GIẢI VIẾT VĂN
ĐƯỜNG TRƯỜNG 2016
BẢN TIN 10
Thưa quý Tác giả và Bạn đọc,
1. Cuối ngày 02-6 chúng tôi đã tổng kết bảng điểm chấm vòng sơ
khảo của 4 vị giám khảo, và đã chọn ra 55 bài đạt điểm cao (trong số 98 bài đã
qua vòng sơ loại) để gởi đến các vị chấm vòng chung khảo. Một tín hiệu đáng
mừng là bài có số điểm thấp nhất trong 98 bài sơ khảo đạt số điểm 47/80 và bài
liền trên đó là 48.75/80. Tất cả đều đạt điểm trên trung bình khá cao, chứng tỏ
bài dự thi năm nay khá đồng đều về phẩm chất và bút lực.
2. Xin được giói thiệu đến quí vị facebook của Giải Viết Văn
Đường Trường
https://www.facebook.com/groups/vanthoconggiao/
FB sẽ gửi đến quí vị và các bạn các thông tin của cuộc thi, rồi
sẽ lần lượt đăng giới thiệu từng truyện dự thi đã qua vòng sơ loại với cách
trình bày bắt mắt và dễ đọc hơn. Mong quí vị và các bạn giúp giới thiệu và kết
nối trang facebook này với các thân hữu, để những đóng góp văn thơ Công giáo
sớm đến với mọi người ở khắp nơi.
Ngoài ra qua trang facebook này, ban tổ chức quyết định có thêm
bốn giải thưởng qua việc bình chọn, nhằm mục đích tạo nên sự tương tác trực
tiếp hữu ích giữa các tác giả và độc giả. Xin mời xem chi tiết trong bản thể lệ
dưới đây.
Bạn đọc nào quan tâm, xin mời ghé thăm FB để tìm hiểu thêm.
Chúng tôi xin giới thiệu đến mọi người 8 truyện dự thi tiếp theo
đã được chọn qua vòng sơ loại. Chúng tôi sẽ cập nhật thêm thông tin về cuộc thi
trên FB và trên các bản tin sau.
Xin chân thành cám ơn các trang truyền thông Công giáo đã và
đang hỗ trợ truyền bá chương trình này, cám ơn quý tác giả đã gửi bài tham gia
và cám ơn quý độc giả đang quan tâm theo dõi cuộc thi, đọc và bình chọn các
truyện dự thi. Nguyện xin Thiên Chúa giàu lòng thương xót chúc lành cho tất cả
chúng ta.
Qui Nhơn, ngày 04-06-2016
TM Ban Tổ chức
Lm Trăng Thập Tự
BÀI
DỰ THI
Mã số: 16-107
Tin
chị Sen gia nhập một tổ chức chính trị
chẳng khác nào mồi lửa quét qua làng Thượng vốn đã hừng hừng như một
cánh đồng khô hanh. Ông Luân vừa lên tỉnh dự lễ nhận bằng khen phong trào xây
dựng nông thôn mới, kể lại rành rọt rằng thấy chị tôi phát biểu hùng hồn lắm.
Với cái vùng Công giáo toàn tòng rộng chừng hơn một cây số vuông này thì chỉ
cần bấy nhiêu chất liệu ấy thôi cũng đủ tạo nên thứ gia vị không thể thiếu
trong các bữa ăn chiều.
Người
báo cho mẹ cái tin động trời ấy là cậu tôi. Dựng vội chiếc Dream Tàu đã rách
tươm một bên ướm, cậu cất giọng oang oang từ ngoài sân vào tận buồng trong. Mẹ
tôi nằm một chỗ đã hai tháng nay gần như lập tức bật dậy khỏi giường, hai tay
siết lấy cổ áo cậu rít lên từng tiếng: “Không bao giờ có chuyện đó, hiểu
chưa?”. Tôi chạy bổ theo cái dáng xiêu xiêu ấy trong ánh mắt thất thần của cậu.
Bên
ngoài, nắng vẫn còn gắt. Mẹ sáp vào một nhóm đang đứng bàn chuyện, điên dại
giật tóc người này, kéo áo người kia. Trong cơn bấn loạn, bà còn hất tung mấy
dãy ghế của một quán nước gần đấy.
Tôi
bắt kịp mẹ ở gần cổng làng. Tay xăm xăm chiếc chổi tre, dường như mẹ đang dốc
hết sức bình sinh mà quét, mà quật. Tiếng chổi va vào nền đường xi măng nghe
rờn rợn. Mặt mẹ trắng bạch, đôi tay hằn rõ những đường gân yếu ớt. Duy đôi mắt
là long lên, chằng chịt những lằn mảnh, đỏ ngầu. Đám người lần lượt tản ra,
trước lúc rời đi không quên ném lại những cái nhìn khinh miệt. Tôi lặng lẽ ôm mẹ
từ phía sau, tiếng chổi dừng lại.
- Sao
mẹ đánh người?
Mẹ
lại rít lên:
- Tao
không đánh người. Tao chỉ đánh lũ rắn mang bộ mặt người!
Mẹ về
đến cổng khi trời đã nhá nhem tối. Cả thân hình tiều tuỵ đổ ập xuống như cây
chuối bị người ta dùng dao phạt ngang. Tôi dìu mẹ vào buồng trong, mắt bà ướt
đẫm. Đây là lần thứ hai mẹ chẳng còn là mẹ.
Lần
thứ nhất cách đây đã hơn chục năm. Bố bỏ mẹ và hai chị em tôi trong một chuyến
đi tìm trầm ở Huy Khiêm rồi từ đấy biền biệt không về. Ít năm sau, vài người
trong nhóm phu trầm rỉ rả rằng bố sống chung với một người đàn bà trong đó, hai
người đã có ba mặt con. Mẹ gục xuống khi hay những dòng tin đầu tiên.
Đận
ấy, người làng Thượng xúm vào hả hê. Đàn ông đàn bà xứ này chưa từng có thói
quen buông tha cho một trường hợp nào tương tự. Mẹ gượng dậy rất nhanh. Khuôn
mặt ráo hoảnh, tay xăm xăm chổi, cứ thế mẹ đi từ đầu đến cuối làng, trút cả nỗi
muộn phiền xuống mặt đường mà quét.
Hết
bố đi rồi đến Sen. Chị tôi đẹp nhất làng Thượng. Học xong đại học, chị ở lại
thành phố tìm việc. Sắc vóc và học thức là thứ báu vật mà những người con gái
độ tuổi chị ở quê tôi không có được. Hai mươi ba tuổi chị cưới chồng là phó
giám đốc một công ty sản xuất vật tư nông nghiệp. Hai mươi tám, chị đã chễm chệ
ở ghế kế toán trưởng, có nhà mặt phố.
Cứ
chắc mẩm một khi nắm trong tay hai thứ báu vật kia thì sẽ có được thiên hạ, chị
tôi hồn nhiên trải đời mà không hề biết nơi mắt bão thường lặng gió. Chồng chị
bỏ trốn với cô phó phòng kinh doanh xinh đẹp sau khi đã đánh cắp một khoản tiền
lớn của công ty. Căn nhà mặt phố kia anh cũng lén chị bán nốt. Tỉnh lập đoàn
thanh tra, chị bị kiểm điểm lên xuống mấy lần, sau nhờ cặp với một tay quan
chức đáng tuổi bố nên vụ việc cuối cùng mới được ém nhẹm. Tôi giấu mẹ nhảy xe
đò lên thăm, chị cười gằn: “Từ nay tao nhổ vào mặt bọn đàn ông”.
Phải
rất lâu sau cái đợt xì xào chuyện vào đảng, chị mới về làng. Đó là một đêm mùa
xuân, trời còn phả những đợt sương lạnh. Tôi choàng tỉnh giấc bởi một tiếng hát
vọng lại từ phía sau nhà.
Chỗ
mỏm Ước nhờ nhợ bóng hai người đàn bà tựa đầu vào nhau. Tiếng hát lúc nãy nhỏ
dần rồi im bặt. Mẹ hát ru chị, chị hát ru mẹ hay họ đang hát ru nhau. Thế giới
của các thiếu phụ chằng chịt những vết xước, vời vợi nỉ non như bầu trời đêm
làng Thượng, bảng lảng nhạt nhoà như những vạt sáng của mảnh trăng khuyết tháng
Ba. Đến sáng thì chị đi.
Mỏm
Ước là tên chị em tôi đặt cho cồn cát nhỏ phía đằng sau nhà. Lúc Sen còn học
trường làng, tối nào chị em tôi cũng lén mẹ kéo nhau ra cái mỏm ấy. Phải tầm
chín giờ, có bữa muộn hơn, chiếc máy bay mới thủng thẳng ngang qua chỗ làng
tôi, thân nó chớp loè thứ ánh sáng mê hoặc. Một lần, Sen nhìn theo cho đến khi
vệt sáng cuối cùng khuất hẳn, xuýt xoa bảo sau này nhất định tao sẽ cưỡi con
chim đen kia lên tận thành phố. Bất giác, chị quay sang:
- Lúc
con chim đen bay qua, mày ước gì đấy Thịnh?
- Nó
bay tít trên trời thế kia, chắc gần chỗ Thiên Đàng thôi. Em ước được nó chở lên
xem chỗ đấy, chắc là đẹp và giàu lắm chứ không nghèo và tối như làng Thượng
mình đâu chị nhỉ?
- Hứ,
dĩ nhiên rồi, Thiên Đàng mà. Mày ngốc quá!
Thiên
Đàng là thứ mà lũ trẻ làng tôi mê tơi. Ông nội bảo chỉ cần mấy đứa tôi sống tử
tế thì sau này lên đó tha hồ mà sung sướng. Cha xứ thì khác, lễ sáng Chúa nhật
nào cũng nói, muốn được lên Thiên Đàng thì nhất định phải có lòng thương giúp
đỡ người khác. Có lần tôi hỏi mẹ:
-
Phải chết thì mới được lên trên đó hả mẹ? Thế thì chán chết!
- Yên
tâm, Thiên Đàng ở gần đây thôi, con sẽ thấy nó trước khi chết.
Nghe
mẹ nói thì biết thế, chứ chị Sen với tôi cứ đinh ninh Thiên Đàng phải ở rất xa
cái làng Thượng này lắm.
Làng
tôi nghèo và tối như cái hủ nút. Mẹ tôi là giáo viên dạy Văn cấp ba trường làng
mà đến bữa dọn ra vẫn chỉ là cơm trộn sắn. Cả vùng chỉ mỗi nhà thờ là có nhiều
bóng điện, sáng trưng. Với lũ trẻ bọn tôi thì nhà thờ lúc đó là Thiên Đàng chứ
không phải như sau này nhà ai cũng bài trí đủ loại bóng điện đắt tiền.
Bây
giờ dân làng Thượng ít đến nhà thờ hơn. Hễ tối đến là trẻ con bị dí vào cái bàn
học nhỏ xíu. Người lớn thì quây quanh ấm nước chè đặc, buôn đủ thứ chuyện
phiếm.
Cả
làng nơm nớp sống nhờ ngoại tệ. Nhà nào cũng cho con học hết phổ thông rồi cố
chạy vạy thêm vài trăm triệu làm thủ tục giấy tờ, miễn sao đẩy chúng sang được
xứ người. Chẳng ai buồn bận tâm xem chúng làm gì, định cư bên ấy có hợp pháp
hay không. Chỉ cần có tiền gửi về, càng nhiều càng tốt.
Ông
Hữu xóm tôi có hai thằng con bán rượu lậu bên Qatar, đến tháng ở nhà đều đặn
nhận vài ngàn đô nhưng hễ cứ có điện thoại đổ chuông là lại giật mình thon
thót. Không giật mình mới lạ vì cứ dăm bữa nửa tháng là cả làng Thượng lại rầm rầm
kháo nhau con ông nọ bị cảnh sát bắt vì trồng cần sa, con bà kia bị trục xuất
vì đánh nhau hoặc ăn cắp vặt. Mới tháng trước thôi, thằng Kiên con bà Phượng ở
đầu làng bị một nhóm cướp bắn chết vì không có tiền, phải trầy trật mãi mới đem
được xác từ Angola về.
Cơn
lốc kim tiền quét qua, dấm dẳng để lại những khoảng trống toang hoác. Làng
Thượng như một đứa trẻ vụt lớn, vồn vã tìm cách trưởng thành, hì hục xây nên
những Thiên Đường cho riêng mình để rồi lại tiếc hùi hụi khi nhớ về một Thiên
Đường xưa cũ...
Bệnh
tình mẹ xấu đi nhiều. Tôi nghỉ việc, mang bà đi khắp Hà Nội vẫn chỉ nhận được
đúng một kết quả: ung thư gan giai đoạn cuối. Trước cổng bệnh viện K, thằng con
trai hai mươi bốn tuổi sực khóc như một đứa trẻ. Mẹ bảo nhất định không để chị
biết.
Sen về
thăm khi mẹ lên cơn sốt cao, da chuyển vàng nhợt nhạt. Chị kéo tôi ra một góc,
thở dài thườn thượt:
- Mẹ
nặng thế này sao không báo chị biết?
- Mẹ
không muốn chị lo lắng.
-
Tiền chị gửi về còn không?
- Cậu
đưa một ít, còn lại em vay thêm.
Ngần
ngừ một lúc, chị lại quay sang:
-
Nghe cậu bảo mày vào gặp cả cha xứ?
- Tại
lúc đấy em quẩn quá!
- Có
được đồng nào không? Ông ấy giảng mùi thế cơ mà!
- Cha
chúc đi bình an.
-
Bình an ấy à? Có mua nổi một viên thuốc không?
Vài
tháng sau, mẹ lên cơn đau vật vã rồi mất. Tôi gọi cho Sen mãi nhưng không được.
Liên hệ với chỗ làm mới biết chị đang tham gia đoàn đại biểu của tỉnh đi công
tác ở Hà Lan. Đám được mấy ngày thì chị về. Tay xách vali, chị nói vừa từ sân
bay về thẳng đây, mấy hôm trước nhận được tin cơ quan báo sang nhưng không thể
đặt được vé về. Chị thay đồ, choàng tấm khăn trắng lên đầu, lặng lẽ đến ngồi ở
nghĩa trang cho tới khi trời tốt mịt.
Buổi
sáng chị ra mỏm Ước, vẽ hình mẹ lên cát rồi nằm xuống. Cả tấm thân ôm lấy những
nét vẽ nguệch ngoạc. Bàn tay chị mơn trớn lên mái tóc, khuôn mặt rồi chực
choàng người che lấy như sợ khối hình kia sẽ phút chốc tan biến. Cát và nước
nhoè đi trong mắt. Mỏm Ước đón đợt nắng sớm, run rẩy cựa mình như sợ chỉ một
chuyển động nhỏ thôi cũng đủ làm chiếc sợi mỏng manh đang giăng mắc trong lòng
của người đàn bà ba mươi đứt ra thành trăm ngàn mảnh...
Bữa
cơm chiều lặng lẽ. Sen bỏ bát ra ngồi ở bậc thềm.
- Chị
phải làm gì bây giờ?
- Một
cuộc hành hương.
Chị
em tôi theo chân một nhóm thiện nguyện trong xứ đạo hành hương nhà thờ chính
toà. Con đường dài ngót bảy chục cây số hun hút những dải phi lao trên triền
cát trắng hoang hoải. Chị ngồi bên tôi, miên man dõi mắt qua ô cửa nhỏ, chốc
chốc lại trở mình. Những tiếng thở khẽ khàng...
Ngôi
nhà thờ ba mươi chín tuổi trầm mặc như một pho tượng cổ mà rêu phong đã ít
nhiều ăn mòn những chứng tích của một thời lửa đạn. Đoàn người lần lượt bước
qua cửa Năm Thánh, khuôn mặt ánh lên sự viên mãn, tựa như thứ viên mãn của
những lữ khách mới được gột rửa bụi bặm sau những ngày dài rong ruổi trong sa
mạc khô cháy. Giữa đám lữ khách kia, tuồng như chỉ có chị và tôi là lầm lũi
trong những hình hài chưa được thanh tẩy. Bỗng Sen tụt lại ở cửa. Chị chậm rãi
cởi quai giày rồi bó gối ngồi thu lu một góc mặc cho ánh mắt dò xét của những
kẻ hiếu kỳ. Đoàn người sau một thoáng chững lại vẫn tiếp tục bước. Tôi sốt
ruột:
- Đã
đến đây rồi sao lại không vào?
- Một
công chức đi xin ơn toàn xá, kẻ phản bội cầu mong được chúc lành, thế vẫn chưa
đủ trơ trẽn à?
-
Công chức thì không cần được thương xót sao? Rốt cuộc thì kẻ phản bội nào mà
chẳng cần một chốn để về.
Bên
trong nhà thờ đang rộn lên tiếng cầu kinh. Sen nhìn sâu vào mắt tôi:
-
Nhưng chị chẳng có lý do gì để quay về lúc này cả?
- Có
đấy! - Nói xong, tôi sục tay vào túi áo, rút ra một mảnh giấy đưa cho chị.
“Sen,
Mấy
hôm nay mẹ thấy trong người khó ở nên nhờ em Thịnh viết cho con mấy dòng đặng
khi không kịp.
Toàn
bộ số tiền con gửi về phẫu thuật, mẹ đã nhờ Thịnh chuyển cho cơ sở nuôi dạy trẻ
mồ côi của các nữ tu tại giáo xứ mình. Con đừng buồn. Mẹ già rồi, bệnh tình lại
nặng. Mẹ nghĩ tương lai của các cháu ở đấy cần hơn.
Có lẽ
mẹ đi mà chẳng có gì để lại cho hai chị em con. Gia tài của mẹ chỉ là một chữ
Thương - thứ của nả mà mẹ đã chắt chiu gom góp từ hồi còn con gái.
Đẹp
nhất của chữ Thương là Tha thứ. Nhưng với một người phụ nữ, tận cùng của chữ
Thương là Đợi.
Bố
con đã bỏ đi khi mẹ cần một chỗ dựa nhất. Rồi đến khi mẹ chỉ sống bằng chút hi
vọng nhỏ nhoi thì con lại ra đi.
Mẹ
tưởng đã chết đi. Nhưng mẹ đợi, kiên trì đợi, rằng một ngày nào đó những người
thân yêu nhất của mẹ sẽ về.
Ngày
con chạy theo những hư vinh cuộc đời, mẹ biết con của mẹ đã lạc lối. Mẹ buồn và
suy sụp. Nhưng mẹ tôn trọng quyết định của con. Không một lời oán thán. Phần
con, nếu là một cán bộ thì con hãy là một cán bộ tử tế. Những bát cơm trắng hấp
khoai mới làm nên máu thịt của con bây giờ. Con đã lớn khôn từ những hạt gạo
trắng nhất, sạch nhất, tinh ròng nhất của mẹ. Không có lý gì để con có thể làm
vấy bẩn hình hài vô giá ấy bằng những đồng tiền nhơ nhớp, những toan tính bon
chen của thói đời.
Nhưng
từ sâu thẳm trong lòng, mẹ muốn con về, về với mái nhà Giáo Hội, rủ bỏ những
danh hiệu phù vân. Hãy coi đây là di nguyện của mẹ.
Mẹ sẽ
còn đợi, mỏi mòn đợi cho đến những giây cuối cùng. Nhưng nếu một ngày phải rời
bỏ cuộc đời này, mẹ sẽ gửi gắm con lại cho Chúa. Người đã rong ruổi tìm con. Và
từ nay, Người sẽ lại thay mẹ đợi con, như đã từng đằng đẵng đợi những đứa con
lạc lối trở về.
Hãy
đi hành hương Năm Thánh. Nơi cánh cửa Lòng Thương Xót, Chúa và mẹ đợi con...”
Chị
oà khóc. Đôi vai rung lên bần bật. Đoàn hành hương đã rời khỏi nhà thờ. Đang
lúc tưởng chừng như chị em tôi bị bỏ lại thì một nhóm người tiến đến. Nom cách
ăn vận, tôi đoán họ không phải người vùng này. Họ dừng lại chỗ chị em tôi hồi
lâu trong khi Sen vẫn ôm mặt.
Một
tiếng hát cất lên. Rồi hai, ba và sau cùng là cả nhóm người đều hát. Giai điệu
bài Lời kinh chiều có phần lỡ nhịp. Cả một khoảng không như vỡ oà. Chị tôi quỳ
gối, nước mắt giàn giụa:
- Mẹ
ơi... con bước qua... cánh cửa này làm sao được... với nỗi ám ảnh... phản
bội?... Con trở về... thế nào đây... khi... lòng con... chưa sẵn sàng... tha
thứ?
Người
phụ nữ trong nhóm có khuôn mặt phúc hậu lặng lẽ đến ngồi, bàn tay khô ráp của
bà đặt lên vai chị:
- Này
em, nghe tôi! Vì đã từng có dịp tham dự nhiều cuộc hành hương nên tôi không lạ
gì với những trường hợp như em. Thường thì người ta cho rằng hành hương là trở
về thượng nguồn, về nơi cao nhất để hứng lấy ân sủng. Cảm giác đó khiến người
ta hoặc là sợ hãi, hoặc là tự mãn. Tôi lại nghĩ khác. Hành hương thực ra là về
với biển, hoà mình vào muôn ngàn con nước. Như thế là đi về chỗ trũng của tội
lỗi, chỗ thấp của khiêm hạ để được gột rửa, để hi vọng được mưa về nguồn. Chúng
ta có là ai thì đều phải bước qua cánh cửa này mới có sức mà mở ra những cánh
cửa khác được. Em hiểu ý tôi chứ?
Không
có câu trả lời. Chị cúi gằm mặt. Người phụ nữ vẫn nhẫn nại vỗ bàn tay lên vai
chị. Không khí trở nên cô đặc. Bỗng Sen ngừng khóc, lấy vạt áo lau vội dòng
nước chực trào ra, gật đầu. Người phụ nữ mỉm cười, dìu chị đứng và sau một
thoáng bất động, họ bắt đầu bước. Chị dựa mình vào người phụ nữ, bàn chân trần
run rẩy đặt lên những viên gạch màu ghi.
Giai
điệu bài hát Lời kinh chiều lại vang lên. Tôi đứng tựa cửa, nhìn hai con người
bé nhỏ đang chầm chậm bước giữa lòng nhà thờ, những giọt nước ứa ra từ mắt,
không sao ngăn được.
Mã số: 16-108
Từ
bữa qua dạm ngõ bên nhà bạn gái thằng Sang tới nay, không khí gia đình ông Năm
trở nên nặng nề, u ám. Ông vẫn chưa thôi cơn sốc mà thằng con trai duy nhất
mang đến. Sốc, rồi ông buồn giận, lo lắng. Không sốc, không buồn giận sao được,
khi ông đã vun vén hết sức cho hai đứa. Nhưng ông có hay biết gì đâu, bọn nó âm
thầm giấu ông, bưng bít chuyện nhà bên ấy có đạo, tận đến phút cuối cùng trước
lúc tính chuyện cưới hỏi cho chúng nó.
Vừa
bước chân vào nhà gái, chưa kịp chào hỏi, đập vào mắt ông bàn thờ Chúa trên cao
giữa gian phòng khách. Ông sửng sốt, quay phắt nhìn Sang. Như đoán được suy
nghĩ của ba, Sang sợ sệt cúi gằm mặt. Cả hai cha con đứng yên, không để ý gì
đến sự tiếp đón niềm nở của nhà Hạnh, để bà Năm tự xoay xở. Mãi lúc sau, ông
mới lúng túng gật đầu đáp lễ, nhưng nỗi tức tối đã dâng đầy, ứ nghẹn trong lồng
ngực. Đến nỗi, ông không nói được lời nào sau đó.
Chỉ
đến khi bà Hạnh từ tốn xin phép vợ chồng ông cho Sang bắt đầu học giáo lý vào
đạo, ông mới hít thở một hơi dài lấy chút bình tâm:
- Thú
thật trước khi qua đây, vợ chồng tôi không biết bên nhà mình đạo Công giáo.
Chúng tôi không có ý xấu gì cả, chỉ vì cả dòng họ có mỗi thằng Sang là con
trai, sau này phải lo việc thờ cúng ông bà…
Nhấp
một ngụm trà lấy giọng, ông ngập ngừng:
- Nên
chuyện này… xin phép anh chị cho vợ chồng tôi suy nghĩ thêm một thời gian…
Bà
Hạnh mỉm cười:
-
Vâng, làm sao để cả hai nhà vui vẻ là được. Anh chị cứ thong thả.
Im
lặng một chút, bà Hạnh tiếp lời:
- Chỉ
xin phép giải thích thêm cho anh chị. Người Công giáo chúng tôi cũng rất coi
trọng việc thờ cúng tổ tiên, có thể hình thức khác, nhưng chắc chắn không thua
kém đạo nào.
Ông
Năm nghe vậy, ngờ ngợ nhìn về phía bàn thờ gia tiên của nhà Hạnh, trên nóc tủ
gỗ thấp dưới bàn thờ Chúa, đơn sơ nhưng trang nghiêm, kính cẩn. Những hình
người đã khuất cười hiền hậu, bát nhang sạch sẽ gọn gàng, bình hoa lay-ơn trắng
muốt, và mâm trái cây cũng vừa được sửa soạn. Tất cả như đang bày biện trong
ông một mối thiện cảm, yên lòng. Nhưng rồi chỉ có vậy. Ông chợt nghĩ về những
bữa cơm cúng tiên thường, giỗ chạp. Ông băn khoăn về tiếng kinh tiếng mõ cầu
siêu, hóa vàng giấy tiền giấy bạc. Nỗi ưu tư buồn giận lại ùa về, ứ nghẹn.
Mãi
một lúc, ông mới cất tiếng:
-
Vâng, tôi hiểu…
Bà
Hạnh chạm nhẹ vào mâm trầu cau trước mặt:
-
Trong thời gian chờ đợi anh chị suy nghĩ, cho phép gia đình tôi chưa dâng món
lễ vật dạm ngõ này lên bàn thờ tổ tiên.
Ông
Năm buồn rầu nhìn mọi người, như thấu hiểu và đành chấp nhận tình cảnh khó xử
cho cả hai nhà. Chỉ có Sang chết lặng, không ngước nổi lên để thấy tất cả đã đổ
vỡ trong chốc lát. Phía sau tấm rèm cửa ngăn với gian phòng khách, Hạnh cũng
bụm miệng nén cơn bật khóc trực trào.
***
Sang
và Hạnh yêu nhau đã mấy năm nay, trong sự thương mến tán thành của hai bên gia
đình. Công việc ổn định, tuổi đời chín chắn, ngoan ngoãn hiền lành, quá đầy đủ
để chuyện kết hôn tưởng không còn gì trở ngại. Nhưng tôn giáo khác biệt, khiến
nỗi lo âu của hai người từ ngày đầu quen nhau luôn thường trực. Sang chia sẻ,
ba anh vất vả cả đời dạy học, dành dụm xây được ngôi nhà thờ họ, sửa sang mồ mả
ông bà trong khu đất vườn nhà, cho tổ tiên vui lòng. Lo toan đau đáu đến thế,
làm sao ba anh có thể cho phép anh, đứa con trai duy nhất của cả dòng họ, từ bỏ
một niềm tin đã bao đời ăn sâu ngõ ngách trong từng lời ăn tiếng nói, từng nét
sinh hoạt hằng ngày, như đạo lý không thể đổi dời. Từ bỏ niềm tin của cả gia
đình, dòng tộc, để khoác lấy một đức tin mới, mà với ba anh, hết sức xa lạ và
khác biệt đến mức không thể dung hoà.
Nhưng
Sang yêu thương Hạnh, không còn gì có ý nghĩa hơn. Lần đầu tiên nhìn thấy Hạnh,
với Sang như một chấn động sâu thẳm của tâm hồn. Buổi sáng ấy, trên đường đi
công tác, anh dừng chân uống ly café điểm tâm đầu ngày trong một quán cóc ven
quốc lộ, đối diện ngôi nhà thờ nhỏ. Và khi tia nắng ban mai bắt đầu trải vàng
trên những ngọn cây lá xanh non, tràn xuống mặt đường nhựa còn chút lãng đãng
mù sương sớm, bóng Hạnh hiện ra từ bên kia, áo dài thướt tha từng bước khoan
thai đến trường dạy học. Sang lơ đễnh nhìn theo, như nhìn một cô gái nào đó bất
chợt ngang qua phố xá ngược xuôi, rồi biến mất, không chút sủi tăm. Bỗng nhiên,
Hạnh dừng chân, quay mặt ngước nhìn ngọn thánh giá trên nóc cao nhà thờ, khoanh
tay, cung kính cúi đầu chào như hướng về, như phó thác, trọn vẹn. Hình ảnh vừa
khiêm cung vừa thánh thiện đó bỗng khơi gợi, bừng sáng trong Sang một niềm tinh
khiết, an lành, thanh thản. Hình ảnh đó đã theo suốt Sang trong chuyến công
tác, tận những ngày sau khi đã về thành phố, thôi thúc anh quay trở lại ngôi
thánh đường, hỏi thăm, gặp gỡ, làm quen và ngỏ lời yêu với Hạnh.
Cảm
giác an lành tinh khiết đó trong Sang càng rõ ràng, nảy nở hơn vào những dịp
cùng Hạnh đi dự thánh lễ. Dù chưa hiểu hết mọi nghi thức, nhưng qua những điều
răn ngắn gọn mà đầy đủ, qua các dụ ngôn giản dị mà sâu sắc, qua lời giảng giải
chia sẻ chân tình của cha xứ, Sang cảm thấy như đang được cởi mở tâm hồn vốn bị
giam kín bấy lâu nay. Rồi như một thói quen, những khi mệt mỏi nặng nề trong
công việc, trong đời sống, Sang lại theo Hạnh bước vào cùng nhan thánh Chúa,
thinh lặng, mở lòng và nghe một nỗi bình an thanh thản tràn về.
Ông
bà Năm xem Hạnh như cô con gái trong nhà, không chút e dè khoảng cách. Những
dịp Hạnh về thăm, tuổi xế chiều của ông bà được sưởi ấm bởi sự chăm sóc chân thành
của Hạnh từ chuyện nhỏ nhặt, đến ân cần quan tâm đúng mực đối với những việc
lớn lao hệ trọng của gia đình. Ông cảm thấy yên lòng về đời sống tương lai của
Sang, và hơn hết là trách nhiệm hương khói cho ngôi nhà thờ họ sau này. Có lần,
ông Năm bộc bạch suy nghĩ đó với Sang và Hạnh, giọng nói và nụ cười mãn nguyện
vô cùng.
Lúc
ấy, hai đứa đã nơm nớp lo âu. Hạnh không muốn tình trạng này kéo dài mãi, nên
vẫn bàn bạc thưa mọi chuyện cho ba má biết, có gì tính tiếp. Nhưng Sang hiểu ba
mình, hiểu định kiến và tập tục gia đình bao đời nay, làm sao ông có thể chấp
nhận cho con trai theo đạo Công giáo, và lập bàn thờ Chúa trong nhà. Chắc chắn
khi đó chuyện dạm ngõ cưới xin của Sang và Hạnh sẽ không thể có được.
Nên
suy đi nghĩ lại mãi, Hạnh cũng đành liều nghe lời Sang. Hạnh chỉ còn biết cầu
nguyện và cầu nguyện, phó thác mọi sự cho Mẹ Maria.
***
Nặng
nề căng thẳng đến hết mấy ngày sau, ông Năm mới hỏi chuyện con trai:
- Sao
chuyện tày trời này mày lại gạt tao?
Sang
cúi đầu ấp úng:
- Dạ
con đâu dám…
- Không
dám mà mày giấu tao suốt cả năm nay, đưa tao vào chuyện đã rồi. Chuyện người
lớn mà mày không nghĩ tao ê mặt sao?
- Con
xin lỗi ba… Con không cho ba hay trước, sợ ba không ưng con cưới Hạnh…
- Vậy
giờ tao hay rồi tao ưng nó cho mày chắc?
- Con
định khi ba qua thăm nhà Hạnh, thấy bên đó cũng ăn ở thờ cúng ông bà đàng
hoàng, ba sẽ coi lại…
Ông
Năm trầm ngâm, nghĩ Sang cũng vì bất đắc dĩ mà làm vậy, chuyện lại chưa đến nỗi
nào.
- Tao
đồng ý con Hạnh là đứa ngoan ngoãn, thời buổi giờ không dễ gặp đứa con gái như
nó. Nhưng cả họ có mình mày, chuyện cúng kiếng sau này mày tính sao?
Sang
nghe ba hỏi như mở đường, liền hớn hở:
- Dạ
bên đó có khác gì mình đâu ba. Họ cũng trọng chuyện lo cho ông bà lắm ba…
- Sao
lại không khác? Họ có cúng cơm không? Có gõ mõ tụng kinh cầu siêu cho tổ tiên
không? Thờ phụng kiểu gì mà lạnh tanh vậy sao ông bà nào chứng?
- Dạ…
Ông
Năm quay sang bà Năm:
- Ý
bà tính sao?
Bữa
bể chuyện bà Năm hốt hoảng vô cùng, vậy là thôi rồi, chết rồi, làm sao chúng nó
cưới nhau được. Nhưng khi bình tĩnh lại, thương con trai, thương con dâu tương
lai hiền lành nết na, bà cũng ráng nghĩ cho ra cách nào tốt nhất. Giờ nghe
chồng hỏi, bà nói ngay:
- Tui
thấy hai đứa nó quen nhau nghiêm túc đàng hoàng. Nhà bên đó ngoài chuyện đạo
nghĩa khác mình, còn lại cũng không có gì chê trách. Tui tính vầy, cho tụi nó
cưới nhau, nhưng đạo ai nấy giữ.
Ông
Năm không trả lời vợ ngay, im lặng suy nghĩ. Nhưng Sang nghe má nói mà rầu thúi
ruột. Ý đó Sang đã từng hỏi Hạnh nhiều lần, lần nào Hạnh cũng buồn bã lắc đầu.
Đã là vợ chồng với nhau, sao lại có thể có đức tin và niềm trông cậy khác nhau
được. Chưa kể chuyện này không dễ gì ba má Hạnh chấp nhận.
- Má
mày có ý vậy, mày nghĩ sao Sang?
Sang
lấy hết can đảm thưa:
- Dạ…
Con thấy vợ chồng mà đạo ai nấy giữ không nên, ba à. Với lại nhà mình cũng đâu
có theo đạo nào, chỉ thờ cúng hương khói cho ông bà thôi. Mà việc đó luôn là
trách nhiệm và tình cảm của con, nên ba yên tâm…
Ông
Năm cau mặt, nỗi tức tối lại ùa về, khiến ông lớn tiếng:
- Mày
nói sao? Mày muốn theo đạo à?
- Dạ…
- Mày
từ bỏ ông bà? Bỏ cha bỏ mẹ à?
Sang
hoảng hốt:
-
Không phải vậy đâu ba. Đạo Chúa đâu có dạy làm chuyện tầm bậy vậy ba. Con theo
đạo, vì con muốn có một niềm tin, một chỗ dựa, chứ không chỉ để cưới vợ. Theo
đạo, con càng kính nhớ ông bà nhiều hơn, càng hiếu thảo hơn, chứ không đời nào
tệ hơn đâu ba…
Ông
Năm ngắt lời, đứng phắt dậy, quát:
- Mày
biết cái gì mà nói. Tao cho thời gian để mày suy nghĩ. Mày đồng ý đạo ai nấy
giữ thì tao qua nhà bên đó nói chuyện với người ta. Còn không thì dẹp, mày muốn
làm gì thì làm.
***
Mấy
ngày sau, cơn nóng giận tức tối cũng nguôi ngoai phần nào, ông Năm cảm thấy
hình như đã áp đặt con quá mà chưa nghe cho hết ngọn ngành. Là nhà giáo, ông
dạy con nghiêm khắc nhưng cũng luôn tôn trọng suy nghĩ của con. Từ khi khôn
lớn, Sang cũng chưa làm ông bà phiền lòng điều gì. Nghĩ vậy, ông đâm ra áy náy.
Nhưng
dứt khoát ông không thể chiều ý Sang được. Từ nhỏ, nghe ông nội và cha mình kể
chuyện, ông Năm đã ghim chặt trong đầu một suy nghĩ, người Công giáo không được
thờ cúng ông bà. Không lập bàn thờ. Thắp nhang vái lạy tổ tiên cũng không. Ông
không cho họ xấu, nhưng luôn ác cảm. Ở đời, đạo hiếu chẳng có thì còn theo đạo
nào được nữa.
Sực
nhớ bữa qua nhà Hạnh, ông thấy bàn thờ gia tiên trang nghiêm, nề nếp, chẳng
khác gì ở nhà mình. Ông ngạc nhiên, chẳng lẽ từ xưa tới giờ ông đã hiểu sai.
“Người
Công giáo chúng tôi cũng rất coi trọng việc thờ cúng tổ tiên, có thể hình thức
khác, nhưng chắc chắn không thua kém đạo nào”. Lời giải thích của ba Hạnh hôm
dạm ngõ giờ mới khiến ông lưu tâm. Ông thấy tiếc vì lúc đó do quá sốc, nên đã
không bình tĩnh hỏi rõ bên ấy thờ cúng ông bà ra sao, những lời đồn đại xưa nay
về đạo Chúa có như ông từng nghe.
Hay
tối nay ông hỏi thằng Sang xem sao? Ông nhủ thầm.
Nhưng
không được, thằng Sang sẽ hiểu ông đang nhường nó, nó sẽ không nghe theo ông
nữa.
Ông
đứng dậy, bước ra vườn, tới phần mộ của cha ông. Ông muốn làm gì đó để cố gạt
hết những cắn rứt khó chịu trong lòng.
Vừa
cặm cụi nhổ mấy cọng cỏ đang lún phún mọc qua kẽ nứt ven chân mộ, ông vừa lẩm
bẩm, kiểu gì thì kiểu, thằng Sang cũng không được theo đạo!
***
Gần
tới ngày giỗ cha, ông Năm ốm nặng, phải vào bệnh viện.
Suốt
một tuần lễ, Sang và Hạnh chạy đôn chạy đáo, vừa lo công việc cơ quan, coi ngó
nhà cửa, vừa chăm sóc ông.
Bà
Năm chặc lưỡi:
- Con
Hạnh lo cho ông mà thấy thương. Cơm bưng nước rót. Thức đêm thức hôm. Tất bật
suốt.
Ông
Năm thở dài:
- Chỉ
khổ cái vụ đạo nghĩa…
- Hay
đợt này ông khoẻ rồi mình coi kỹ lại xem, biết đâu không như xưa nay mình nghĩ.
Ông
lặng im, nửa như đồng tình, nửa còn ngần ngại, rồi lảng qua chuyện khác:
- Mấy
hôm nữa giỗ ba rồi. Mai tui xin về. Nằm đây sốt ruột quá.
Bà
Năm cau mày:
- Con
nó nói ông cứ yên tâm dưỡng bệnh đi, chuyện ông bà để tụi nó lo.
Nhưng
sao ông yên tâm được. Chiều hôm sau ông về, chẳng ai cản nổi.
Vừa
bước vào nhà, ông thấy ngay bàn thờ gia tiên đã được bài trí đầy đủ. Mâm trái
cây tươi tắn, bình hoa trắng ngát thơm. Ông nhìn Hạnh đang lui cui thu xếp đồ
đạc với ánh mắt ngạc nhiên xen lẫn hài lòng.
Nghỉ
ngơi một lát, ông ra vườn thăm mộ. Mấy hàng mộ chí ông bà đã được dọn dẹp sạch
sẽ, tinh tươm. Ông giật mình thấy trên mỗi ngôi mộ đều có hai ngọn nến ly đang
cháy lung linh trong bầu trời chiều. Ngày mốt mới tới giỗ ông nội thằng Sang,
sao hôm nay trang hoàng thế này. Mà không chỉ riêng mộ ba ông, tất cả các ngôi
mộ đều vậy.
Ông
quay lại nhìn hai đứa, như hỏi lý do. Hạnh khẽ giải thích:
- Dạ… ngày giỗ ông trùng với tháng linh hồn,
nên tụi con dọn dẹp để kính nhớ tổ tiên luôn…
Ông Năm nhíu mày:
- Tháng linh hồn? Là sao?
- Dạ… Bên đạo con, tháng mười một là tháng
linh hồn, cầu nguyện cho tổ tiên ông bà đã mất…
Sang
tiếp lời:
- Hôm
nay bên Hạnh đi lễ đọc kinh ngoài nghĩa trang đó ba. Tụi con thấy ông bà mình
nằm đây lạnh lẽo, nên tụi con thắp nến cho ông bà vui.
Ông
Năm thắc mắc hơn:
- Vậy
còn ngày giỗ chạp cuối năm thì sao?
- Dạ,
bên con cũng như mọi người Việt mình thôi bác. Con cháu về thăm viếng tảo mộ
ông bà, cùng đọc kinh cầu nguyện cho ông bà được hưởng phúc trên nước Trời.
- Thế
còn mấy ngày Tết?
- Mấy
ngày Tết bày biện bàn thờ kính nhớ ông bà. Đặc biệt mùng hai dành để cầu nguyện
cho tổ tiên, cả giáo xứ ra nghĩa trang làm lễ đó bác.
Ông
Năm hiểu ra. Bao lời đồn đại xưa nay khiến ông hiểu sai. Giờ ông mới thông suốt
sáng tỏ mọi chuyện, như vừa được mở tấm khăn đen bịt mắt suốt hàng chục năm
nay, như thoát khỏi màn sương mù mụ mị trong suy nghĩ. Từ sau buổi dạm ngõ đổ
vỡ bên nhà Hạnh, nay ông mới tìm lại được cảm giác yên lòng về tương lai của
hai con, và hơn hết là trách nhiệm hương khói tổ tiên, cho ngôi nhà thờ họ sau
này. Yên lòng thực sự.
Ông
thinh lặng ngắm nhìn những hàng nến thắp lung linh đang dìu dặt toả ánh sáng
vàng ấm áp một lúc lâu nữa, mỉm cười mãn nguyện, rồi nhẹ chân bước vào nhà.
Sau
lưng ông, bóng chiều đang dần xuống, êm đềm…
Mã số: 16-109
Hắn
tên Tý, biệt danh Tý lỳ, tên cướp khét
tiếng từng gây biết bao tội ác kinh hoàng cho người dân xóm đạo đã bỏ xứ ra đi
một thời gian nay bỗng xuất hiện trở
lại. Tin này làm bà con giáo dân xứ Martino không khỏi hoang mang sợ hãi.
Tý lỳ
đứng trước ngôi Nhà thờ cổ Thánh Martino lúc 1 giờ trưa, trời nắng gắt, dưới
gốc cây sấu già tỏa bóng râm che phủ thân hình hắn cao to vạm vỡ như khỉ Kinh
Kông, hai tay khuỳnh ra trông hung tợn!
Hắn đứng đó, bầu không khí quanh Nhà thờ đang trong veo bỗng trở nên đặc quánh, một nỗi sợ hãi bao
trùm . Hắn đứng suốt một giờ đồng hồ không nhúc nhích, mắt nhìn trừng trừng lên
lên cây Thập Giá trên nóc cao Nhà thờ
với gương mặt nặng sầu u uất.
Vị
linh mục lững thững bước ra khỏi khuôn viên nhà xứ, ông đứng nhìn bâng quơ lên
bầu trời xanh xám nhạt nắng, mặt trời bị che khuất bởi nhiều cụm mây đen vần vũ
đi qua. Một lát, ánh sáng bỗng quang đãng trở lại. Linh mục vừa trông thấy Tý
lỳ đứng lù lù trước cổng , nhưng ông vẫn
bình thản điềm nhiên bước tới. “Hắn đến
rồi” … Linh mục lẩm bẩm.
Tý
lỳ, con bà Sáu Xẩm trong xóm đạo Martino hiền hòa nhỏ bé, xưa nay chỉ mình hắn
giao du với bọn giang hồ, lừng danh một dạo với những vụ cướp bóc tàn bạo,
những vụ hãm hiếp dã man, từng vào tù ra khám không biết bao nhiêu lần. Chỉ mới
đây thôi, bà con giáo dân tưởng hắn đã
lãnh án từ hình sau một vụ giết người cướp của man rợ…Vậy mà không hiểu
sao giờ hắn lại xuất hiện ở đây! “ Hay hắn vượt ngục!”, linh mục thắc mắc. “
Phải rồi, hắn nổi tiếng có tài vượt ngục đến công an còn phải ngán hắn nữa là
…!”. Vị linh mục bất giác thở dài ngao ngán.
Bây
giờ, tên giang hồ máu lạnh đang đứng nhìn vị Linh mục với cặp mắt sắc lạnh, như
thể hắn muốn ăn tươi nuốt sống ông cha đạo trông yếu đuối hiền lành như con cừu
non đứng trước nanh vuốt con hùm xám. Tên cướp có thể lấy mạng linh mục dễ như
lấy đồ trong túi . Song, dường như ông linh mục chẳng chút sợ hãi. Ông mạnh dạn
tiến đến đứng đối mặt với hắn .
- Anh
hẹn tôi ra đây có chuyện gì không?
Tý lỳ
gầm gừ:
- Lẽ
ra tôi đã giết ông ngay từ lúc tôi vừa trông thấy ông! Tại sao ông dám bán đứng
tôi cho công an?
Linh
mục tỏ ra bình tĩnh:
- Tôi
không bán đứng anh cho ai hết. Tôi đến gặp anh theo yêu cầu của mẹ anh, bà Sáu Xẩm, người đã khóc hết nước
mắt vì anh, bà muốn anh quay về với gia đình, và tôi chỉ muốn khuyên anh hãy ăn năn sám hối …
Tý lỳ
gằn giọng:
- Hừ
…lại ăn năn sám hối! Ông bảo tôi sám hối là sám hối cái gì hả ông cha đạo? Ông không nhớ gí sao?
Hôm đó, ông vừa đến gặp tôi thì công an ập vào bắt tôi ngay …Rõ ràng ông bán
đứng tôi còn gì! Lại còn già mồm bảo tôi
sám hối là sám hối cái gì! Tôi và bà Sáu chẳng còn tình nghĩa mẹ con gì nữa !
Bây giờ, tôi phải lấy mạng ông …
Nói
dứt lời hắn lập tức móc ra con dao sáng quắc, ánh sáng ngời lưỡi dao phản chiếu
ánh sáng mặt trời lấp lánh làm chóa mắt ông linh mục, nhưng ông vẫn bình thản
nhìn hắn. Không chút chần chừ Tý lỳ lao vào vị linh mục như con hổ đói khiến ông không khỏi giật mình, ông chỉ kịp
nhìn thấy ánh dao lóe lên như tia chớp, bằng phản xạ tự nhiên ông nghiêng mình
qua bên trái tránh né … Cùng lúc ấy, có tiếng người lao xao phía trước, tất cả
như làm Tý lỳ phân tâm khựng lại, lưỡi dao của hắn đi chệch hướng đâm sượt qua
vai vị linh mục làm ông té khụy.
-
Thằng Tý lỳ giết cha bà con ơi! Bắt lấy nó!
Đám
đông từ đâu bất ngờ xuất hiện đông đảo, trong tay họ gậy gộc, cuốc xẻng, dao
mác... Tý lỳ hốt hoảng nhanh như sóc lao mình qua bờ rào thoát thân . Một số
người cầm gậy gộc đuổi theo,nhưng Tý lỳ đả cao bay xa chạy. Mọi người xúm đến
đỡ vị linh mục. Ông khoát tay:
- Tôi
…tôi không sao! Hắn…hắn đâu rồi?
- Hắn
bỏ chạy rồi, thưa cha!
Linh
mục cố rướn người nhìn qua sau bờ rào, nơi tên cướp vừa trốn thoát như nuồi
tiếc điều gì đó. Ông nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. Mọi người đỡ ông đứng dậy.
May cho ông chỉ bị vết thương nhỏ nơi cánh tay trái . Mấy người vội xúm vào cầm máu băng bó vết thương cho
ông. Sau đó, cha quay sang nói với mọi người:
- Chỉ
là hiểu lầm giữa tôi và Tý lỳ, mong bà con đừng nghĩ gì . Cám ông các ông các
bà đến kịp lúc. Thôi các ông các bà mau về đi, đừng gây ồn ào làm gì. Tôi cám
ơn Chúa vì mình không sao.
-
Thằng Tý lỳ rất manh động, xin cha cẩn
thận!
-
Được, tôi sẽ cẩn thận hơn. Cám ơn các ông!Thôi chúng ta giải tán nhé!
- Xin
cha bảo trọng, chúng con về!
Mọi
người ai nấy chào cha rồi kéo nhau ra về. Linh mục bước ra đóng cổng lại. Ông
chậm rãi bước vào gian nhà nguyện quỳ gối gục đầu chắp tay ngước mắt cầu nguyện
trước tượng Lòng Thương Xót Chúa.
Ba
tháng sau, mọi việc nhanh chóng rơi vào quên lãng. Linh mục như thường lệ chuẩn
bị cho buồi Thánh lễ vào lúc 5 giờ chiều. Mới hơn ba giờ trời bỗng đổ mưa như trút. Linh mục đang loay
hoay trong phòng lễ thì thấy ông trùm xứ đội áo mưa vào tìm cha vẻ gấp gáp,
gương mặt ông trùm tái xanh tái xám:
-
Thưa cha …xin cha đề phòng, Thằng Tý lỳ lại xuất hiện , nó đang lẩn quẩn quanh
giáo xứ đấy cha ạ! Chúng con đã bố trí người bảo vệ cha. Xin cha cẩn thận! Có
thể hắn lại đến tìm giết cha một lần nữa!
- Tôi
cũng đang muốn gặp hắn đây!
Linh
mục đột nhiên nói khiến ông trùm há hốc mồm nhìn cha.
- Cha
…cha vừa nói gì? Cha không nhớ lần trước
hắn suýt nữa giết cha đó sao?
- Tôi
nhớ ! Nhưng tôi tin hắn không dám hại tôi một lần nữa.
-
Nhưng …chúng con rất lo cho tính mạng cha.
- Mấy
ông cứ yên tâm, Chúa luôn ở bên tôi, quỷ dữ không làm hại được tôi đâu.
-
Nhưng…chúng con chi lo lắng cho cha.
- Ừ,
cám ơn các ông. Nếu gặp lại Tý lỳ tôi biết tôi phải làm gì để khuất phục hắn.
Linh
mục nói một cách dứt khoát , thế nên ông trùm không biết làm sao đành phải ra
về. Đúng như sự lo lắng của ông trùm. Mấy ngày sau Tý lỳ âm thầm đột nhập vào
nhà xứ, lúc linh mục đang đi dạo quanh khuôn viên Thánh đường. Vừa thấy Tý lỳ,
linh mục điềm nhiên nhìn hắn:
- Hôm
qua mẹ anh lại đến Nhà thờ cầu nguyện cho anh suốt buổi sáng.
- Mặc
kệ bà ấy, tôi không quan tâm! Tôi đến đây là muốn ông giúp chúng tôi một việc!
Nghe
hắn nói linh mục thoáng mừng.
-
Việc gì vậy?
-
Chúng tôi cần một nơi trú ẩn an toàn. Công an đang truy nã chúng tôi. Tôi nghe nói cha luôn giúp
đỡ mọi người. Nhà thờ chính là nơi an
toàn nhất vì công an chẳng dám đụng đến Nhà thờ… Nếu ông từ chối, lần này tôi
nhất định không tha mạng cho ông nữa!
- Đây
là nhà Chúa, không phải hang trộm cướp!
- Ông
không biết là tôi có thể giết ông ngay bây giờ sao? Nhưng thôi được rồi, không
có chỗ trú ẩn thì cha nên biết điều mau đưa tiền cho bọn tôi …Nhanh lên !
-
Tiền gì? Nhà thờ không có tiền đâu, đừng nói nhiều vô ích!
Tên
cướp như bị choáng bởi sự cứng cỏi của linh mục, hắn như muốn nổi điên lên,
song hắn biết, hắn không thê giận dữ, bởi hắn đang muốn nhờ vả linh mục, hắn
nghĩ, không thể giết chết ông linh mục vào lúc này được. Nhưng hắn chợt hiểu,
ông cha đạo này không phải vừa, ông ta không dễ bắt nạt , rõ ràng ông chẳng hề
sợ hắn một chút nào. Hắn đang lâm vào đường cùng. Băng cướp của hắn đang thất
thế lâm nguy, có thể bị công an tóm cổ bất cứ lúc nào, giờ chỉ có ông cha mới
có thể che chở cho băng cướp của hắn, thế nên, hắn chỉ muốn hù dọa ông
thôi.Nhưng xem ra, trò hù dọa của hắn chẳng ăn thua gì, ông ấy vẫn cứ vững như
bàn thạch . Cuối cùng hắn bỗng liếc mắt vào gian phòng sau lưng cha, thấy có
chiếc xe máy dựng ở đó. Hắn gằn giọng:
- Tôi cho ông 3 ngày suy nghĩ, khi tôi quay
lại, nếu ông còn cứng đầu đừng trách tôi độc ác!
Tý lỳ
nói xong lao nhanh vào phòng lấy chiếc xe máy của cha dắt ra ngoài. Hắn quát:
- Mau đưa chìa khóa đây!
Linh
mục không nói lời nào, ông lặng lẽ đưa tay vào túi quần lấy chìa khóa xe quăng
cho tên cướp. Hắn lạnh lùng rồ máy phóng nhanh ra ngoài mất dạng.
Tên
cướp vừa đi khỏi, công an lúc ấy mới xuất hiện. Họ tỏ ra tức tối vì không bắt
được Tý lỳ. Họ hỏi cha:
-
Chúng tôi đến muộn, Tý lỳ lại thoát khỏi tay chúng tôi một lần nữa. Hắn đã làm
gì cha?
- Hắn
cướp của tôi chiếc xe máy và đi rồi.
Mấy
anh công an lại thở dài tấm tức . Suốt một giờ liền họ thẩm vấn linh mục, ông
khai không thiếu một chi tiết nào về Tý lỳ kể từ lúc ông đối mặt với hắn. Lúc
công an ra về, linh mục lại quay vào giáo đường quỳ gối trước tượng Lòng Thương
Xót Chúa cầu nguyện.
Bẵng
đi một thời gian không thấy Tý lỳ xuất hiện trong vùng nữa. Có người nói hắn đã
chết mất xác sau một vụ cướp táo tợn ở Sài Gòn, người khác lại bảo hắn bị một
băng ma cô ngoài Bắc thanh toán giết chết ở cầu băngky vì hận thù.
Nhưng
dù Tý lỳ có như thế nào, sống hay chết , mẹ hắn, bà Sáu Xẩm ngày nào cũng đến nhà thờ ngóng chờ thằng con trai và cầu nguyện cho hắn. Người ta trông
thấy dáng bà cụ gầy mòn quắt queo xanh xao ấy quỳ cầu nguyện có khi cả buổi
trước tượng Lòng Thương Xót Chúa. Hình
ảnh người mẹ già nua, gương mặt hốc hác tiều tụy vì mòn mỏi đợi chờ đứa con đã làm
mọi người không khỏi xót xa cho bà.
Hôm
ấy là sáng Chủ Nhật, Thánh lễ vừa xong lúc 7 giờ 30, đông đảo giáo dân đang lũ
lượt kéo nhau ra về sau buổi lễ như đi
trẩy hội. Người ta bỗng thấy một gã ăn xin bị cụt mất một chân, ăn mặc rách
rưới bẩn thỉu, tóc tai rối bù dài chấm cổ, gương mặt đen xạm đầy râu ria rậm
rạp, hắn không đi được chỉ nằm dài ra đường lết đi từng chút một, tay cầm cái
nón chia ra xin tiền giúp đỡ của mọi người. Hắn cố lết người đi như vậy cho đến
khi dừng lại trước cổng Nhà thờ . Nhưng người ta không hiểu hắn lết người đến trước
Nhà thờ làm gì! Có người đến đuổi hắn đi hắn nhất định không đi. Có vẻ như hắn
đang bệnh rất nặng, thân hình hắn để lộ ra những vết thương lở loét khắp cơ
thể, mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Hắn cố thều thào:
- Làm
…làm ơn …cho …cho tôi ….gặp cha …
Thấy
hắn có vẻ tội nghiệp có người vội chạy vào báo cho linh mục biết. Ông linh mục
vội vàng chạy ra, trông thấy gã ăn xin rách rưới người đầy vết lở khiến ông
không khỏi xót xa. Ông liền chạy đến bên hắn. Khi hắn ngước mặt lên nhìn linh
mục, ông suýt kêu lên và nhận ra anh ta chính là Tý lỳ.
- Tý
lỳ! Anh là Tý lỳ đúng không?
Tý lỳ
lại nhướng mắt nhìn linh mục lần nữa , hắn cố cất giọng:
-
Vâng …tôi …tôi là Tý …Tý lỳ.
Linh
mục đau lòng nhìn hắn:
- Vì
đâu anh ra nông nỗi này, Tý lỳ?
- Tôi
…tôi đáng bị thế này…Tôi sắp chết …Tôi về tìm mẹ tôi nhưng không gặp. Mẹ tôi đã
bán nhà đi đâu rồi, xin cha làm ơn chỉ cho tôi.
Linh
mục lặng người xúc động trước ánh mắt cầu khẩn của Tý lỳ.
- Mẹ
anh chết rồi! Chờ mãi không thấy anh quay về bà ấy lâm bệnh nặng rồi phải bán
nhà đi chữa bệnh. Nhưng bà ấy đã qua đời cách nay 2 tháng rồi.
Linh
mục thấy gương mặt Tý lỳ trắng bệch ra, hắn trợn trừng mắt nhìn vào khỏang
không, toàn thân run rẩy rồi gục đầu xuống khóc nức nở.
- Anh
không thể sống thế này được, hãy theo tôi, tôi sẽ giúp anh.
-
Không …Mẹ tôi chết rồi! …Cũng tại thằng con trời đánh này mẹ tôi đã phải chịu
nhiều đau khổ vì nó! Tôi cũng sắp chết … tôi bị bệnh Sida…Tôi xin linh mục cầu
nguyện cho mẹ tôi…Còn tôi , tôi đáng
xuống hỏa ngục!
-
Không, Chúa đầy Lòng Thương Xót, nếu anh thực lòng ăn năn sám hối Chúa tha thứ
cho anh.
Linh
mục vừa nói dứt lời Tý lỳ bỗng ngước đầu lên, rồi hắn lại gục đầu xuống, cả
thân hình hắn run rấy.
- Tôi
…tôi không xứng đáng!
Linh
mục không ngần ngại bất ngờ ôm chằm lấy hắn, khiến hăn rất đỗi kinh ngạc. Linh
mục lấy ra trong túi áo cỗ Tràng hạt rồi nhét vào tay Tý Lỳ. Nhưng hắn bỗng xua
tay sợ hãi .
-
Không …tôi không dám động đến Tràng hạt
của cha bằng đôi tay vấy máu của tôi. Xin cha hãy đeo Tràng hạt vào cổ cho tôi.
Linh
mục xúc động làm theo lời hắn. Khi cha vừa đeo Tràng hạt vào cổ cho Tý lỳ, nhìn
vào mắt hắn linh lục thấy rõ một niềm vui khôn tả, ông lại ôm xiết lấy hắn một lần nữa . Và thêm
lần nữa ông tỏ ý muốn giúp hắn, song hắn một mực từ chối.
Đêm
đó, người ta phát hiện Tý lỳ chết trong tư thế đang ngồi cung kính chắp tay
trước ngực, hai mắt mở to ngước nhìn lên tượng
Đức Mẹ Maria trong khuôn viên Nhà thờ, trên cổ hắn đeo Tràng hạt và cây
Thánh Giá nằm giữa ngực.
Mã số: 16-110
- Mấy
giờ rồi con?
-
Trời còn sớm, má ngủ thêm chút nữa nghe, dạo này buổi sáng lạnh, má dậy sớm lại
ho.
-
Thằng Tân dậy chưa con? Mai giỗ ông nội, con nói nó ở nhà một bữa nghen con. Nó
chê má già cả, má nói nó không nghe.
- Dạ
ảnh còn ngủ! Không phải đâu má, chắc tại dạo này công việc nhiều quá nên…! Để
con nói anh. Má ngủ đi, trời còn lạnh lắm.
Chị
kéo chăn đắp cho mẹ rồi nhẹ nhàng bước ra. Trời còn sớm, mảnh trăng khuyết còn
lưu luyến vòm trời. Tiếng xe cộ, tiếng mấy bà đi chợ sớm, vài tiếng gà, tiếng
chim hòa lẫn vào nhau tạo thành một khúc hòa âm ngày mới. Chị thích nghe những
thanh âm đó của cuộc sống. Sáng nào, chị cũng dậy thật sớm để thưởng thức nó
cho tâm hồn lắng lại, bình an giữa xô bồ bon chen của dòng đời.
Anh
lê thân hình uể oải, đầu tóc bù xù vào bếp thông báo:
-
Sáng nay anh có hẹn, không ăn sáng ở nhà.
-
Vâng! À anh, có chuyện này….
-
Chuyện gì?
-
Chiều nay bên nhà thờ chính tòa, có lễ giỗ 31 năm đức cha Phaolo, anh tranh thủ
về sớm đi nghen.
- Vẽ
chuyện! Chiều nay anh có hẹn rồi. Mà mình có quen đức cha Phaolo đâu. Em thích
cứ đi.
- Mà
anh nè! Mai giỗ ông cố cu Bin, anh sắp xếp ở nhà nghe. Hôm giỗ bà, anh đã không
có nhà rồi, thấy má buồn lắm.
- Ừ!
Để anh tính, mà không chắc đâu.
Chị
thở dài, giọng buồn buồn giận dỗi:
- Vậy
thôi, anh cứ việc của anh, mẹ con, bà cháu em tự lo được rồi. Từ ngày lên chức
trưởng phòng đến giờ, có mấy khi ngày cúng giỗ mà anh ở nhà đâu, má đau anh
cũng giao hết cho em, như thể anh không phải con má vậy.
- Ơ,
em nói hay nhỉ! Anh không con của má thì con ai? Nhưng anh phải kiếm tiền lo
cho gia đình chứ không lẽ cứ ở nhà chăm má sao. Sáng nay em lạ vậy!!
- Tại
em thấy chồng dạo này bỏ bê nhà thờ, cúng giỗ cũng chẳng quan tâm, má chỉ cần
anh về sớm ăn cơm với má, mà ngày nào anh cũng về muộn.
- Anh
hiểu, anh hiểu! Không bàn tới chuyện này nữa. Em yên tâm, anh vẫn giữ trọn đạo
hiếu, anh là dân đạo gốc à nghen! Thôi, không đôi co với em, anh đi làm.
Chị
thấy ấm ức, nghèn nghẹn nơi cổ họng. Ngày xưa, khi chưa làm trưởng phòng, anh
có vậy đâu. Anh là con nhà đạo gốc, đạo dòng, chị nào dám qua mặt! Chị chỉ là
người đạo theo thôi mà, nào đâu rành rỏi như anh! Chuyện thảo kính ông bà, anh
biết rõ luật đạo, còn chị, chị chỉ làm theo trái tim mách bảo. Càng nghĩ, chị
càng thấy buồn. Khóe mắt chị đỏ hoe.
Có
tiếng trở mình, hình như bà nội cu Bin dậy. Chị lau giọt nước mắt còn đọng lại
trên mi, cố tươi tỉnh như không có gì xảy ra. Chị mong bà cụ không nghe cuộc
trò chuyện giữa hai vợ chồng chị. Nghe được, chắc bà cụ buồn lắm! Tuổi già hay
tủi thân.
- Con
nói thằng Tân chưa con?
- Dạ,
con nói rồi má! Ảnh bảo do dạo này công ty nhiều việc quá, để ảnh sắp xếp.
- Nó
thì có khi nào mà không sắp xếp. Thôi mai, má con mình làm mâm cơm, xin cái lễ
cho ông cũng được rồi. – Bà Năm nói giọng buồn buồn.
- Dạ,
chiều nay con đi lễ, rồi con xin lễ luôn. Để con vô lay cu Bin dậy, rồi mình ăn
sáng nghen má. Con hầm cháo xong rồi!
- Ừ,
mà hôm nào hai vợ chồng bây về thăm ông ngoại cu Bin đi, má thấy lâu rồi mà tụi
bây không về thăm ổng. Nói chứ, con trai nó hay vô tâm lắm, con gái chu đáo
hơn.
- Dạ!
Con tính cuối tháng này, má!
…..
Chiều,
cái nắng hừng hực cuối tháng hai đổ xuống con đường nhựa bỏng rát. Không một
làn gió, không một tiếng sẻ kêu. Dường như những chú chim cũng đi trốn cái nắng
nóng đầu hè của dải Cao Nguyên này. Chưa có năm nào nắng nóng như năm nay. Bầu
trời quang đãng không một bóng mây. Chị men theo vỉa hè, đi về hướng nhà thờ.
Cu Bin vừa đi vừa nhảy chân sáo. Cu cậu mới năm tuổi, cái tuổi vô lo, tuổi
thiên thần. Vừa đi cu cậu vừa nhai kẹo, tới gần nhà thờ rồi mà cu cậu còn lột
vỏ thêm một viên kẹo nữa. Tiện tay, cu cậu vứt vỏ luôn xuống đường, làm chị
phải nghiêm giọng:
-
Bin, nhặt vỏ kẹo lên!
- Có
một cái vỏ bé tí hà mẹ, gió sẽ thổi bay thôi mà.
-
Không được cãi mẹ, quay lại nhặt lên.
Cu
cậu phụng phịu quay người, cúi xuống nhặt chiếc vỏ kẹo mà cậu vừa vứt xuống
đường. Cái bộ thấp chũn của cu Bin trông vừa đáng yêu vừa buồn cười. Nhưng chị
cố nén nụ cười lại và giảng giải cho cậu bé năm tuổi.
- Bin
có biết là con vứt vỏ kẹo xuống đất là không ngoan không?
- Dạ,
nhưng chỉ có cái vỏ kẹo bé xíu hà!
-
Đúng rồi, cái vỏ kẹo bé xíu, nhưng mà Bin vứt xuống đường như vậy rồi nhiều
người cũng bắt chước Bin, mọi người cũng vứt đầy đường thì sao!?
- Bin
hông biết!
-
Nhiều người không ý thức như Bin thì sẽ có nhiều rác nè, các cô lao công vất vả
hơn, và nhiều rác sẽ làm không khí không được sạch, Bin hít vào Bin sẽ đau mũi,
sẽ phải đi bác sĩ, chích kim thật đau.
- Dạ,
vậy Bin hổng xả rác nữa, xíu tới nhà thờ, Bin bỏ vào thùng rác.
-
Đúng rồi! Bin của mẹ giỏi lắm!
Thánh
lễ ba giờ chiều. Độ nóng trong thánh đường làm chị nhễ nhại mồ hôi dù chỉ ngồi
nghe giảng. Cu Bin chốc chốc lại lấy tờ giấy quạt phành phạch. Hôm nay, Ông chủ
tế, vị giám mục già khả kính mà chị từng biết. Tiếng ông khàn khàn, trầm ấm
nhắc con cháu biết ơn đến đức cố giám mục Phaolo. Người đã để lại cho giáo phận
biết bao công trình, sự yêu thương và là một tấm gương sáng về đức tin. Ông
cũng nhắc mỗi người thảo kính cha mẹ ông bà, bởi đó là điều răn quan trọng
trong Mười Điều Răn Đức Chúa Trời. Giọng Ông lúc âm vang, khi trầm ấm gieo vào
lòng mỗi người có mặt trong ngôi thánh đường cổ kính. Chị nghe mà lòng thấy xấu
hổ, xấu hổ cho cả ba cu Bin. Chị thấy mình còn thiếu sót nhiều lắm trong đạo
làm con.
Lễ
xong. Cái nóng cũng dịu bớt. Hai mẹ con chị ra về. Thằng cu con cứ líu lo đủ
chuyện trên trời dưới đất. Còn chị, chị suy nghĩ nhiều về bài giảng thánh lễ
hôm nay. Chị miên man nhớ về ngày xưa, khi anh và chị chưa thành vợ nên chồng.
***
Ngày
đó, rào cản lớn nhất để chị đến với anh là tôn giáo. Gia đình chị thờ ông bà,
còn gia đình anh, Công giáo toàn tòng. Chị cự nự “theo đạo rồi em bỏ ông bỏ bà
sao?” khi anh muốn chị học đạo Công giáo. Chị giận dỗi bỏ về, để mặc anh đứng
dưới mưa trong công viên. Cũng một ngày mưa, sau ba tháng im lặng, anh đến,
đứng trước mặt chị, nói: “Mình cưới nhau đi em. Đạo ai nấy giữ”. Lúc đó chị vỡ
òa niềm vui. Nhưng Thiên Chúa lại không muốn điều đó, Ngài muốn chị mãi mãi
thuộc về anh, mãi mãi thuộc về giáo hội Công giáo để tình yêu của chị và anh
trở nên trọn hảo hơn.
Ngày
anh chị đến Ông xin giấy chuẩn hôn nhân khác đạo là ngày Ông đã làm chị thay
đổi suy nghĩ về đạo Công giáo. Ông trò chuyện với chị, thật nhiều.
- Tại
sao con lại xin chuẩn khác tôn giáo? Nghĩa là làm sao?
- Dạ,
thưa Ông, đạo ai người nấy giữ ạ!
- Vậy
có nghĩa là chồng con giữ đạo Công giáo, con con sinh ra cũng được rửa tội và
giữ đạo Công giáo, còn con thì không phải không?
- Dạ!
- Tại
sao?
- Dạ,
con còn phải thảo cha kính mẹ, thờ cúng ông bà tổ tiên.
- Con
suy nghĩ chưa?
- Dạ
rồi Ông!
-
Chắc không! Đạo ai nấy giữ?
- Dạ
chắc.
- Con
đúng là khùng khùng mát mát!
- Ơ,
sao ông nói con vậy! (Chị giận lên, lần đầu tiên, một người gọi chị khùng khùng
mát mát, chị không thể kiềm chế được bản thân, chị giãy nãy)
- Ông
hỏi con tới ba lần, mà con vẫn giữ nguyên quan điểm. Bây giờ ông nói con khùng
khùng mát mát mà con nổi giận thì con siêu khùng siêu mát.
Chị
im lặng, chị suy nghĩ nhiều về câu hỏi của Ông, phải có nguyên do nào đó Ông
mới nói chị như vậy. Căn phòng trở nên im lặng đến ngạt thở. Yên ắng đến mức
một con ruồi bay qua cũng có thể nghe tiếng nó đập cánh. Ông mở lời:
- Con
nghĩ kỹ coi, ai lại đi rước một thằng về làm chồng, chấp nhận cho một thằng
chồng bất hiếu với cha mẹ đẻ của mình, tổ tiên mình. Ai lại chấp nhận đẻ ra đứa
con, để nó bất hiếu với ông bà ngoại, dì cậu, họ hàng bên ngoại của nó! Khùng
mát chứ còn gì nữa?
Chị
dịu lại. Chị thấy Ông nói quá đúng! Ai lại có thể lấy một người, để rồi người
đó bất hiếu với cha mẹ của mình. Nhưng chị vẫn còn cái nút thắt trong lòng chữa
gỡ được. Người ta vẫn nói, đạo Công giáo bỏ ông bỏ bà là sao? Đạo Công giáo
không thờ cúng ông bà là sao? Và chữ hiếu của người Công giáo phải thể hiện
cách nào? Bao nhiêu câu hỏi cứ bám lấy chị. Chị nhìn ông, đôi mắt chị như muốn
nài Ông cho chị một lời giải đáp. Ông tiếp lời:
-
Thôi bây giờ con nói đi, con thảo cha kính mẹ bằng cách nào?
-
Dạ…dạ…mẹ con mất sớm, còn mỗi mình ba con. Con lo sau này ba con qua đời, không
ai lo hương khói cho ba con.
- Vậy
con đợi ba con chết mới thờ cha kính mẹ sao con? Người Công giáo là thờ cha
kính mẹ mọi lúc mọi nơi dưới mọi hình thức. Thôi được rồi, đợi ba con chết, con
hãy thờ cha kính mẹ. Thế bây giờ, Ông hỏi con, con nghĩ như thế nào là thờ cha
kính mẹ?
- Dạ
con không biết!
- Để
ông nói nhé, có phải khi cha mẹ còn sống, con chăm lo phụng dưỡng, khi cha mẹ
ông bà qua đời, tụi con lo ma chay tống táng, nếu có tiền thì hằng ngày thắp
nhang, mua trái cây về trưng trên bàn thờ, khi cúng giỗ thì làm mâm cơm, lạy
mấy cái phải không?
- Dạ!
- Còn
gì nữa không?
- Dạ
hết rồi!
-
Trời đất! Tụi con thờ cha kính mẹ có bấy nhiêu đó thôi sao? Sao tụi con nghèo
quá đi, thờ cha kính mẹ như vậy là nghèo hết sức. Người Công giáo thờ cha kính
mẹ tuyệt vời vô cùng con ạ. Không chỉ có ông, không chỉ có con. Bây giờ, ba mẹ
tổ tiên con, ông cũng không biết, nhưng ngày nào ông cũng dâng lễ cầu cho ông
bà tổ tiên con. Mà không chỉ có ông đâu, trên cả thế giới, người Công giáo trên
cả một tỷ người, không chỉ một lúc hay hai lúc mà mỗi giây mỗi phút, thánh lễ
liên tục, cầu cho các tín hữu đã qua đời, trong đó có mẹ con, tổ tiên con. Mọi
cái, áo quan, bánh trái ngày cúng chỉ đẹp mặt người sống thôi, người sống ăn
còn không nổi, người chết ăn được cái gì. Người Công giáo không chỉ dâng của lễ
là cơm bánh, là lời cầu nguyện, là ý lễ đâu con, mà còn là Mình Máu Chúa KiTô,
là lời cầu bầu của Đức Mẹ và các thánh trên trời. Người Công giáo tuyệt vời vậy
đó con!
***
Vừa
đi vừa nghĩ, chị về nhà lúc nào không hay biết. Bà nội cu Bin lui cui trong
bếp. Thấy chị, bà cười:
- Bây
về rồi đó hả? Má thấy bây về muộn, má cắm nồi cơm rồi đó.
- Dạ,
má để đó cho con, má nghỉ ngơi đi. Má thiệt tình, cứ lui cui hoài à!
- Má
quen rồi, không làm không chịu được. Thôi má lên nhà.
- Dạ!
Với
chị, khái niệm mẹ chồng nàng dâu không còn nữa, bà thật sự như mẹ ruột của chị
vậy. Bà chăm chút thương yêu chị từ ngày chị mới về đến bây giờ. Có lẽ bà bù
đắp tình cảm mà chị đã mất từ lâu. Chị yêu thương bà và bà cũng vậy. Không
những thế, bà còn dặn dò chị và anh phải hiếu thảo với cha của chị, năng thăm
nom ông. Còn anh, anh luôn hiếu kính với cha mẹ hai bên, đơn sơ, chân thành
nhưng dạt dào tình nghĩa, như ngày xưa Ông đã nói với chị. Nhưng từ ngày lên
chức trưởng phòng, anh đổi khác, anh lao vào công việc, những cuộc hẹn và tiền.
Với anh, chỉ cần làm ra nhiều tiền, chu cấp cho vợ con, mẹ già là hiếu thảo,
anh quên rằng, có những thứ, tiền không thể mua được và chữ hiếu không thể dùng
tiền để đánh đổi. Càng nghĩ chị càng thấy buồn! Ước chi anh cứ là anh của ngày
xưa! Giá như có một phép màu để anh thay đổi! Chị cầu nguyện!
***
Sáng,
chị thức dậy sớm như mọi ngày. Chị nhìn ra cửa, cơn mưa cứ ồ ạt trút nước. Chị
thở dài! Một cơn mưa trái mùa. Một vòng tay ấm ôm lấy chị từ phía sau. Một
giọng ngái ngủ thủ thỉ bên tai chị: “Vợ ơi! Hôm nay chồng sẽ ở nhà, đèo vợ đi
chợ, vào bếp làm cơm với vợ để giỗ nội. Vợ đồng ý nhé!”. Chị nắm lấy tay anh, vờ
giận dỗi: “Anh không đi làm sao? Với anh công việc lúc nào cũng trên hết!”. Anh
siết tay, ôm chị thật chặt, im lặng hồi lâu rồi thì thầm như hối lỗi với vợ hay
đúng hơn là nói với lòng mình: “Hôm qua, anh dự lễ mở tay của một cha bạn.
Trong bài giảng, cha kể về người mẹ và sự vô tâm, tinh nghịch của ngài lúc trẻ
đã làm cho bà bị mù đôi mắt, làm anh suy nghĩ rất nhiều. Vợ ơi, xin lỗi mẹ con
em, anh thật vô tâm! Anh cứ nghĩ, cứ chu cấp đầy đủ tiền bạc cho gia đình là
tròn bổn phận, nhưng không, anh đã sai lầm! Nếu một ngày nào đó, mẹ không còn,
em không còn, tiền nhiều cũng chẳng giúp được anh có lại em và mẹ. Và anh…anh
đã xin cơn mưa này đấy, để anh ở nhà. Như một phép lạ phải không em, phép lạ để
anh có chút thời gian nghĩ lại mình…”. Chị quay lại, hôn lên trán anh nhẹ
nhàng! Bất giác, chị nhìn lên ảnh Chúa Thương Xót, thì thầm “Cám ơn cho con cơn
mưa dịu ngọt. Mưa hồng ân, để những giọt nước mát ấy làm tan đi cái oi bức đầu
hè, để tưới mát tâm hồn khô cằn của chồng con, để mẹ con lại thắp lên tiếng
cười trong tuổi già bóng xế”.
Mã số: 16-111
Cuộc
chạy đua không phân thắng bại giữa thời gian và mặt trời, khiến cho khuôn mặt
của những vòm mây biến sắc: từ trong
xanh hy vọng sang hồng tím của sự giận dữ và cuối cùng là xám xịt tức tối. Những
cơn giông ùn ùn kéo đến báo hiệu cho cơn thịnh nộ sắp xảy ra. Phía cánh đồng xa
xa có mấy người nông dân lấm lem bùn đất sợ hãi nhanh chóng vác bừa, kéo cày về
nhà. Lác đác vài hạt mưa tròn trịa rơi vãi tung tóe, rồi nặng hạt dần. Cơn mưa
đầu xuân mang không khí lạnh mỗi lúc một buốt hơn, len lỏi khắp cùng làng ngõ
xóm. Văng vẳng đâu đó là tiếng chó con giành bú kêu ăng ẳng hòa lẫn với tiếng
heo con mới đẻ éc éc không ngủ được vì lạnh, tiếng rắn rết như còi xe hết
bình,…tất cả tạo nên dàn đồng thanh đặc sắc của vùng quê nghèo.
Mưa
tạnh. Trời đã mấp mé canh hai mươi giờ, cái lạnh mỗi lúc một buốt hơn. Bầu trời
loang lổ, rải rác vài ngôi sao bỗng xuất hiện lập lòe, heo hắt như những chú
đom đóm con, để lại trên không trung một nỗi buồn sâu thẳm. Bà năm một mình
ngồi trên sạp tre trước hiên đờ đẫn ngắm nửa vầng trăng bị những giọt mưa cắn
nham nhở biến dạng và sinh khí như bị ai hút hết. Bà ngồi gập hai chân vào đùi,
cái lưng còng veo như con tôm luộc. Một tay chống cằm, một tay cầm tràng chuỗi, miệng lẩm bẩm, mắt hướng về chốn xa xăm, hồn
như lạc vào cõi vĩnh hằng để lại cái xác trơ trọi.
Ai
cũng hiểu sự tình nhà bà, chỉ có bà là không hiểu. Bởi lẽ nó đã ăn sâu vào tận
xương tủy đến nỗi bà quên bẵng đi cái hiện tại phũ phàng, mà ai nấy cũng chắp
lưỡi: “Vậy sẽ tốt hơn cho bà ấy”.
Một
đời đạo đức thánh thiện, bà được gả cho ông biện Bảy (cái tên thân mật mà mọi
người gọi ông). Một gia đình gia giáo, đạo đức, ông bà có năm người con: bốn
người con gái, chỉ duy nhất một cậu út (đứa con cầu khẩn) và cũng là đứa cháu
đích tôn độc nhất. Nhờ Chúa nuôi, cả năm đều lớn lên khỏe mạnh và ăn học đến
nơi đến chốn, đứa nào đứa nấy đều trở nên bài ca của cả xóm, cả xứ đạo.
***
Nói
đến đây ai nấy đều nghẹn lòng. Không khí xuân ảm đạm đến lạ thường, mấy con quạ
mù bay lộn chỗ đậu trước nhà bà kêu la inh ỏi. Bà lấy đá ném nhưng né rồi lại
đậu, chúng nghịch như những đứa trẻ lên ba hiếu động.
Càng
lúc càng ồn ào, náo nhiệt , tiếng quạ lẫn tiếng la hét, khóc thét của mấy người
đàn bà và tiếng chắp răng, chắp lưỡi não nề của mấy người đàn ông làm cho không
khí càng trở nên nặng nề. Một lúc sau, người ta nghe từng phát một tiếng chiêng
nhà thờ. Cả xóm nhốn nháo như bầy gà mất mẹ.
- Ai
chết vậy cà?
- Bữa
giờ có nghe ai đau ốm gì đâu?
-
Trời ơi??? Ông biện Bảy chết rồi.
-
Gì??? Ông biện Bảy chết hả?
-
Chúa ơi? Mà sao ổng chết? Có đau ốm gì đâu?
- Mau
mau qua xem tình hình thế nào?
Miền
quê là thế, thông tin nhanh hơn cả vận tốc gió.
Vài
giờ sau, sân nhà ông đã chật người viếng thăm. Phần vì thương tiếc, phần vì tò
mò về cái chết bất ngờ của ông. Đến nơi, mọi người ai nấy đều giật ngửa người,
không còn dám tin vào mắt mình nữa khi thấy ông
biện Bảy nằm sãi nghiêng trên giường, chung quanh bê bết máu đã sánh
đặc. Vết thương trên bụng làm bằng chứng cho nhát đâm chí mạng. Ông nằm dạt sát
giường, màu da xanh như tàu lá chuối, hệt cái xác cá khô. Hai tay ôm chặt tượng
Chúa Giêsu bằng đồng đen. Cái tượng từ thời xa xưa ông bà để lại, nó rất quý vì
bấy giờ đồng đen rất hiếm. Nghe đâu nhiều lần có mấy người làm ở bảo tàng tỉnh
đến hỏi mua với giá cả trăm triệu, thế nhưng ông nhất quyết không bán. Ai cũng
cho là ông bị điên vì quá sùng đạo, số tiền lớn như thế mà không bán. Có số
tiền đó gia đình ông sẽ được đổi đời, “bán tượng ấy đi để mua hàng trăm tượng
nữa mà về thờ không tốt hơn sao?”.
Có ai hiểu được tình yêu Chúa trong ông, ngoại
trừ bản thân ông. Ông từng nói: “Không một giá trị nào có thể sánh bằng Chúa
của tôi kể cả mạng sống tôi”. Và có lẽ sự thật giờ đây đã rành rành trước mắt,
ngay giờ phút này ông đã chứng minh cho mọi người lời ông từng nói. Chuyện như
không thể xảy ra nhưng đã xảy ra. Một người đạo đức suốt đời tận tụy phục vụ
nhà Chúa không nề hà, than van như ông mà hôm nay lại gặp phải oan cảnh này,
thật đau lòng. “Đúng là trời cao không có mắt” (lời nói trống không bâng quơ của
ai đó giữa đám đông) càng kiến cho lòng người thêm trĩu nặng.
-
Trộm ư? Sao nó chẳng lấy của???
-
Chẳng lẽ ông Bảy kết thù kết oán với ai? Từ hồi nào tới giờ ông có thù với ai
đâu?
- Hay
là…(một sự nghi ngờ bâng khuâng hữu ý hay vô tình của đám bà tám xì xào rồi im
bặt hẳn ).
Hàng
trăm câu hỏi không lời giải đáp như thế cứ dồn dập huyên thuyên, xầm xì rồi to
dần, to dần. Bên ngoài trời đã tối mịt, hiu hắt vài bóng đèn được thắp lên lu
mờ như khung cảnh tang thương nhà ông Bảy. Người viếng thăm cũng thưa dần, chỉ
còn lời ra tiếng vào bàn tán của mấy người đàn bà nhiều chuyện tụ năm tụ bảy
chỉ biết nhìn đời bằng mắt thường và sống bằng môi miệng. Mấy bô lão lưng đã
còng, mắt đã sụp vì không ngủ được, tay run lẩy bẩy ghì chặt chén trà thả từng
ngụm đắng nghét, ngồi bàn chuyện lễ tang. Họ nhắc tới ông Bảy như một vị quan
liêm chính, khôn ngoan một đời mà dại một phút vì quá tin con để rồi phải lãnh
nhận cái chết tức tưởi, tàn nhẫn như hôm nay.
Giờ
đây mọi chuyện mới vỡ lẽ, cái lạnh của không khí nào sánh bì với cái lạnh trong
tâm hồn lạc lối. Quỳ trong nhà lao trống vắng đến rùng rợn, thằng út ôm tượng
Chúa kể lại cái chết của cha mình như một bộ phim hành động.
***
Sáng
hôm ấy, cái hôm mà trời đất u ám, không khí lạnh bao trùm. Mặt trời tái nhợt
núp sau những tảng mây đen khổng lồ, gió cứ ào ạt từ đâu kéo đến tạt vào da
thịt tê rần. Bà bảy vảy gánh rau ra chợ xỏm (công việc thường ngày của bà).
Trời lạnh, chợ ế, rau cũng ế ẩm nên bà về sớm. Vừa về đến cổng bà nghe có tiếng
cãi vã to trong nhà.
- Mầy
làm gì vậy thằng con bất hiếu kia? Tao nuôi mầy ăn học hết tiền hết bạc, tao tự
hào với cả xứ vì nuôi cho mầy ước mơ đi tu, mà giờ mầy xử với tao thế à? Mầy thành
quỷ dữ rồi con ơi là con…(Giọng nói đứt hơi trong tiếng khóc tức tưởi, tủi nhục
của người cha hy sinh cả đời vì con).
- Tui
chỉ lấy cái tượng đồng này bán đi thôi. Ông làm gì ghê vậy. Tui bán rồi tui mua
chục cái khác đẹp hơn cho ông. Tui hết tiền mua thuốc rồi. (Lời nói ồm ồm với
cha lạnh như tờ của thằng út).
- Cả
Chúa mà mầy cũng bán ư?
- Bán
tất. Cứ có tiền là bán?
- Tao
đã nói là mầy không được lấy. Trời ơi, phạm thượng đó con ơi! Dừng lại đi con!
Con đã từng hứa với ba là cho tiền con học ở thành phố rồi ra trường con đi tu
cơ mà? Cớ sao lại ra nông nổi này hả con? (Giọng nói già nua trong nước mắt cầu
con trở về của ông Bảy).
- Hết
lần này nữa thôi. Tôi đau đớn, khó chịu lắm ông biết không?
- Tao
đã nói là không được. Thà mầy giết tao đi còn hơn để tao nhục nhã với bà con
lối xóm.
Tiếng
xô đẩy, giành giật mỗi lúc một gay cấn …và rồi tiếng gọi “Chúa ơi” đứt quãng
trong không trung bao la.
Bà
bảy vứt gánh rau chạy vào và thét lên…. Ngôi nhà như vỡ tan tác để lộ vòm trời
đen ngòm, gió rít vào khung cửa sắt bốc mùi lạnh tanh. Thằng út tay cầm con dao
máu nhỏ giọt chảy vào tim bà đau đến vô cảm. Thằng út bất thần bỏ chạy như bay
và mất dần theo tiềm thức của bà. Chỉ còn lại tiếng chuông chiều vang vọng lơ
lửng.
***
Thằng
út chạy mãi, chạy mãi về phía tiếng chuông. Bất chợt nó dừng lại trước cửa nhà
thờ, đôi chân rã rời, từng khúc xương rời ra, dòng máu chảy chậm dần rồi ngưng
hẳn. Nó quỵ gối xuống, thân thể như tan chảy thành nước, trái tim vỡ tan tành
để lại nỗi đau tột cùng. Con dao đầy máu đang dần dần xuyên qua lớp da rồi đến
từng thớ thịt đâm vào tim nó. Nỗi đau ấy dằn xé hơn cả cơn nghiện mà nó vừa
trải qua. Nó lạnh nhạt nhìn Chúa, hai hàng nước mắt nặng trĩu kéo con tim quay
về đúng vị trí. Một luồng gió mang theo sự can đảm lan tỏa khắp cơ thể nó. Giữa
không gian cô tịch vang vọng bên tai nó tiếng chuông liên hồi: “Hãy trở về, trở
về cùng Ta”. Nó vụt dậy rồi lặng lẽ lê từng bước chân nặng trịch quay về nhà và
thú nhận mọi tội lỗi như lời sám hối cuối cùng với cha nó và rồi nó ôm tượng
Chúa vào nhà lao để thức tỉnh mỗi ngày, bỏ lại đằng sau người mẹ già cô liêu.
Thế nhưng ai đã mang lương tâm thằng út trở về, phải chăng là sức mạnh của
tiếng chuông hay là sức mạnh của tiếng ai đó đang gọi nó. Một phút lầm lỡ, đua
đòi theo chúng bạn cùng lứa ở cái thành phố hào nhoáng, đầy dẫy cạm bẫy đã biến
nó từ một thư sinh chất phát, hiền lành học giỏi thành một tên nô lệ cho ma túy
để rồi cơn nghiện đã khiến nó trở thành đứa con sát nhân giết cha. Chẳng còn
tội lỗi và nỗi đau nào lớn hơn thế nữa. Tưởng chừng như mọi thứ đã chấm dứt,
nhưng không, cuộc sống vẫn còn mãi ở đời này và đời sau. Và có lẽ ông Bảy đang
mỉm cười mà về với Chúa vì sự hy sinh của ông đã đánh đổi linh hồn con trai ông
quay về với Chúa.
Mã số: 16-114
Vào
chiều muộn một ngày đầu đông năm ấy, trên con đường đất đỏ ngoằn ngoèo uốn
khúc, có người phụ nữ khó nhọc đi bộ một mình từ cánh đồng về nhà. Cơn gió mùa
Đông Bắc chợt ùa về chạm vào đôi quang gánh đầy khoai mì cùng với cái bụng bầu
của bà mẹ luống tuổi. Hơi lạnh hanh hao làm đứa con trở mình. Cứ đi được vài
bước bà lại dừng chân ôm bụng thì thào: “Con ơi, cố chút nữa gần về tới nhà
rồi…”. Nhưng không kịp. Bên con sông mùa nước cạn, ngay sườn đê, đám cỏ may khô
cháy không từ chối đón lấy một sinh linh bé bỏng vào đời. Đó là một bé gái có
cặp mắt đen, nước da ngăm đen bánh mật với khuôn miệng nhỏ và một má lúm đồng
tiền sâu thật sâu. Nhưng éo le thay cô bé có một bàn tay khác người. Bà mẹ ôm
con vào lòng, những giọt nước mắt âm ỉ chảy ngược vào trong không thành lời.
Tiếng khóc yếu ớt của đứa trẻ tan loãng giữa khoảng không tranh sáng tranh tối
đang lịm dần quạnh vắng mênh mông. Sự vất vả, cảnh thiếu thốn ấy không đánh gục
được sự dẻo dai của người phụ nữ xứ Bắc đã bao lần nếm trải những tủi nhục của
phận người.
Người
phụ nữ ấy là bà chủ của nó, bé gái ấy là cô chủ của nó. Nó không tên, không
tuổi, không tài. Nó là ngón tay thứ sáu trên bàn tay tật nguyền của cô chủ nhỏ.
Người ta nói : “Với kỹ thuật hiện đại trong các bệnh viện thời nay những trường
hợp như của con bé thì lo gì, có tiền thì chỉ việc phẫu thuật, cắt bỏ là
xong…”. Có kẻ thì buông lời có vẻ xót thương : “Con bé có khuôn mặt sáng sủa,
thông minh vậy mà Ông Trời cứ thích đùa giỡn kiểu ấy. Ai đã có thì được cho
thêm, còn ai không có thì ngay cả cái bình thường nhất cũng bị lấy đi, thật là
bất công vô lý…”
Mấy
bà sồn sồn thì bĩu môi: “Con rơi con vãi, được như vậy là phúc lắm rồi…”. Trong
cái xóm nửa đạo nửa đời này, với hoàn cảnh của bà chủ và sự ra đời của cô chủ
có gì mà người ta không thêm bớt được. Bên tai, cửa miệng thiên hạ trăm lời
trăm ý, bà lặng thinh. Bà chủ âm thầm dặm hỏi về những ca phẫu thuật dị tật
nhưng rồi cũng chỉ biết lùi lũi trở về. Làm sao bà có thể chi trả một số tiền
quá lớn so với gia tài còm cõi của mẹ con bà? Nhìn bàn tay của con gái, bà tự
vấn an: “Cái khó rồi sẽ ló cái khôn thôi, ít ra con mình vẫn còn bàn tay trái
lành lặn, một trái tim khỏe mạnh, một trí khôn đủ để nó biết gọi mẹ, yêu mẹ.
Chỉ mong sao con bé ngoan ngoãn và biết vươn lên…”. Bà bằng lòng với số phận và
gật đầu phó thác.
“
Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó”, nó nghe được bà chủ đã từng đọc như
thế. Hóa ra cái nghèo không mong đợi ấy lại trở nên mối phúc cho số phận nó. Bà
chủ nghèo, cô chủ con nhà nghèo và nó cũng nghèo. Nhờ nghèo mà nó không bị phế
bỏ, từ đó nó tập bắt chước cám ơn Chúa của bà chủ, của cô chủ. Ngay cả những
khi khốn khó nhất nó vẫn thấy họ tạ ơn Ngài.
Từng
lời ru ngọt ngào theo tháng năm dài, cùng sự chắt chiu của bà chủ, với từng đọt
mồng tơi, với canh tím rau dền, với mắm muối dưa cà… nó lớn theo cô chủ nhỏ.
Nhưng có cố gắng mấy chị em nhà nó cũng không thể linh hoạt thân mình để giúp
cho cô chủ có thể cầm nắm được, dù chỉ là một cây bút chì nhỏ cũng thật khó
khăn. Nó bỗng thấy mình phiền phức và vô duyên trên thân thể cô. Và điều gì đến
cũng phải đến. Cô chủ nhỏ của nó bắt đầu phải đối diện với những cái nhìn thọc
mạch, trêu ghẹo từ lũ bạn. Chúng gọi cô là con bé không cha, con bé sáu ngón,
thọt tay…Những ngày đến trường cô chủ thường giấu anh em nó trong vạt áo, trong
ngăn bàn, đằng sau lưng… miễn sao để khuất mắt lũ bạn ác khẩu của cô. Nó soi
thấy mình trong đôi mắt sắc đầy nghị lực ấy. Nó thương cô chủ nhưng đành nín
lặng vì bất lực. Suốt những năm ở trường tiểu học, cô chủ đã nhiều lần thử sức
với nó nhưng bộ xương co quắp khiến nó không thể duỗi thẳng và cử động được,
năm anh chị nó cũng vậy. Việc duy nhất anh em nó có thể giúp cô chủ là đung đưa
để cô có lực thăng bằng bước đi.
Cứu
cánh duy nhất của cô là anh chị bên bàn tay trái. Từ ngày phát hiện ra sự bất
lực của nó, bà chủ đã tập cho cô cầm bút tay trái. Dẫu những nét chữ còn méo
mó, vẹo vọ nhưng có hy vọng. Nó mừng lắm! Những cuốn tập trắng bỗng trở thành
lem nhem bởi cô chủ phải tập viết từ trái qua phải. Các anh chị tay trái không
thể tránh day vào những con chữ khi mực chưa kịp khô. Nó như một con bù nhìn
chỉ biết ngồi nhìn tất cả những khó khăn ấy của cô. Nó thoáng buồn.
Sự
kiên nhẫn, sức chịu đựng và nghị lực của người mẹ nghèo khổ đã được cô chủ thừa
kế từ những ngày tấm bé. Năm tháng thời gian cứ thế qua đi, cô cũng quen dần
với sự hiện diện bất đắc dĩ của nó. Cô mặc cho thiên hạ để ý, dòm ngó, bàn luận
về bàn tay dị tật và hoàn cảnh của mình. Rồi họ cũng thôi nói, thôi nhìn…nó
chợt nghiệm ra rằng : Ở đời này con người ta thật dễ gán ghép, dễ lên án người
khác chỉ vì một quá khứ không mong đợi. Người ta khó tin được rằng chỉ với một
ánh nhìn bao dung hoặc chỉ qua một đêm, người lầm lỗi có thể hoán cải, biến
đổi, khác đi và tốt hơn. Phải chăng nó đã thấu cảm được tất cả những điều ấy từ
nơi mẹ con bà chủ. Còn nó, nó biết ơn cô chủ vì đã không ghét bỏ nó.
Rồi
một ngày cô chủ thành thiếu nữ, có nhiều người bạn khâm phục sự vượt khó của
cô. Nhưng một chốc yếu đuối nào đó, nỗi tự ti ẩn tàng vô thức lại trỗi dậy
trong cô. Nhìn mình trong gương, cô giơ
tay ôm mặt bật khóc. Nó chạm vào những giọt nước mắt long lanh đang đuổi nhau
trên đôi má hồng.
Lần
đầu tiên nó hiểu được mặc cảm và nỗi tủi của một cô gái tuổi mới lớn. Cô chủ
không vui bao nhiêu thì nó buồn bấy nhiêu. Cô tự ti về khuyết tật nơi nó chừng
nào thì nó cũng tủi thân chừng đó.
Nó
bắt đầu biết so sánh và soi mình nơi kẻ khác. Nó còi cọc và xấu xí, nó cũng
muốn được nên hữu ích như các bạn tay trái. Anh chị ấy mỗi người một tài năng.
Ai cũng được khoác lên mình những đường vân tay tròn trịa, cô chủ gọi đó là hoa
tay. Còn nó không hoa. Nó ngưỡng mộ chị ngón trỏ vì lúc nào cũng được đi đó
đây, chị có mặt trong thứ giấy tờ quan trọng nhất của cô chủ, chị mang lại an
ủi cho cô. Các anh chị khác cũng có thể giúp cô cầm bút nắn nót. Em út nhỏ nhất
thi thoảng cũng có thể nhảy múa trên những phím đàn organ. Anh em nó chỉ biết
ngưỡng mộ. Nó thu mình lại với hàng ngàn lý do kiểu như thế. Nó cũng không hiểu
tại sao nó lại trở nên như vậy. Vỏ ốc nó chui vào chặt cứng những nỗi mặc cảm
vô ích. Nó đánh rớt sự lạc quan, tin tưởng mà lúc nhỏ nó học được nơi bà và cô
chủ nó. Nó cũng muốn vượt lên số phận nhưng có thứ ma lực vô hình nào đó cứ cản
chân nó.
Vào
một đên sáng trăng, khi cô chủ say giấc ngủ. Chị ngón trỏ đến bên nó nhỏ to:
- Út
à! Dạo này em có chuyện gì mà chị thấy mắt em buồn và đôi môi em khép kín không
mỉm cười và ca hát nữa?
Đưa
ánh mắt buồn nhìn chị, nó trả lời với một thắc mắc như chẳng liên quan gì đến
điều chị hỏi:
- Chị
ơi! Cô chủ vẫn hay gọi Thiên Chúa là Cha nhân lành, nếu Chúa nhân lành thật,
sao Ngài lại để em sinh ra trên thân thể của cô? Em thấy mình giống như một món
nợ vô dụng…
Chị
ngón trỏ như hiểu ra vấn đề. Im lặng trong giây lát, chị ôn tồn:
- Út
ngốc quá! Thiên Chúa của cô chủ cũng là Thiên Chúa của chị em mình. Cô chủ yêu
mến Ngài hẳn vì Ngài yêu thương cô trước. Sự nghi ngờ ngớ ngẩn của em như vết
nhơ đang quệt lên mặt Ngài kìa! Chị nghĩ Chúa muốn cô chủ “kết bạn” với “cái
nợ” thì sao?
- Nợ
thì là gánh nặng, người ta muốn trút đi chẳng được chứ ai đời muốn mang lấy hả
chị? Mang trên vai một “người bạn” mà họ không hề thích, chẳng hề quý sẽ rất
khổ cho cả hai.
-
Nhưng lâu nay cô chủ của chúng ta vẫn sống yêu đời và hạnh phúc đấy thôi! Em
thử nghĩ coi, giả như cô ấy có “quẳng gánh nặng đi để vui sống” thì cô ấy liệu
có thực vui và thực sự hết được gánh nặng? Em muốn cô chủ là một kẻ trốn “nợ”
và hắt hủi em sao? Nếu vậy, thánh giá, nghị lực, ý chí, trách nhiệm trong cuộc
đời này còn ý nghĩa gì đây?
Nó im
lặng hồi lâu. Chị trỏ chuyển giọng:
- Em
thấy mình là “của nợ” ư ? Vậy lo mà trả, đừng giống như con dế ngồi ở đáy hang
nữa, em sẽ ngộp thở cho mà coi…
Nó
gục đầu không nói, nước rỉ ra nơi khóe mắt. Chị hạ giọng:
- Nếu
em không thể giúp gì được cho cô chủ thì em vẫn có thể hát kia mà, khi hát
những đường vân tay nơi em sẽ hiện lên rõ hơn, hãy ngắm kỹ chúng và em sẽ thấy
sự sống của em trên thân thể cô chủ đã đủ là một quà tặng của Chúa rồi.
- Em
muốn như thế lắm, nhưng đó chỉ là một khát mong, còn thực tế thì…
-
Điều mà em đang chạy trốn cũng như điều mà em đang khát mong đều có sẵn nơi
chính em đấy thôi.
- Vật
em phải trả “nợ” sao đây chị?
-
Cuộc đời sẽ bớt nặng, sẽ tươi vui và ý nghĩa hơn khi em sống tâm tình “nợ là
một quà tặng”.,
- Là
sao hả chị?
- Đơn
giản là trả nợ bằng một ánh mắt biết ơn, một nụ cười hiền hòa, một cái bắt tay
ấm áp hay chỉ là một ý nghĩ cảm thông… Em và cả chị nữa đều nợ bà chủ, cô chủ,
cha mẹ, bạn bè, người thân trong những lúc họ nâng đỡ, sẻ chia vui buồn với
chúng ta.
- Còn
Thiên Chúa thì sao hả chị?
-
Chúng ta nợ Ngài cả cuộc đời hữu hạn này…Từ ngày cô chủ thích những con chữ và
những cuốn sách cô hay tâm niệm “học đạo, học văn và học cách làm người” cô ấy
đã học và đã làm được. Nhờ cô mà chúng ta biết Chúa và nhờ Chúa mà chị em mình
được sống, mà nói đúng hơn là Đức tin của bà chủ đã cho chúng ta sống. Cô chủ
nói: Chúa là Đấng công bằng và giàu Lòng Thương Xót, có kẻ Chúa ban cho rồi
Chúa lại lấy đi nhưng có người Chúa lấy đi rồi Chúa lại đong, lại lắc, lại dằn
mà đổ đầy tràn những ơn lành khác trên họ. Có điều chúng ta có đủ tin để xin,
để tìm và gõ cửa nơi Chúa hay không mà thôi em ạ !
Với
tất cả ngôn từ của lý trí và tình cảm chân thành, dường như chị muốn giúp nó
vượt qua chính mình, vượt qua cái khiếm khuyết về thể lý bằng niềm tin và nghị
lực mà chị đã học được nơi bà và cô chủ.
Đêm
càng về khuya, trăng càng sáng, trong thinh lặng nó miên man đuổi theo những
suy nghĩ chạy dọc trong lòng. Sau cơn rối trí thấy nét mặt nó định tâm hơn, chị
trỏ trầm ngâm rồi kể tiếp:
- Hôm
qua cô chủ cầm tờ nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, em có biết chị thấy gì
không?
-
Thấy gì hả chị?
- Là
hình những thai nhi lấm lem máu tươi…
Nó ớn
lạnh, chị lại hỏi:
- Em
có biết vì sao không?
- Do
người ta mang thai ngoài ý muốn phải không chị?
- Đó
chỉ là một trong hai nguyên nhân mà bài báo viết mà thôi. Là do người lớn họ
nghĩ con mình bị dị tật, nghĩ con mình là quái thai, mà với họ quái thai, dị
tật thì chỉ là gánh nặng, là của nợ và họ loại bỏ…bây giờ thì em thấy Chúa
thương em chưa?
-
Nhưng còn các em bé vô tội kia thì sao chị?
- Tất
nhiên là Chúa cũng thương các em bé đó rồi nhưng theo cách của Chúa em ạ! Ngài
cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như kẻ dữ, người già cũng như em bé thơ, người
tàn tật cũng như kẻ lành lặn…Có điều người ta đã lạm dụng tự do Chúa ban mà tự
cho mình có quyền trên sự sống của con mình, sự ích kỷ đã làm họ mù quáng. Có
lẽ họ tin vào những chiếc máy siêu âm đa chiều hơn là tin vào quyền năng của
Chúa?
Nói
đến đó, chị cúi xuống ghi vào lòng bàn tay dị dạng của nó mấy dòng chữ: “Có
người phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình
mang nặng đẻ đau. Cho dù người mẹ có quên con đi nữa thì Ta, Ta cũng chẳng quên
con bao giờ” (Is 49,15).
Đọc
xong mấy dòng ấy, nó hướng mắt vào bức hình Chúa Giêsu bồng em bé và ngẫm nghĩ
gì đó thật lâu. Buột miệng nó nói : Chị ơi, em hiểu rồi, cám ơn chị, chị ở lại
cầu nguyện cùng em nhé!
Bóng
hai bàn tay, một lành, một tật ịn lên bức tường màu vàng nhạt chiếu xuống bởi
ánh đèn ngủ. Đó là lần đầu tiên nó muốn cầu nguyện cho kẻ khác, lần đầu tiên nó
bước ra khỏi chính mình. Bỗng trong thâm tâm nó cứ lặp đi lặp lại một điệp
khúc: “Con là kết quả Tình Yêu của Ta. Con độc đáo. Con duy nhất. Con không thể
là ai khác cho dù con bắt chước.Ta cần con”.
Phải
chăng đó là bài ca đầu tiên của trái tim ? Bống nó muốn hát…
…
Giữa
khuya, một giọng ca nho nhỏ quyện vào tiếng con trùng gọi nhau trong đêm, thì
ra giọng hát của Ân tự làm cô giật mình thức giấc. Cuốn sách của Helen Keller
vẫn úp ngược trên ngực, một ngón trỏ kẹp ở trang số 288… Ân ngồi dậy làm dấu
Thánh Giá rồi với tay bất chiếc đèn bàn cũ kỹ. Cô hì hục viết, viết về giấc mơ
có thật của mình. Có tiếng gà gáy xa xa, Ân đặt một dấu chấm cho câu chuyện như
cổ tích của mình. Cô buông bút, nhìn bàn tay trái mỏi nhừ trên tập A4 chi chít
chữ, vài dấu mực còn dính trên bàn tay nhỏ. Cô tự cười mình.
Vẫn
bức hình Chúa bồng bé thơ bên góc bàn, Ân nhìn cung kính rồi âu yếm áp tấm hình
vào lòng. Cô thì thầm đọc ba kinh Kính mừng cầu nguyện cho bẩy thai nhi mà vừa
chiều qua cô cùng nhóm bạn với vị cha xứ già vừa chôn cất trong nghĩa trang
Thiên thần. Chợt cuốn lịch bàn có note đỏ ngày 27/03 va vào tầm mắt cô, Ân sực
nhớ cô chưa tập đáp ca cho Thánh Lễ Vọng Phục Sinh ngày mai.
Bên ô
cửa sổ nhỏ, sau một đêm ngủ vùi, dường như chỉ có mấy bông dã quỳ vàng da diết
đón đợi mặt trời.
(Tặng K’Sa, Mai Lan và các em
trong trung tâm khiếm thị Nhật Hồng)
Mã số: 16-117
Sắp
bước vào mùa mưa, không khí và luồng gió thay đổi. Nỗi lo lại hiện lên trên nét
mặt gầy gò của anh. Rời bỏ quê hương, anh đưa vợ và ba đứa con nhỏ vào miền nam
lập nghiệp. Tiền thu được từ việc bán mảnh vườn nhỏ ở quê chỉ đủ mua một thửa
đất nhỏ nơi vùng đất mới. Anh cùng vợ ra sức dựng một ngôi nhà tạm bợ, ngôi nhà
được lợp bằng những tấm tranh do chính tay hai anh chị cắt về và đan nên. Xung
quanh ngôi nhà được thưng bằng những tấm ván đã cũ kĩ. Nơi vùng đất mới này,
cuộc sống tuy còn nhiều khó khăn nhưng hầu hết mọi người đều có nhà vững chắc.
Có lẽ họ di cư vào đây cũng đã lâu. Mọi người đi qua nhà anh đều ngỏ vào với
con mắt hiểu kì, không biết họ đang cảm thông hay đang nghĩ cuộc sống của anh
sẽ như thế nào nơi vùng quê hẻo lánh bằng hai bàn tay trắng. Thêm vào đó, anh
cùng vợ phải ra sức kiếm tiền nuôi ba đứa con nhỏ.
Thường
thì anh đi làm cuối tuần mới về. Vào mùa mưa, công việc nhiều nên anh làm thuê
cho những người trong làng, buổi tối được sum họp với gia đình. Hôm nay đi làm
bị mắc mưa, anh cảm thấy hơi mệt, toàn thân rã rời, ăn cơm xong anh vội lên
phòng ngủ, bất chợt giữa đêm vợ gọi:
-
Chồng ơi?
Dường
như anh không nghe được tiếng vợ gọi. Người vợ lay nhẹ vào lưng chồng và gọi
tiếp:
-
Chồng ơi?
- Sao
vậy vợ ?
Vợ
chưa kịp trả lời anh đã nhận biết điều gì đang xảy ra. Trời đang mưa to, những
giọt nước mưa thẩm qua lớp tranh đã mục nát chảy xuống giường nơi vợ chồng anh
và ba đứa con nằm ngủ. Anh vội di chuyển con và dùng bao nylon chèn vào những
lỗ hổng. Vợ ôm con ngủ tiếp. Anh không sao ngủ lại được, anh lăn qua lăn lại.
Dường như có một cái lạnh đang len lỏi vào tâm hồn anh, không phải là cái lạnh
của thiên nhiên, của mưa gió, đó là cái lạnh của tâm hồn, cái lạnh xẻ sâu vào
bên trong tâm hồn. Anh thấy thương vợ và các con. Anh là người chèo chống con
thuyền gia đình giữa phong ba, những lại để cuộc sống người mình yêu thương
phải trôi dạt vào hoàn cảnh bi đát. Tâm trạng anh không sao diễn tả được. Anh
tự nhủ với lòng mình sẽ siêng năng làm việc, hy vọng mai này cuộc sống tốt hơn.
Anh vội ngồi dậy đọc kinh rồi xuống bếp nấu cơm. Anh không quên hấp một ít
khoai lang để dành phần đưa đi làm.
Nơi
ngôi làng của anh, hầu hết là người Quãng Ngãi di cư vào, không một gia đình Công
giáo. Anh hỏi thăm mọi người xem gần đây có nhà thờ nào không nhưng không một
người nào biết. Sau này qua tìm hiểu anh mới biết là có nhà thờ nhưng xa lắm.
Lâu lắm rồi anh chị không đi lễ, không xưng tội. Anh nhớ cảm giác Thánh Lễ sốt
sắng nơi quê hương, nơi mọi người cùng nhau đi lễ, cùng chuyện trò, cùng chung
bao niềm vui nỗi buồn của đời thường. Nơi đây anh không sao tìm được cảm giác
linh thiêng đó.
Hằng
năm, vào dịp lễ thánh Antôn, anh đưa vợ và con đi dự lễ. Bảo là đi lễ nhưng tới
nơi thì mọi người về hết rồi. Anh cùng gia đình vào đọc kinh, cầu nguyện rồi
cùng nhau đi bộ về nhà.
Niềm
hạnh phúc đối với anh là có một người vợ chịu thương, chịu khó, biết động viên
chồng những lúc khó khăn và chăm con thật tốt. Mỗi lúc đi làm anh thấy yên tâm
vì ở nhà đã có vợ quản xuyến mọi việc. Vào mỗi buổi tối hoặc sáng, anh chị cùng
các con đều đọc kinh chung với nhau. Anh muốn giữ thói quen tốt đẹp được thừa
hưởng từ bố mẹ, đồng thời anh muốn nuôi dưỡng đời sống đức tin nơi vùng hẻo
lảnh này, đặc biệt anh mong qua các việc làm đó giúp mấy đứa con có đời sống
đạo đức và khôn lớn trong ơn nghĩa Chúa . Sáng nay gia đình đang vội ăn sáng để
chuẩn bị đi làm bỗng có tiếng gõ cửa và giọng nói vang lên.
- Mày
mở cửa ra mau?
Anh
vừa mở cửa thì một nhóm người xông vào đánh anh tới tấp. Anh chưa kịp định hình
được chuyện gì thì khuôn mặt đã bầm tím. Người vợ ngăn cản, vả lại tiếng mấy
đứa nhỏ hốt hoảng khóc người ta mới dừng không đánh anh nữa.
- Sao
mày dám ăn trộm gà của nhà tao?- Tiếng một người hét lên.
- Ông
nói gì tôi không hiểu.
- Mày
còn giả vờ không biết sao?
Họ
lại xông vào đánh anh.
- Nhà
mày nghèo, không phải mày ăn trộm thì ai vào đây nữa? Từ ngày mày chuyển vào
đây là xảy ra những chuyện thế này.
- Đạo
của mày dạy mày vậy hả?
Mặc
sức hai vợ chồng thanh minh người ta vẫn không tin. Hôm nay được một trận đòn
nhừ tử, trên người đầy vết bầm tím, đau quá nên anh không đi làm được. Anh ở
nhà làm vườn cùng với vợ. Hai vợ chồng làm cỏ đậu và trò chuyện vui vẻ bỗng anh
hỏi vợ:
- Vợ
nè?
- Sao
vậy chồng?
Anh
thinh lặng một lúc rồi nói tiếp:
-
Mình chuyển về quê sống nhé?
- Sao
vậy chồng?
- Ở
đây người ta đối xử với gia đình mình tệ quá.
-
Đừng chồng à. Khó khăn lắm chúng ta mới vào được nơi này, nhà mình mới mua được
mảnh đất tốt nữa. Vợ chồng mình chịu khó làm ăn ít năm sẽ đỡ khổ.
- Ở
đây lại không có nhà thờ nữa?- Anh nói tiếp.
-
Không có rồi sẽ có mà anh, Chúa thương Ngài sẽ ban cho.
Lời
vợ khuyên có vẻ hợp lý, anh đành bỏ ý định về quê. Hôm nay trong làng lại xảy
ra chuyện mất trộm, người ta bắt được kẻ cắp. Qua lời khai của nó, mọi người
mới biết là đánh nhầm anh. Anh không phải là người ăn trộm những lần trước. Tối
hôm đó, nhóm người kia lại kéo đến nhà. Thấy nhóm người cũ, mấy đứa con của anh
mặt biến sắc, chúng hoảng hốt chạy vào trong phòng. Chúng đang mường tượng
chuyện gì sắp xảy ra. May thay lần này không xảy ra bất cứ cuộc xung đột nào,
không phải để đánh đập nhưng là xin lỗi. Từ ngày đó, mọi người quan tâm gia
đình anh hơn. Những đặc tính tốt lành nơi vợ chồng anh giờ này người ta mới
nhận ra, cái nhìn bị che khuất bởi màn tối nào đó làm người ta không thấy được
sự chân thành nơi anh chị. Nhưng giờ mọi chuyện đã khác, họ bắt đầu nể phục vì
nhân cách của anh chị. Bị đối xử bất công nhưng anh không bao giờ hận thù, anh
tâm niệm rằng chắc là Chúa đang rèn luyện bản thân mình.
Sáng
nay, vợ nấu được ấm chè xanh, anh gọi bé út qua mời mấy nhà hàng xóm sang uống
nước. Từ ấm trà, mọi tiếng vui cười vang lên. Hơi ẩm từ bát chè xanh như ánh
nắng sưởi ẩm tâm hồn người ta. Cuộc sống gia đình anh ngày một khẩm khá, rẫy cà
phê anh mua hồi nào giờ nay đã cho thu hoạch. Năm nay thu hoạch được mùa, nguời
vợ bèn bảo chồng:
-
Chồng! Mình vào đây cũng gần mười năm rồi, mình đưa các con về thăm nội ngoại
nhé?
Lời
nói của vợ dường như trúng với ý định của anh. Thế là hai vợ chồng cùng mấy đứa
con bắt xe trở về thăm quê hương. Khi gần tới nhà, anh cứ nhìn ra cửa sổ, cảnh
vật dường như thay đổi nhiều, không còn giống thời anh chuyến đi, mọi vật lạ
lẫm với anh giống như anh chưa từng sống ở đây. Có những đoạn đường anh không
nhận ra được nữa. Chiếc xe lăn bánh, khoảng cách nhà lại trở nên gần hơn, càng
gần tới nhà lòng anh hồi hộp không sao diễn tả được. Tim anh càng lúc càng đập
mạnh. Anh quay sang ôm vợ và con vào lòng, mọi người rưng rưng nước mắt vì sắp
được gặp ông bà. Khi thấy anh chị và mấy đứa cháu vừa bước vào cổng, bà nội vội
chạy ra ôm mấy đứa rồi khóc, lâu lắm rồi bà cháu mới gặp nhau, mọi người đều
khóc trong niềm hạnh phúc.
- Mẹ
khỏe chứ, bố đi đâu hả mẹ?- Anh vội hỏi.
Mẹ
anh rưng rưng nước mắt rồi nói:
- Bố
con mất hơn hai tháng nay rồi. Mẹ không có cách nào liên lạc với con được.
Đôi
chân anh sụp xuống, toàn thân rã rời. Anh khóc như một đứa trẻ. Tâm hồn anh
trống rỗng, một nỗi đau xẻ sâu vào tim anh, mọi thứ xung quanh anh như đang
quay cuồng. anh không thể đứng dậy được. Vậy là những lần anh thức suốt đêm
viết thư cho bố mẹ nhưng không đến nơi được. Anh thấy thật có lỗi, thật bất
hiếu với những công lao của bố mẹ, mọi thứ đang dội vào đầu anh. Mẹ ôm anh vào
lòng và an ủi.
-
Những ngày nằm trên giường bệnh bố thường hỏi tình hình của các con và cháu,
không biết tụi nó có khỏe không, cuộc sống có tốt không? Mẹ nói với bố là các
con và cháu vẫn khỏe?
- Sao
lâu rồi mà gia đình nó không về thăm tôi với bà nhỉ?
Người
mẹ nói đến đó anh càng khóc to hơn.
- Bố
thấy có lỗi vì chưa giúp được gì cho các con. Bố không bao giờ than trách các
con. Tụi con đừng quá đau lòng, giờ này trên thiên đàng chắc bố đang dõi theo
các con. Bố chỉ mong các con luôn khỏe mạnh và sống đẹp ý Chúa.
Lòng
anh phần nào được an ủi. Anh cùng gia đình ra mộ thắp hương cho bố. Đứng trước
mộ bố, gia đình anh không ai nói lên lời, mọi người đọc kinh, anh không kìm
được nước mắt, anh cầu nguyện thật nhiều cho bố.
٭٭٭٭٭٭
Sắp
bước vào thời kì tưới nước cho cây cà phê nên anh và gia đình phải trở lại miền
nam. Anh muốn đưa mẹ đi để phụng dưỡng mẹ, vì với anh sự ra đi của bố làm anh
thấy chưa làm tròn trách nhiệm của người con. Mẹ anh muốn ở lại để lo thắp
hương cho bố, khi nào thuận tiện sẽ vào thăm vợ chồng anh.
Anh
trở về nhà mình trong nước mắt, tâm trạng anh bao nỗi niềm đan xen. Anh vui vì
có được thời gian ở bên mẹ và thắp được nén hương cho bố. Nhưng anh vẫn cảm
thấy buồn, nỗi buồn không diễn tả được. Có nhiều người khác cũng theo anh vào
nam lập nghiêp. Không khí ngôi làng giờ nhộn nhịp hơn. Họ cùng chung nhau mua
hai sào đất để dựng một ngôi nhà nguyện. Gia đình anh là người đóng góp nhiều
nhất. Ao ước của anh bao năm giờ mới thực hiện được. Anh đã làm nhà cho mình,
giờ mới làm được một ngôi nhà nhỏ để phụng thờ Thiên Chúa. Từ ngày có người
cùng quê, thêm vào đó đời sống thánh thiện và hiền lành của anh chị cảm hóa
được nhiều người theo đạo, họ cũng muốn có một cuộc sống hạnh phúc như anh chị.
Họ xin phép Cha xứ thành lập giáo họ và nhận thánh Antôn làm quan thầy bổn
mạng.
٭٭٭٭
Chỉ
ít ngày nữa là đến lễ bổn mạng của giáo họ, cái lễ đặc biệt trong đời. Mọi
người, không phân biệt lương giáo đều nghỉ làm để lo công việc cho Thánh Lễ. Họ
chia nhau phát quang cây cối hai bên đường, san lại những ổ gà, lau và quét
mạng nhện trong Nhà thờ. Nam nữ thanh niên xách những xô nước tới lên mặt đường
cho đỡ bụi, những đứa trẻ thấy thích thú nên chúng cũng ùa vào làm chung. Mọi
người từ già đến trẻ đều có công việc của mình. Thánh Lễ diễn ra hết sức ẩm
củng. Cả giáo họ không kể lương giáo có một bữa ăn thịnh soạn. Thức giấc sau
bữa tiệc, anh sực nghĩ về những điều đã qua, để có được ngày hôm nay, anh phải
trải qua bao khổ cực, nhưng anh biết rằng ở đâu đó tình yêu Chúa luôn hướng dẫn
anh.
Sáng
sớm, bầu trời đầy sương đang bao phủ xóm làng, mặt trời đang dần nhô lên chiếu
tỏa những tia nắng xua tan đám sương dày đặc. Ánh mặt trời dường như cũng xóa
đi những đen tối nơi tâm hồn mỗi người. Hơi ẩm của nó như bếp lửa hồng sưởi ẩm
tâm hồn giá lạnh của con người nơi vùng quê hẻo lánh. Mở đầu một ngày sống mới,
hoạt động của mọi người lại nhộn nhịp, họ trở lại với nhịp sống hằng ngày để
bươn chải lo toan bao nhu cầu cuộc sống. Nhưng phía trước họ đã không còn là
bóng tối thủa ấy, phía cuối con đường có một tia sáng đang dẫn bước chân họ.
Với anh, trong ảnh mắt vẫn còn điều gì đó, chắc là hình ảnh người bố hiện về
trong tâm trí, cũng có thể hình ảnh của người mẹ già đang phải vất vả với công
việc đồng ảng. Mọi việc rồi sẽ tốt đẹp nếu biết tin tưởng vào Chúa, anh tự nhủ
như thế rồi vội đứng dậy ra chạy xe công nông vào rẫy.
Mã số: 16-118
Đang
yên giấc trong căn phòng ấm cúng, Hải bổng choàng tỉnh vì điện thoại có tin
nhắn.
“ Ba ơi, con nhớ Ba, con có thể gặp Ba được
không?”
Câu hỏi của bé An đã làm thức dậy nơi anh bao
nỗi niềm vốn đã cố chôn vùi nhưng thật ra luôn canh cánh bên lòng.
Một
năm rồi, kể từ ngày vợ chồng anh chia tay, căn nhà phải bán đi để Lan trả nợ.
Lan dẫn hai con về bên ngoại, Hải vào sống trong chung cư gần công ty. Từ đó
anh không còn liên lạc gì với họ nữa.
Thời gian như một giấc mơ, cho tới lúc này anh
cũng không thể tin mình lại rơi vào hoàn cảnh như hiện nay. Cách đây 20 năm, khi mới bước chân
vào đất Sài Gòn lập nghiệp, với đôi bàn tay trắng, anh đã phải vất vả rất
nhiều. Những lúc một mình bươn chãi với cuộc sống, nhớ mẹ, nhớ anh chị em, Hải
tự hứa với lòng mình là khi đã có sự nghiệp anh sẽ không sống cảnh cô đơn một
lần nào nữa, vậy mà…
Từ
một thanh niên nhà quê chỉ với bằng trung học phổ thông, nhưng với một quyết
tâm phải vươn lên, Hải đã tự học trong khi vất vả mưu sinh. Anh đã gầy dựng sự
nghiệp, có nhà cửa và trở thành phó giám đốc công ty xuất nhập khẩu Thành Đạt.
Rồi Hải gặp Lan, một cô gái xinh đẹp, hiền thục và đang làm kế toán cho công ty
của bạn anh.
Đám
cưới của hai người là một lời chúc phúc. Cặp đôi hoàn hảo trai trài gái sắc
được sự ngưỡng mộ của bao bạn bè và đồng nghiệp. Lan chỉ sống một mình với mẹ,
cô đồng ý theo đạo. Sau khi kết hôn, anh đưa mẹ và các anh chị em của mình vào
thành phố. Các em của anh tiếp tục học đại học và ra trường. Các anh chị có
công việc ổn định và cuộc sống hơn hẳn đời sống nơi miền quê ngày nào. Đối với
bà con dòng họ, anh còn giúp nhiều người tìm công ăn việc làm và họ biết ơn anh
lắm. Trong mắt mọi người, Hải là một anh hùng, là thần tượng, một người mẫu
mực, tài năng. Lời anh nói ra thường được mọi người nghe theo. Gia đình của anh
là niềm mơ ước cho nhiều người.
Xuất
thân là gia đình đạo gốc nhưng đã lâu lắm rồi, sau khi lên thành phố làm việc,
Hải đã không còn nhớ đến Chúa. Vì là người Công giáo nên đám cưới của anh cũng
được tổ chức ở Nhà Thờ, con anh cũng rửa tội nhưng rồi sau đó thì hầu như anh
rất ít đi lễ. Anh bận lo tạo sự nghiệp. Nhất là từ khi lên chức, để tiếp tục
thăng tiến, Hải phải cố gắng hơn nữa, làm gì có thời gian dành cho Chúa. Anh
cũng không còn nhiều thời gian dành cho gia đình, vợ con. Lan vì đạo theo nên
cũng chẳng mặn mà gì chuyện kinh lễ. Dù bao lần mẹ anh phàn nàn về đời sống đạo
của gia đình, Hải chẳng mấy quan tâm…
Cho
đến một ngày, cuộc sống gia đình anh bổng rẻ sang một lối khác. Đó là khi Lan
quen với Tiến. Y đã có gia đình và là tay ăn chơi sành điệu. Mọi người và bạn
bè lên tiếng nhưng Hải không tin. Làm sao có chuyện đó được. Lan trước giờ là
một người vợ hiền thục. Với lại Lan tìm đâu ra một người chồng gương mẫu, giỏi
dang như anh…
Mãi
đến ngày kia, anh tận mắt chứng kiến Lan cùng người tình đi vào khách sạn. Khi
trở về, Lan đã thú nhận tất cả. Hải còn biết thêm, cô đã vay nợ rất nhiều trong
thời gian qua để lo cho Tiến, gia đình của anh ta cũng như cung phụng cho đám
bạn bè của họ trong những cuộc ăn chơi.
Trong
cơn tức giận, Hải quyết định ly hôn. Lan cũng đồng ý vì cô đang say sưa với
tình yêu mới. Thế nhưng chỉ một thời gian sau đó, khi phát hiện Lan đã hết giá
trị lợi dụng, Tiến đã bỏ Lan để trở về với mái ấm gia đình mình. Thì ra anh ta
chỉ là một tay xã hội đen, thấy Lan hiền lành, đơn sơ nên lừa cô để lấy tiền.
Lan hụt hẫng vì bị phản bội, cái giá phải trả cho kẻ dại khờ. Cô vật vã, khóc
lóc trước sự thật phủ phàng. Chỉ tội hai đứa bé Nguyên và An còn nhỏ dại đã
thiếu vắng tình cha giờ lại phải chịu đựng nỗi đau của mẹ.
Phần
Hải từ khi chia tay vợ con, đã rơi vào chán nãn, thất vọng, hận đời, hận người
và giận luôn cả Chúa. Anh xấu hổ với gia đình, bạn bè, người thân, cho dù mọi
người không ai coi thường anh, họ vẫn cầu nguyện cho anh, vẫn kính trọng anh
nhưng anh không còn mặt mũi nào nhìn họ được nữa.
Khi
không còn sống với nhau Hải mới phát hiện mình còn yêu Lan. Hải nhận ra trong
sự phản bội của Lan, anh cũng có một phần trách nhiệm. Anh chỉ biết làm việc,
đưa tiền về nhà cho vợ con. Với bản tính gia trưởng, anh quyết định hết mọi
việc lớn nhỏ trong nhà, Lan không được có ý kiến và chỉ biết làm theo. Chỉ có
Lan là quan tâm và lo lắng cho chồng con thật đầy đủ còn cô thích gì, cần gì
anh hầu như không biết. Ngược lại, khi đi với Tiến, Lan được quan tâm, chăm
sóc, coi trọng, cưng chiều, được hưởng thụ qua những buổi tiệc, cuộc chơi….
Đang
phân vân, không biết trả lời con thế nào thì bỗng chuông điện thoại reo và
tiếng một cô gái:
- A
lô, chị Lan có phải là người nhà của anh không? Chị bị tai nạn đang cấp cứu
trong bệnh viện Chợ Rẫy.
Hải
nhìn số gọi đến. Đúng là điện thoại của Lan. Chỉ kịp khoác chiếc áo và lấy mũ
an toàn, Hải phóng xe đến bệnh viện.
Gặp
cô gái báo tin cho anh trước cửa phòng cấp cứu. Cô ta nói tình trạng Lan rất
nguy kịch nên đã làm thủ tục cho Lan vào cấp cứu rồi. Cô ta chỉ là người đi
đường nhưng thật là tốt bụng, Anh nhận hồ sơ và hết lời cảm ơn cô.
Hải
gọi điện cho Bé An, bảo con báo cho bà ngoại và anh ngồi chờ.
Nửa
tiếng sau, bà Hoa mẹ vợ anh và hai con tới. Vừa thấy anh, An và Nguyên đã khóc
nức nở.
Ôm
hai con vào lòng, anh xúc động không nói nên lời. Hải mong gặp lại các con
nhưng không phải là trong hoàn cảnh này.
Thời
gian thật nặng nề, ba tiếng đồng hồ trôi qua.
Cửa
phòng cấp cứu xịch mở, bác sĩ bước ra. Hải đứng bật dậy.
- Bệnh
nhân sao rồi bác sĩ ?
- Tình
trạng bệnh nhân rất nguy kịch, đầu bị va đập mạnh nên bị chấn thương não, chúng
tôi đã cấp cứu nhưng tim cô ấy lại có vấn đề nên rất khó tỉnh lại.
Bé An
nước mắt ràn rụa vừa khóc vừa nói: “Lạy Chúa, xin cứu má con. Lạy Mẹ Maria, xin
cho Má con được tỉnh lại…”. Nguyên thấy chị khóc cũng khóc theo.
Quay
qua Hải, An nói: “Ba ơi, Ba cũng cầu xin Chúa đi Ba. Soeur dạy Giáo lý của con
nói hễ hai ba người họp lại cầu xin điều gì thì Chúa cũng ban cho”.
- Cầu
nguyện hả… Ờ, con cầu nguyện đi…
Đầu
óc rối tung, Hải đổ nhào xuống ghế và bất động.
Khóc
một hồi lâu, hai đứa nhỏ mệt thiếp ngủ bên Bà ngoại.
Bà
Hoa nãy giờ cũng nước mắt tràn trề. Bà thương cho đứa con gái hiền lành nhưng
gặp nhiều đau thương. Với một giọng trầm buồn bà kể với Hải: Từ khi bị Tiến bỏ
rơi, Lan bị sốc nặng, lại mất việc ở công ty nên phải xin làm công nhân ở một
công ty khác. Cô vất vả lo cho hai con đi học. An học lớp 5 và Nguyên lớp 1. Bà
thì già rồi nên chỉ ở nhà đi chợ nấu ăn. Nửa năm trở lại đây, Lan vì làm việc
quá sức nên rất hay mệt. Nhưng cô phải cố gắng vì gánh nặng của gia đình chỉ
trông vào một mình cô. Rất may, Lan có quen một người bạn Công giáo đã nâng đỡ
Lan rất nhiều. Cô ấy rủ Lan đi Nhà thờ, Lan đã cho hai con đi học giáo lý. Lan
đã tìm được sự an ủi và sức mạnh nơi Chúa để tiếp tục cuộc sống. Bà rất mừng vì
con gái mình trở nên mạnh mẽ hơn…
Như một người thất thần Hải đứng dậy bước đi.
Anh nói với mẹ là đi ra ngoài một lát. Thật ra anh cũng không biết đi đâu,
nhưng nhìn thấy Lan nằm bất động trên giường bệnh anh vô cùng sợ hãi và lo
lắng. Hải chỉ muốn cho mình được bình tỉnh trở lại. Với những bước chân nặng nề
vô định anh không biết mình đã đi bao lâu. Cho đến khi nhìn lên thấy một Nhà
thờ, thoáng chút do dự, sau đó anh bước vào bên trong.
Lặng
quỳ ở hàng ghế cuối cùng, Hải thưa với Chúa: “Lạy Chúa, giờ con phải làm sao
đây? Bây giờ con mới đến với Chúa, Chúa có tha thứ cho con không? Con biết mình
sai rồi vì đã từ bỏ Chúa. Nhưng xin Chúa hãy xót thương cứu Lan qua cơn nguy
biến này…”
Không
gian thật trầm lắng. Chỉ có tiếng gió nhẹ và tiếng chim sẻ ríu rít trên trần
Nhà thờ. Ở đây, Hải cảm thấy thật dễ chịu và lòng mình nhẹ hơn đôi chút.
Trên
Thập giá, ánh mắt Chúa Giêsu đang nhìn anh, và Hải nghe như có tiếng nói trong
tâm hồn.: “Cha đã tha cho con rồi. Con cũng hãy tha thứ cho Lan và cho chính
mình đi. Có như thế thì con mới được bình an”.
Ngước
nhìn lên cung thánh với hàng chữ: Hãy đến với lòng thương xót Chúa, Hải thầm
thỉ: “Vâng, lạy Chúa, xin Chúa hãy ban sức mạnh cho con. Con xin phó thác mọi
sự trong tay Ngài”.
Đứng
lên, Hải quyết định trở lại bệnh viện thưa với mẹ vợ để anh được chăm sóc Lan
và lo cho hai con.