khỏi phòng thánh, ông trùm Phong vội vã
tiến tới thưa chuyện:
- Thưa cha, có anh Trường ở khu trên mới bị tai nạn, đang trong
cơn nguy tử, xin cha đến ban Bí tích ạ.
Sau ít phút chuẩn bị, cha xứ nhanh chóng đi tới bệnh viện để ban
Bí tích sức dầu. Trước mắt ngài, người thanh niên hiền lành, ngoan đạo yếu ớt
trong hơi thở dần tàn. Tội nghiệp anh, tội nghiệp bà mẹ góa nuôi con. Hình ảnh
này gợi lại cho ngài về những con người ở đâu đó, trong tiếng khóc than, rên rỉ
năm nào. Phải chăng, nếu Chúa Giê-su ở đây, Người cũng sẽ chữa lành anh như
chữa lành con trai bà góa thành Nain. Mở chiếc khăn thánh một cách cẩn thận,
ngài cung kính nâng Mình Thánh Chúa trao cho người bệnh với một niềm tin tưởng,
phó thác.
Mã số: 16-018
- 60 tỷ, ok chứ?
- Cô đừng nói chuyện tiền bạc ở đây. Nhà thờ là tài sản của Giáo
hội, của người Công giáo miệt này, tôi không quyết định được!
- Ối giời ơi, cầm từng ấy tiền linh mục muốn gì mà chả được.
Cứ mua mảnh đất rộng hơn, xây nhà thờ to vật vã, hoành tráng lên cho dân chúng
được nhờ…
Chưa dứt lời, người phụ nữ đã ngúng nguẫy ra xe. Chiếc lexus đen
bóng lao nhanh khỏi nhà xứ để lại đằng sau lớp bụi cát mịt mù. Người đàn ông
ngồi bất động, mặc ánh nắng chiều chếch xuống mái tóc hoa râm.
Hơn ba mươi năm từ khi cha Thể về đây coi xứ. Ngày đó đảo còn
hoang sơ lắm, đi đâu cũng gặp những bãi cát mịn trải dài, những rặng dừa cong
mình xanh mướt. Gia đình nào không có đất thì đi biển hoặc làm công cho các nhà
thùng sản xuất nước mắm. Nhà trên đảo không hề đóng cửa, hiếm xảy ra chuyện
trộm cắp. Ban ngày làm lụng vất vả nhưng đêm được yên giấc không phải lo lắng.
Và nhịp sống yên bình đó chỉ nhộn nhịp khi đoàn tàu cá quay về. Chiều trên bãi
biển, thấp thoáng bóng dáng những người phụ nữ đứng đợi người thân. Biển và
bờ vỡ òa niềm vui khi từng con tàu cập bến. Cánh đàn ông nói cười rôm rã,
nhảy vội lên bờ chọn vài con cá, con mực tươi ngon biếu người thân, chòm xóm,
rồi mới bán cho thương lái. Tình người miền biển là vậy dù cuộc mưu sinh lắm
nỗi nhọc nhằn. Tính cách họ phóng khoáng, ầm ào như sóng gió đại dương.
Lúc đầu, cha Thể lấy làm lạ vì cái kiểu ăn nói cộc lốc ở đây.
Dần dần, ông nghiệm ra đó là đặc trưng văn hóa của người miền biển. Bởi ngoài
khơi xa, giữa tiếng sóng gió ồn ào, người đầu thuyền, kẻ cuối thuyền, đã quen
ăn to nói lớn. Nên họ mới có biệt danh là người “ăn đầu sóng, nói đầu gió”. Họ
cục mịch nhưng chân thành, thô cộc mà nhân ái bao dung. Có thể ít học,
nhưng người ngư dân vùng này vẫn luôn cậy dựa, phó thác vào Chúa.
Sống cùng ngư dân, cha mới biết, những cơn bão biển là nỗi ám
ảnh triền miên đối với họ. Chỉ khi tận mắt chứng kiến, người ta mới hiểu
hết sức tàn phá khủng khiếp của bão và càng thấm thía nỗi mất mát, đau
thương khi cơn bão đi qua. Ngày bão giông, biển đổi màu đen sậm. Trên cao, dọc
ngang những vệt sấm chớp ngoằn ngoèo như xé nát bầu trời xám ngắt. Bên dưới,
từng đợt sóng to hất tung mọi ghềnh đá. Cây cối trên bờ rạp mình nghiêng ngã.
Biển cuồng điên, vẫy vùng đến nỗi xoá nhoà cả khoảng không tưởng chừng vô tận
giữa trời với nước. Biển nuôi dưỡng, vun đắp nhưng cũng huỷ diệt sự sống. Biển
đưa người đi và trong một ngày giông tố biển đã không đưa người trở về. Biển mở
rộng vòng tay đón nhận con người rồi cũng chính biển xiết chặt, vùi sâu con
người dưới lòng đại dương sâu thẳm. Mỗi cơn bão đi qua, nhiều nỗi đau để lại.
Những tiếng khóc thê lương giữa cảnh hoang tàn, đổ nát. Cha mẹ khóc con, vợ
khóc chồng và cả tiếng khóc ngơ ngác của nhiều đứa trẻ chưa kịp hiểu hết hai
tiếng mồ côi. Sau cơn bão, bãi biển trở thành bến đợi. Nơi chờ mong những cuộc
trở về. Để rồi khi thời gian không còn đủ cho những đợi chờ cũng là lúc bãi
tha ma cuối đảo xuất hiện thêm nhiều ngôi mộ gió. Và bao đời, biển vẫn thế.
Nhưng hôm nay, cha Thể đang nghĩ đến cơn bão khác. Một cơn bão
đang từng ngày, từng giờ phá nát sự yên bình, làm thay đổi tận gốc cuộc sống
nơi đây. Cuộc gặp mặt giữa ông và người khách lạ vừa rồi đã nói lên điều đó.
Đúng như những lời đồn đoán, người phụ nữ kia đã tới tìm ông bằng cái kiểu của
kẻ lắm bạc, nhiều tiền. Bà đại diện một tập đoàn nước ngoài với dự án xây dựng
resort năm sao trên đảo. Chỉ trừ khuôn viên nhà thờ, còn lại bao nhiêu đất đai,
nhà cửa từ bãi dài đến sát chân núi đã bị bà thâu tóm nhanh gọn trong vòng hai
tháng. Cha sợ đến ngày ngôi nhà thờ duy nhất trên đảo cũng bị bứng đi nhường
chỗ cho các dự án du lịch. Bởi ông hiểu câu nói cửa miệng người đời: Cái gì không mua được bằng tiền sẽ được mua
bằng rất nhiều tiền.
Cơn sốt đất đã khiến nhiều gia đình bất ngờ trở thành tỉ phú. Bi
đát ở chỗ cuộc sống giàu sang đến với họ chỉ thoáng qua như một giấc mơ. Nhiều
ngư dân cả đời tần tảo, sống yên lành bên vườn dừa, bãi cát thì nay chỉ trong
chớp mắt được khoác lên người chiếc áo tỉ phú. Nhưng cùng lúc đó họ phải rời xa
nơi mình sinh sống. Thêm một tỉ phú thì cũng thêm nhiều người trong gia đình
mất đất, bỏ nghề. Ai cũng thấy, tiền có được từ trúng đất còn gấp nhiều lần
trúng số. Giờ đi trên đảo dễ dàng bắt gặp anh thợ hồ, chị bán cá hay ông
xe ôm đã từng biết qua cảm giác làm tỉ phú. Nhiều người cầm tiền tỉ trong tay
nhưng chẳng biết làm gì với số tiền vượt quá tầm quản lý của họ. Bán đất dễ
lắm, đến lúc cầm tiền rồi thì khó mà mua lại được miếng khác trên đảo.
Số tiền bán đất cũng mang đến nhiều bất ổn cho các gia đình
Công giáo. Tiền bạc thêm nhiều càng dễ làm người ta thêm bạc tình, bạc nghĩa.
Họp ban hành giáo, tháng nào cha Thể cũng phải phân xử đủ loại kiện tụng. Hầu
như tệ nạn nào cũng có người Công giáo góp mặt tham gia. Chính ông cũng không
ngờ cuộc sống của bà con giáo dân giờ phức tạp, rối rắm đến vậy. Như chuyện nhà
Hai Tân ở bãi Giữa, bán đất xong, con cái lao vào bài bạc. Chơi trên đảo chưa
đã tay, thằng con ôm tiền qua Campuchia nướng tiếp vô casino. Tới lúc thua hết,
nó tự cầm mạng mình lấy tiền gỡ gạc. Cuối cùng ông Hai Tân phải vác nửa tỉ
bạc đi chuộc thằng quý tử về. Rồi vụ Ba Xê cũng ở gần đó, cầm mấy chục tỉ
tiền bán đất lao vô nhậu nhẹt, đá gà, cá độ rồi bỏ vợ, đi theo con nhỏ tiếp
viên đáng tuổi con cháu vô đất liền. Nhưng điều làm cha Thể đau lòng nhất là
chuyện nhà bà Bảy Châu. Bán hai công đất nghe đâu được vài chục tỉ. Tiền chưa
tới tay, mấy thằng con đã nhào vô tranh chấp, vác mã tấu rượt nhau rần rần.
Con không cha như nhà không nóc, ông Bảy mất tích sau trận bão lớn, giờ một
mình bà khóc cạn nước mắt nhìn cảnh huynh đệ tương tàn. Cũng mấy lần cha Thể
ghé qua thu xếp, giảng hoà nhưng đều thất bại. Rượu vào lời ra, ông cha chưa
kịp bước qua cổng tụi nó đã văng tục chửi rủa. Có lần thằng Trọng, đứa lớn
nhất, xách dao rượt ông và ban hành giáo chạy mất dép vì dám xía vô chuyện gia
đình tụi nó. Đưa ra chính quyền chỉ phạt hành chính rồi cho về. Người ta giải
thích, đó mới là hăm doạ thôi chứ chưa gây án nên không thể bắt giam hay đưa đi
cải tạo. Nhưng cha Thể vẫn thấy lo lắm vì từ lúc rủng rỉnh tiền bạc, tụi nó bắt
đầu tập tành hút hít. Khi bị kích động của ảo giác, ai dám chắc không xảy ra án
mạng.
Mỗi tuần cha Thể đi dâng lễ ở các giáo điểm rải rác trên đảo. Càng
đi, cha càng tiếc nuối vì đảo không còn xinh đẹp và bình yên như ngày xưa nữa.
Chỉ sau một tuần, những nơi ông đến đều thay đổi đến mức không còn nhận
ra. Ngày càng xuất hiện nhiều hơn những cánh rừng bị phá nát, phân lô chờ đền
bù, giải toả. Có cầu thì ắt có cung, nhiều băng nhóm “giang hồ đất” cát cứ
từng vùng để giải quyết chuyện tranh chấp, mâu thuẫn đất đai theo kiểu xã
hội đen. Đảo khá xa đất liền nên là nơi ẩn náu lý tưởng của đủ loại tội phạm.
Những thứ xưa nay hiếm giờ nhan nhãn khắp nơi: lừa đảo, trộm cắp, cướp giật,
đâm chém, ma tuý, đĩ điếm…
Người ta đang khai thác đến cạn kiệt mọi thứ tài nguyên nơi đây
với lý do làm du lịch. Chỗ nào cũng thấy rác, cả hòn đảo ngập ngụa trong rác.
Khi thuỷ triều xuống, dọc bãi biển rác rến tràn lan. Bao nhiêu nước thải đều
tống thẳng ra biển tạo nên những dòng chảy đen ngòm, tanh tưởi. Mấy năm gần
đây những hàng phi lao ven biển đã bị đốn sạch để dọn đường cho nhiều bãi tắm
cao cấp, resort đắt tiền. Lợi ích chưa thấy đâu nhưng hậu quả mà người dân đảo
phải gánh chịu thì nhiều vô kể. Những hàng phi lao dày đặc trước kia là bức
tường xanh che chắn sóng gió mỗi mùa giông bão, giờ thì chỉ một cơn gió cũng đủ
làm cát biển bay mịt mù vô tận làng trên, xóm dưới. Cũng vì không còn những
hàng phi lao nên mỗi năm biển xâm thực càng sâu vào bên trong đảo. Mỗi cơn bão
đi qua, bờ biển lại thêm nham nhở, tan hoang.
Lúc chiều, gia đình Hai Tân tới chào cha trước lúc đi xa. Gặng
hỏi mãi, mới biết cả nhà khăn gói vô đất liền làm mướn kiếm sống. Họ ra đi âm
thầm không cho ai biết vì ngại ngùng, xấu hổ. Mới ngày nào còn mang danh tỉ
phú, giờ đất cát không còn, nghề ngỗng cũng không. Cha Thể tự hỏi, sẽ đến lượt
ai nối gót họ tha phương cầu thực trong những ngày sắp tới.
Bất chợt, đằng xa vẳng lại những tiếng la thét hoảng loạn. Tiếng
bước chân mỗi lúc một gần. Ông trùm Nam chạy vô nhà xứ với nét mặt hớt hãi, tái
mét:
- Thưa cha, thằng Trọng vừa đâm chết bà Bảy. Người ta nói nó xài
ma tuý đá nên hung hăng lắm, không ai dám nhào vô!
Cha Thể cảm giác rụng rời tay chân. Điều ông lo sợ lâu nay đã
đến, con chiên của ông đã thật sự bán mình cho quỷ. Bàn tay thằng Trọng đang
vấy máu chính người đã cưu mang, nuôi dưỡng nó. Tiếng súng vang lên chát chúa,
hình như công an bắn chỉ thiên để trấn áp. Ông Nam giật mình lắp bắp:
- Vậy Cha có xuống xức dầu cho bà Bảy hay giải tội cho nó trước
lúc vô tù không, thưa Cha?
Cha Thể im lặng hồi lâu rồi thở dài lên tiếng:
- Chắc không cần đâu. Bà Bảy chết rồi. Còn nó lúc này ý thức
được gì đâu mà xưng với thú. Chỉ cầu xin Lòng Thương Xót Chúa hoán cải và tha
thứ cái tội tày trời của nó!
Cha Thể bước ra sân, những cơn gió lạnh thấu xương thổi ào ạt
như muốn cuốn lấy, quật ngã ông. Ngoài xa từng con sóng đen ngòm nối tiếp nhau
tạo nên nhiều hình thù kỳ dị, ma quái phủ cao, dựng đứng rồi đổ ập tung toé
lên tận thềm nhà thờ. Bão đã vào bờ.
Mã số: 16-020
- Út à, đi gặp ba không? Ba đang chờ ngoài cồn cát đó.
Anh Hai nói khẽ, cố không để cho má và bà nội nghe. Hai tuần
hoặc một tháng, tôi chờ mong ba muốn thăm chúng tôi, đứng ngoài cồn cát, chờ
chúng tôi ra khỏi nhà để chạy đến bên ba. Bao lâu rồi ba không sống chung với
chúng tôi nữa?
Người lớn có những vấn đề phức tạp mà trẻ nhỏ không thể nào giải
thích được. Chính người lớn cũng không giải thích được. Ba tôi là một thầy giáo
ở trường học, là một giáo lý viên ở nhà thờ. Ba và mẹ có một cuộc hôn nhân theo
luật Chúa, sống hạnh phúc, có hai đứa chúng tôi. Nhưng một ngày ba mở trang
trại bò ở một làng dân tộc, nuôi bò kiếm thêm thu nhập để lo cho chúng tôi ăn
học. Ba bén duyên với một phụ nữ dân tộc chăn bò cho trang trại của nhà chúng
tôi. Tự dưng tôi có thêm một em gái. Mẹ tôi đã quậy ba tan nát. Sự căm thù của
một người đàn bà mất chồng, dù đã kết hôn theo luật Chúa và luật đời thật cay
nghiệt. Mẹ tôi đẹp hơn người phụ nữ dân tộc đó, cao sang hơn và có tình có
nghĩa với đời ba hơn. Chính mẹ đã đẻ cho ba hai đứa con, chăm sóc nội, dành hết
niềm tin, tình yêu, hy sinh của mình vào vai trò làm vợ, làm mẹ, làm con dâu.
Vậy mà ba lại lạc lòng, lạc đạo Chúa và luật đời, đi dan díu tình cảm với một
phụ nữ dân tộc thấp hèn, không có gì trong tay.
Những ngày đó thật đáng sợ. Nhà tôi toàn là tiếng chửi rủa và
nước mắt. Mẹ và bà nội thi nhau chửi rủa ba. Chính bà nội đã từ mặt ba, đuổi ba
ra khỏi nhà. Nội tuyên bố tài sản của nội sẽ trao cho hai đứa cháu chứ không
còn trao cho ba nữa. Ba rời bỏ trường học, rời bỏ nhà thờ. Ba sống cùng người
phụ nữ dân tộc trong trang trại bò cách khá xa khu dân cư và rất xa làng tôi.
Từ một thầy giáo ba trở thành kẻ chăn bò. Từ một con chiên ngoan đạo ba trở
thành một con chiên lạc. Ba không có lối về hay không muốn về?
Không có ba tất cả chúng tôi đều buồn. Nhớ lắm. Đêm nào mẹ và
nội cũng khóc. Nội nhớ con, mẹ nhớ chồng. Chúng tôi cũng rất nhớ ba.
Ba biết mình có lỗi với chúng tôi. Nhưng làm sao về? Về là cơn
đau của mẹ lại trỗi dậy. Ghen tuông, cay đắng, uất ức cứ tuôn ra. Tình yêu khi
êm đềm là liều thuốc bổ nhưng khi làm nhau đớn đau chẳng khác nào thuốc độc.
Còn yêu đó mà không thể nhìn nhau, không thể tha thứ cho nhau. Tha thứ làm sao
đặng khi bên này có hai đứa con mà bên kia cũng có một đứa bé. Chúa kêu tha thứ
bảy mươi lần bảy. Nhưng tha thứ trong trường hợp nào? Có tha thứ được khi người
này làm con tim người kia tan nát hay không?
Ba không về nhà. Có về cũng bị nội lấy chổi đuổi như đuổi tà. Mẹ
cũng không nhìn mặt. Nên cứ hai tuần, có khi một tháng, lâu hơn thì hai tháng.
Ba lần mò về làng cũ, đứng ở cồn cát, nhắn với một người quen. Trời chạng vạng
tối, hai anh em tôi nắm tay nhau chạy ra khỏi con đường làng, hai bên bụi tre
chằng chịt, vừa sợ ma vừa sợ bóng tối nhưng không ngăn nổi sự nôn nao, hạnh
phúc khi gặp ba mình. Qua hết bụi tre là ra cồn cát. Cát mênh mông, từng ụn,
từng ụn kéo nhau tít tắp phía chân trời. Nghĩa trang của làng chúng tôi và làng
bên cũng ở gần cồn cát. Nghĩa trang đạo của làng tôi hướng đông, có cây thánh
giá nơi cổng vào. Nghĩa trang làng bên hướng tây ngược lại với làng tôi- dân
ngoại. Chiều chạng vạng rất ít người ra cồn cát. Nên nhìn thấy cái dáng đứng cô
đơn trên cồn cát anh em tôi biết đó là ba. Chúng tôi chạy ào tới, ôm lấy ba,
vùi đầu, vùi mũi vào người ba, áo ba, hít lấy hít để cho thỏa nỗi nhớ có ba mà
không có ba. Gặp ba lần nào ba cha con cũng khóc. Hỏi nhau: “Nội có khỏe không?
Mẹ con có khỏe không?”, “ba có khỏe không?”. Khóc váng lên trên cồn cát buồn.
Những cuộc gặp của cha con chúng tôi diễn ra trên cồn cát vào
những buổi chiều chạng vạng. Lần gặp nhau nào cũng bịn rịn. Tôi còn nhỏ nên
không hiểu cuộc đời, cứ hỏi Chúa tại sao con có ba mà không được sống cùng ba?
Sao Chúa không cho con có ba luôn, ở cùng ba luôn? Nhưng Chúa không trả lời.
Lòng tôi và anh tôi đã buồn đến vậy, lòng nội tôi, mẹ tôi càng
buồn hơn. Mẹ càng ngày càng ít nói, khóc nhiều, già và suy sụp hơn. Mẹ căm thù
ba nhưng vẫn nhớ con người làm cho mẹ đau đớn, bẽ bàng. Còn nội, muốn tha thứ
cho ba nhưng thấy tội con dâu quá. Nó đã gắn cuộc đời nó cho nhà chồng, hy sinh
hết mình. Vậy mà thằng con mình còn làm nó khổ, sao nội dám tha thứ cho thằng
con?
Những ngày chủ nhật, nội dắt hai anh em tôi đi lễ. Trong nhà thờ
nội nói nhỏ với tôi:
- Con và nội cùng cầu nguyện cho ba con trở về nghe.
- Còn người phụ nữ kia và đứa bé thì sao hả nội?- Tôi hỏi.
Nội im lặng, mắt nhìn thánh giá Chúa, thở dài.
Đã mấy tháng rồi, chúng tôi không gặp ba. Chao ôi là nhớ! Lâu
nay ba toàn là người chủ động thăm chúng tôi. Chúng tôi đâu có biết ba ở đâu mà
đến? Nhưng mấy tháng rồi ba không thăm chúng tôi. Lẽ nào ba quên các con của ba
rồi?
Hai anh em tôi lén gặp một người chú quen trong làng, hỏi chỗ ở
của ba. Đi học về, trưa nắng, anh đạp chiếc xe chở tôi đi thăm ba.
Đạp xe gần hai tiếng đồng hồ, hỏi thăm nhiều người, hai anh em
chúng tôi cũng tìm được nhà của ba và người phụ nữ dân tộc. Chỉ tìm được nhà
thôi chứ trang trại bò thì xa quá, ở đâu tận trên núi nên hai anh em tôi không
đến được. Vào nhà, chúng tôi thấy đứa nhỏ- con ba và cũng là đứa em của chúng
tôi. Ba tôi ở luôn trên trang trại. Buổi sáng dì nấu ăn cho em, rồi tất tả lên
núi với ba. Em ở lại làng ăn cơm, đi học, chiều tối dì mới về. Em khá hiền và
sợ sệt khi nhìn thấy hai anh em tôi.
Trong nhà có treo thánh giá và có bàn thờ để tượng Đức Mẹ. Thì
ra dù không còn là con chiên “ngoan” ba tôi cũng không bỏ đạo. Em tôi cũng đã
được rửa tội, nhưng do luật Chúa không cho ba ly hôn nên ba và dì vẫn không kết
hôn được ở nhà thờ.
Biết chúng tôi là con ba, là anh, chị của em nên em đã mạnh dạn
nói chuyện và cười đùa với chúng tôi. Trời đã chiều, phải quay về nhà, nên hai
anh em tôi phải tạm biệt em và đèo xe về. Em đứng ở thềm nhà, ôm cây cột, mắt
buồn bã tiễn hai anh em tôi. Đáng lẽ tôi phải ghét em- đứa nhỏ cướp ba của mình
mà tôi chỉ thấy tội em thôi. Tôi thiếu ba nhưng có mẹ và nội ở bên. Còn em, cả
ngày thiếu cả ba và mẹ. Tôi thấy tội và thương em. Trước khi đi tôi hỏi em tên
thánh gì? Mắt em long lanh nói: “Maria”.
Mẹ tôi cũng biết hai anh em tôi cả gan đạp xe mấy chục cây số để
đi thăm ba. Nhưng mẹ không nói gì. Mẹ giống nội, lần chuỗi cầu nguyện hàng đêm
nhưng không biết phải cầu thế nào cho phải? Cầu cho chồng quay về. Còn người
phụ nữ kia, đứa bé kia? Rồi quay về hai người có hạnh phúc như xưa không? Hay
vẫn đớn đau, tức giận khi phải nhìn thấy mặt nhau? Vậy thì cầu nguyện làm sao
cho hợp?
Chúng tôi chờ ba đến thăm như nắng hạn chờ mưa. Gần cả năm rồi
ba không đến thăm chúng tôi. Chiều chạng vạng tôi mong ước bao nhiêu giây phút
được chạy ra khỏi nhà, chạy như bay qua con đường mòn đầy tre, leo lên cồn cát
lún, gặp cái dáng ba đứng trên còn cát buồn. Úp mặt vào người ba để nghe mùi
ba. Bây giờ tôi mới hiểu phần nào nỗi buồn của mẹ. Nỗi buồn khi thiếu vắng
người mình thương yêu. Một nỗi buồn bất lực khi mình là người phải chờ đợi chứ
không được chủ động có được người yêu thương ấy.
Có một chiều mưa, làng tôi và làng bên cùng có đám tang. Đứng ở
sau nhà, chúng tôi ngóng lên cồn cát, nhìn hai đám rước đi về hai nghĩa trang
khác nhau. Hai đám rước đi song song cùng nhau. Một đám về nghĩa trang của
Chúa, một đám về nghĩa trang của đời. Hai linh hồn. Hai niềm tin khác nhau. Họ
đi trong chiều mưa buồn.
Tôi nhìn cồn cát trong mưa thèm biết bao trong đoàn người đi ấy
có dáng ba tôi. Chẳng còn sợ mẹ, tôi sẽ chạy lên kêu ba, dụi đầu vào ba, khóc
thật to cho thỏa nỗi nhớ ba. Mẹ đứng sau lưng tôi từ lúc nào. Mẹ cũng nhìn lên
cồn cát. Ánh mắt vô vọng, buồn buồn.
Một buổi tối, hai anh em tôi đi nhà thờ về nhìn thấy một người
phụ nữ lạ mặt ở trong nhà mình. Đó là dì- mẹ của đứa em gái tôi. Tôi chưa từng
gặp dì nhưng nhận ra dì nhờ những nét mà em giống dì. Dì quỳ xuống chân nội
tôi, mẹ tôi và khóc. Nội và mẹ cũng khóc. Hai anh em tôi đứng chết lặng khi
người lớn cuống quýt, ồn ào. Trong cái đám hỗn loạn than khóc đó tôi cũng òa
khóc thật to khi nghe tin ba tôi đang hấp hối. Trước khi mất ba nhờ dì về báo
với nội và mẹ, xin được gặp linh mục trước khi nhắm mắt.
Cả gia đình chúng tôi chở nhau đi trong đêm tối buồn. Ba nằm hấp
hối trong nhà dì, tay quấn tràng chuỗi mân côi. Giờ phút ba hấp hối mọi nỗi đau
buồn của tình cảm đều phải gác qua một bên, chỉ còn giây phút tiễn biệt. Nội,
mẹ, dì và ba đứa con ba đều nắm tay ba và khóc. Tiếng đọc kinh vang dậy căn nhà
nhỏ. Trong nhà chúng tôi còn có những người hàng xóm của ba và dì. Họ đều là
người dân tộc, họ không có đạo nhưng cũng đứng đó nghiêm trang cùng chúng tôi
tiễn biệt người thân, buồn với nỗi buồn của gia đình chúng tôi.
Tôi vô cùng sợ hãi. Sao ba tôi lại nằm đó? Sao ba không được
sống thêm? Cuộc đời tôi đã thiếu vắng ba rồi lẽ nào bây giờ mất ba luôn sao? Ba
nằm nhắm mắt nghe chúng tôi đọc kinh, nhận dầu thánh từ tay linh mục. Nước mắt
chảy tràn trên đôi mắt ba. Và ba đi như thế. Rất bất ngờ, rất nhanh trong một
buổi tối buồn.
Khi ba còn sống, do lỗi lầm tình cảm ba không được trở về nhà.
Mà chắc ba cũng chọn cách không trở về. Trở về là những nỗi đau sống dậy. Là
cảm giác thua cuộc, là đay nghiến, là hành hạ nhau bằng cả cuộc đời còn lại. Đã
lạc đường rồi nên ba lạc luôn, cứ theo con đường mới mà đi, trúc trắc trở ngại
thì ba chịu, ba biết, sinh bệnh tật ba cũng nhận luôn. Nhưng khi mất, ba được
trở về, được cầu nguyện trong nhà thờ, được chôn trong nghĩa trang đạo Chúa ở
làng chứ không phải là một ngôi mộ nằm lẻ loi trên núi. Dì cũng muốn ba trở về,
dù biết ba chôn trong nghĩa trang đạo Chúa thì dì sẽ xa ba mãi mãi. Vì dì theo
tộc người Raglai, khi chết sẽ chôn trong rừng và sẽ được người thân làm lễ bỏ
mả. Sau khi làm lễ bỏ mả, theo tín ngưỡng của người Raglai, linh hồn sẽ cắt đứt
với người thân, họ hàng, sẽ ở luôn thế giới kia, không quay về nữa. Còn linh
hồn con chiên của Chúa lại được quay về thế giới này trong mỗi thánh lễ nguyện
cầu.
Ở trần gian dì có ba một quãng đường, nhưng khi mất, linh hồn dì
và ba lại khác đường với nhau bởi phong tục và tín ngưỡng. Người ba nằm bên sau
này lại là nội, là mẹ, chứ không phải là dì. Nhưng vì nguyện vọng của ba, dì
chấp nhận. Linh hồn ba đã trở về với chúng tôi.
Đám tang không trúng ngày mưa nhưng rất buồn. Chúng tôi đi rước
ba qua cồn cát, qua chỗ ngày trước ba lén lút chờ gặp chúng tôi trong chiều
chạng vạng để hỏi mọi người trong gia đình thế nào? Giờ ba cũng đang đi qua nơi
chốn đó.
Sau khi ba mất, mỗi khi đến thánh lễ cầu nguyện cho ba dì lại
dẫn đứa em tôi đến nhà thờ. Gia đình tôi: nội, mẹ, hai anh em chúng tôi và hai
mẹ con của dì lại đứng cùng nhau trong một nhà thờ. Ba đã mất, nỗi đau bị chồng
phản bội của mẹ cũng đã chai sạn, nhưng đứng cùng tình địch trong một thánh lễ
hẳn là mẹ tôi cũng buồn nhiều. Nhưng dì cũng là người của ba. Người của nhau,
cầu nguyện cho nhau là điều hợp lí. Tình cảm con người phức tạp quá. Chúa đến
thế gian để cứu con người khỏi khổ ải. Nhưng con người khổ ải vì điều gì? Bệnh
tật, miếng cơm manh áo, hay những rối ren đau buồn vì chuyện tình cảm tréo
ngoe? Rồi Chúa lại bảo nên tha thứ nhưng tha thứ cho ai? Kẻ thù của ta là ai?
Là người chống ta, ghét ta, làm điều xấu cho ta hay là người ta thương, ta yêu,
từng yêu ta nhưng rồi làm ta đau khổ? Xác định kẻ thù thật không dễ. Sao kẻ thù
lại là người ta yêu được?
Dì và em tôi xuất hiện trong nhà thờ, trong những thánh lễ của
ba rồi đi đâu mất hút. Sau này chúng tôi không còn gặp lại dì và em. Khi chúng
tôi lớn, tôi và anh tôi có chở nhau đến ngôi nhà xưa để thăm hai mẹ con dì
nhưng hàng xóm cho biết hai mẹ con dì đã bỏ đi từ lâu.
Hai mẹ con dì đều theo đạo Chúa của ba. Nhưng ba mất rồi, theo
thời gian và phong tục khác nhau, không biết dì và em có giữ đạo? Nếu dì mất,
không biết dì được chôn cất theo đạo Chúa hay theo tín ngưỡng, phong tục của
người Raglai? Chôn trên núi và được làm lễ bỏ mả.
Còn mẹ tôi, giờ đã già nhưng vẫn giữ một nỗi đau buồn trong tim,
chưa tha thứ được. Có lúc mẹ tha thứ, có lúc mẹ lại căm giận. Giận người đã
phản bội mẹ và biến mẹ thành một người đàn bà tội nghiệp, thua cuộc, không còn chút
niềm tin vào hạnh phúc. Chiều chiều, mẹ đứng ở sau nhà, nhìn lên cồn cát. Nhìn
bọn trẻ con chạy đuổi nhau trên cát, nhìn những đám tang đi qua. Rồi mẹ nhìn
trân trân vào một chỗ mà tôi cũng không hiểu vì sao mẹ biết chỗ đó mà nhìn? Đó
là chỗ ba đứng khi ba lén lút đến thăm chúng tôi.
Mẹ nhìn trân trân chỗ chồng mình lén lút gặp hai đứa con mình.
Rồi mẹ ngồi, tay run run lần chuỗi, đôi mắt mờ đục ngước về hướng ấy. Mẹ cầu
cho người đàn ông ấy lên thiên đàng, hay cầu cho nội giờ cũng đã nằm ở nghĩa
trang?
Chúa tạo ra con người từ cát bụi rồi con người trở về cát bụi.
Nhưng hành trình ấy nào có được thẳng thớm, êm đềm? Người này gây khổ cho người
kia, người kia buồn khổ vì người nọ. Hận thù nhau, không tha thứ cho nhau. Trở
về cát bụi những linh hồn có biết tìm nhau để xoa dịu những đau buồn? Ai cũng
tưởng người kia còn sống mãi cho đến một ngày, nhắc về người đó chỉ còn là hạt
bụi bay trong trời mà thôi. Ba, nội giờ đã thành cát bụi. Dì cũng mất hút. Mẹ
đã già, chiều chiều ngồi lần chuỗi thanh thản chờ ngày trở về với Chúa. Ngày mẹ
cũng trở thành một hạt bụi, hòa vào đám bụi trên cồn cát kia. Hạt bụi nào cũng
giống nhau dù khi còn là xương thịt, đời sống khác nhau vô cùng…
Mã số: 16-022
Nghe tin ông Ba Khỏe xuất viện về lúc trưa, sau giờ kinh Lòng
Chúa Thương Xót, Cha xứ và các ông bà trong hội Lòng Chúa Thương Xót vội đến
thăm ông.
- Chào ông Ba, ông Ba đã khỏe nhiều chưa?
- Con cám ơn Cha. Thưa Cha, con khỏe ạ, không những một khỏe mà
tới Ba Khỏe!
Mọi người đều cười trước sự dí dỏm của ông. Cha xứ thắc mắc:
- Sao ông Ba phát hiện mình bị tai biến mà đi bệnh viện kịp thời
vậy?
- Thưa Cha, nhờ Chúa thương chứ con không biết. Con tạ ơn Chúa
quá lẽ, nếu con ở nhà chắc tiêu rồi, bằng không thì cũng bán thân bất toại chứ
chẳng được vầy đâu. Tuần trước con đi thăm vợ chồng thằng Tư trên tỉnh. Ngày
Chúa Nhật vợ cháu ở nhà không đi trực bệnh viện. Cũng tầm giờ này, con đang
ngồi lần chuỗi Lòng Chúa Thương Xót thì tràng chuỗi trượt khỏi tay. Con khom
xuống lượm nhưng sao bàn tay không có cảm giác và không điều khiển được. Con
với mấy lần mà chẳng nhặt được tràng chuỗi. Cháu chạy lại nhặt đưa cho con, con
cầm tràng chuỗi nhưng rồi lại rớt. Cháu ngước lên nhìn thì thấy miệng con méo
xệch, liền hỏi:
- Ba có sao không?
- Ba thấy hơi choáng.
Cháu liền đỡ con nằm dài xuống sàn nhà, rồi gọi xe cấp cứu đưa
con vào bệnh viện. Tạ ơn Chúa, nhờ kịp thời nên con mới được như hôm nay.
Mọi người nói chuyện vui vẻ và cùng tạ ơn Chúa với ông. Tiễn khách
ra về, ông Ba nghe đứa cháu nội nói với đứa bạn hàng xóm đang chơi trước sân
nhà:
- Thôi! Tha cho nó đi, vì thầy tớ dạy thế.
- !!!
- Vì thầy tớ dạy thế!
Ông Ba chợt nhớ lại chuyện xưa, cũng nhờ câu nói:” Thầy tớ dạy
thế!” mà ông được nhận biết và theo Chúa cho tới hôm nay.
***
Hồi đó, ông Ba mười bảy tuổi được nhà nước tuyển quân đi bộ đội.
Trại quân đợt ấy khoảng hơn một trăm người, có một anh đạo Chúa tên Tâm, thân
ốm ròm mà việc gì cũng xông xáo, ai nhờ gì liền mau mắn giúp bất kể mưa nắng
hay đêm khuya. Lần kia anh Ba hỏi:
- Sao chuyện gì anh cũng vơ vào làm chi cho vất vả, bọn họ đang
lợi dụng anh đấy?
- Vì Thầy tớ dạy thế. Mình cứ sống yêu thương và nghĩ tốt cho
mọi người sẽ thấy vui trong lòng lắm!
Đang thời chiến sự gay gắt, chỉ nhà nào khá giả mới có đồ tiếp
tế. Hàng tháng nhận được gì là anh đem chia hết cho những anh nghèo. Anh Ba hỏi
thì anh lại trả lời:
- Vì Thầy tớ dạy thế. Mình đâu biết sống chết lúc nào, vả lại
lúc chết cũng bỏ lại hết, chỉ có tình thương là mang theo được mà thôi.
- Thầy anh là ai mà nghe nhắc hoài vậy?
- Đó là Thầy Giêsu.
Anh ta lấy trong ví ra tấm ảnh một người đàn ông trạc ba mươi
tuổi. Nhưng cái lạ là trước ngực người ấy có hình trái tim chiếu sáng, bên dưới
ghi hàng chữ:” Đối nội vô tâm giả, đối ngoại hữu kỳ tâm”. Anh Ba thắc mắc:
- Ủa, trái tim không để ở trong mà để ở ngoài thì sống làm sao?
Nghĩa đen thì như vậy,
nhưng ẩn ý muốn nói rằng: Mình đừng sống cho mình mà hãy sống cho người khác.
Đây, anh xem Thầy nói này!
Anh ấy lật phía sau bức ảnh cho anh Ba xem. Anh Ba lẩm nhẩm đọc:
- “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người hy
sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.
- Thầy đã nói và đã sống như thế nên tớ muốn noi theo cách sống
của Thầy.
- Sống như vậy có khờ dại quá không?
- Khi nào anh sống theo Lời ấy, anh sẽ cảm được niềm vui và hạnh
phúc như tôi.
Từ đó, anh Ba thấy mến và muốn noi theo cách sống của anh. Năm
sau anh Ba bị bệnh sốt xuất huyết rất nặng. Lúc ấy, chưa có thuốc đặc trị như
bây giờ nên anh Ba chỉ còn nằm chờ chết. Thấy mình yếu sức dần anh Ba hoảng
loạn gào lên:
- Lạy ông Thầy Giêsu của thằng Tâm, xin ông cứu tôi với!
Anh Tâm đoán có lẽ anh Ba không qua khỏi, liền lấy nước rửa tội
cho anh. Đêm đó, anh Ba mơ thấy Chúa Giêsu có trái tim hiện đến nói với anh:”
Ta sẽ chữa cho con!”. Sáng ngày anh Tâm đến thăm mang theo tấm hình Thánh Tâm
đưa cho anh Ba và hỏi:
- Anh có tin là Thầy Giêsu sẽ chữa lành cho anh không?
- Tin. Tôi tin!
Rồi anh Ba kể cho anh Tâm nghe giấc mơ đêm qua. Quả thật, Chúa
đã chữa cho anh Ba và anh được khỏe lại trước sự ngạc nhiên của các bác sĩ. Từ
đó, anh Ba luôn mang theo tấm ảnh Thánh Tâm Chúa bên mình. Mấy tháng sau, anh
Tâm qua đời trong một đợt hành quân. Mọi người trong trại đều khóc thương anh.
Xuất ngũ về, anh Ba xin học đạo và giữ đạo rất sốt sắng. Anh siêng
đi lễ và đem Lời Chúa áp dụng vào cuộc sống theo gương anh Tâm:” Thầy tớ dạy
thế”. Anh Ba cầu xin và Chúa cho anh cưới được một cô vợ trong xứ đạo đẹp
người, đẹp nết. Hai người sống bên nhau rất hạnh phúc. Anh Ba thầm tạ ơn Chúa
vì ân ban này. Nhưng được hơn một năm thì chị qua đời, do đi làm vườn cuốc phải
quả mìn. Bên họ hàng nhà anh nói: ”Tại anh theo đạo Chúa, phụ bạc Ông Bà tổ
tiên nên bị quở”. Anh Ba âm thầm cam chịu, một lòng tin tưởng phó thác vào
Chúa.
Sau khi mãn tang vợ, nhờ người mai mối, Chúa lại cho anh Ba Khỏe
gặp được cô gái khác cũng có đạo và nết na, đức hạnh, giỏi giang không kém gì
cô trước. Cô sinh cho anh mười đứa con: năm trai, năm gái, trong đó có bốn đứa
bị câm điếc do di chứng chất độc của chiến tranh. Họ hàng nhà anh lại tiếp tục
xầm xì:” Tại anh theo đạo Chúa không lo hương khói cho Ông Bà tổ tiên và Cha Mẹ
nên phải lãnh hậu quả của sự bất hiếu”. Còn anh chị Ba thì luôn tạ ơn Chúa vì
bốn đứa ấy bị khuyết tật, nhưng trí não chúng vẫn bình thường để học biết Chúa.
Các con anh Ba đứa nào cũng ngoan ngoãn, lễ phép, mọi người trong xứ ai cũng
mến thương. Chỉ có thằng Tám là ham chơi, lười học chẳng chịu nghe lời cha mẹ,
mặc cho bao lời răn dạy kể cả phạt đòn. Bốn đứa khuyết tật thì anh Ba gởi vào
trường nội trú của các Sơ để chúng học đạo, học chữ và học nghề theo phương
pháp riêng. Còn mấy đứa ở nhà, sáng nào cũng theo cha mẹ đi lễ.
Có một chuyện mà giờ nhớ lại anh Ba còn thấy tức cười và tạ ơn
Chúa. Sáng hôm đó, cả nhà thức dậy đi lễ như mọi ngày. Cô gái lớn của anh ở nhà
nấu cơm cho các em ăn sáng để đi thi. Chị Ba đang lo đốt đuốc thì hai đứa nhỏ
lanh chanh chạy trước. Mới bước qua bờ rào, đứa đi trước vấp phải vật cản té
nhào, chúng la ỏm tỏi:
- Cha mẹ ơi, nhanh ra xem cái gì nằm giữa đường này!
- Cái gì mà la om sòm vậy, hàng xóm còn đang ngủ đó?
- Ai để đồ ở đây này!
Chị Ba soi đuốc đi ra thì thấy một giỏ đầy gà mà không biết của
ai. Mấy đứa nhỏ xúm nhau khiêng vô nhà, xếp ra cả thảy mười ba con gà đều bị
trói chân. Đi lễ về mới phát hiện ra đó là gà nhà bị bắt trộm. Anh Ba nói:
- Tạ ơn Chúa, suýt chút nữa là mất toi mười mấy con gà mái tơ
rồi.
Đứa bị vấp té nói:
- Tội nghiệp người ăn trộm, không lấy được gà mà còn mất cái giỏ
mới.
- Tội nghiệp cái gì? Họ ăn trộm nhà mình mà tội nghiệp.
- Tại em thấy họ bị mất cái giỏ mới toanh thì nói như vậy. Phải
chi mình biết của ai để đem trả cho họ.
Cả nhà cùng cười vì sự đơn sơ của hai đứa nhỏ. Thấy gia đình êm
ấm, hạnh phúc là do ơn Chúa ban, nên anh chị Ba Khỏe không tiếc gì với Chúa và
mọi người. Khi nhà xứ có việc thì cả nhà anh đến giúp. Còn ai gặp khó khăn đến
nhờ đều được giúp theo khả năng anh chị có. Vì thế mà hàng xóm ai cũng quý gia
đình anh. Thấy vậy, bên họ hàng nhà anh thôi xầm xì bàn tán.
= o O o =
Thời gian thấm thoát trôi, các con có thể đảm đang công việc nên
ông bà Ba Khỏe tham gia vào Hội Phạt Tạ của giáo xứ, sau chuyển thành Hội Lòng
Chúa Thương Xót. Ông Ba còn tham gia vào Hội Trợ Tử, đi giúp những người hấp
hối trong giờ sau hết. Khi họ qua đời, ông Ba đi mua quan tài giúp nhà hiếu,tìm
mua heo hoặc bò để nấu đám. Có những gia đình nghèo sau đám tang không đủ chi
trả, ông Ba sẵn lòng góp thêm cho đủ. Có một lần ông làm mọi người ngạc nhiên
và cảm phục. Hôm đó ông cũng đi mua quan tài như mọi khi, vừa đi ông vừa lần
chuỗi Lòng Chúa Thương Xót cầu nguyện cho người mới qua đời vì bị chìm đò. Trại
hòm này vừa khai trương mấy tháng. Thấy ông ốm yếu, xềnh xoàng cậu trai trẻ
nhìn bằng ánh mắt thiếu thiện cảm. Ông Ba nhã nhặn lên tiếng trước:
- Cậu cho tôi vào xem quan tài.
- Tự nhiên!
Ông Ba xem qua rồi hỏi:
- Cậu ơi, loại quan tài này bao nhiêu một chục?
Anh ta nghĩ thầm: Ông này cà chớn thật, quan tài mà hỏi mua chục
như trái cây, chắc đem về chôn cả nhà hay sao? Anh ta trả lời cho bỏ ghét:
- Ở đây mua một vài cái thì tính tiền, chứ mua xài một chục trở
lên thì cho luôn không lấy tiền.
- Cậu nói chơi hay nói giỡn?
- Quân tử nhất ngôn!
- Vậy cậu để cho tôi mười bốn cái.
Biết mình lỡ lời anh ta lúng túng:
- Ông… Chú…Chú nói thật chứ?
- À! Xóm tôi mới bị chìm đò chết hết mười bốn người.
- Vậy hả Chú?
- Cậu cho tôi thiếu, sau đám tôi góp lại trả luôn.
- Dạ, con lỡ lời xin Chú thứ lỗi. Để… để khi khác con tính tiền,
lần này cho con kính biếu để chia buồn với những gia đình gặp nạn.
Nghe ông Ba kể, mọi người vừa buồn cười vừa khen ông khéo nói.
Ông Ba thầm cảm tạ Lòng Chúa Thương Xót, vì trong số các nạn nhân có ba người
không có đạo, ông xin Chúa cho họ được nhận biết Chúa. Từ đó, uy tín ông Ba
ngày càng tăng thêm, cả những người chưa nhận biết Chúa cũng mộ mến ông.
Nhìn lại những biến cố xảy đến trong cuộc sống của mình ông Ba
càng xác tín vào tình thương và quyền năng của Chúa. Càng ngày ông càng gắn bó
với Chúa hơn, sống vị tha, hy sinh, quảng đại nhiều hơn. Một hôm bà Ba đi chợ
về, liền kêu ông vào nói:
- Anh vào đây em kể cho nghe chuyện này!
- Chuyện gì mà em làm coi bộ nghiêm trọng vậy?
- Anh Hai Hòa trong Hội Đồng Mục Vụ tranh chấp đất đai với Chú
Bảy nhà bên cạnh, hai bên làm om sòm lên và đưa vào Cha Xứ kiện cáo nữa.
- Sao em biết?
- Hồi sáng em đi ngang nhà thấy họ đang lời qua tiếng lại chửi
nhau, hàng xóm vây kín chung quanh.
- Chắc có ẩn tình gì bên trong. Con người ta thật mỏng manh yếu
đuối lắm. Thôi chúng ta cùng cầu nguyện cho họ.
Sáng hôm sau, vừa lễ xong Cha xứ gọi ông Ba vào trao đổi và nhờ
giúp Cha giải gỡ vụ này. Ông Ba hứa với Cha sẽ khuyên giải đôi bên sao cho êm
đẹp mọi đàng. Ông về xin Hội Lòng Chúa Thương Xót làm Tuần Tam Nhật. Sau đó ông
đi gặp ông Hai Hòa. Mọi sự được giải quyết êm xuôi nên Cha xứ và Hội Đồng Giáo
xứ rất vui mừng. Ông Ba thầm tạ ơn Chúa và xác tín vững vàng hơn vào Lòng
Thương Xót của Chúa.
Ông Ba càng quảng đại với mọi người thì Chúa càng hậu đãi ông.
Lần kia, nhóm đạo tỳ của Giáo xứ và ông Ba được nhà hiếu của một phật tử mời ở
lại dùng cơm. Có tí men các bác quảng đại mua hết xấp vé số cho một em bé, rồi
chia nhau mỗi người một tờ, ông Ba không nhận vì trước giờ không mua. Đến
chiều, cả mười người cùng trúng độc đắc_ kể cả gia chủ. Họ nhờ ông Ba lên tỉnh
mua hộ mười chiếc xe Wave. Ông Ba vừa đi vừa lần chuỗi Lòng Chúa Thương Xót xin
Chúa cho mọi việc được tốt đẹp. Thấy ông Ba xách giỏ đệm bước vô, các nhân viên
ngạc nhiên.
- Chào các chú, cho tôi xem qua chiếc xe.
- Mời bố cứ tự nhiên.
Ông Ba xem thì giá đúng như con trai ông nói. Tuy vậy ông cũng
hỏi đùa:
- Xe Wave này mua một chục thì có bớt không các chú?
- Bố mà mua một chục thì tặng thêm bố một chiếc.
- Thế à!
- Không đùa đâu bố ơi!
- Vậy bán cho tôi một chục.
- Thật… thật… hả bố?
- Không đùa đâu chú ơi!
Thế là Ông Ba được chiếc
xe miễn phí. Làm giấy tờ xong họ cho xe đem giao hàng tận nhà. Ông Ba thầm tạ ơn
Chúa vì món quà này. Về nhà ông Ba nhờ thằng Tám chỉ cho cách tập xe. Một lúc
sau ông chạy ngang nhà hô to:
- Tám ơi! Ôm mấy mớ rơm lớn để giữa sân cho cha.
Thằng Tám quay qua bà Ba:
- Chắc Cha định thịt con chó khao xe mới hay sao mà bảo ôm rơm?
- Thì Cha bảo gì con mau làm đi!
Chặp sau ông Ba chạy xe về lủi vô đống rơm cho nó dừng lại. Thì
ra lúc nảy ông quên cái thắng ở chỗ nào. Cả nhà được một trận cười vỡ bụng. Ông
Ba thoát một phen hú vía liền tạ ơn Lòng Chúa Thương Xót đã che chở, giữ gìn mình.
Ông càng thêm xác tín rằng: Nếu mình luôn sống gắn bó với Chúa, thì Chúa sẽ
luôn phù trợ mọi nơi mọi lúc. Nhưng cũng có lúc Chúa thử thách lòng trông cậy
và sự kiên trì cầu nguyện của ông. Có một anh bợm nhậu biệt danh Tư Xỉn ai cũng
sợ, họ nhờ ông đến khuyên giải. Khi có rượu vô anh ta mắng ông:
- Bộ ông rảnh lắm sao mà đi xía vô chuyện nhà người ta? Thằng
Tám con ông cũng rượu chè be bét sao không giỏi dạy nó đi, bày đặt đi dạy đời
người ta.
Ông Ba không chấp anh ta, chỉ nói với vợ ông cùng cầu nguyện cho
anh ta biết sửa đổi. Thấy thằng Tám lò mò về bà Ba nói:
- Con là đứa cha mẹ lo lắng nhất. Bộ con tính chờ đến khi cha mẹ
chết hết mới lo tu chỉnh hay sao?
- Mệt mẹ quá đi, kệ con!
Rồi nó lại quay lưng bỏ đi. Bà nói với ông:
- Ông xem đó! Nói động tới là nó bỏ đi.
Ông Ba ôn tồn:
- Thôi! Tạ ơn Chúa đã cho chín đứa kia tốt lành. Có lẽ Chúa cho
một đứa như vậy để mình biết cảm thông với người khác. Mình dạy hết cách mà nó
không nghe, đành phó thác cho Chúa vậy.
Mười ngày sau, lúc bà Ba
đi đọc kinh Lòng Chúa Thương Xót về thì bị anh Tư Xỉn chạy xe lạng quạng tông
chết. Ông Ba đau khổ vô cùng. Nhiều người bảo:” Do ghét ông mà anh ta trả thù
như thế!”. Nhưng ông Ba nhớ Lời Chúa dạy:” Đừng xét đoán” và “Hãy tha thứ” nên
ông đồng ý làm giấy bãi nại cho anh. Sau thấy anh Tư lo tu chí làm ăn, Ông Ba
cho mượn thêm vốn. Được một năm anh Tư hoàn vốn cho ông và cả nhà xin học đạo.
Từ ngày bà Ba mất, thằng Tám cũng thôi đi chơi mà ở nhà phụ giúp công việc và
thỉnh thoảng theo ông đi đọc kinh Lòng Chúa Thương Xót. Thấy vậy, ông mừng rỡ
vô cùng và thầm tạ ơn Lòng Thương Xót vô biên của Chúa.
Mã số: 16-023
- Cô ơi, cô có đi ra Vạn Ninh không?
- Không, bà ạ.
- Chú có đi ra Vạn Ninh không chú?
- Dạ, không.
Bà lão ấy, năm nay đã gần bảy mươi.
Hồi nhỏ, mỗi lần gặp bà, tôi vui lắm, vì lần nào bà cũng cho cái
kẹo, cái bánh, đôi khi là bọc mít thơm lừng bà phơi, múi mít qua mấy nắng khô
queo, vừa dai vừa ngọt. Ngày ấy, bao giờ lễ xong bà cũng nán lại chờ tôi ra để
cho quà. Mấy lần Chúa Nhật, tôi lười, ở nhà đi chơi, lại thấy mẹ đem về gói
kẹo, bảo “bà gửi cho cái thằng nhác đi lễ, lần sau mẹ không mang về nữa đâu”.
Tôi cười cười, xé kẹo ăn ngon lành. Bà là mẹ đỡ đầu tôi, hồi nhỏ mẹ bảo gọi bà
là mẹ, tôi không chịu, vì bà già giống bà nội, bà ngoại tôi.
***
Ngày ông bà đứng trong
nhà thờ hứa yêu thương nhau trọn đời trước Chúa, tụi nhỏ che miệng cười khúc
khích “trên phim cô dâu chú rể mặc váy cưới đẹp lắm, không giống ông bà vậy
đâu”. Bà không mặc váy cưới, áo dài bà mặc cũng không đứng dáng vì lưng đã còng,
nhưng tôi thấy thời khắc ấy đẹp lắm! Người ta trẻ, người ta tự tin hứa sẽ giữ
lòng chung thủy, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như
lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng nhau mọi ngày suốt đời. Nhưng rồi
người ta cũng bỏ Chúa, bỏ luôn người cùng đứng trong thánh đường hứa hẹn với
mình đó thôi. Ông bà đã thực hiện trước lời hứa ấy bằng gần cả cuộc đời bên
nhau rồi.
Giáo xứ tôi mới có nhà thờ và Cha xứ mấy năm trở lại đây, trước
đây vẫn thường gọi là giáo xứ mồ côi, lâu lâu được đón Cha trong Huế về làm lễ,
cả giáo xứ mừng quýnh, Cha thương con thiếu người chăn dắt, con thương Cha vất
vả đường xa, vất vả làm lễ trong nhà nguyện bé tí, nắng gió Quảng Bình vừa nóng
vừa khô. Nói là nhà nguyện chứ thật ra là gian nhà khách của ông nội tôi, cả
giáo xứ không nhà thờ, không Cha xứ. Cứ đến Chúa Nhật, mọi người tập trung nhau
lại trước bàn thờ Chúa to đẹp nhất xóm ở nhà ông nội, góp tiền mua thêm ghế
nhựa để ngồi, ngồi trong nhà không đủ, thì ngồi ngoài sân. Tôi lúc đó không
hiểu được ý nghĩa của ngày Chúa Nhật nhưng cũng ngồi im, không dám quậy phá
trong khi mọi người sốt sắng lần hạt mân côi, đọc kinh ngày Chúa Nhật. Tiếng
kinh đều đều vang lên trong xóm nhỏ, nuôi dưỡng đức tin nơi mảnh đất suốt mấy
chục năm không nhà thờ, không Cha xứ.
Bà ở khác huyện tôi, cách nhau hai mươi cây số. Nhưng chẳng thấy
có Chúa Nhật nào ông bà vắng mặt. Ngày cha về nhận coi sóc giáo xứ tôi và thêm
ba giáo xứ nữa trong huyện, người già, người trẻ quây quần bên Cha, ông và bà
cũng có mặt, bà bảo “biết là từ nay Chúa Nhật nào cũng sẽ được dự thánh lễ do
Cha chủ trì nhưng mừng quá phải ra gặp Cha bằng được”. Vậy là từ nay giáo xứ
mình hết mồ côi, vậy là sẽ được nghe Cha giảng lời Chúa, rồi tụi nhỏ sẽ được
học giáo lý thường xuyên, rồi sẽ có nhiều người con trở lại với Chúa… Bà vừa
nói vừa lau những giọt nước mắt hạnh phúc trên gương mặt nhiều nếp nhăn của con
người đã chứng kiến biết bao thăng trầm của cuộc đời.
Bà có con cháu đề huề, nhưng chỉ có ông bà theo Chúa, những
người con của bà lúc đầu phản đối, không cho ông bà đi lễ, vì ở nơi đó, không
ai theo đạo Chúa, mọi người cứ nghĩ theo Chúa là vì ngày xưa theo giặc, rồi tới
ngày giỗ của cha mẹ, ông bà không đặt mâm cơm cúng là bất hiếu, là bỏ ông bà tổ
tiên, nhưng ông bà cương quyết không bỏ Chúa. Bà vừa khóc vừa nói:
- Các con đừng nghĩ mẹ không đốt vàng mã, không đặt cơm cúng
trước bàn thờ ông bà là bất hiếu. Đâu cần đợi tới ngày giỗ ông bà mới nhớ ông
bà, Chúa Nhật nào ba mẹ cũng xin lễ cho ông bà, ngày nào cũng cầu nguyện cho
ông bà. Không ai thờ cúng ông bà tổ tiên nhiều hơn đạo Chúa đâu.
Trước sự sốt sắng ấy của ông bà, các con ông bà cũng dần chấp
nhận để bố mẹ mình theo đạo, đi lễ. Bà hay nhắc tôi chăm chỉ học giáo lý, để
sau này dù người ta có nói gì đi nữa, dù có nhiều thứ cám dỗ cũng không để mất
đức tin, đức cậy, đức mến của mình. Bà hay tự trách mình chưa đủ tốt để làm con
cái yêu mến và đi theo Chúa. Rồi, mấy lần người ta hỏi:
- “Sao không thấy bà Quý đi lễ vậy?”
- “Chắc bà không xin được xe, khổ thân!”
Ngày trước còn khỏe, ông chở bà bằng xe đạp để đến ngôi nhà
nguyện nhỏ, nhưng bao giờ cũng đầy ắp người, những người con yêu Chúa. Sau này,
ông yếu hơn, hai ông bà sắm chiếc xe đạp điện rồi cùng nhau đến gặp Chúa, rước
Mình Máu Ngài. Nhưng rồi, ông bị tai biến, liệt nửa người, không thể cử động
như trước được. Mấy lần được về quê nghỉ hè, gặp bà, tôi hỏi bà có trách Chúa
không, bà cười, “Ông vẫn cùng đọc kinh sáng tối với bà, ông vẫn nói chuyện
được, vậy đã là hồng ân to lớn của Chúa dành cho ông bà rồi”. Bà không biết đi
xe nên những lúc con cháu được nghỉ bà nhờ chở đi, những lúc con cháu bận, bà
lại ra ngoài đường xem có ai đi ra Vạn Ninh không để xin đi nhờ, có người cho,
có người sợ chở người già phiền phức, lỡ có chuyện gì nên từ chối. Cứ như vậy,
tầm 12 giờ trưa Chủ Nhật, người ta lại thấy một bà lão đứng bên vệ đường, xin
đi nhờ xe cho kịp thánh lễ lúc 3 giờ chiều.
Cái nắng thiêu đốt mùa hè hắt hình người xuống mặt đường bé tí,
gió Lào thổi xốc đám bụi khô xoáy vòng.
- Cô có đi ra Vạn Ninh không?
- Chú có đi ra Vạn Ninh không chú?
Mã số: 16-024
Một buổi sáng cận ngày Noel, khi tiếng chuông Nhà Thờ đổ liên
hồi báo hiệu một đêm Giáng Sinh an lành sắp đến ; đêm Chúa Hài Đồng sắp sinh ra
đời. Đêm qua đã là đêm 22 tháng chạp. Và sáng nay, khi cây Noel trong phòng Thiên
Thanh vẫn còn rực sáng, cô bé choàng mình thức dậy vì tiếng chuông điện thoại
reo vang trên bàn học cạnh cửa sổ. Cố bé mắt nhắm mắt mở đưa tay dụi mắt, tay
kia cầm điện thoại trong lúc miệng liên tục ngáp
- Bố hả? Con đang ngủ ngon bị bố đánh thức dậy nè. Bố mẹ về
chưa? Sao vậy bố?
- Chưa về đâu con gái. Ông bà nội có khách giữ bố mẹ ở lại chơi
đến tối mới về con ạ. Bà nội gừi cho con bười con thích đó!
- Lại bưởi nữa hả bố! Con ngán bưởi lắm rồi! Sáng nay con có
tiết học Anh Văn ở trường. À, chiều bố về nhớ làm cho xong chiếc hang đá nhé
bố. Đêm 24, tụi bạn con muốn về nhà mình chơi đón Noel đó bố
- Được rồi, bố nhớ mà! Ngày Noel cũng là ngày sinh nhật của con
gái bố mà, phải không? Sao bố không nhớ chứ!
Sau câu nói vui vẻ của ông bố điện thoại đột nhiên mất sóng kêu
rè rè tiếng được tiếng mất. Một lát, điện thoại chỉ còn tiếng ù ù xen lẫn những
tiếng tạp âm. Thiên Thanh cười buồn gác máy bởi cô biết điện thoại nhà mấy bữa
nay bị hư đường truyên. Cô bé bước ra bên hàng hiên cửa sổ hít một hơi thật dài,
mùi hương nhài thơm dịu, cô bé thóang nhìn qua khung cửa chổ hàng cây lan tím
đang nẩy chồi xanh, một mảng nắng đầu ngay chiếu xuống xuyên qua kẽ lá. Buổi
sáng đang chào đón cô bé bằng tia nắng ấm áp
Buổi trưa, trời nắng gắt, Thiên Thanh đạp xe rẽ vào khu phố
vắng. Khu biệt thự Quận 2 nổi tiếng yên tĩnh, cứ trưa đến là im ăng như tờ.
Nhiều người thích không khí ở đây. Nhưng đường vắng không có nghĩa là con đường
đem đến bình an, nó luôn ẩn chứa những bất an cho những bé gái xinh đẹp. Thiên
Thanh đâu có biết, giữa khu khuôn viên biệt thự có những hàng cây xanh tỏa bóng
mát. Ba gã đàn ông đang đứng nói chuyện phía sau gốc cây Bàng, cạnh đó là chiếc
xe hơi màu đen đậu sẵn ở đó từ bao giờ. Khi Thiên vừa đạp xe tới, lập tức ba gã
đàn ông ra tay, chúng trang bị sẵn khẩu trang, kiếng mát và mũ bảo hiểm đủ trùm
kín mặt và chúng bắt đầu hành động. Hai tên chăn đầu cô bé. Một tên xông tới
bịt miệng Thiên Thanh bằng một chiếc khăn mùi xoa có tẩm thuốc mê, sau đó cả
hai lôi cô bé vào xe hơi. Tên thứ ba nhanh chóng giấu chiếc xe đạp sau gốc cây
Bàng. Tất cả diễn ra chỉ trong nháy mắt, cả khu biết thự vẫn rất yên thắm. Cả
bọn rút nhanh vào chiếc xe hơi. Một cuộc bắt cóc có kế hoạch hoàn hảo
Buổi tối, cha mẹ Thiên Thanh hớt ha hớt hãi bước vào đồn công
an. Gương mặt họ đầy vè hoảng loạn
- Con…con gái tôi bị làm sao? Tại sao bọn chúng lại bắt cóc con
gái tôi! – Người bố hỏi mấy câu hỏi làm mấy anh cảnh sát cứng đơ người, không
biết phải trả lời ông thế nào
- Xin ông bà bình tĩnh. Đây có thể là một bọn bắt cóc người tống
tiền chuyên nghiệp, bọn chúng không để lại bất kỳ dấu vết nào tại hiện trường
ngoài chiếc xe đạp của cô bé
- Không …không thể như thế được…- Người mẹ gào lên - Xin các anh
làm ơn cứu con gái tôi… Hãy cứu con gái tôi
- Chúng tôi sẽ làm hết sức – Anh công an trấn an bố mẹ Thiên
Thanh – Nhất định chúng tôi sẽ tìm ra bọn bắt cóc. Xin ông bà cứ bình tĩnh về
đi, và cố gắng chờ đợi tin tức của anh em chúng tôi
Khi bố mẹ Thiên Thanh vừa ra về. Anh trưởng công an liền quay
sang hỏi một cán bộ điều tra:
- Con bé hằng ngày vẫn đi học về ngang qua đó sao?
- Vâng, vì đó là khu biệt thự độc lập có bảo vệ túc trực ngày
đêm kiểm tra mọi hoạt động ra vào trong khu này. Tiếc là, lúc xảy ra vụ bắt cóc
đám bảo vệ đi ăn trưa, chỉ một người ở lại trông coi thì anh ta lại đi vệ sinh
đúng vào thời điểm bọn bắt cóc hành động
- Vậy còn chiềc xe hơi?
- Không một ai biết rõ chiếc xe hơi đó. Bảo vệ khẳng định họ
không phát hiện một xe hơi lạ nào vào đó, thường ngày có rất nhiều xe hơi ra
vào, họ khai không thể biết được chiếc xe nào của bọn tội phạm
Nói vậy cũng bằng không. Phải bằng mọi giá truy tìm ra chiếc xe
hơi đó
- Anh em đang nỗ lực truy lùng bọn tội phạm. Có thể hành động
tiếp theo của bọn bắt cóc là nhắn tin cho bố mẹ cô bé đòi tiền chuộc. Anh em sẽ
cố gắng theo sát chuyện này
Thiên Thanh bị một bọn tổ chức buôn người bắt đóc đưa về căn
biệt thự kín cổng cao tường, xung quanh là rừng cây cối bao phủ. Đó là một căn
nhà hai tầng lầu nằm ở vùng ngoại ô Hà Nội. Bọn bắt cóc không đòi tiền chuộc
như nhiều người suy đoán, bọn chúng chuẩn bị đưa cô bé ra nước ngoài bán cho
môt động mãi dâm quốc tế. Trước khi đem cô bé đi bán, bọn chúng bí mật tung
hình ảnh cô bé gửi cho những khách hàng “ mối “ vốn là những gã đại gia nhiều
tiền thích của lạ. Tin về cô bé đưa đi còn nóng hổi. Bọn bắt cóc đã nhận được
lời đề nghị của một đại gia muốn sở hữu Thiên Thanh trong 3 ngày với giá do bọn
chúng đưa ra là 50 triệu, với điều kiên cô bé phải còn trinh tiêt. Sau khi thỏa
thuận xong, bọn chúng đưa Thiên Thanh lên một tầng lầu kín đáo nhất của tòa nhà
để chờ tối nay sẽ đưa cô bé tới một địa điểm bí mật
Thiên Thanh không hề biết chuyện gì sắp xảy ra cho mình, không
biết rằng mình sắp bị đưa đi làm trò vui cho gã đại gia, cũng chẳng hề biết
mình sắp bị đưa sang Singapore làm gái mãi dâm. 4 giờ chiều hôm đó bọn bắt cóc
đưa cô bé lên tầng hai ngôi nhà, nhốt cô vào căn phòng nhỏ như một nhà kho chật
chội, chỉ có chút ánh sáng từ ngoài hắt vào qua khung cửa sổ nhỏ.
Có lẽ vì lo sợ bị lộ nên bọn chúng đã đổi kế hoạch, chưa vội
giao “ hàng” cho gã đại gia. Suốt hai ngày trời bị nhốt trong gian phòng kín,
Thiên Thanh chỉ biết khóc gọi tên bố mẹ. Cô bé bị trói tay, không ăn uống được
nhiều dù bọn bắt cóc mang đến cho cô những món ăn ngon. Cứ khoảng một vài giờ
bọn chúng lại ghé qua phòng xem xét tình hình, có vẻ chúng sợ cô bỏ trốn. Chúng
khủng bố tinh thần, đe dọa tính mạng cô bé bằng những hành động cợt nhã bỉ ổi,
cốt làm cô gái sợ hãi
Thiên Thanh không còn
chịu đựng được nữa, cô bé đã khóc nhiều đến sưng húp mắt. Hai tay cô bị trói
quặt ra sau suốt ba ngày nay gây ra biết bao đau đớn khổ sở cho cô bé. Mỗi ngày
cô bé chỉ biết nhắm mắt gắng chịu đau liên tục xoay mạnh cổ tay để mong sao sợi
dây trói từ từ lỏng ra.
Chiều hôm đó, sau những ngày miệt mài đầy khó khăn, cô bé đã tự
cởi được trói cho mình với hai cổ tay đầy vết xước lẫn với máu. Ngay lập tức cô
bé đi lục lọi khắp căn phòng chưa đầy những đồ đạc lỉnh kỉnh, chỉ duy nhất một
chiếc tủ gỗ cũ kỹ dựng ở góc phòng. May sao, cô đã tìm được một cây viết và một
mảnh giấy nhỏ. Viết vội vài chữ vào mảnh giấy cô bé hy vọng điều cô muốn nói
trong giấy sẽ đến tay ai đó ở bên ngoài, họ sẽ báo cảnh sát đến cứu cô. Và đó
là hy vọng duy nhất mà cô bé có thể làm vào lúc này
Dù đã có sẵn mảnh giấy
trong tay, nhưng cô bé không biết làm cách nào để nó có thể lọt ra ngoài, vì lẽ
xung quanh căn nhà là một rừng cây cối bao phủ dày đặc, dẫu có vứt được mảnh
giấy ra ngoài thì cũng chẳng có bóng người nào. Cô bé bắt đầu cảm thấy tuyệt
vọng, bắt đầu nôn nóng muốn nhanh chóng thoát ra khỏi đây, nhưng bọn bắt cóc
vốn rất ma mãnh khôn ngoan đã lường được trước mọi bất trắc có thể xảy ra.
Chúng tin đó là địa điểm tuyệt đối an toàn, bởi nơi đây cảnh sát từng bó tay
nhiều vụ bắt cóc táo bạo, không hề dễ dàng cho cảnh sát nều như họ muốn tìm ra
dấu vết của bọn chúng
Thiên Thanh sực nhớ đến chuỗi hạt Mân Côi mẹ đã mua cho cô bé
hôm Chủ Nhật đi lễ Nhà Thờ, trước ngày bị bắt cóc. Lấy chuỗi hạt ra khỏi cổ, cô
bé thầm đọc kinh cầu nguyện với Đức Mẹ. Đang đọc dở chứng kinh Kính Mừng, Thiên
Thanh bỗng nghe thấy tiếng chim kêu ríu rít đâu đó bên ngoài. Ngước nhìn lên ô
cửa sỗ cô phát hiện một con chim sẻ không hiểu sao nó bị mắc kẹt vào cánh cửa
không thể thoát ra ngoài được
Thiên Thanh vội kéo chiếc bàn gỗ nhỏ gần đó rồi leo lên, với tay
lên cửa sổ cúu con chim thoát ra khỏi cách cửa. Giữ trong tay con chim cô bé
chợt nghĩ ra một cách. Tại sao không cột miếng giấy vào chân con chim sẻ, thả
nó bay đi, biết đâu miếng giấy sẽ đến tay ai đó và nó sẽ cứu cô ? Dẫu chỉ là
tia hy vọng mong manh, cô bé nghĩ mình chẳng còn có cơ hội nào khác
Sau khi thả con chim đi mang theo mảnh giấy đầy kỳ vọng lên
trời, cô bé đứng trong khung cửa sổ cố ngước nhìn lên Trời xanh mải cho đến khi
con chim mất hút. Cô bé không quên thầm nguyện xin Đức Mẹ cứp giúp mình. Nhưng
khi vừa bước xuống định tiếp tục đọc kinh thì cánh cửa căn phòng bật mở. Một gã
bậm trợn bước vào ra hiệu cho cô đi theo hắn. Không hiểu gã kia đưa mình đi đâu
và chuyện gì sẽ cảy ra với mình Thiên Thanh vẫn cố giữ điềm tĩnh, bởi cô luôn
nghĩ đến Đức Mẹ, nhất định Mẹ sẽ không để cho bọn chúng làm hại cô. Thiên Thanh
đã thấy một dấu lạ, Đức Mẹ đã che mắt gã kia khi hắn không phát hiện ra việc cô
bé đã tự cởi trói cho mình. Song cô bé vẫn nghĩ đến một chuyện kinh khủng nhất
trong cuộc đời cô. Nếu bị bọn chúng hãm hại, cô sẽ tìm cách lao đầu vào tường.
Thà rằng chết đi bảo toàn trinh tiết còn hơn sa vào tay bọn quỷ dữ!
Thiên Thanh bị bịt mắt và bị kềm giữ bởi hai gã hộ pháp lực
lưỡng, bọn chúng đe dọa cô phải nghe theo lời chúng, nếu có hành vi chống đối
chúng sẽ lập tức trừng trị cô đích đáng. Bọn chúng đưa cô lên một chiếc xe hơi
rồi chở đi đâu đó. Một lát, chiếc xe dừng lại. Thiên Thanh bị đưa vào một căn
phòng sang trọng thơm nức mùi nước hoa. Chúng thúc dục cô bé đi tắm rửa sạch
sẽ. Lúc đó, Thiên Thanh vẫn ngây thơ, chưa biết chuyện gì sẽ xảy đến với mình
Nói về chú chim sẻ, sau khi được Thiên Thanh thả đi, nó bất ngờ
sa vào bẫy lưới của một người chuyên đi săn bắt chim đem bán cho những Phật tử
mua chim để thả phóng sinh. Khi gỡ chim ra khỏi lưới người ta phát hiện thấy
đươi chân chim ai đó cột vào một mảnh giấy nhỏ màu xanh...
Trong căn phòng tắm sang trọng, Thiên Thanh không hề tắm rửa
theo như lời bọn bắt cóc. Cô bé đứng ở cửa nhà tắm hé mắt nhìn ra ngoài, thoáng
thấy một gã đàn ông ở trần đang nằm trên giường làm cô bé sợ run rẩy, tinh thần
bấn lọan. Cố giữ bỉnh tĩnh, cô nhắm mắt liều thân vội ù té bỏ chạy ra phía cửa
phòng, nhưng cánh cửa đã khóa chặt. Bất thình lình, gã đàn ông bật dậy nhào đến
ôm chặt lấy cô bé đẩy cô xuống giường. Gã đàn ông như con thú đói lao vào Thiên
Thanh cấu xé. Nhưng cô bé đã cắn mạnh vào tay gã khiến gã điên tiết …Đúng lúc
nguy khốn đó, cách cửa phòng bật mở, cảnh sát ập vào còng tay gã đàn ông, trong
khi Thiên Thanh vẫn còn nằm trên giường với vẻ mặt kinh hoàng
Thiên Thanh thoát khỏi tay bọn bắt cóc nhờ vào mãnh giấy nhỏ với
hàng chữ do chính cô viết : XIN CỨU CON, CON ĐANG BỊ NHỐT TRONG CĂN NHÀ NHIỀU
CÂY CỐI XUNG QUANH …Cô bé tỏ ra rất thông minh biết cách gây sự chú ý cho cảnh
sát trong tình trạng tâm trí đang hoảng loạn. Nhờ mảnh giấy cảnh sát đã nhanh
chóng xác định được mục tiêu, vì đặc điểm của căn nhà : xung quanh toàn cây cối
nên họ nhanh chóng tìm ra
Đúng vào đêm mừng Chúa Giáng Sinh, Thiên Thanh được cảnh sát đưa
cô về tận gia đình. Bố mẹ cô chạy ra ôm chặt lấy cô bé trong niềm vui khôn tả,
Thiên Thanh tưởng đó chỉ là giấc mơ. Ngay khi ấy, Thiên Thanh vội chạy ngay vào
nhà, quỳ dưới chân hang đá Chúa Hài Đồng thì thầm : “ Con cám ơn Chúa Hài Đồng.
Con biết Chúa sẽ đến cứu con. Con cám ơn Mẹ Maria…”Lúc đó, chuông Nhà Thờ đổ
liên hồi, báo hiệu đêm nay sẽ là đêm vui nhất của con người
BẢN THỂ LỆ GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG
Cập nhật cho cuộc thi lần thứ tư - 2016
GIẢI
VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG được Ban mục vụ Văn hóa & Giáo dục Giáo phận Qui Nhơn
thực hiện trong khuôn khổ dọn mừng kỷ niệm 400 năm Tin Mừng của Chúa đến với
giáo phận Qui Nhơn (1618-2018), nhằm đào tạo cho Hội Thánh Việt Nam nhiều cây
bút văn xuôi. Thể lệ, chủ đề và cơ cấu tưởng thưởng của cuộc thi được ấn định như
sau.
I. THỂ LỆ
1.
Cuộc thi kéo dài sáu năm, năm năm đầu (2013-2017) mỗi năm trao giải một lần,
năm thứ sáu (2018) dành cho những người đã đạt giải trong các năm trước và trao
giải tổng kết.
2.
Cuộc thi dành cho các bạn trẻ Công giáo, trong cũng như ngoài giáo phận Qui
Nhơn, dưới 40 tuổi (năm dự thi – năm sinh theo sổ rửa tội ≤ 40). Người đã đạt
giải một lần, các năm sau có thể dự thi tiếp, dù đã hơn 40 tuổi. Các bạn trẻ dự
tòng cần có chứng từ đang theo học giáo lý dự tòng.
3.
Thể loại: Truyện ngắn, mỗi truyện không quá 3000 từ. Không nhận truyện phóng
tác. Phải là sáng tác mới, chưa đăng báo, website hay blogs và chưa gửi dự thi
ở bất cứ đâu.
4.
Truyện lấy ý từ một tác phẩm khác, xin ghi rõ xuất xứ tác phẩm gốc. Nếu bị phát
hiện sao chép của người khác hoặc dựng lại theo ý tác phẩm khác mà không ghi
xuất xứ, sẽ bị loại và cấm thi các năm tiếp theo.
5. Đề
tài: đợt này cuộc thi ưu tiên nhấn mạnh hai đề tài: Lòng Chúa thương xót – Việc
thờ cúng tổ tiên nơi người Công giáo Việt Nam – Trách nhiệm chăm sóc thiên nhiên
(theo thông điệp Laudato Si’ của Đức Thánh Cha Phanxicô); tuy nhiên vẫn nhận cả
những bài viết ngoài hai đề tài ấy, miễn là có nội dung Kitô giáo.
6.
Mỗi năm, mỗi tác giả có thể tham gia tối đa 05 bài dự thi, có thể gửi chung một
lần hoặc nhiều lần.
7.
Chỉ nhận bài dự thi qua điện thư email, gửi attach file với định dạng .doc hoặc .docx, không nhận bài gửi qua đường bưu điện.
8.
Đầu bài dự thi phải ghi rõ: họ và tên, bút danh, năm sinh, rửa tội tại đâu, năm
nào, địa chỉ nhà, giáo xứ, giáo phận, số điện thoại liên lạc, địa chỉ email. Dù
đã gửi nhiều email dự thi, đầu mỗi bài đều cần ghi như thế. Những bài thiếu các
chi tiết này sẽ không được nhập hồ sơ dự thi.
9.
Mỗi bài dự thi sẽ được nhập hồ sơ theo lần gửi đầu tiên, mọi chỉnh sửa về sau
đều không được chấp nhận.
10.
Địa chỉ nhận bài, xin gửi cùng lúc về 2 điện chỉ email: tinmunggiesu@gmail.com
và gopnhattho@yahoo.com.
11.
Thời gian nhận bài: trước ngày 01-3 mỗi năm. Những bài gửi về muộn hơn sẽ được
đưa vào hồ sơ dự thi năm sau.
12.
Tưởng thưởng: Mỗi năm sẽ có 06 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng,
theo cơ cấu và sinh hoạt như sẽ nói dưới đây.
13.
Kết quả cuộc thi hằng năm sẽ được công bố ngày 15-8 mỗi năm
14.
Lễ trao giải vào ngày 21-9 mỗi năm.
15.
Những tác giả được vào chung khảo mà không đạt giải sẽ được hỗ trợ một phần
tiền xe về dự ngày họp mặt trao giải.
16.
Các thông tin về cuộc thi sẽ được đăng trên trang mạng giáo phận Qui Nhơn http://www.gpquinhon.org
và những trang mạng ủng hộ chương trình này.
17.
Các tác phẩm đạt giải sẽ được in thành tuyển tập do Ban Tổ Chức giữ bản quyền.
II. TƯỞNG THƯỞNG
Cơ
cấu giải thưởng
Mỗi
năm, có 6 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng.:
- một
giải nhất: 20.000.000
$VN
- hai
giải nhì, mỗi giải 12.000.000
$VN
- ba
giải ba, mỗi giải 8.000.000 $VN
- 15
giải triển vọng, mỗi giải 3.000.000 $VN
Tuyển
tập truyện ngắn riêng
Ngoài
phần thưởng bằng tiền mặt, những tác giả đạt giải, nếu có nhiều truyện khác có
giá trị, sẽ được Tủ Sách Nước Mặn hỗ trợ xuất bản một tuyển tập riêng dưới 200
trang với những truyện ngắn mang nội dung Kitô giáo.
Những
tác giả không đến dự lễ trao giải sẽ chỉ được nhận 50% tiền giải thưởng và
không được hỗ trợ in tuyển tập riêng. Những tác giả chỉ dự lễ trao giải 21-9 mà
không tham gia hành hương 22-9 chỉ được nhận 75% tiền giải thưởng, nhưng vẫn
được hỗ trợ in tuyển tập riêng.
III. TƯỞNG THƯỞNG DÀNH CHO ĐỘC GIẢ
1.
Bình chọn
Các
truyện dự thi đã qua vòng sơ tuyển sẽ lần lượt được đưa lên mạng internet. Mời
độc giả tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng
đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng
nhất sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao
giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
2.
Giúp phát hiện trường hợp sao chép
Những
độc giả giúp phát hiện đầu tiên những bài dự thi sao chép của người khác (xin
ghi rõ xuất xứ bài gốc) sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe
về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Ban
Tổ Chức chân thành biết ơn sự giúp đỡ của các ân nhân. Các hỗ trợ tiền bạc hoặc
hiện vật cho cuộc thi xin gửi về: Linh mục Võ Tá Khánh, 116 Trần Hưng Đạo, TP
Qui Nhơn – Email: gopnhattho@yahoo.com – Điện thoại: 0935-424-449.
Qui Nhơn, ngày 15-8-2015
TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC
Lm Gioan Phêrô Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự)
Trưởng Ban MV Văn hóa & Giáo dục Giáo phận Qui Nhơn