EYMARD

An Mai Đỗ O.Cist.

 

 

SỐNG ĐAM MÊ

giúp nên hoàn thiện

 

Hành trình từ nhân bản

đến tâm linh

 

 

NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO

 

2013

LỜI NÓI ĐẦU.

Cuốn sách bạn đang cầm trên tay được hình thành từ một ngẫu nhiên hết sức thú vị. Trong khi tra cứu thuật ngữ Passion: cuộc thương khó của Chúa Giêsu, tôi lại thấy chúng có một nghĩa khác là Đam mê. Sự trùng hợp này đã tạo nơi tâm trí tôi một sự chú tâm và ý thức lớn lao về chủ đề này. Sau đó tôi càng xác tín hơn về định hướng của mình khi tham dự các tiết học về môn Tâm Lý học do linh mục Nguyễn Đình Vịnh OFM, tiến sĩ tâm lý trị liệu, giảng dạy tại học viên. Trong dịp đó, chúng tôi thuyết trình về chủ đề Đam mê mà đã được ngài đánh giá cao. Thời gian sau, tôi tiếp tục được tham dự những buổi nói chuyện về Nhân cách do nữ tu Trần Thị Giồng CND, cũng là tiến sĩ Tâm lý trị liệu với nhiều năm kinh nghiệm trong việc giảng dạy và trị liệu. Từ đó, tôi đã quyết định tiếp tục theo đuổi đề tài này và tìm cách tiếp cận dưới nhãn quan Nhân cách. Nhưng người viết sẽ mở rộng theo nhãn quan nhân cách tôn giáo. Như thế, đam mê sẽ được “nhập thể” trong hành trình tâm linh.

Điều thao thức của người viết là trình bày cách nào giúp bạn đọc dễ lĩnh hội. Chắc hẳn, cuốn sách này không phải là một nghiên cứu thực nghiệm của Tâm lý học nhưng là một sách thuộc loại hướng dẫn kỹ năng sống. Vì vậy, chúng có xu hướng dẫn dụ thực hành. Song bạn sẽ không tìm được những hướng dẫn cụ thể, vì những nguyên tắc thực hành thiết thực không thể phổ quát cho mọi người, nhưng phải đáp ứng cho một đối tượng cụ thể; trong đó, phải xét đến: môi trường, di truyền, cá tính, ý chí của cá nhân...Đó là một việc nhiêu khê, ngoài khả năng người viết.

Trong cuốn sách này, sau khi xác định thuật ngữ đam mê, người viết đề cao giá trị của đam mê như một lực đẩy giúp bạn định hướng và sống đam mê. Tiếp đến, người viết trình bày về những mê lầm trong cuộc sống ngang qua ba đam mê chủ đạo: Danh, Lợi và Thú. Sau đó, từ những kinh nghiệm đau thương của thực trạng đam mê vừa nói trên, người viết đề ra những bậc thang giá trị, hầu giúp bạn xác lập một lần nữa những gì là đam mê đúng đắn. Cuối cùng, là những chứng nhân đam mê; chính những người này đã hoàn tất những đam mê của mình trong những nền văn hoá Đông – Tây khác nhau. Qua đó, người viết muốn khẳng định rằng, trong bất cứ xã hội, nền văn hoá nào, con người đều khả dĩ sống đam mê và hoàn tất nó một cách khả quan. 

Chúng ta cùng khởi động từ câu chuyện người thật việc thật.

Tiger Woods sinh ngày 30 tháng 12 năm 1975 là một vận động viên Golf chuyên nghiệp người Mỹ. Cha của anh là Earl Woods, một tay chơi Golf nghiệp dư, người đã có ảnh hưởng lớn nhất trong cuộc đời sự nghiệp của anh. Ông đã truyền đam mê chơi Golf cho anh từ lúc 2 tuổi, và đến năm 11 tuổi, anh đã đánh bại đối thủ đầu tiên là chính cha mình. Năm 1996, anh chính thức bước vào môn thể thao này với tư cách một tay chơi Golf chuyên nghiệp. Dần dà, anh đã đi vào lịch sử huyền thoại của nước Mỹ, với kỷ lục quán quân nhiều năm. Nhưng gần đây, anh công khai tự thú rằng: là một người nghiện sex. Mặc dù, anh đang sống rất hạnh phúc bên người vợ và hai con. Với nỗi đam mê sắc dục, anh đã quan hệ với gần 20 phụ nữ khác nhau đủ mọi tầng lớp: từ các nữ diễn viên khiêu dâm đến những nữ chủ hợp đêm. Ngoài ra, anh còn nhiều lần hẹn hò với người tình một đêm.

Như thế, chúng ta thấy, nơi anh, có hai nỗi đam mê: thể thao và sắc dục; một tốt, một xấu. Đánh giá khách quan này chỉ dựa trên đối tượng đam mê. Với đam mê thể thao là một điều tốt, anh cần phát huy và phát triển tối đa. Còn đam mê sắc dục là một nguy hại, vì không làm chủ được bản thân, anh đã sa đà trở thành một tay nghiện sex. Cuối cùng, tiền mất tật mang, anh phải trả 100 triệu bản cho người vợ khi phân chia tài sản trong cuộc ly dị này.

Đứng trước đam mê xấu đại loại như thế, chúng ta đưa ra hai giải pháp: một là triệt tiêu đam mê ấy, hai là chuyển hướng nó. Cách thứ hai sẽ là hướng đi của cuốn sách này; vì theo Karl Jaspers: “ Không một thiện chí hay một thiện tâm nào, không một lý luận hay một chương trình biện pháp nào, nói tóm lại, không một lực lượng nào, vật chất hay tinh thần, có khả năng bịt mồm bịt miệng của đam mê đến độ làm cho nó hoàn toàn bị hủy diệt[1]. Thật vậy, đam mê nằm trong chính khuynh hướng của bản tính con người nên hủy diệt đam mê là hủy hoại mầm mống hoạt động, là tự hủy diệt mình. Bởi vậy, thay vì chúng ta cứ loay hoay tìm cách chặn đứng và bóp nghẹt đam mê thì cần chuyển hướng và thăng hoa nó.

Và cuốn sách này là đứa con tinh thần đầu tiên nên không tránh những thiếu sót, rất mong bạn đọc thông cảm. Chính khi đón nhận cuốn sách này, bạn nhận lấy hoa trái của niềm đam mê của người viết.

Bây giờ, xin mời bạn bước vào thế giới của đam mê.

DẪN NHẬP

Có thể nói, hạn từ thành công mang một hấp lực rất lớn, đến nỗi, nó là “nỗi ám ảnh” của con người. Vì vậy, con người truy tìm và khám phá mọi phương thế đạt đến thành công; khởi đi từ thế giới bên ngoài đến những thực tại bên trong. Đã có một thời, con người nói đến nhiều chỉ số IQ.

CÁC LOẠI CHỈ SỐ

IQ - chỉ số thông minh là khái niệm được nhà khoa học người Anh, Francis Galton đưa ra trong cuốn sách Hereditary Genius xuất bản vào cuối thế kỷ 19. IQ - (Intelligence Quotient – chỉ số thông minh), khái niệm này đã “thống trị” khá lâu trong quan niệm về thước đo phẩm chất dẫn đến thành công của con người. Một người bình thường có chỉ số IQ khoảng 100, còn nhà thiên tài như Einstein đạt đến 150.

Chỉ số này đôi khi được đồng hóa với tính suy luận của con người. Nhưng thực tế cho thấy, không phải ai có chỉ số thông minh cao hay đạt kết quả cao trong những năm học đường, đều thành công trong cuộc sống. Trong số họ cũng có người “thành công” nhưng là thành công trong việc tổ chức cướp nhà băng.[2] Thật vậy, có tài mà không có đức là người phá hoại. Vấn đề đặt ra, yếu tố nào thực sự quyết định đến việc thành công?

Tiến xa hơn bước nữa, năm 1995 Daniel Goleman đã đưa ra một khái niệm mới: chỉ số cảm xúc (EQ – Emotional Quotient) [3] như một yếu tố cơ bản dẫn đến thành công. Chỉ số này mô tả kỹ năng hay khả năng nhận thức để xác định đánh giá tâm trạng và điều tiết cảm xúc của bản thân cũng như người khác. Chính khi người có chỉ số tri cảm xúc cao biết rõ và làm chủ cảm xúc của mình mà không làm ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả của công việc. Sự phát hiện chỉ số mới này giải thích tại sao một số người không thông minh lý tính IQ nhưng có sự nhạy cảm cao lại thành công hơn. Có thể nói, đây là bước đầu mà khoa học nhìn nhận tầm ảnh hưởng của cảm xúc trong đời sống con người.

Có một số người muốn phối hợp hai chỉ số IQ và EQ khi gọi một tên chung là trí tuệ xúc cảm, nhưng phần lớn các nhà khoa học không chấp nhận cảm xúc thuộc loại trí thông minh. Thật vậy, EQ không thể được đo bằng con số. Cho dù, bạn có chấp nhận phối hợp hai chỉ số này, cả hai cũng không phải là yếu tố hoàn toàn quyết định sự thành công của con người.

Chỉ sau hai năm, tức năm 1997, nhà tâm lý học người Mỹ, Paul Stoltz lần đầu tiên đưa ra một khái niệm mới: AQ (Adversity Quotient) trong cuốn Adversity Quotient:Turning Obstacles into Opportunities (AQ - Xoay chuyển trở ngại thành cơ hội). Trong đó, ông định nghĩa AQ là đại lượng đo khả năng đối diện và xoay sở của một người trước các thay đổi áp lực và các tình huống khó khăn gọi tắt là chỉ số vượt khó. Như chúng ta biết, tiến sĩ Stoltz là giám đốc dự án ứng phó toàn cầu và phụ trách giám sát tại 17 quốc gia. Ông được người điều hành của Excellence ca ngợi “là một trong số 100 nhà tư tưởng có ảnh hưởng nhất của thời đại chúng ta”. Quan trọng hơn cả, cuốn sách này sẽ giúp người đọc tìm lại được nguồn nghị lực bên trong để kiên cường chiến đấu và chiến thắng. Bằng những kiến thức, kỹ năng lĩnh hội được từ AQ - Chỉ số vượt khó, chúng ta không những sẽ cải thiện được bản thân mà còn có thể giúp những người khác, cũng như chính tổ chức của mình tiến lên phía trước.

Cho đến năm 2005, tác giả nhà báo Thomas L. Friedman đã cho xuất bản cuốn “Thế giới phẳng: tóm lược lịch sử thế giới thế kỷ 21”, đề cập đến hai khái niệm CQ (Curiosity Quotient - Chỉ số tò mò) và PQ (Passion Quotient- chỉ số đam mê). Nhưng đến những năm gần đây, PQ - chỉ số đam mê mới được chính thức tác giả Virender Kapoor giới thiệu trong tác phẩm  PQ - chỉ số đam mê. Trong đó, tác giả cho rằng: "Chất lửa trong con người, hay chính là chỉ số say mê, đã đóng góp rất nhiều cho những thành tựu kỳ diệu của nhà khoa học thiên tài Albert Einstein hơn cả chỉ số IQ của ông". Thật vậy, sự đam mê là ngọn lửa thổi bùng lên lòng nhiệt huyết, khiến mỗi chúng ta không ngừng khám phá những tiềm năng vô tận ẩn sâu trong mỗi con người. Virender Kapoor còn khẳng định: “Đam mê mang đến cho con người hai điều: thứ nhất, nó giúp chúng ta được là chính mình, sống và đối nhân xử thế như mình mong muốn. Thứ hai, nó hòa hợp và làm hoàn thiện bản thân” [4]. Tất nhiên, hoàn thiện bản thân theo tác giả, là sự thành công được nhiều người biết đến và nhìn nhận. Nhưng, cuốn sách bạn đang cầm còn có tham vọng hơn, hoàn thiện bản thân theo tinh thần kitô giáo, nghĩa là nên thánh. Vì như chân phước Gioan Phaolo II nói: “Thành công lớn nhất của đời người là nên thánh”.

 

SỐNG ĐAM MÊ ĐỂ NÊN HOÀN THIỆN.

Phần đông con người trên thế giới đều mong muốn và đi tìm sự thành công. Đó không chỉ để chứng minh năng lực của bản thân mà còn thỏa mãn khao khát chiến thắng vốn tự có trong mỗi con người. Mà chiến thắng lớn nhất là làm chủ bản thân, nghĩa là đạt được điều mình muốn. Bạn có thể kể hoặc viết ra một loạt những ước muốn của mình nhưng xét cho cùng, tất cả chỉ là phương thế giúp đạt đến ước muốn cao cả nhất là hoàn thiện bản thân,[5] nên thánh mỗi ngày.

Chúa Giêsu đã mời gọi mọi người: Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện. Thế mà, đã có một thời gian dài, người ta nghĩ rằng, nên hoàn thiện hay nên thánh là việc dành riêng cho bậc trọn lành, những người “đi tu”. Còn bạn, bạn nghĩ sao ? Nếu như người khác Chúa trao cho năm nén bạc để họ sinh lợi ra năm nén khác thì bạn được Chúa trao cho hai nén, lại không sinh lợi hai nén sao? Ai nấy sẽ hạnh phúc trong chức phận của mình, vì đã hoàn thành sứ mạng được trao ở trần gian.  

Bởi đó, khi cuốn sách này đề nghị với các bạn: sống đam mê để nên hoàn thiện, có thể tạo cho bạn một cảm giác khó chịu, vì từ lâu đam mê chỉ được hiểu là dẫn đến sa đọa. Điều này không thể có nơi các thánh,[6] thì nói gì đến việc nên thánh bằng cách sống đam mê. Ở đây, chúng ta có thể hiểu một cách khái quát: “các đam mê là thành phần tự nhiên của sinh hoạt tâm lý con người. Chúng nối kết với đời sống cảm giác và tinh thần. Theo lời của Đức Kitô, tâm hồn là nguồn phát xuất các rung động đam mê”.[7] Chính lúc làm chủ các khuynh hướng này thì con người có cơ may sống hoàn thiện bản thân. Đó là điều các nhà thiên tài đã tận dụng tối đa, và thành công trong đời sống cụ thể cách nào đó. Đơn cử trường hợp của chân phước Têrêsa Calcutta vì đam mê phục vụ Thiên Chúa trong người nghèo khổ mà ngài đã hoàn tất đời sống mình trong sự thánh thiện.

 Có thể nói, cuốn sách này là một cố gắng lấy lại thế quân bình cho việc sống đam mê, và chúng tôi muốn khẳng định rằng cả Thiên Chúa cũng sống đam mê theo một nghĩa siêu việt nhất, như lời Đức Thánh Cha Benedicto XVI đã khẳng định trong thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, rằng: “Một mặt, chúng ta thấy mình đứng trước một hình ảnh rất siêu hình của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối và là nguồn mạch mọi loài; nhưng mặt khác, chủ tể tác tạo hoàn vũ này … Logos, Đấng Thượng Trí-lại đồng thời là một người biết yêu với tất cả đam mê của một tình yêu thực sự” [8].

Quả thât, Thiên Chúa vẫn đang sống đam mê bằng một tình yêu thực sự cũng muốn mời gọi bạn sống đam mê đích thực để đạt đến Ngài, vì Ngài là Tình Yêu, “nỗi đam mê đích thực” mà mỗi chúng ta nhắm đến. Cuốn sách này, cách nào đó sẽ giúp bạn đạt đến điều bạn đang mong chờ. Điều chúng ta cần làm lúc này là đánh thức đam mê, vì theo Vince Lombardi thì “nếu trong bạn trước giờ vẫn chưa có được ngọn lửa đam mê thắp sáng, thì bạn phải thổi bùng nó lên”.

ĐÁNH THỨC ĐAM MÊ

Truyện kể rằng: có một người nhặt được quả trứng đại bàng đặt vào ổ trứng gà. Tất cả cùng nở ra và lớn lên. Chúng cúi mặt xuống đất chỉ biết bắt mồi, mổ trùng mà ăn… cho đến một ngày, chú gà đại bàng ngẩng cổ lên trời cao thấy một con chim vĩ đại, nó hỏi chú gà khác: “con gì đấy?” – “Đó là chúa tể của các loài chim. Nó thuộc về trời cao còn chúng ta thuộc về trái đất”. Một ngày kia, chú gà đại bàng nằm mơ nghe tiếng vọng từ trời bảo rằng: “Mày không thuộc đất thấp, nhưng thuộc về trời cao. Mày là chúa tể các loài chim”. Tỉnh giấc, chú sống với một ý thức mới, tôi là chúa tể các loài chim tôi thuộc về trời cao. Một ngày đẹp trời, chú đã tạm biệt đàn gà và tung cánh bay thẳng hướng về mặt trời.

Cũng vậy, chúng ta được đặt làm chủ điều khiển muôn loài và thuộc về trời cao, chúng ta phải dùng đôi cánh ĐAM MÊ mà hướng thẳng về cội nguồn và cũng là đích điểm của đời người. Ví như đôi cánh giúp chim bay cao, đam mê cũng giúp con người vươn tới Chúa. Ví von như thế cũng chưa lột tả được chiều kích nội tại của đam mê vì đam mê là quà tặng được ban cho con người ngay từ đầu. Hơn nữa, đam mê ví thể bản tính thứ hai của con người. Bản tính thứ nhất giúp xác định con người với một nhân phẩm đáng tôn trọng, bản tính thứ hai cao trọng hơn khi nó giúp tái lập sự hiện hữu độc đáo, riêng biệt của một nhân vị. Thật thế, đam mê làm nên phẩm chất độc đáo nơi chúng ta.

Bạn cần dành nhiều giờ cho đam mê và nhận diện ra nó vì đam mê không dừng lại ở những việc giải trí mà đam mê gắn liền với sứ mạng của bạn ở trần gian. Chúng ta sẽ bàn sâu rộng điểm này sau nhưng ngay bây giờ bạn phải xác tín giá trị lớn lao của nó để việc bạn dành nhiều giờ đầu tư không trở nên vô ích. Trong lúc bạn đang khám phá niềm đam mê chủ đạo của mình, chúng tôi xin giới thiệu cho bạn những nhân vật nổi tiếng với cách thức họ đã nhận diện niềm đam mê của mình và phát huy thế mạnh bản thân.

Có một giai thoại kể lại:

Đại tướng Nhật Bản là Nabunaga quyết định tấn công quân giặc, cho dù đội quân của ông chỉ có “một chọi mười”. Nhưng ông biết chắc thế yếu của quân địch và sẽ dành chiến thắng, còn binh sĩ của ông thì đầy nghi ngờ điều đó.

Trên đường đi đến chiến trường, ông đã dừng lại ở một đền thờ Thần Giáo. Sau khi đã cầu nguyện trong đền thờ, ông đi ra và nói:

“Bây giờ tôi tung một đồng tiền lên: nếu ‘ngửa’ chúng ta sẽ thắng; nếu ‘sấp’ chúng ta sẽ thua”.

Ông tung đồng tiền lên: “ngửa”. Các binh sĩ nức lòng chiến thắng nên họ đã ra quân và thắng trận cách dễ dàng.

Bạn biết không ? Vị chỉ huy này đang cầm trong tay một đồng tiền đều hai mặt ngửa. Ngửa hay sấp chỉ là chiêu bài điều binh khiển tướng của các vị chỉ huy.

Ở đây, chúng ta ghi nhận công của ông đã kích thích những tư tưởng tích cực nơi các binh lính, đồng thời, kích động niềm khát khao giành chiến thắng nơi họ.

Trong cuộc đời của bạn, chắc hẳn, cũng có người đã đến gõ cửa lòng bạn, muốn khơi gợi nỗi đam mê nơi bạn. Họ đến rồi đi, nhưng nỗi đam mê vẫn trong bạn, nó cuồn cuộn như những đợt sóng vỗ dập, vượt qua mọi hiểm nguy, lướt thắng tất cả để giúp bạn sống thực sự đam mê.

Có một ngày bạn buồn, “tôi buồn chẳng biết vì sao tôi buồn”, bỗng nghe được một bản nhạc, cảm thấy mình phấn khởi và lấy lại sức sống. Tài năng của người cha đã khơi dậy nỗi đam mê âm nhạc nơi bạn: muốn phục vụ người khác, muốn lấy đàn mua vui. Đó cũng có thể là cách thức Chúa muốn bạn phục vụ trong nỗi đam mê này.

Mahatma Gandhi [9] đã từng bị tống khỏi chuyến tàu ở Nam Phi vì ông là người Ấn Độ. Ông rất bất bình khi bị đối xử bất công, nhưng thay vì trở nên con người hiếu chiến đứng lên chống lại những người nhục mạ mình, ông đã coi đó như một bài học giúp mình sống cao thượng hơn khi lấy “việc lành đáp lại lời nguyền rủa”. Cũng từ đó, niềm đam mê chính trị đã lớn mạnh trong ông. Với chủ trương bất bạo động, ông đã chứng minh cho con người thời đại: chiến thắng thuộc về sức mạnh bên trong.

Không phải ai cũng lợi dụng được những sự kiện tiêu cực. Đôi khi hoàn cảnh nghiệt ngã giết chết một đam mê. Truyện kể rằng: có một phụ nữ hiền lành và nhân hậu, hằng ngày làm việc và chu toàn bổn phận của mình cách tốt đẹp. Nhưng vào một ngày vì quá mỏi mệt, người mẹ này chỉ muốn nằm nghỉ. Đứa bé với thói quen đến nhảy múa ca hát làm vui lòng mẹ. Thay vì, người mẹ vui tươi và khen ngợi, lại mất tự chủ, không kiểm soát được bản thân nên thốt lên: “Im đi, tiếng của mày nghe chát chúa quá!”. Câu nói tiêu cực ấy thấm nhiễm đứa bé và giết chết nỗi đam mê múa hát trong em.

Bởi vậy khi đối diện với những hình thái tiêu cực, bạn cần phải thăng hoa và “gán” cho nó một ý nghĩa. Nếu đam mê giúp bạn đủ sức vượt qua mọi khó khăn thì bạn cần bắt đầu bằng những câu nói khẳng định đam mê của bạn: Tôi biết những đam mê cháy bỏng từ nơi sâu thẳm lòng mình sẽ giúp tôi thành công và hoàn thiện; tôi khát khao được làm mọi điều tốt đẹp cho bản thân và cho mọi người; mỗi ngày trôi qua, đam mê trong tôi càng mãnh liệt hơn. Tôi sẵn sàng vượt qua mọi gian khổ để đạt được trọn vẹn nỗi đam mê của mình… và tin vào ơn Chúa trợ lực giúp thành công.

Bạn cần xác quyết, đam mê là một yếu tố quan trọng, là động lực chủ yếu thúc đẩy bạn đi tới không ngừng, đam mê giúp bạn đứng dậy, tiếp tục bước đi mỗi khi bạn có suy nghĩ bỏ cuộc, đầu hàng. Một khi ngọn lửa đam mê trong bạn bùng cháy mãnh liệt thì chẳng có rào cản nào, chẳng có ai có thể làm chùn bước tiến của bạn. Xin gởi đến cho bạn một "người thật việc thật" về kinh nghiệm biết vượt qua nghịch cảnh để thực hiện ước nguyện của mình, cô Terry.

Ngay từ bé, Terry rất thích thể thao và tham gia vào bất kỳ môn nào mà cô bé có thể chơi được. Chưa hết, cô bé luôn có mặt trong các buổi học múa ba lê, bởi cô mơ ước một ngày nào đó, sẽ trở thành một diễn viên múa chuyên nghiệp. Nhưng khi lên 12 tuổi, một chuyện không may ập đến với cô bé, một tai nạn xe hơi rất kinh hoàng đã làm lưng và cột sống của cô bé bị chấn thương nặng. Ai cũng nghĩ rằng cô ta sẽ chẳng bao giờ có thể vận động được nữa.

Đối với nhiều người, có lẽ một tai nạn như thế hẳn sẽ dập tắt mọi ước mơ và khát vọng thành công của họ. Nhưng với Terry thì khác hẳn! Mặc dù được bác sỹ cho biết hung tin này, nhưng ngọn lửa hy vọng trong cô vẫn không hề tắt lịm bởi chúng đã là một phần tất yếu luôn hiện hữu trong cô. Với mẫu người có cá tính mạnh, những khó khăn này càng giúp cô thêm nghị lực và sống xác quyết với nỗi đam mê hằng ấp ủ trong lòng; vượt lên nỗi đau, không ngừng phấn đấu, cô bé vẫn yêu đời, lạc quan, cô cảm thấy cuộc đời vẫn mỉm cười với mình.

Tai nạn đã cướp đi sự hoạt động của đôi chân cô, nhưng không cướp đi được nghị lực kiên cường và nỗi đam mê bền bỉ trong cô. Đôi chân cô không thể cử động, nhưng ý chí và lòng khát khao trong cô không hề bị tê liệt. Cô bé phát huy hết sức mạnh phần cơ thể còn lại của mình để có thể di chuyển tốt hơn bằng xe lăn. Cuối cùng nỗ lực của cô đã sinh hoa trái, nghĩa là cô đã khẳng định mình trong lãnh vực tri thức, đã tốt nghiệp đại học với hai chuyên ngành: nghệ thuật và truyền thông. Như thế, đam mê nghệ thuật khi xưa của cô giờ đây có dịp được biểu diễn mỗi ngày chuyên nghiệp hơn. Một điều thú vị nữa là, từ đây, cô quan tâm hơn đến những người cùng cảnh ngộ. Cô nuôi quyết tâm sẽ làm một điều gì đó để có thể giúp được những người như cô tìm được nhiều niềm vui trong cuộc sống.

Qua đó, bạn thấy rằng đam mê là ngọn lửa nung nấu niềm hăng say, là động lực tiếp sức cho sự phấn đấu không mệt mỏi. Đằng sau bất cứ một thành công nào cũng chất chứa một ngọn lửa đam mê khát vọng luôn hừng hực cháy. Keith D. Harrell thật chí lý khi nói: “Khát vọng chính là nguồn động lực có sức mạnh vô biên, tiềm tàng bên trong mỗi con người. Động lực này được thể hiện qua những hoạt động không ngơi nghỉ, để con người không bao giờ từ bỏ ước mơ, không bao giờ khuất phục hoàn cảnh”.

Bạn có thể nuôi khát vọng đam mê của mình bằng cách mỗi ngày dành một chút thời gian để quan sát, cảm nhận rõ hơn những gì mà bạn đang mong muốn. Một khi bạn đã nhận diện niềm đam mê của mình và phát huy thế mạnh bản thân, bạn cần tiếp tục thổi bùng lên ngọn lửa này để niềm đam mê ăn sâu trong tâm khảm, chảy mạnh vào huyết mạch, chuyển lưu trong từng hơi thở và làm phong phú hiện hữu của bạn vì như lời khẳng định của Margaret Deland: “Ai cũng cần phải khao khát một điều gì đó để có thể tồn tại ”. Và nói một cách xác quyết hơn: ai cũng cần phải đam mê một điều gì đó để có thể nên hoàn thiện.

Với những xác quyết đó, xin mời bạn tiếp tục đồng hành với chúng tôi qua những trang sách này để có thể hiểu đam mê là gì ? Những hình thức đam mê; Đam mê và các bậc thang giá trị; Và những chứng nhân của đam mê.

I. ĐAM MÊ

Hơn bao giờ hết, con người ngày nay sống nhiều với nỗi đam mê. Có lẽ vì nó đã trở thành thành phần của đời sống khiến người ta không thấy cần phải đặt lại vấn đề. “ Vấn đề ” được hiểu đơn giản là: lợi hại thế nào? Ảnh hưởng đến đời sống ra sao ? Đam mê khởi đi từ đâu ? Làm cách nào để điều hướng đam mê ?..Trong phần này chúng ta sẽ cố gắng triển khai trong mức độ có thể về những góc cạnh của điều đó. Một ghi nhận cần nói ngay, cả hai người có cùng nỗi đam mê, song cách thức họ sống lại hình thành nơi mỗi người một tính cách độc đáo và cá vị.

1.KHÁI NIỆM.

Theo Từ Điển Tiếng Việt của Minh Tân và các tác giả, đã viết: “ Đam mê là ham thích thái quá, thường là cái không lành mạnh, đến mức như không còn biết việc gì khác nữa”. Định nghĩa như thế dễ tạo nơi chúng ta thái độ sống đam mê một cách tiêu cực vì nó “thường là cái không lành mạnh”. Nhưng thế nào là cái không lành mạnh ? Và mức độ nào đánh giá cái lành mạnh ? Khi dùng một hạn từ chưa được xác đinh để phát biểu hay định nghĩa một thuật ngữ mới, chắc hẳn không tránh khỏi sự hàm hồ.

Điều này đòi buộc chúng ta phải truy tìm về nguyên ngữ Hán Việt và các ngôn ngữ khác. Theo Hán Việt, chiết tự Đam mê: Đam có nghĩa là chìm đắm, ham mê; như khi ta nói: người này ham chơi, người kia chìm đắm trong ảo tưởng. Còn có nghĩa là lạc, mất hay say mê, say đắm, làm cho mê muội, như khi ta nói: tiền của làm cho con người ra mê muội…Theo khái niệm này đam mê cũng chẳng có gì tích cực.

Ngoài ra, Pháp ngữ và Anh ngữ cùng sử dụng chung một chữ Passion. Pháp ngữ [10] ngoài nghĩa đam mê, passion còn được hiểu là dục tình, dục vọng; thụ động; mãnh liệt. Xem ra cách hiểu này có phần trung dung hơn vì dục tình hay dục vọng, tự nó được hiểu theo nghĩa xấu lẫn nghĩa tốt. Còn theo nghĩa thụ động vì đam mê tuỳ thuộc phần lớn đối tượng. Và mãnh liệt được gán cho cường độ của đam mê.

 Trong khi đó, Anh ngữ [11] lại có phần tích cực hơn.

Passion:

-Nhiệt tình, nhiệt tâm.

-Đam mê, tình cảm, kích dục…

-Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu (viết hoa).

Sự nhiệt tình, nhiệt tâm phải có trong đam mê đòi hỏi một thái độ sống năng động và tích cực hầu diễn tả những tình cảm được kích động qua thân xác của người sống đam mê. Riêng Passion được hiểu là Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu gợi lên cho ta hai ý nghĩa:

-Cuộc khổ nạn này hay Thánh Giá là đối tượng cho con người đam mê.

-Đam mê của Ngài dẫn đến cái chết sinh ơn cứu độ.

Tất nhiên, hai ý nghĩa này không được ngôn từ diễn đạt nhưng dưới chiều kích đức tin, chúng ta có thể dễ dàng chấp nhận và đây cũng là vấn đề được bàn kỹ trong phần Đam mê của Đức Giêsu.

Với những giới hạn khi hiểu về đam mê khác nhau như vậy, thiết nghĩ, chúng ta cần lược qua những quan niệm của các trường phái riêng biệt nhằm làm sáng tỏ hơn thuật ngữ này, và khi nêu lên những mặt tích cực của nó, đồng thời sẽ là ý nghĩa mà bài viết này muốn nhắm đến.

2.MỘT VÀI QUAN NIỆM VỀ ĐAM MÊ.

2.1.ĐAM MÊ THEO QUAN ĐIỂM TÂM LÝ HỌC.

MỘT CỐ GẮNG ĐỊNH NGHĨA.

Triết gia Kierkeegard đã không ngần ngại quả quyết rằng: “Không đam mê, con người như cây khô không nhựa sống, bất động”. Ông còn khẳng định: “Đam mê là hiện hữu nhất”, nghĩa là chính đam mê giúp con người sống, hiện hữu thực sự mang ý nghĩa hiện sinh. Thật vậy, đam mê được hiểu là sinh hoạt của tinh thần con người. Nói cách khác, nó là thành phần làm nên hiện hữu con người. Bởi vậy, khi cố gắng tìm một định nghĩa cho thuật ngữ đam mê, ta không thể tách chúng ra khỏi bản chất hiện hữu của con người. Vì đam mê là một hình thức của khuynh hướng thuộc bẩm sinh. Hiện nay, tâm lý học cũng chưa có cái nhìn thống nhất, dung hoà giữa các trường phái để rút ra một định nghĩa chuẩn xác, thuộc bản chất và ý nghĩa của đam mê.

Những gì các nhà tâm lý học hiện đại phát biểu đều dựa vào những phạm trù khác có tương quan với đam mê, mà xét cho cùng, chúng chỉ là những đặc tính của đam mê.

Chẳng hạn, Ribot đã định nghĩa đam mê bằng cách so sánh nó với cảm xúc. Ông cho rằng: “Đam mê là cảm xúc kéo dài và tri thức hoá” [12]. Chúng ta biết rằng, đam mê và cảm xúc đều là những trạng thái tình cảm mãmh liệt và đều làm biến đổi sinh hoạt tâm lý toàn diện của con người. Nhưng nơi đam mê, sinh hoạt ấy được kéo dài (đam mê đọc sách: suốt đời). Còn việc tri thức hoá, chúng ta có thể hiểu là chủ thể nhận thức đối tượng đam mê. Phát biểu này còn nhiều thiếu sót.

Kế đến, đam mê đối chiếu với tình cảm [13]: có thể đơn cử đam mê tình ái với tình cảm vui hay buồn, tất nhiên, nó mãnh liệt hơn tình cảm. Mặt khác, một tình cảm cũng có thể kéo dài hay chóng qua, còn đam mê thì thường bền bỉ. Dựa vào đặc tính này, các nhà tâm lý kết luận: đam mê là tình cảm mãnh liệt và lâu bền. Nhận định như vậy xem ra cũng phiến diện.

Ngoài ra, các nhà tâm lý hiện đại còn đi xa hơn nữa khi căn cứ vào nguồn gốc, nói cách khác, đi sâu vào bản chất của đam mê là khuynh hướng [14]. Có thể nói, đam mê là một hình thức của khuynh hướng, nghĩa là mang đặc tính bẩm sinh nhưng nó không phải là một khuynh hướng thông thường vì nó là một tâm trạng ý thức trong khi khuynh hướng thường chỉ là động lực vô thức. Sở dĩ có sự khác nhau đó là vì khuynh hướng có sức mạnh bình thường còn đam mê có sức mạnh mãnh liệt. Sự mãnh liệt của nó thường do nhiều khuynh hướng kết hợp lại và dồn hết năng lực về một đối tượng duy nhất. Ví dụ: sự tập trung của chủ thể vào các giác quan: mắt đọc sách, tai nghe, miệng đọc, trong khi đó có thể mắt đọc sách nhưng tai vẫn nghe nhạc… như thế, sự phân tán của trường hợp hai làm giảm hiệu quả đạt đến đối tượng đam mê là việc nghiên cứu sách.

Sau cùng, khi nói đến đam mê, chúng ta không thể tách chúng ra khỏi phạm trù thời gian. Có thể nói, chúng là một trạng thái muộn màng, nghĩa là chỉ xuất hiện ở tuổi trưởng thành; trẻ con không biết đến đam mê. Đúng hơn, đam mê không được thể hiện và hình thành rõ nét nơi trẻ con.

NHỮNG YẾU TỐ PHÁT SINH ĐAM MÊ.

Một trong những định nghĩa được các nhà tâm lý chấp nhận nhiều nhất: “Đam mê là khuynh hướng nổi bật, bá chủ và độc tôn” [15]. Tất nhiên, khuynh hướng thuộc bẩm sinh ai cũng có nhưng kèm theo các đặc tính vừa kể, mà chúng phải được đặt trong môi trường thuận lợi, đòi buộc những yếu tố phát sinh chủ quan và khách quan.

Yếu tố chủ quan:

Cảm tính.

Cảm tính là một yếu tố khiến con người dễ xúc động (hỉ, nộ, ai, lạc…) trước ngoại cảnh mà đa số người khác vẫn giữ thái độ bình thản. Các nhà tâm lý thường qui các sinh hoạt đam mê cho những người nhiều cảm xúc, nhờ đó, không có một biến cố nào (một tri giác, một ý tưởng…) xảy ra mà lại không gây nên một dao động mãnh liệt. Có thể nói, chính yếu tố dao động mãnh liệt này, cộng thêm việc kéo dài trong thời gian dẫn đến đam mê. Chẳng hạn, sự hứng khởi đến từ những cuốn phim hay, họ xem đi xem lại và nuôi hoài nỗi đam mê nghệ thuật.

Còn Pierre Janet nói rằng người nào lành mạnh về hai phương diện tinh thần và thể xác thì rất khó nhiễm đam mê.[16] Tất nhiên, đam mê có thể xuất hiện nơi những tâm hồn suy nhược, chán nản vì mệt mỏi, thất bại nhưng nó không phải là yếu tố quyết định cho việc phát sinh đam mê. Stendhal có vẻ phiến diện khi nói: “Tôi biết một người bắt đầu yêu khi thấy người ấy buồn” [17]. Thật vậy, bạn có thể đi tìm tình yêu trong tâm trạng buồn nhưng không thể phủ nhận những tâm hồn cao thượng khát vọng một tình yêu chân thành. Bởi đó, yếu tố cảm tính được điều hướng đóng một vai trò quan trọng tích cực trong sinh hoạt đam mê.

Óc tưởng tượng.

Chúng ta biết rằng khả năng tưởng tưởng dồi dào cũng là yếu tố thiết yếu làm phát sinh đam mê như Ribot đã nói: “Tưởng tượng chính là căn bản của đam mê. Nó là một sự tham gia thiết yếu hơn là một ảnh hưởng” [18]. Thật vậy, một khi nói tưởng tượng là một ảnh hưởng trên đam mê thì chúng ta nói đến sự tương tác qua lại, nghĩa là trí tưởng tượng càng dồi dào, đam mê càng mạnh mẽ. Điều này, chúng ta muốn nhấn mạnh đến tính quyết định của trí tưởng tượng. Vì chúng đã biến đổi đối tượng từ một vật tầm thường thành một lý tưởng. Nói cách khác, chúng đã biến cái tương đối thành cái tuyệt đối, đã “thần thánh hoá” đối tượng đam mê. Chính ở điểm này, trí tưởng tượng trở thành nguyên nhân phát sinh đam mê. Với Burloud, nó không chỉ là nguyên nhân mà còn là hậu quả của đam mê [19]. Là hậu quả, vì đam mê dục vọng của ta có thể bị kích thích từ hình ảnh. Bởi đó, chúng ta hiểu vì sao thánh Gioan đã nói đến dục vọng của đôi mắt như một nguy hại khôn lường của linh hồn. Song, dù là nguyên nhân hay hậu quả, nó luôn bao hàm một yếu tố chủ quan và thụ động, nghĩa là trí tưởng tượng tuỳ thuộc vào mỗi chủ thể và khi bạn thụ động tiếp nhận nó, điều này có nguy cơ, bạn dễ bị ảo tưởng xa rời thực tế hơn là sống đam mê.

Có thể nói, khả năng tưởng tượng là năng lực mạnh mẽ nhất mà bạn có được để sống đam mê. Tất cả những cải thiện trong cuộc sống của bạn đều bắt đầu từ sự cải thiện về những hình ảnh trong tâm trí bạn. Tình trạng hiện nay của bạn thế nào phần lớn là do những bức tranh trong tâm trí bạn dẫn dắt. Khi bạn thay đổi những hình ảnh trong tâm trí mình thì thế giới bên ngoài của bạn cũng đổi thay tương ứng. Bởi vậy, Denis Waitley thật chí lý khi nói: “Trí tưởng tượng của bạn là tiền cảnh về những điều hấp dẫn của cuộc đời sắp đến”.

Zig Ziglar đã chia sẻ kinh nghiệm của ông trước khi thành một diễn giả nổi tiếng. Ông thú nhận "Hằng đêm, tôi cố tưởng tượng ra bản thân mình đang nói chuyện trước đám đông đến hàng vạn người, thu hút cử toạ bằng những lời nói và cử chỉ của mình và rồi đón nhận những tràng pháo tay nhiệt liệt từ họ một cách khiêm tốn. Viễn cảnh đó chắc chắn không bao giờ xảy ra chỉ sau một đêm, và sẽ không bao giờ có được nếu như tôi không ngừng vươn lên, hoặc nếu tôi cho phép hình ảnh đó phai nhoà trong tâm trí tôi".

Dường như mọi thành công hay những gì xảy ra trong hiện tại đều tỏ lộ hình ảnh và sứ điệp trong trí tưởng tượng của bạn trong quá khứ.

Quá khứ.

Một yếu tố nữa khá quan trọng mà khi bàn đến đam mê chúng ta không thể bỏ qua đó là quá khứ. Điều này đã được Alquié nhấn mạnh nhiều ở chiều kích cá nhân, nó liên quan đến một quá khứ xa xôi mà ta không nhớ rõ. Vì nó được đan xen chằng chịt giữa biết bao sự kiện, đồng thời, có một chỗ riêng để chứa nó mà C.Jung gọi là tiềm thức. Có thể nói, quá khứ là chất liệu làm giàu cuộc sống hiện tại, điều này thật thích hợp khi áp dụng cho các đam mê của chúng ta. Chúng đã được chủ thể đảm nhận và chịu trách nhiệm như một hậu quả hay một hệ quả còn âm vang và ảnh hưởng cách nào đó trong hiện tại. Tâm lý chiều sâu cũng đồng quan điểm với Alquié khi cho rằng tính tham ăn chỉ là sự bù trừ của dục tính bị ngăn cấm mà nguyên nhân là việc thôi bú quá sớm. Cũng vậy, hành vi ăn cắp vặt chỉ là thái độ đi tìm một tình yêu gia đình đã mất.[20]

Theo C.Jung, chúng ta chỉ mới bàn đến vô thức cá nhân - kết quả của một quá khứ dài, còn vô thức tập thể thì phức tạp hơn nhiều. Quá khứ gần với bản thân ta nhất gắn liền với gia đình và truyền thống ta thủ đắc từ môi trường đó. Thật vậy, một gia đình lâu đời sống trong cảnh nghèo có thể tạo nơi các thành viên một nỗi đam mê tiền bạc dẫn đến việc hà tiện, ky cóp. Đến một lúc nào đó điều kiện sống được cải thiện phần nào, tập quán ấy cũng kho thay đổi bởi vì đã biến thành “một nhân đức” trường tồn. Trong tư tưởng, lời nói và những hành động của họ, dường như tiền bạc vẫn luôn là yếu tố chính chi phối quyết định vận mệnh và có chỗ đứng quan trong trong mọi phán đoán và quyết định của họ.

Yếu tố khách quan.

Đó là môi trường địa lý và hoàn cảnh xã hội E. Kant nói rằng những dân sống miền khí hậu nóng có những đam mê khác với dân sống ở miền khí hậu lạnh. Một mảnh đất cằn cỗi, nghèo nàn đòi hỏi nhiều cố gắng, cực nhọc của người nông dân trong lúc mưu sinh, thường dễ tạo ra tính tham lam và hà tiện [21]. Điều này, chúng ta thấy rõ khi ngày nay người ta bàn đến nhiều các truyền thống Bắc, Trung, Nam ảnh hưởng đến dân cư sống tại đây. Trong khi đó, những người được sống nơi vùng khí hậu mát mẽ, tính tình của họ cũng thuận hoà hơn và đam mê của họ cũng khác [22].

Chúng ta cũng thấy xã hội tạo ra khung cảnh, không khí thuận lợi cách nào đó cho đam mê xuất hiện và phát triển. Lịch sử cho ta biết, thời đại thánh chiến là môi trường thuận lợi cho đam mê tôn giáo, thời phục hưng thuận lợi cho đam mê tri thức, thời cách mạng thuận lợi cho đam mê chính trị… Cũng cùng hoàn cảnh thời đó lại sinh ra những đam mê có những sắc thái khác tuỳ từng dân tộc. Chẳng hạn, cũng thời đại cách mạng nhưng có vị chủ trương lấy sức mạnh vũ trang làm chính yếu, nhưng tại một dân tộc Ấn độ nghèo, Gandhi lại lấy sức mạnh tinh thần, chủ trương bất bạo động làm lợi khí.

Như thế, chúng ta nhận thấy yếu tố chủ quan và khách quan đan xen tác động lẫn nhau, có những thời điểm đam mê chịu ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố chủ quan, thời điểm khác lại nêu bật yếu tố khách quan. Người xưa nói thật chí lý: thời thế tạo anh hùng và anh hùng tạo thời thế.

HẬU QUẢ CỦA ĐAM MÊ.

Tình cảm.

Trong tác phẩm Đạo Kười, Linh mục Phan Tấn Thành có kể một câu chuyện vui, hư cấu rất ấn tượng. Vào một ngày đẹp trời, bà Eva đi dạo trong vườn, thấy chồng ở đó, bà thắc mắc: “Từ trước đến nay, em chưa nghe anh nói một câu ‘anh yêu em’ ?”. Ông Adam nghĩ một lát và tỏ vẻ hối tiếc, ông nói: “Em thấy đó, anh không còn cách nào khác để chọn lựa vì trong vườn chỉ có mình em”. Nghe thấy thế, bà Eva vẫn tỏ vẻ nghi kỵ đợi lúc ông ngủ, bà vạch áo ông ra và đếm xem đã mất mấy chiếc xương sườn [23].

Câu chuyện vui này cho chúng ta một cái nhìn về người đam mê tình ái mà đại diện là bà Eva. Đặc tính nổi bật nơi bà là muốn chiếm vị trí độc tôn trong lòng chồng và muốn chiếm ông làm sở hữu riêng. Thật vậy, đam mê là một tình cảm mãnh liệt; chúng gây ra sự rung động mạnh cho đời sống tình cảm của con người. Như chúng ta đã nói trí tưởng tượng khiến con người thần tượng người yêu; một khi thần tượng bị sụp đổ, họ cũng rơi từ tình trạng này sang tình trạng tiêu cực khác. Quả vậy, người đam mê chỉ lý tưởng hoá đối tượng khi chưa chiếm đoạt trọn vẹn chúng. Đối tượng này sẽ mất giá trị lý tưởng một khi chủ thể chiếm đoạt trọn vẹn. Lúc ấy, người đam mê bắt đầu thất vọng và xa lánh đối tượng vì thấy thần tượng tuyệt đối của mình chỉ là những thực tại hoàn toàn tương đối.

Tri thức.

Nếu xét hoàn toàn trong lãnh vực tri thức thì người đam mê loại này biết sử dụng lý trí, nhận thức của mình sẽ dễ dàng thành công vì đặc tính của đam mê là hoạt động không ngừng. Thật vậy, đứng trước khó khăn, cảm xúc sẽ rút lại, chùn bước còn đam mê thì sử dụng mọi quan năng vượt qua rào cản, đạt cho được đối tượng của mình là phát triển trí thức tới mức tối đa. Có thể nói, chính chân lý khách quan mà các ngành khoa học hằng theo đuổi đã giúp người đam mê sống định hướng nhờ nội lực tập chú vào đối tượng nên dễ thành công.

Ra khỏi môi trường thuần tri thức, chúng ta cũng dễ nhận ra hậu quả của đam mê trong sự nhận thức của con người. Người đam mê cờ bạc biết mưu tính mọi cách sao cho thâu đạt nhiều "bàn thắng" trong khi chơi. Đây là cấp bậc thấp nhất, chỉ dừng lại ở việc mưu tính và những kinh nghiệm thất bại trong quá khứ. Ở cấp độ cao hơn, người đam mê tình ái cũng biết suy tính tìm ra biện pháp để gần gũi đối tượng yêu. Chưa hết, họ còn tìm cách gây thiện cảm với gia đình người yêu, tìm cách loại hết địch thủ nếu có, khiến cản trở bước tiến giúp đạt đến đối tượng đam mê… Truyện Kiều cho chúng ta biết trường hợp của Kim Trọng, đã di chuyển chỗ ở để có nhiều cơ hội gặp gỡ và gần gũi Thuý Kiều hơn [24].

Chúng ta không thể nào phủ nhận sự sáng suốt của người đam mê nhưng do họ đặt sai những bậc thang giá trị mà họ dễ chọn lựa và quyết định những giá trị nghịch với mục tiêu tối hậu hay ý nghĩa cuộc đời. Xu hướng chung, họ chỉ nhắm đích của mình là đối tượng đam mê nên lắm khi giản lược và coi thường các thực tại khác. Từ đó, nhận thức của họ chỉ qui về đối tượng đam mê. Thái cực này khiến họ dễ dùng óc suy luận mà biện minh cho những gì mình theo đuổi. Lý luận này của người đam mê được Ribot gọi là lý luận biện chính [25], nghĩa là cái tuỳ phụ được đưa lên làm chính yếu. Chính lối nguỵ biện này đã kéo theo những sai lạc khác mang tính quyết định, nghĩa là như chúng ta vừa nói, nó làm người đam mê rời xa những giá trị tinh thần siêu việt.

Bởi đó, tri thức đúng nghĩa là một sự hiểu biết thực tại chứ không phải là một lối nguy biện làm xa rời sự thật, làm tha hoá con người. Vì như triết gia Hégel nói: đam mê làm cho con người trở nên vĩ đại, là những người làm chủ bản thân và trưởng thành trong phán đoán.

2.2. ĐAM MÊ THEO QUAN ĐIỂM LUÂN LÝ VÀ ĐẠO ĐỨC CỦA KITÔ GIÁO.

Ngay từ số đầu tiên nói về chủ đề này, sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (GLHTCG) đã viết: “Thuật ngữ ‘đam mê’ nằm trong di sản Kitô giáo[26]. Chúng ta dễ dàng chấp nhận khẳng định này vì đam mê là một sinh hoạt ôm trọn cuộc sống hiện sinh mà đức tin Kitô giáo lại là nền tảng mọi đời sống tín hữu nên dành riêng một phần lớn trong nền luân lý và đạo đức của mình, quả là điều chính đáng. Giáo hội như người mẹ nuôi dưỡng và bao bọc con cái, đồng thời dạy dỗ và định hướng đời sống cho từng thành viên trong “gia đình" thiêng liêng và rộng lớn. Vì không nhất thống về quan điểm nên trong Giáo hội đã có nhiều ngộ nhận đáng tiếc liên quan đến vấn đề đam mê. Điều này được minh chứng rõ rệt trong lịch sử, đã được các Giáo Phụ bàn đến khá cụ thể và chi tiết cùng những phương thế điều chỉnh và trị liệu. Riêng thánh Augustino, sau cuộc hoán cải, đã giúp hậu thế sống và định hướng đam mê theo tinh thần Kitô giáo. Phần này, chúng ta sẽ bàn riêng trong phần đam mê của ngài. Ở đây, chúng ta làm sáng tỏ định đề: “Thuật ngữ ‘đam mê’ nằm trong di sản Kitô giáo”.

Thuật ngữ đam mê, trước hết và trên hết, được áp dụng cho cuộc đời Đức Kitô. Chúng ta biết rằng hạnh phúc là nhu cầu chính đáng và cao cả nhất của con người. Ai ai cũng tìm cách đạt đến hạnh phúc cho cuộc đời mình. Trong nhiều phương thế giúp con người đạt đến điều này chắc hẳn đam mê là một phương thế tuyệt vời. Ở đây, chúng ta có gương đam mê của Đức Kitô làm chuẩn mực và định hướng cho nhân loại. Điểm này cũng được trình bày sâu rộng trong một phần riêng. Nhưng ở đây thiết tưởng, chúng ta cần nhấn mạnh hạnh phúc mà con người đang tìm kiếm là gì ? Xét cho cùng hạnh phúc thật là chính Chúa.

Tiên vàn, chúng ta cần hiểu di sản Kitô giáo là gì ? Theo Giáo luật, di sản truyền thống ấy chính là tinh thần, linh đạo và những gì làm nên căn tính Kitô giáo. Để tránh cho các tín hữu có thể hiểu thuật ngữ này cách hời hợt và ham hồ, Giáo hội đã đặt chúng trong ngoặc kép với một sự cẩn trọng, dè dặt và cân nhắc hầu giúp chúng ta sống đúng tinh thần Giáo hội theo một nghĩa tích cực nhất.

Tiếp đến, chúng ta cần tìm hiểu những đóng góp của đam mê trong di sản Kitô giáo. “Các đam mê là thành phần tự nhiên của sinh hoạt tâm lý con người. Chúng nối kết với đời sống cảm giác và tinh thần. Theo lời Đức Kitô, tâm hồn là nguồn phát xuất các rung động đam mê (x. Mc 7,21)” [27]. Như thế, đam mê chỉ thực sự trở thành di sản khi nó phát xuất từ một tâm hồn được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Vì tự bản chất, đam mê không tốt không xấu. Giáo hội thật chí lý khi dạy rằng: “Trong đời sống kitô hữu, Chúa Thánh Thần thực hiện công trình của Ngài, bằng cách huy động mọi sự nơi con người, kể cả những đau khổ, sợ hãi và buồn phiền, như trong cơn hấp hối và cuộc khổ nạn của Đức Kitô” [28]. Như thế, khởi đi từ những đam mê của Đức Kitô trọn cuộc sống nhất là trong cơn hấp hối và cuộc thụ nạn của Ngài cách nào đó đem ơn cứu độ thành toàn cho mỗi chúng ta. Đó là di sản lớn nhất mà chúng ta có thể ghi nhận trong suốt chiều dài lịch sử Giáo hội, mở đầu là Đức Kitô rồi đến các thánh. Có thể nói, mỗi thánh là một đặc nét về nỗi đam mê. Trong giới hạn sách này, xin nêu bật một vài vị tiêu biểu,[29] cách nào đó vẫn còn ảnh hưởng trên cuộc đời chúng ta.

Chúng ta không thể tìm ra câu trả lời dứt khoát về vai trò của đam mê trong di sản của Giáo hội vì như thế, chúng ta sẽ đụng chạm đến nền luân lý tích cực lấy con người là hình ảnh Thiên Chúa là tiền đề cho mọi suy tư. Ở đây, chúng ta chỉ nhắc đến điểm căn bản nhất của đam mê. Theo sách GLHTCG số 1765 đã minh định: “Đam mê căn bản nhất là tình yêu do điều thiện hảo lôi cuốn. Tình yêu tác động lên ước muốn điều thiện hảo chưa có và niềm hy vọng sẽ đạt được. Vận hành này chỉ kết thúc trong hoan lạc và niềm vui do chiếm hữu được điều đó”. Nếu thánh Gioan đã khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,16), thì theo một nghĩa nào đó, phải chăng Thiên Chúa là hiện thân của đam mê ? Đúng hơn, Ngài là đối tượng đam mê của con người. Thật vậy, ngay từ đầu Thiên Chúa dựng nên con người và đặt trong chúng khát vọng hiệp nhất với Ngài. Thánh Augustino thật chí lý khi xác quyết: tâm hồn con mãi khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa. Nếu Thiên Chúa là đối tượng đam mê của chúng ta thì Đức Kitô là gương mẫu và là câu trả lời xác thực nhất cho đam mê của con người. Vì Ngài là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Chưa hết, Ngài còn là “nỗi đam mê của Thiên Chúa nữa”. Và như lời khẳng định của ĐTC Benedicto XVI: “ Một mặt chúng ta thấy mình đứng trước một hình ảnh rất siêu hình của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Đấng Tuyệt đối và là nguồn mạch mọi loài; nhưng mặt khác, chủ tể tác tạo hoàn vũ này – Logos, Đấng Thượng trí - lại đồng thời là một người biết yêu với tất cả đam mê của tình yêu thực sự” [30].

Có những người vì quá lý tưởng đời sống vô tội của Chúa Giêsu và Mẹ Maria, đã kết luận rằng các Ngài không có dục vọng và đam mê. Theo cha Peschke: “Người không có dục vọng hay đam mê thì cũng không có khả năng tự vệ, khả năng phát triển và hoàn thiện” [31]. Thật vậy, nơi bản tính nhân loại của Chúa Giêsu cũng phải thi hành ý muốn Chúa Cha để có thể tuyên bố mọi sự đã hoàn tất và nên hoàn thiện. Hay nơi Đức Maria cũng phải có những đam mê nhưng nhờ sự cộng tác của Mẹ trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để có thể kết thúc trong hoan lạc và niềm vui do đạt trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa.

Chính khi quá chú trọng đến ơn Chúa mà quên đi nỗ lực và hợp tác của con người, vô hình trung, chúng ta biến Thuyết Tiền định thành Thuyết Tất định.

Chúng ta biết rằng, muốn đạt tới mức hoàn hảo luân lý hay nhân linh, con người cần phải dùng lý trí điều khiển các đam mê. Mà nơi Chúa Giêsu và Đức Maria, chúng không thể sai lầm do tội nguyên tổ. Chính sự vô tội của các Ngài chứng thực đam mê của các Ngài hoàn toàn chính đáng.

Thật vậy, đam mê mang giá trị luân lý không chỉ tuỳ thuộc mức độ liên hệ thực sự với lý trí mà còn tương tác với ý chí nữa ! Theo Cha Peschke, đam mê được chia làm hai loại: đam mê tiền kết và hậu kết [32] .

Đam mê tiền kết là đam mê có trước khi ý chí hoạt động và đồng thời lôi kéo ý chí ưng thuận theo. Đó là trường hợp các hành vi không tự nguyện. Chẳng hạn, thức ăn ngon dọn trên bàn tự nhiên làm ta đói và thèm ăn. Bởi đó, nó làm suy giảm ý chí, đôi khi làm tê liệt ý chí hoàn toàn. Đồng thời, nó thúc giục ta hành động và lối kéo ý chí thuận theo. Đam mê càng mãnh liệt, lý trí và ý chí càng yếu kém. Đôi lúc, con người không thực sự tự do lựa chọn. Đam mê này trở thành miếng mồi ngon khiến con người sa ngã phạm tội.

Chúng ta không thể bỏ qua nguyên tắc này: nếu đam mê làm sút giảm ý chí, thì ngược lại chúng cũng có thể làm tăng cường hướng đi của ý chí. Điều này được áp dụng theo nghĩa mạnh trong trường hợp đam mê hậu kết, nghĩa là đam mê đi sau ý chí.

Tất nhiên, đam mê hậu kết không gây ra tình trạng ý chí bị giảm sút. Đã nói đến hậu kết là ý chí đã ưng thuận hoàn toàn. Tính mãnh liệt của nó được thể hiện trong cách đáp ứng với đối tượng đam mê. Chúng ta không chỉ ưng thuận một lần thay cho tất cả vì trong mỗi cảnh huống và khoảnh khắc, nó luôn đặt trước mắt chúng ta, đòi hỏi sự phán đoán và suy tính của lý trí, đồng thời khả năng chọn lựa của ý chí tự do. Chọn lựa của chúng ta càng xa lìa mục tiêu tối hậu, nghĩa là càng xa với ý Chúa thì càng có nguy cơ sai lầm.

Hành vi của đam mê hậu kết có tác động mạnh mẽ và trực tiếp hơn đam mê tiền kết trên chủ thể. Như sách GLHTCG số 1769 đã minh định: “Đam mê sẽ tốt nếu góp phần vào một hành động tốt và xấu trong trường hợp ngược lại. Ý chí ngay thẳng hướng các cảm xúc về điều thiện và hạnh phúc đích thực; ý chí xấu không chống nổi các đam mê hỗn loạn và làm chúng trở nên dữ dội hơn. Các cảm xúc và tình cảm có thể được đón nhận trong các nhân đức, hoặc bị băng hoại trong các thói xấu”. Thật vậy, yêu thương có thể biến thành bác ái hoặc sắc dục có thể dẫn đến thác loạn.

Như thế, sự phân biệt giữa đam mê tiền kết và hậu kết chỉ giúp đánh giá mức nặng hoặc nhẹ của hành vi luân lý. Chính ý hướng có ngay từ đầu xác định đó là đam mê hậu kết và có tính chủ động hơn. Trong khi đó, đam mê tiền kết không qui nặng về trách nhiệm của đương sự mà xét tuỳ vào sự yếu đuối của bản thân. Nhưng dù là đam mê nào, yếu tố giáo dục phải đặt hàng đầu, vì không ai sinh ra đã là thánh mà phải sống đam mê một cách đúng đắn và theo sự hướng dẫn của Thánh Thần mới khả dĩ nên thánh.

II.GIÁ TRỊ CỦA ĐAM MÊ

Có thể nói, đây là phần tích cực nhất khi bàn đến đam mê. Vì chính những yếu tố này định hướng cho những đam mê của bạn. Hơn nữa, chúng là động lực giúp bạn phấn khích dấn thân sống đam mê như: cuộc phiêu lưu, cuộc chinh phục và là cách tốt nhất giúp bạn sống thật với chính mình trong tiến trình hình thành nhân cách và sống hoàn thiện.

1.CUỘC PHIÊU LƯU

Sống đam mê là tự nguyện bước vào một cuộc phiêu lưu. Thật vậy, phiêu lưu là ra khỏi nhịp sống đơn điệu hằng ngày mà chỉ có cách sống đam mê mới giúp bạn khám phá những gì mới mẻ. Khi nói đến cuộc phiêu lưu, bạn có thể nghĩ ngay đến những khó khăn, thử thách. Với những ai sống an phận thủ thường, những chướng ngại này có thể làm họ thoái lui; trái lại, đó lại là cơ hội giúp những người sống đam mê dùng ý chí vượt qua. Quả thật, không một rào cản nào khả dĩ làm chùn bước người đam mê.

Chắc hẳn, phiêu lưu bao hàm một sự liều lĩnh nào đó. Bạn cần chấp nhận liều lĩnh để tìm cho mình một hướng đi riêng biệt. Vì ngày nào, bạn vẫn còn sống vì ước muốn của ai đó, bạn vẫn là một tên nô lệ. Đôi khi bạn sống vì những thao thức hay ước muốn của cha mẹ [33], cho dù đó là ý hướng ngày lành, nhưng có thể là rào cản khiến bạn không sống đúng những đam mê của bạn. Và như thế, bạn liều đánh mất chính mình như lời Parkinson nhận định: “Có quá nhiều người đánh mất chính mình để làm hài lòng người khác” [34]. Bạn cần xác định hướng đi của mình và ý thức rằng liều lĩnh ở mức cao nhất có thể là tự tách mình ra khỏi đám đông. Nó mãi mãi là một thách thức lớn mà chỉ có những người đam mê thực sự mới can đảm sống như vậy.

Một điều bạn cần lưu ý: sống phiêu lưu không phải là một cuộc lang thang [35]. Nếu lang thang là một tình trạng bấp bênh không định hướng, không đích đến thì trái lại, phiêu lưu diễn tả một trạng thái tâm hồn luôn rộng mở, luôn nắm bắt cơ hội và hy vọng đạt đến thành công. Có thể nói, hy vọng là nét đẹp tiêu biểu của người sống đam mê trong cuộc phiêu lưu. Bởi đó, lang thang là một ảo vọng trong khi đó, sống phiêu lưu là một khởi đầu đầy hy vọng. Theo thi sĩ Goethe, lang thang chỉ để than vãn về những ngày đã mất, còn phiêu lưu, hát vang bài ca hy vọng với niềm cảm hứng, sức mạnh và bí ẩn bên trong.

2.CUỘC CHINH PHỤC

Trong mọi cuộc chinh phục đều giả thiết bạn đã xác định đam mê riêng của mình.

Mỗi cuộc chinh phục là một cuộc vượt qua. Thật vậy, Christopher Columbus phải vượt qua mọi biên giới để có thể khám phá châu Mỹ như ngày nay. Để chinh phục, bạn phải cần vượt qua. Vượt qua trước hết là vượt qua bản thân bạn.

Bản thân với những giới hạn nhất định, muốn chinh phục bạn phải vượt qua. Có hai bước trong tiến trình này: vượt qua (khắc phục) những sở đoản và phát huy những sở trưởng; từ đó tái lập nỗi đam mê của bạn [36]. Những yếu tố nội tại này chính bạn phải khai phá vì “ Biết mình biết ta trăm trận trăm thắng” [37] là thế ! Có một yếu tố khác, bên ngoài bạn mà bạn cần vượt qua.

Bạn là người của gia đình và xã hội. Cuộc chinh phục của bạn thường chịu chi phối bởi những gì bạn hấp thụ trong nền văn hoá ấy, nhưng không vì thế, bạn trở nên người thụ động; trái lại, bạn phải biết gạn đục khơi trong, nghĩa là biết nắm bắt những gì lợi ích nhằm đáp ứng cho cuộc chinh phục của bạn. Bạn biết rằng một khi “tách mình” ra khỏi những gì cố hữu, bạn phải trả một giá rất đắt để giữ lấy xác tín sống đam mê trong cuộc chinh phục này.

3.SỐNG THẬT VỚI CHÍNH MÌNH

Mỗi người đều là một cá nhân độc đáo, riêng biệt nhưng thông thường cá tính của ta bị đè nén, uốn nắn theo mẫu mực của xã hội để đồng nhất với người xung quanh. Chỉ trong đam mê, cá tính của ta mới được vùng dậy để đạp đổ những áp lực của xã hội và để sống một cuộc sống trung thực. Chỉ có đam mê, ta mới thực sự là ta” [38]. Qua lời khẳng định của Giáo sư Vĩnh Đễ, chúng ta nhận ra để sống một cuộc sống trung thực hay để mình thực sự là mình, quả là một thách đố. Chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao việc tiêu thụ và quảng cáo thì những cái vốn hào nhoáng bên ngoài lại được đánh giá cao, nên đôi khi, một số người dễ bị ảnh hưởng mà sống vụ hình thức.

Có thể nói, sống thật với chính mình là sống hài hoà giữa hình thức và nội dung; “tôi có sao thì sống là vậy”. Thật thế, sống đúng với những xác tín của mình, sống thật với những giá trị mình đã chọn là cách thể hiện tự do đích thực của một nhân cách trưởng thành. Chúng ta đã biết, tự do không phải là một hành vi “buông thả” muốn làm gì thì làm nhưng là thái độ sống trách nhiệm với những gì mình chọn. Và một nhân cách trưởng thành luôn chọn và sống mở ra với các tương quan. Như thế, bạn không chỉ được mời gọi sống hài hoà trong chính bản thân mà còn sống chan hoà với mọi người.

Có một sự giằng co giữa bạn và tha nhân nhưng khi cả hai dẫn đến sự chấp nhận nhau trong mức độ tình người, khi ấy bạn có khả năng sống chan hoà với mọi người. Bởi đó, sự linh động và thích ứng trong mọi hoàn cảnh cuộc sống luôn là một trong những đòi hỏi cho người trưởng thành. Nhưng sự linh động và thích ứng chúng ta nói đây vượt qua mức độ cho phép thông thường thì nó biến thành một kiểu đối phó và luồn lách sự thật.

Đến đây, bạn cần xác định lại đam mê của mình vì chỉ khi bạn biết mình sống đam mê gì và nó có liên hệ hỗ tương thế nào với đam mê của tha nhân, bạn mới thực sự dấn thân phục vụ thiện ích chung. Và khi đó, bạn mới khả dĩ tìm cách thức xứng hợp diễn tả đam mê của mình trong tương quan với tha nhân. Bạn là thi sĩ dệt nên những vần thơ tuyệt đẹp, tôi là nhạc sĩ mượn những vần thơ ấy tạo nên một giai điệu mượt mà. Như thế, đam mê của bạn và tôi đã tìm được chỗ đứng trong lòng mọi người. Trong một khoảnh khắc nào đó, tôi với bạn nên một trong tinh thần. Và chỉ những người sống thật với chính mình mới tìm được bản thân trong lòng tha nhân.

III.NHỮNG MÊ LẦM TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI

Đây là mặt tối của cuộc sống. Phần này chúng ta không đi sâu vào đời tư của một nhân vật nào; những gì được bàn đến là những mặt nổi mà ai cũng có thể quan sát được. Chỉ dùng những sự kiện ấy để phân tích về mặt trái của 3 nỗi đam mê vẫn hằng đeo bám con người: DANH, LỢI và THÚ.

1.DANH

Ở giai đoạn tuổi mới lớn, con người dễ thiên hướng đi tìm và xây dựng cho mình một mẫu người lý tưởng, một thần tượng cho bản thân. Bước sang giai đoạn tuổi trưởng thành, con người chứng tỏ bản lĩnh, khẳng định bản thân và cố tạo cho mình một “Danh ”khác biệt, độc đáo. Điều này biểu hiện một khuynh hướng quy ngã, quy về bản thân. Thần tượng ngày xưa đã bị xoá sổ và được thay thế: cái tôi trở thành trung tâm của vũ trụ, nghĩa là danh tôi phải được mọi người biết đến.

          Chúng ta biết rằng danh vọng là điều người khác nghĩ về mình: nay khen mai chê, nay còn mai mất. Đến ngay như một Alexander Đại đế, một người chinh phục cả thế giới mà đến cuối đời lại tự coi mình là một kẻ thất bại.

Truyện kể rằng, vào một ngày trở thành người chinh phục được cả thế giới, ông đã đóng cửa phòng ngồi khóc.

Những tướng lĩnh của ông rất lấy làm ngạc nhiên và lo lắng; vì chưa từng thấy ông khóc bao giờ. Họ đã từng sát cánh cùng ông vào những giờ phút hiểm nghèo nhất. Đôi khi cả cái chết kề bên nhưng họ cũng không hề thấy trên gương mặt của ông tỏ vẻ thất vọng. Ông luôn là tấm gương về sự dũng cảm. Thế mà giờ đây điều gì đã xảy ra, khi mà cả thế giới đã bị ông chinh phục ?

Họ gõ cửa phòng ông và hỏi:

-Thưa ngài, tại sao ngài lại khóc, điều gì đã xảy ra ?

Alexander Đại đế trả lời:

-Bây giờ ta trở thành người chiến thắng thì ta hiểu ra rằng ta đã thất bại. Bây giờ trong lòng ta sự chinh phục vô nghĩa đang trỗi dậy. Điều này chỉ bây giờ mới biết, bởi vì trước đây ta luôn ở trên đường, có mục đích. Bây giờ ta không còn biết đi đâu, chinh phục ai nữa. Ta cảm thấy bên trong mình có một sự trống rỗng khủng khiếp. Ta đã thất bại.

Chắc bạn đã rõ, mục đích của ông là danh vọng, và khi đã dạt đến đỉnh cao của danh vọng, ông hụt hẫng và thất vọng. Ông từ nhận mình là kẻ thất bại. Thất bại vì đã đặt sai cùng đích đời mình bằng những sự phù hoa nay còn mai mất. Đúng là bản chất sự vật ở thế gian này đều vô thường. Mà đã ngộ ra điều này, vị Đại đế phải mất cả đời người để trả giá. Càng đuổi bám theo danh vọng thì ông càng phí sức mà chẳng bao giờ giữ nó được mãi trong tay. Cái bóng danh vọng đã choán tầm nhìn của ông về thực tại trên cao.

Cuối cùng, ông đã chết vào năm 33 tuổi. Khi đưa ông đến nơi an táng, người ta thấy hai cánh tay của ông thò ra ngoài quan tài. Đấy là người ta làm theo lời di chúc của ông. Ông muốn cho người đời nhìn thấy rằng mình từ giã cõi đời với hai bàn tay trắng.

Nếu như danh tiếng, danh vọng là điều người khác nghĩ về bạn thì danh tánh là điều Chúa biết về bạn. Nhưng có bao giờ Chúa không biết tôi không ? Dụ ngôn Mười cô trinh nữ đã để lại trong tôi vấn nạn lớn đó.

Dụ ngôn kể rằng, sau khi 5 cô khôn vào dự tiệc cưới với Tân lang, rồi người ta đóng cửa lại. Sau cùng 5 cô còn lại cũng đến gõ cửa. Tân lang đã trả lời: “ Tôi bảo thật các cô, Tôi không biết các cô” (x. Mt 25,1-13). Tân lang ấy là Chúa Giêsu, lại trả lời: Tôi không biết các cô là sao ? Có bao giờ Chúa không biết tôi không ?

Muôn loài, muôn vật nhờ Ngài mà có. Thế sao Ngài lại bảo: Ta không biết ngươi ?

Hoá ra sự toàn năng của Ngài không bao trùm hết vạn vật ? Ngài đã không biết tôi ? Ngài đã loại tôi ra khỏi trái tim yêu thương của Ngài ?

Lời của Chúa như cứ chất vấn tôi, lởn vởn trong đầu tôi cho đến một ngày tôi đang sống trong cảnh mất phương hướng, trở nên xa lạ với bản thân. Tôi mới ngộ ra: mình đã trở nên tha hoá, xa lạ với chính mình. Tôi không còn nhận ra tôi. Tôi không còn phải là tôi. Khi ấy, Lời Chúa vọng lại: Ta không biết ngươi.

Bao nỗ lực đi tìm danh vọng, bao cố gắng chinh phục con người, tôi trở nên xa lạ với chính mình. Quả thật, khi tôi muốn làm vừa lòng mọi người, tôi liều đánh mất bản thân. Khi tôi đi tìm sự trọng vọng và ngưỡng mộ của người khác cách quá đáng và bất chính, tôi đánh mất chính mình. Ngay khi tôi chinh phục cả thế giới mà thiệt hại mạng sống thì được ích gì ?

Chưa hết, danh vọng còn liên hệ trực tiếp với một kẻ tên là độc tài. Khi nó mưu cầu vị thế độc tôn, độc đoán và áp đặt ý muốn của mình lên người khác như một kẻ độc tài. Hậu quả là cảm xúc của người khác không được bộc lộ và do dồn nén lâu ngày, nó tạo nên một sự chống đối khủng khiếp. Với thời gian, nó sẽ tạo thành khối u ác tính lây lan và phá hoại cả tập thể. Đam mê danh vọng và độc tài như thế chỉ là hiện trạng thác loạn của những kẻ mất tự chủ. Nó làm giảm phẩm chất cuộc sống con người. Không những thế, nó còn tạo ra chứng rối loạn nhân cách, nói chi đến việc hoàn thiện bản thân.

  2.LỢI         

Ngày nay, chúng ta nghe nói nhiều đến cuộc khủng hoảng căn tính: “ Cái tôi là”. Nguyên nhân chính là do con người lẫn lộn giữa “ Cái tôi có”“ Cái tôi là”, hay nói theo triết gia Gabriel Marcel  phạm trù “ Chiếm hữu” và “ hiện hưũ”. Thật vậy, cái chúng ta chiếm hữu là những gì bên ngoài ta, nó được thêm vào hay bớt đi cũng được. Chúng ta có quyền sử dụng và cả việc chuyển nhượng chúng nữa! Trái lại, phạm trù hiện hưũ là cái cốt cách làm nên trọn vẹn con người tôi. Không ai có quyền lấy đi và xúc phạm nó. Hiện hưũ là chính thực tại còn chiếm hữu là cái tuỳ phụ gắn thêm vào. Theo triết gia  Gabriel Marcel, chính tương quan biện chứng và ảnh hưởng qua lại giữa người chiếm hữu ( tôi là) và vật chiếm hữu, tạo nên một cuộc khủng hoảng căn tính.

Cả hai chiều kích trên được chủ thể đón nhận cách tích cực trong cuộc hiện sinh nên khó phân biệt. Chỉ khi xảy ra một cuộc tước đoạt toàn diện, nghĩa là tách riêng hai phạm trù xem cái nào tồn tại, cái nào chính, cái nào phụ. Triết gia và nhà tâm lý Viktor E. Frankl sẽ giúp ta làm sáng tỏ. Điều xảy ra trong trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã , những người bị bắt, họ sẽ bị tước lột mọi sự ngay cả vật che thân. Đứng trước thực tại này, ai cảm thấy bị xúc phạm, bị mất tất cả, họ dễ dàng dây mình vào giàn kẽm gai điện mà chết đi. Còn ai ý thức sự hiện hữu lớn lao của hữu thể mình, họ vẫn sống. Và theo ông: “ Sức mạnh bên trong của con người có thể đưa ngươì ấy vượt lên số phận nghiệt ngã của mình” [39].

Nhưng thực tế cho thấy, con người chỉ biết chiếm hữu, chiếm đoạt, sống thực dụng và lấy những vật chiếm hữu ( học vị, xe hơi…) làm thước đo mọi sự. Họ khá tự tin, khi thấy mình có gía trị và được tôn trọng  vì họ có khả năng làm ra của cải phục vụ đồng loại. Điều này kéo theo các mối tương quan của họ chỉ dựa trên lợi nhuận: Ai làm ích lợi cho tôi thì tôi chơi … và nghĩ rằng có thể giải quyết mọi sự dựa trên tiền bạc, của cải. Họ lợi dụng và coi tha nhân như phương tiện giúp đạt mục đích của mình. Luôn bận rộn với công việc, họ trở thành người sống hời hợt thiếu chiều sâu; nên khi gặp nghịch những cảnh, họ sống đối phó. Do thiếu sức mạnh từ bên trong, họ sống đối phó. Do thiếu sức mạnh từ bên trong, họ khó vượt qua. Do không tìm ra lợi ích hay ý nghĩa trong biến cố, nghịch cảnh họ thất vọng, buông xuôi. Khi bị ai sống lợi dụng, họ thu mình vào vỏ ốc bản thân, bo bo, sống ích kỷ, tìm thú vui và hưởng thụ riêng mình. Thi sĩ R.Tagore đã mô tả về họ:

“ Tại sao ánh đèn bị tắt ?

Ánh đèn đã tắt vì tôi ích kỷ lấy vạt áo che đậy

Để hưởng thụ một mình tôi, nên ánh đèn đã tắt.

Tại sao bông hoa đã héo?

Bông hoa đã héo vì tôi ích kỷ ép sát nó vào ngực

Để hưởng thụ một mình tôi nên bông hoa đã héo…[40]

          Hay như nhà thần học Maurice Zundel đã dùng hình ảnh thật thú vị: một đứa bé ích kỷ giấu con chim đẹp trong vạt áo, đến một lúc, nó đã mổ sạch ruột của cậu. Bởi vậy, những ai quá đề cao vật chiếm hữu, chính nó sẽ huỷ hoại họ.

Ích kỷ là thái độ sống nông cạn và tầm thường nhất. Dần dà họ trở nên thờ ơ và bàng quan trước nỗi bất hạnh của tha nhân. Họ không có giờ để chia sẻ ít là một nụ cười, một câu chào hỏi. Nếu ta thấy xuất hiện nơi họ những hành vi xem ra tốt lành như thế thì cũng mặc lấy một ý hướng thiếu lành mạnh, nó len lỏi vào ngõ ngách để rút tỉa quyền lợi của người khác. Thái độ qui kỷ này phản ánh một tâm thức ấu trĩ. Chính thái độ nhận lãnh mà không biết cho đi tạo nên một không gian “biển chết” nơi họ. Mặc dù, họ thủ đắc rất nhiều thứ nhưng vẫn là một người nghèo vì không có khả năng chia sẻ và cho đi. Mọi tương quan của họ đều dựa trên vật chất và quyền lợi bản thân. Với một tâm thức thực dụng như thế, họ mất dần cảm thức về sự thánh thiêng và ý thức trách nhiệm.

3.THÚ

Trong Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, thông điệp đầu tiên của triều đại Giáo Hoàng, từ những số đầu, Đức Bênêditô XVI đã giúp độc giả có một hướng nhìn đúng đắn về khái niệm “Eros” (Tình ái) mà một số người chỉ hiểu là tình dục. Ngài nói đến trong các tôn giáo, có các giáo phái tôn thờ khả năng sinh sản, chẳng hạn như tục mại dâm “linh thiêng” nở rộ trong nhiều đền thờ. Eros, vì thế được thờ như một thứ quyền năng thiêng liêng, đồng hàng với Thiên Chúa [41]. Tuy nhiên, việc đề cao quá đáng tính dục đến nỗi thần thánh hoá chúng, chắc hẳn, đồng thời hạ thấp con người. Ngài trích dẫn: nhưng gái điểm trong các đền thờ, những người phải cúi đầu trước trạng thái say sưa thần bí này đã không được đối xử như con người. Điều này kéo theo hệ luỵ, là thân xác con người bị khinh chê. Có thời, người ta coi thân xác là mồ chôn của linh hồn và đời sống tính dục như một sự hạ cấp, thấp hèn không đáng bàn đến.

Một điều chúng ta cần khẳng định: tính dục chỉ có ý nghĩa và chỉ được thực hiện một cách lành mạnh và hợp lẽ thường trong khuôn khổ tình yêu vợ chồng và việc thông truyền sự sống. Ra khỏi khuôn khổ này, nó bị coi là thói đam mê sắc dục, mà thánh Phaolô gọi là đam mê của tính xác thịt. Thánh Gioan lại xếp nó vào những mối thị dục và gọi chúng là dục vọng của đôi mắt. Ngài có lý khi cảnh giác chúng ta phải canh chừng đôi mắt. Vì vua David khi xưa, với khả năng làm chủ đội quân, đã đánh dẹp quân loạn; làm vua, làm chủ cả vận mệnh đất nước. Thế mà, vua đã không làm chủ được bản thân, không canh chừng được đôi mắt khiến đam mê sắc dục lộng hành, dẫn đến những hậu quả khôn lường như chúng ta đã biết.

Thánh Augustino cũng có kinh nghiệm này, ngài viết trong cuốn Tự thuật: “Suốt ngày, bao lâu con tỉnh thức, chúng quấy quả con, không để con được yên tĩnh… ban ngày, bất cứ ở đâu, nó mơn trớn con bằng muôn vàn cách, mặc dù khi con làm việc khác và không lưu tâm đến nó. Nhưng nó xâm nhập quá mạnh đến nỗi, nếu bất thần nó biến đi, thì người ta ước ao tìm kiếm nó; và giả như nó vắng bóng lâu, thì tâm hồn người ta đâm ra buồn chán” [42]. Hiểu thấu nguy hiểm của dục vọng đôi mắt, thánh nhân đã dạy các môn đệ trong tu luật: “Nếu anh em thấy ai không giữ con mắt như đã nói, hãy khuyến cáo họ ngay để điều trái ấy được chữa trị kịp thời và khỏi nặng nề hơn”, ngài con trích dẫn Kinh thánh: “Chúa ghê tởm những người cắm mắt vào phụ nữ” [43].

Đam mê này thời nào cũng có, nhưng ngày nay nó được phổ biến, quảng bá trên các phương tiện công chúng mà người ta không còn phải nhọc công đi tìm. Bằng chứng rõ rệt nhất có thể thấy nơi công nghệ quảng cáo tiếp thị ngày nay; sử dung những hình ảnh khiêu dâm để giới thiệu sản phẩm, hấp dẫn khách hàng… Thoạt nhìn, những hình ảnh có vẻ vô thưởng vô phạt nhưng là những chất liệu đầu độc ám ảnh và chi phối toàn bộ đời sống con người. Những dịp  ấy dẫn đến sa ngã là một khoảng cách rất mong manh. Họ không chỉ tự tìm khoái lạc bản thân mà còn kéo theo những hệ lụy, lối sống tiền hôn nhân, sống thử… Trong những hoàn cảnh đó, tính dục thay vì là khả năng xây dựng hạnh phúc gia đình, lại trở nên nguyên cớ làm tha hóa con người. Con người hiện đại có thể bị tha hóa bằng nhiều cách, nhưng một trong những hình thức tha hóa nhất chính là tính dục.

Nhưng không vì thế, chúng ta có thể cự tuyệt năng lực ấy. Như S. Freud và C. Jung đã từng quả quyết: con người không thể hoàn toàn loại bỏ, bóp nghẹt hay phủ nhận những ham muốn thể xác mà không bị loạn thần kinh chức năng. Còn thi sĩ Gibran nói: “ Khi tự mình khước từ lạc thú, các bạn chỉ tích trữ khát vọng ấy vào chỗ sâu kín của hữu thể mình”.[44] Thật vậy, chúng ta không thể khước từ lạc thú hay khoái lạc vì như thế vương hại đến toàn bộ đời sống con người. Mặc dù cảm nghiệm của thú vui này chóng qua nhưng nó lại là thành phần thiết yếu của cuộc sống. Những khoảnh khắc thi vị ấy luôn truyền tải một sứ điệp niềm vui cho đời sống mới. Song, vì lẫn lộn nó với hạnh phúc thực sự nên có người đã sai lầm khi tìm kiếm nó như cứu cánh đời mình.

Dường như chúng ta chưa bao giờ làm việc gì mà không mang theo cái tôi hưởng thụ. Tất nhiên, hưởng thụ là nhu cầu chính đáng của con người, nhưng nếu hưởng thụ chỉ để thoả mãn cái tôi của mình thì bản thân không được thực sự lớn lên. Vì những giá trị tinh thần mới giúp con người lớn lên vượt qua những vui thú và ham muốn hạ đẳng.

Để kết luận phần này xin đơn cử trường hợp của anh Tiger Woods, vận động viên chơi golf từng chiếm giải quán quân nhiều năm và đã từng là một huyền thoại cho người Mỹ. Mỗi lần lãnh giải vô địch, anh không ngừng đề cao đời sống hôn nhân. Có lần anh khẳng định: “ Hôn nhân là liều thuốc bổ cho trái tim, là phép mầu cho những chiến thắng của tôi và giúp tôi tìm lại phong độ của chính mình”. Lần khác anh còn quả quyết mạnh mẽ hơn: “ Hôn nhân là một điều kỳ diệu. Nó thực sự đã giúp tôi chơi tốt hơn tại mỗi giải đấu. Trở về nhà từ một trận đấu căng thẳng tôi luôn cảm thấy thoải mái khi đón nhận những nụ cười dễ thương từ người vợ yêu quí và mọi mệt mỏi trên gương mặt dường như biến mất khi Elin trao cho tôi những nụ hôn ngọt ngào. Từ khi cô ấy bước vào đời tôi, mọi chuyện trở nên tốt đẹp hơn nhiều”.

Với những lời bộc bạch trên, chúng ta nhận thấy dường như danh vọng và lợi thú đều mỉm cười với anh. Nếu những lời ấy thốt ra từ một con tim rất chân thành và một xác tín lớn lao về đời sống hôn nhân thì những lời tự thú dưới đây là một sự thật mà Elin, cựu người mẫu, vợ của anh phải hứng chịu.

Huyền thoại golf người Mỹ này lại là một kẻ nghiện sex. Anh thú nhận đã quan hệ thể xác với gần 20 phụ nữ đủ mọi tầng lớp, từ diễn viên phim khiêu dâm đến nhân viên hầu bàn, chưa kể những người tình một đêm. Bạn thử nghĩ xem, anh ta đón nhân tình về nhà quan hệ trong phòng làm việc khi cô vợ đang ở nhà và chăm sóc hai đứa con nhỏ cách đó vài phòng.

Cuối cùng, anh phải chấp nhận một cuộc chia tay trong nước mắt và không bao giờ trở lại dù anh đã nhiều lần công khai xin lỗi người vợ.

Như thế, đam mê thể thao giúp anh đạt đến những đỉnh cao danh vọng, mang lại cho anh cuộc sống vui khoẻ và hạnh phúc bên người vợ một thời gian; đồng thời, đam mê ấy nên cớ khiến anh trở thành kẻ phục vụ cho những ham muốn thấp hèn.

Tiger Woods được tự do chọn cách sống đam mê của mình và bạn cũng khả dĩ khẳng định mình qua những đam mê nhưng hãy dựa theo những tiêu chí là các giá trị tinh thần, giúp nâng cao cuộc sống hiện tại.

IV. ĐAM MÊ VÀ CÁC BẬC THANG GIÁ TRỊ

1.ĐAM MÊ GIÚP HOÀN THÀNH ĐỊNH MỆNH.

Sống đam mê là sống lời mời gọi hoàn thành định mệnh đời mình. Mỗi người sinh ra, Chúa trao cho mỗi loại nén bạc, thiên hướng khác nhau. Chính nét riêng, duy nhất, độc đáo ấy làm nên một cuộc hành trình giúp mỗi người tiến về Chân – Thiện – Mỹ. Bạn sinh ra, Chúa ban cho một đôi tai bén nhạy khả dĩ lắng nghe những nốt nhạc tinh tế nhất. Người khác sinh ra, Chúa ban cho giọng hát mượt mà có thể cất cao, ngân nga những giai điệu trầm bổng. Người khác nữa sinh ra, Chúa ban cho cặp mắt nghệ thuật và đôi tay điêu luyện khả dĩ vẽ nên những vẻ đẹp thiên nhiên… Khi sống nỗi đam mê riêng ấy, họ đi vào quỹ đạo ý muốn của Đấng Tạo Hóa và giúp hoàn thành định mệnh đời mình.

Có lần họa sĩ Nguyễn Gia Trí đã tâm sự những lời thật sâu sắc: “Đừng nghĩ đến kết quả của tranh, hay kết quả của đời nghệ sĩ. Hãy yêu và say mê cái đẹp. Đối với họa sĩ, vẽ tranh là một cách thể hiện Đạo, mà đi Đạo là để đạt được ‘Vô ngã’ và chỉ khi mình ‘vô ngã’ nghệ thuật mới bắt đầu… Nghệ thuật là phương tiện để mình đi vào thế giới chưa từng biết và hội họa gần với tôn giáo, vì nó phát xuất từ tâm người ta. Nó không phải làm bằng óc hay làm bằng tay”.[45] Như thế theo ông, đam mê nghệ thuật giúp mình dễ dàng tìm đến tôn giáo, nơi sống và thực hiện một cuộc hạnh ngộ với Đấng Tạo Hóa.

Philomina Agudo, một nhà tâm lý trị liệu, tác giả quyển sách Ta đã chọn con, có lần ngài chia sẻ kinh nghiệm: “Tôi đã gặp một thân chủ có khả năng hội họa nhưng ông đã không bao giờ phát huy năng khiếu ấy, mà lại còn tự khiển trách vì đã phung phí thời giờ vào chuyện vẽ vời. Ông vất bỏ cọ, sơn để hãm mình. Ông trở nên trầm cảm và vài năm sau thì muốn tự vẫn. Trong thời gian điều trị, tôi khuyên ông vẽ tranh. Ông càng vẽ thì sự trầm cảm và ý muốn tự vẫn dần dần biến mất. Ông lấy lại sự quân bình cảm xúc khi ông được tự do phát huy các tài năng Chúa ban”  [46].

Chúng ta thử hỏi, tại sao ông ấy muốn tự vẫn ? Phải chăng ông cảm nhận cuộc sống vô nghĩa, là người vô dụng. Chỉ khi ông tái khám phá năng lực bản thân và sống như một người đam mê, và khi đó, ông vinh dự hoàn thành nỗi đam mê như một sứ mạng. Không ai có thể thay thế và đảm nhận thay ông sứ mạng đó.

Một khi mỗi chúng ta ý thức đam mê nào đó là sứ mạng ta được hoàn thành thì sống hay chết với nó đều là một vinh dự.

Cha Maurice Zundel có kể một câu chuyện chính ngài mục kích. Một bác sĩ ở vùng quê thấm mệt vì công tác phục vụ. Nghe tin một người bị bệnh nguy kịch cần được mổ kịp thời, bác sĩ nuốt miếng cơm xong lại tiếp tục tham gia ca mổ. Ca mổ vừa xong và thành công, bác sĩ trút hơi thở cuối cùng tại bàn mổ.

Có thể nói vị bác sĩ này sống đến cùng nỗi đam mê phục vụ con người và nếu có thể nói được lời gì cuối cùng, có lẽ bác sĩ sẽ nói: “tôi đã hoàn tất”. Ở đây, chúng ta mới thấy đam mê khác hẳn với cảm xúc. Cảm xúc khi không gặp điều kiện thuận lợi có thể tháo lui; trái lại, đam mê bất chấp điều kiện bên ngoài, vẫn miệt mài theo đuổi đối tượng đam mê.

Hồi ký của linh mục trẻ miền Bắc viết về vị cha bố của mình, ghi lại rằng: lúc ấy ngài là một chú giúp lễ đến báo cho cha bố về một bà lão ở vùng sâu đang chờ linh mục đến ban các bí tích sau cùng. Khổ nỗi, lúc ấy vị cha già cũng đang bị một cơn đau dằn vặt, cản mấy cha cũng quyết định đi và nói rằng: “Cha muốn chết đang lúc thi hành sứ vụ”. Và cha đã ra khỏi nhà giữa cái lạnh khắc nghiệt của trời miền Bắc. Đến nơi, cha làm bí tích sau cùng cho bà lão; xong việc, cha cũng trút hơi thở cuối cùng trước sự ngỡ ngàng của bao người hiện diện. Hình ảnh ấy ăn sâu trong ký ức của cậu giúp lễ, và đó là khởi đầu của một cuộc tìm Chúa của cậu.

Cha đã sống và chết với nỗi đam mê phục vụ con người với một ao ước nhỏ bé: “cha muốn chết đang lúc thi hành sứ vụ”.

Từ hai câu chuyện trên về vị bác sĩ và vị linh mục, chúng ta rút ra một kết luận khi họ sống nỗi đam mê, có một ý hướng hay cảm thức hướng dẫn họ, nó như bột men vùi trong đấu bột, mầm sống ấy có thể là: vinh dự của tôi là phục vụ bệnh nhân hay ước muốn của tôi là sống, chết cho sứ vụ Chúa trao... Cảm thức ấy đeo bám con người không như loài ký sinh trùng giết chết chủ mình nhưng cảm thức sống và chi phối mọi sinh hoạt của con người đam mê.

Ngoài những cảm thức chi phối sinh hoạt đam mê, chúng ta còn nhận thấy những khoái lạc. Đam mê lành mạnh và đích thực mang lại cho con người khoái lạc “vô vi” và chính đáng. Chẳng hạn, nhà hóa học Dany đã nhảy múa trong phòng thí nghiệm, lúc ông khám phá ra chất Potassium. Đó là những khoảnh khắc hạnh phúc bất ngờ của người sống hoài nỗi đam mê.

Những bước thành công được người đời đón nhận là một xác tín sâu xa của người đam mê. Nhưng cũng có thứ khoái lạc tinh thần được diễn tả trong đời thường khiến ta phải ngẫm nghĩ, như trường hợp của nhà khoa học Archimède. Nhà vật lý này tìm ra nguyên lý lực đẩy. Một lần ông ngâm mình trong bồn tắm, chợt nhận thấy nước tràn ra đúng bằng thể tích cơ thể mình. Bỗng một ánh sáng tư duy vụt lóe lên trong đầu ông. Ông chạy ra ngoài phố mà trên người không một mảnh vải và reo hò như phát cuồng “Eureca, Eureca” (đã thấy rồi, đã thấy rồi). Mọi người ngoài phố cũng nhìn ông và bảo “ chúng tôi đã thấy rồi”.

Như thế, chúng ta thấy, đôi khi đối tượng cuốn hút người đam mê khiến họ không còn biết tình trạng của mình thế nào và đang ở đâu. Điểm mạnh của người sống đam mê là có thể dồn sức chú ý vào đối tượng.

Một đặc tính khác của đam mê là luôn ở thế chủ động. Đam mê ví như một chất bôi trơn và lực đẩy mạnh mẽ. Động cơ không thể hoạt động tốt, nếu không đủ chất bôi trơn, thì đam mê cũng vậy, nó kích động, huy động và phát động mọi năng lực sáng tạo. Đam mê không chấp nhận thói quen, tập quán, những gì làm cho cuộc sống đơn điệu; đam mê luôn tiên phong trong “cuộc cách mạng”. Chắc hẳn, cách mạng không có nghĩa là thay đổi toàn diện sinh hoạt con người nhưng chỉ làm mới những gì liên quan đến đối tượng đam mê. Cụ thể hơn, thói quen, tập quán tạo nên nếp sống kỷ luật thường ngày, còn đam mê sẽ làm mới bằng cách giúp thể hiện nét độc đáo duy nhất trong mọi sinh hoạt và tương quan. Chẳng hạn, một ca sĩ có thể nghêu ngao đang khi quét nhà hoặc nấu ăn.

Ngoài ra, đam mê còn có tham vọng chinh phục mọi đỉnh cao. Chúng ta có thể hình dung người đam mê leo núi, họ chuẩn bị những vật dụng và cả thức ăn cần thiết để đáp ứng trong suốt quá trình này; thay vì đáp trực thăng để đến đỉnh núi sớm hơn. Người sống đam mê luôn phiêu lưu. Đam mê thích khẳng định mình. Vì thế, chúng ta dễ nhận ra có những niềm vui, khoái lạc bất ngờ tạo nên nơi người đam mê một cá tính mạnh mẽ. Hay đơn giản là việc nấu ăn, đam mê của người nội trợ là tìm tòi, nghiên cứu ngay cả việc thử nghiệm để có thể có một bữa ăn hoàn hảo hơn hầu phục vụ và đáp ứng nhu cầu ăn uống cho người khác.

Cuối cùng, chúng ta có thể khẳng định rằng đam mê thuộc khuynh hướng bẩm sinh, nên không thể bị hủy diệt. Có những trường hợp đam mê phát sinh do hoàn cảnh hay điều kiện môi trường, có thể bị mất đi. Chẳng hạn, lúc có tiền, có thể thưởng thức âm nhạc nhưng khi do điều kiện khó khăn, do làm ăn buộc phải từ bỏ đam mê ấy. Xét cho cùng, nó chưa thực sự là đam mê, nó chỉ là sở thích giúp giải trí. Còn đam mê là khuynh hướng không thể hủy diệt. Chúng ta chỉ có thể chuyển hướng từ những đam mê tầm thường sang cao thượng, hầu giúp thăng hoa cuộc sống. Đam mê là hương vị của cuộc sống giúp hoàn thành định mệnh Chúa trao.

2.ĐAM MÊ và CÁC GIÁ TRỊ CHUNG.

Đam mê, tự thân là một giá trị và khi nó được phối hợp với các giá trị khác, chúng làm phong phú và tăng vẻ đẹp cho nhau. Trước tiên, chúng ta nói đến phẩm giá con người.

Có thể nói, từ đứa trẻ sơ sinh chưa làm được gì cho mình hay cho người khác đến một anh hùng xả thân phục vụ thiện ích chung, nơi họ phẩm giá đều như nhau. Thật vậy, phẩm giá con người là một thực tại tĩnh, trước sau như một không thay đổi. Mỗi con người vừa sinh ra, được hiện hữu nghĩa là phẩm giá của họ phải được thừa nhận và tôn trọng trong cộng đồng nhân loại. Như thế, đam mê chẳng thêm được gì cho phẩm tính của nó nhưng có thể làm tăng vẻ đẹp. Phẩm giá của mọi người như nhau, song, chính đam mê lành mạnh khiến họ trở nên đáng yêu và cách nào đó đáng được tôn trọng.

Nếu như phẩm giá con người được xét chung trong cộng đồng nhân loại thì nhân vị lại nói lên tính độc đáo của mỗi cá nhân. Vì như Đức Cha Nguyễn Thái Hợp đã gợi ý một định nghĩa: “Nhân vị là một hữu thể tự tại, bất khả phân chia, cá biệt và do đó độc đáo vô nhị. Tuy nhiên nhân vị không phải là một hữu thể khép kín, mà tự bản chất là một hữu thể tương quan và mở rộng cho tha nhân, cũng như cho xã hội” [47]. Người đam mê thường có cá tính mạnh mẽ, nó giúp định hình trong sự khác biệt của mỗi nhân vị. Theo thánh Toma, thú vật cũng có một số hình thái đam mê nhưng chỉ ở cấp thấp; lại nữa, nó có thể chỉ mang đặc tính theo giống loài. Còn con người, yếu tố độc đáo được thể hiện một cách cá vị. Vậy khi nói đến niềm đam mê này chúng ta nghĩ ngay đến người đó và nếu có cùng một đam mê đặc loại như hội hoạ chẳng hạn, mỗi cá thể cũng có một phong thái rất đặc trưng theo nghành hội họa. Nói như thế, đam mê cũng chẳng thêm gì cho phẩm tính của nhân vị nhưng nó giúp phân biệt từng cá vị trong cộng đồng nhân loại.

Đi xa thêm bước nữa, chúng ta nói đến phẩm vị của mỗi người. Phẩm vị của mỗi người nói chung là sự cao cả của địa vị họ và sự tôn trọng mà họ xứng đáng lãnh nhận do địa vị họ mang lại. Về mặt nhân loại, phẩm vị lệ thuộc vào địa vị xã hội của mỗi người; tất nhiên ông vua khác với thường dân. Còn về mặt tôn giáo và siêu nhiên, nó lệ thuộc vào mức độ họ kết hợp với Chúa. Như thế, một Giám Mục kết hợp với Chúa trong chức thánh thì được tôn trọng hơn một giáo dân. Cũng vậy, một người sống đam mê trở thành vĩ nhân họ đáng được cộng đồng xã hội tôn trọng; còn một tín hữu sống thân tình với Chúa thì hữu xạ tự nhiên hương. Một bên là phẩm vị được xã hội công nhận, một bên do ân huệ Chúa ban, chắc hẳn chúng ta hiểu phẩm vị nào bền vững và đáng trân trọng hơn. Điều này giúp khơi gợi trong chúng ta sống đam mê những gì cao thượng thuộc về Thiên Chúa.

Chúng ta vừa khẳng định, đam mê tạo sự khác biệt trong mỗi nhân vị, điều này càng được thể hiện rõ nét nơi nhân cách mỗi người.

Chúng ta đặt đam mê của mỗi người trong ba chiều kích: bản thân, tha nhân và Thiên Chúa; đó là những yếu tố cấu thành nhân cách con người. Để giúp nhân cách thành toàn chắc chắn bản thân người đam mê đã ý thức đủ về sự hiểu biết cá nhân mình; kế đến, họ tương quan với tha nhân, người cùng sống đam mê trong một môi trường lành mạnh. Tất nhiên, cả hai cùng bổ túc và làm phong phú cho nhau như ca sĩ thể hiện thành công ca khúc của một nhạc sĩ đại tài. Cuối cùng, người đam mê tương quan với Thiên Chúa, Đấng vừa là tác nhân (ban ân sủng) vừa là đối tượng của đam mê. Quả thật, một nhân cách trưởng thành giả thiết một môi trường đam mê lý tưởng và những con người sống trong đó cũng chuyên chú một lý tưởng đã được định hình từ trước.

Một đặc nét của đam mê giúp hình thành nhân cách là sống chân tình và hết mình. Vì biết cách bộc lộ cảm xúc và đam mê nên họ tránh được mọi căng thẳng, dồn nén gây hại cho việc hình thành nhân cách. Xét ở cấp độ cao hơn, khi sống cao thượng, nghĩa là xả thân cho đối tượng đam mê, họ tự tạo cho mình một  nhân cách với những nét phong phú và vẻ đẹp rất riêng tư.

Chưa hết, đam mê còn giúp con người sống tự do và sáng tạo. Người đam mê thích sống độc đáo nhưng đôi lúc lại bị coi là quá khích. Tất nhiên đòi ta phải có cái nhìn toàn diện và chân thành; nhưng nhìn chung nó giúp phá tan mọi nếp sống cũ kỹ, thiếu sáng tạo. Nó giúp con người cởi mở với mọi chiều kích. Kẻ đam mê tình ái cũng yêu thơ, nhạc, thú vật và mọi cảnh vật thiên nhiên; đi đến đâu, họ cũng nhận ra bóng dáng người yêu.

Hơn nữa, một người tự do đích thực là một người hiểu mình hơn ai hết; bao gồm cả những điều lớn lao và giới hạn bản thân. Họ sống tự do, nhưng không có nghĩa họ tự đủ cho chính mình, song giúp họ mở ra với mọi thực tại và Đấng Siêu Việt. Chính ý thức về sự cao cả của mình liên hệ với Đấng trên cao mà con người sống đam mê với những thực tại siêu nhiên: Chân, Thiện, Mỹ…

Một người sáng tạo đúng nghĩa không nhất thiết phải sống lập dị, vì như thế, họ tự tách mình ra khỏi cộng đồng là nơi giúp họ trưởng thành về mọi phương diện; cũng không phải là người theo đuổi các cuộc cải cách, họ kêu gào đổi mới mà lại không biết khởi đầu từ đâu. Một khi đã đánh mất chính bản chất và căn tính của mình thì cải cách chỉ là thay đổi bộ cánh ngoài da nhưng thực sự, họ đã bị “biến chất” từ bản chất. Sáng tạo không hệ tại việc khám phá hay sáng chế những gì mới mẻ nhưng cốt ở cung cách phục vụ giúp chủ thể mỗi ngày một lớn lên và trưởng thành trong nhân cách.

Cuối cùng, chúng ta không thể bỏ qua giá trị thiết yếu và tinh tế nhất, đúng hơn, nó gồm tóm mọi giá trị, đó là lương tâm. Sống lương tâm là sống với ý muốn của Chúa; điều này đặt đam mê trước một rào cản vô hình nhưng mang tính quyết định. Chúng ta biết rằng một trong những đặc tính nổi bật của đam mê là vượt qua hết mọi rào cản. Nhưng đứng trước tiếng nói lương tâm, tiên vàn người đam mê thực sự phải tìm ra ý Chúa. Đó là dấu chỉ chứng thực cho một người tự do, sáng tạo thực sự hầu giúp đạt đến nhân cách viên thành.

Chúng ta có thể khởi đi từ sự sống là giá trị căn bản nhất của con người. Nếu như sự sống là điểm khởi đầu của hiện hữu thì đam mê giúp chủ thể sống triển nở hơn trong cuộc hiện sinh này.

3.SỰ SỐNG

Thời phong kiến, vua chúa nắm quyền sinh sát đồng loại nhưng ngày nay chính người mẹ nắm quyền sinh sát đứa con mình cưu mang; đến nỗi, chân phước Têrêsa Calcutta phải đau lòng mà thốt lên rằng: có hai cái chết trong một cuộc phá thai: cái chết của đứa con và cái chết của linh hồn người mẹ. Những cảnh tượng đại loại như thế đã khiến chân phước Gioan Phaolô II khẳng định: đây là thời của nền văn hoá sự chết. Có thể nói, giết người là một sự dữ tuyệt đối mà không có một lý do nào xác đáng và đủ mạnh để biện minh cho một hành vi tội ác như thế. Sự sống không còn là ân ban của Thiên Chúa nữa, đứa con xem ra không còn phải là hoa quả của một tình yêu trao hiến nữa vì nó trở nên gánh nặng khiến người ta phải trục xuất ra khỏi cuộc đời mình. Ở đây có một thứ đam mê nhục dục, một tình yêu vị kỷ tiêm nhiễm trong những quyết định của con người. Thay vì đam mê theo ý muốn của Thiên chúa, là con người trao hiến toàn thân và nên một với nhau trong tình yêu thì con người lại đắm mình trong mê hoặc thân xác, hưởng thụ lẫn nhau mà không sống trong phúc lành của Chúa.

Trước khi đi vào tương quan giữa sự sống và đam mê, thiển nghĩ chúng ta cần khẳng định sự sống ấy vốn thánh thiêng vì đến từ Thiên Chúa.

Xét cho cùng, người cha người mẹ không tự mình làm phát sinh một sự sống mới nhưng Thiên Chúa dùng các ngài như những tác nhân cần thiết và hữu dụng để góp phần trong việc duy trì nòi giống. Tất nhiên, điều này Giáo hội chỉ chấp nhận khi nó là hoa trái của một tình yêu thực sự. Như thế, thánh Irênê mới có lý khi khẳng định rằng: vinh quang Thiên Chúa là con người được sống. Hiện hữu hay sự sống tự nó là một điều thiện hảo vì nó đến từ Thiên Chúa như thông điệp Tin mừng về Sự sống đã viết: “Sự sống của con người từ Thiên Chúa mà đến, đó là ân huệ của Ngài, là hình ảnh dấu ấn của Ngài” [48]. Ở chỗ khác, Đức Gioan Phaolô II còn nói rõ hơn: “Sự sống mà Thiên chúa ban tặng con người là một hồng ân, qua đó Thiên Chúa làm cho thụ tạo tham dự vào cái gì đó của chính Ngài” [49]. “Cái gì đó của chính Ngài ?” Ở đây, chúng ta phải hiểu là tham dự vào Thiên tính của Ngài. Bởi đó, Đức Thánh Cha có lý khi khẳng định rằng sự sống con người mang tính thánh thiêng.

Nếu sự sống là ân ban của Thiên Chúa thì chúng ta chỉ là người quản lý sự sống như lời cha Peschke khẳng định: “Sự sống thể xác là một món quà Thiên Chúa trao cho con người không phải để làm chủ nhân nhưng là quản lý và thu hoa lợi. Bởi thế, con người không được phép sử dụng và làm hại sự sống ấy cũng như sự toàn vẹn của thân xác một cách tuỳ tiện”. [50] Như thế, quản lý không được quyền tự quyết mạng sống mà chỉ biết tìm mọi cách cho sự sống ấy triển nở đến mức thập toàn.

Bước đầu, chúng ta đã xác tín sự sống đến từ Thiên Chúa. Kế đến, Thiên chúa đã đặt để đam mê trong lòng con người. Có thể nói, nó như chất liệu góp phần tăng thêm phẩm chất cuộc sống.

Nhưng một điều nữa, chúng ta cần lưu ý: Thiên Chúa đặt ta trong một môi trường cụ thể, hầu giúp ta sống triệt để nỗi đam mê ấy. Trường hợp Têrêsa Calcutta là một điển hình. Thiên Chúa đã đặt Têrêsa trong một khu ổ chuột ở Calcutta; thay vì than thân trách phận, mẹ lại đọc ra ý muốn của Ngài là sống nỗi đam mê phục vụ người cùng khốn. Như thế, sự sống Thiên Chúa trao ban và đam mê Ngài đặt để trong Têrêsa, đồng thời, nhờ hoàn cảnh mà tất cả được thành hình. Nó trở thành ơn gọi giúp mẹ nên thánh.

Với chân phước Têrêsa Calcutta, hoàn cảnh khó khăn chỉ là yếu tố ngoại tại, chúng ta sẽ xét đến những yếu tố khác, nó ảnh hưởng đến sự sống của con người như những trường hợp khuyết tật. Đối với những người bi quan yếm thế, bệnh tật hay khuyết tật là một sự dữ phải loại trừ; còn những người lạc quan tin tưởng, chúng là cơ hội giúp họ vượt thắng bản thân. Họ có thể khuyết tật thân xác nhưng tinh thần thì không; họ có thể bệnh tật thể lý nhưng ý chí thì không. Họ luôn vững mạnh. Chính đam mê sẽ giúp họ tập chú vào phẩm chất hơn là việc lành lặn tay chân hay một bộ phận nào trên cơ thể.

Lưu Vỹ, chàng trai hai mươi ba tuổi đến từ Trung Quốc đã làm một điều phi thường: đánh đàn piano bằng chân. Sinh ra là một người bình thường, có cơ thể nguyên vẹn và lành lặn, nhưng đến năm mười tuổi, dòng điện cao thế đã lấy đi đôi tay của anh. Sau những ngày dài chán nản, khóc than và bất lực, anh đã quyết định thay đổi cách sống. Anh tiếp tục sống nỗi đam mê âm nhạc là chơi piano bằng chân. Trong cuộc thi China’s gottalent năm 2010, Lưu Vỹ đã giành giải nhất trong cuộc thi với tiết mục đánh đàn piano bằng chân.

Tương tự như Lưu Vỹ, chúng ta cũng có thể kể đến nhà giáo Nguyễn Ngọc Ký, người bị tật nguyền đôi tay và phải dùng đôi chân của mình để tập viết. Có những lần bị chuột rút đến quặp cả bàn chân, đau đớn đến vã cả mồ hôi nhưng sức mạnh tinh thần và nỗi đam mê giáo dục đã giúp ông vượt qua khó khăn. Đáng khâm phục! Chính lúc sự sống như bị đe doạ lại là lúc con người sống miệt mài với nỗi đam mê. Như thế, đam mê là động lực giúp tăng cường ý chí nơi chủ thể.

Tình cảnh này vẫn chưa bi đát bằng trường hợp của Helen Keller. Cô không bị mù và điếc bẩm sinh. Khi chào đời được mười chín tháng, cô bé bị ốm nặng sốt cao viêm màng não không may hỏng mất đôi mắt và sau đó tai cũng bị điếc. Càng lớn, cô càng trở nên nóng nảy cáu gắt và thiếu kiên nhẫn. Sau này cô bắt đầu học tài liệu bằng chữ nổi dành cho người mù. Cô kiên trì học tới mức khi nào đầu ngón tay rướm máu mới chịu dừng. Đến năm hai mươi tư tuổi, Keller tốt nghiệp và trở thành người mù điếc đầu tiên được tốt nghiệp tại một trường cao đẳng. Cô thông thạo năm ngôn ngữ, viết mười hai tác phẩm, đi giảng thuyết trên ba mươi quốc gia. Đồng thời, cô đã lập một hội hỗ trợ những người có hoàn cảnh bất hạnh. Có thể nói, nỗi đam mê tri thức đã giúp cô vượt qua mọi khó khăn, thách đố trong đời sống hằng ngày. Còn con tim của cô thì sao? Có lần cô tâm sự: “Tôi đã khóc vì không có giày để đi cho đến khi tôi nhìn thấy một người không có chân để mang giày”. Điều này, diễn tả phần nào niềm trắc ẩn nơi cô. Thiết tưởng, đó mới làm nên phẩm chất cao đẹp của một sự sống xem ra bất  hạnh. Thật vậy, chẳng có gì bất hạnh đối với một người sống đam mê và giàu lòng trắc ẩn.

 4.GIỚI TÍNH

Mỗi người là duy nhất và đặc thù. Qui tắc này không được bỏ qua khi xét con người như một nhân vị. Nhưng trong cái rất riêng biệt ấy vẫn mang một mẫu số chung nào đó mà giới tính là một điển hình. Cũng cùng đam mê nhưng nơi người phụ nữ có những biểu hiện rất đặc trưng và khác hẳn so với người đàn ông. Sự khác biệt này chúng ta có thể ví von: cùng một bản nhạc song lại được độc tấu bởi hai loại nhạc cụ khác nhau nên hiệu ứng âm nhạc cũng khác nhau.

Để có thể nêu bật những nét đặc trưng của giới tính, chúng ta sẽ đối chiếu chúng với một số lĩnh vực của cuộc sống. Từ đó chúng ta đi đến kết luận đam mê của người nữ khác với đam mê của người nam dựa theo đặc tính và phẩm tính.

Trong lĩnh vực khoa học và triết học, chúng ta thấy sự xuất hiện của bóng dáng người nữ rất hạn chế. Điều này cho thấy đặc tính của người đàn ông là dựa nhiều trên lý trí mà những lãnh vực này đòi buộc tính hợp lý, chính xác và chuẩn mực. Ngoài ra phải kể đến tính sáng tạo nổi bật nơi người đàn ông. Trong khi đó người phụ nữ suy tư và hành động phần lớn dựa trên tình cảm, ước muốn và trực giác cá nhân.[51] Vì thế, người phụ nữ lại thành công trong ngành tâm lý học. Họ trở thành những chuyên gia tâm lý trị liệu nhờ trực giác và kinh nghiệm cá nhân. Chưa hết, nhờ phẩm tính dịu dàng và cởi mở, họ dễ dàng tiếp cận với các thân chủ, là những người cần đến một chuyên gia trị liệu. Thật vậy, đặc tính của người mẹ dễ dàng đến với những đứa con đau yếu hơn là phong  thái người cha.

Còn lĩnh vực chính trị, uy thế của người đàn ông giúp nhiều cho việc lãnh đạo. Trong quân sự và binh lính chắc hẳn rất hiếm thấy nữ giới. Nhưng trong giới hạn lãnh đạo nói chung, người nữ vẫn phát huy mặt mạnh của mình. Tất nhiên đam mê quyền lực nơi người phụ nữ biểu hiện khác với người đàn ông nhưng khuynh hướng muốn khẳng định mình đều dành cho hai giới. Nếu người nam chủ yếu dùng sức mạnh cơ bắp và tư tưởng hầu thống trị người khác thì người nữ lại dùng kế sách ôn hòa mà  thuyết phục mọi người. Cả hai đều có thế mạnh nhưng cần bổ sung cho nhau. Bởi đó người ta đã lý tưởng thực tại này khi nói: “Sau lưng người đàn ông thành công là bóng dáng người phụ nữ”. Chắc hẳn, người phụ nữ ở đây là người vợ không trực tiếp lãnh đạo nhưng sự nâng đỡ tinh thần sẽ góp phần thành công cho người đàn ông.

Trái lại, lĩnh vực văn hóa giáo dục, phụ nữ chiếm ưu thế. Chỉ riêng trong bậc mầm non, phụ nữ cũng đã phát huy hết vai trò của mình. Họ đảm nhận công việc phục vụ như một người mẹ trong gia đình. Nhưng trong lĩnh vực giáo dục, người đàn ông đóng vai trò định hướng tư tưởng và khuyến dụ hành động cho mọi thành phần. Còn trong môi trường nghệ thuật, nếu thuộc những lãnh vực đòi hỏi khả năng sáng tạo thì giới mày râu nhiều hơn, chẳng hạn nhạc sĩ, nhà tư tưởng... không chỉ yếu tố sáng tạo mà còn khả năng tiếp cận thực tế. Ngoài ra còn do khả năng suy lí và óc phê bình chuẩn mực nhờ việc tổng hợp vấn đề của các phái nam. Phần vì các bà lệ thuộc nhiều lãnh vực cảm xúc nên dễ mơ mộng viển vông, khó tiếp cận thực tế. Những điểm vừa kể xem ra là yếu thế của quý bà trong lĩnh vực suy tư thực tiễn thì lại trở nên thế mạnh trong các loại hình ước lệ như: cải lương, ca nhạc, tiểu thuyết. Bởi đó, dù sống trong nỗi đam mê nào phải hiểu biết những yêu sách khách quan đòi buộc ta và trau dồi những kĩ năng cần thiết. Chính thái độ phục vụ nghiêm túc giúp bạn lớn lên không những về mặt chuyên môn mà còn trưởng thành trong nhân cách nghề nghiệp. Đặc biệt trong thời buổi công nghệ thông tin như ngày nay, chỉ những ai thực lực, nghĩa là sống bằng khả năng thực sự của mình cộng thêm yếu tố đạo đức nghề nghiệp mới đứng vững và chiếm lĩnh thị trường. Bạn không thể là bạn nếu như không đứng trên đôi chân của mình.

Những gì vừa trình bày rất khái quát, không ngoài mục đích gợi mở nơi bạn những nét đặc trưng của mỗi giới tính. Hy vọng giúp bạn nhận ra những điểm yếu để khắc phục và những điểm mạnh để phát huy. Một khi đã phát triển hết năng lực bản thân, bạn nắm phần quyết định đời sống mình. Bạn là người đàn ông năng động và hoạt bát, sẽ có những đam mê dành riêng cho bạn. Hay bạn là người phụ nữ trầm tĩnh và sâu lắng, cũng sẽ có những đam mê dành riêng cho bạn. Một điều bạn cần  xác tín rằng những tư chất Chúa ban cho bạn không ai có thể thay thế được. Nếu làm thất thoát hay không sống hết mình với nén bạc được trao, bạn đánh mất chính mình, đồng thời làm băng hoại thế giới. Trái lại, nếu sống tích cực và hi vọng, bạn sẽ làm sáng lên như một ngọn đèn bé nhỏ và khiêm tốn nhưng là phần đóng góp của riêng bạn. Một người phụ nữ nhỏ bé như mẹ Teresa Calcutta lại ôm một cao vọng biến đổi thế giới. Nhờ ơn Chúa cng thêm sự cộng tác của mẹ trong việc trung tín sử dụng nén bạc Chúa trao, mẹ đã hoàn tất ơn gọi của mình.

5.CHÂN LÝ.

Chân lý, theo thánh Toma, là sự tương hợp giữa phán đoán của chúng ta với thực tại. Xét như thế, vì thánh nhân đặt chúng trong tương quan giữa chủ thể và đối tượng, giữa ta với sự vật. Ở đây, chúng ta muốn nhấn mạnh đến chân lý ở ngay chính sự vật. Thật vậy, ngay từ đầu, Thiên chúa đã đặt chân lý trong chính qui luật thiên nhiên, trong chính bản chất của sự vật. Trước khi có nhà khoa học Newton, trong thiên nhiên vẫn tồn tại định luật vạn vật hấp dẫn. Ông đã có công khám phá ra định luật ấy mà ngày nay, chúng ta khẳng định, nó là chân lý. Xét trên bình diện nhân học, tâm lý học ngày nay đã khám phá ra hai loại đam mê đều hiện diện trong con người là đam mê nhục dục và danh vọng. Có thể coi, đây cũng là chân lý mà Thiên Chúa đã đặt định trong bản tính con người. Điều quan trọng là chúng ta tìm hiểu ý định của Thiên Chúa và tìm ra cách trình bày chân lý về hai đam mê chủ đạo này trong con người. Chắc hẳn, những đam mê nơi mỗi người được sống và diễn tả ra ngoại diện khác nhau. Ở đây, chỉ cố gắng trình bày những nét tiêu biểu nhất giúp bạn tái khám phá bản thân và chỉ khi nào bạn nêu đích danh đam mê ấy trong bạn, mới khả dĩ giúp bạn làm chủ tình thế và bản thân.

ĐAM MÊ NHỤC DỤC [52].

Theo Millball Demad, để hiểu đam mê này, ta phải hiểu các loại và các giai đoạn của tình yêu. Ông chia ra ba giai đoạn như sau:

1.Giai đoạn thấp nhất của tình yêu chỉ tự biểu lộ như một cảm xúc tự phát, nên nó thuộc tiến trình thuần tuý bản năng xây trên những tiến trình sinh lý.

2. Bước kế tiếp là tình yêu tự nhiên. Ở mức độ này, tình yêu được thể hiện bằng sự ý thức đầy đủ và một ý chí vững mạnh; đồng thời, chủ thể có một trực giác nhạy bén trong nhiều tình huống bất ngờ.

3. Bậc cao nhất có thể có nơi con người trong đời sống này là tình yêu siêu nhiên. Nó được thấm nhuần bởi niềm tin và ân sủng đến từ Thiên Chúa.

Một hệ quả tích cực được rút ra từ đam mê nhục dục là ước muốn mãnh liệt làm cho người khác được hạnh phúc. Tất nhiên, điều này đòi buộc bạn sống thông cảm với tha nhân (giai đoạn một) và luôn có một trực giác lành mạnh (giai đoạn hai) giúp tìm đến tha nhân và đồng cảm với họ. Một con người như thế sẽ gieo vãi ánh sáng niềm vui và tình yêu ở bất cứ nơi đâu. Nhưng ở mức độ này, tình yêu vẫn còn mang tính vị kỷ, nghĩa là yêu người vì mình hơn là vì người khác. Nói cách khác, tình yêu mang tính chiếm hữu. Có một lực thúc đẩy bạn hiến trao cho người khác nhưng khi tình yêu và hy sinh của bạn càng lớn, thì ước vọng nhận lại tình yêu đáp trả nơi người khác cũng phải cân xứng. Chỉ khi nào bạn như ông Phêrô bắt gặp được ánh mắt yêu thương của Chúa và nhờ ân sủng nâng đỡ, ông mới thực sự quyết tâm phục vụ hạnh phúc người khác vì nước trời (giai đoạn 3).

Nếu như những mặt tích cực giúp ta nhanh chóng đạt đến tình yêu siêu nhiên thì những bóng tối có thể làm ta ngã quỵ, ít ra làm cản bước tiến ta sống hoàn thiện. Chẳng hạn, tính lệ thuộc, lòng quyến luyến, tìm khoái cảm nhục dục, hay nuông chiều thân xác… những thứ này sẽ làm nhiễm bẩn tình yêu siêu nhiên của bạn và làm bạn xa lìa ý muốn của Chúa; lấy mình làm trung tâm, ý mình là ý Chúa. Đó cũng chính là mối nguy của đam mê danh vọng.

ĐAM MÊ DANH VỌNG.

Đam mê danh vọng cũng như nhục dục đều xét trong mối tương quan, nghĩa là cần đến tha nhân. Nhưng nếu đam mê nhục dục đến với nhau bằng tình yêu thì danh vọng xử sự nhau bằng quyền lực. Một bên là sự thúc đẩy hiến trao, bên kia là sự thúc đẩy tôn trọng. Xét về cấp bậc, sự hiến trao đòi buộc hai bên bình đẳng, còn sự tôn trọng hàm chứa thứ bậc trên dưới. Nên đam mê này phù hợp cho những nhà lãnh đạo.

Tất nhiên, những tư chất đi kèm với người đam mê danh vọng là quyết đoán, can đảm, nhiệt tình… sẽ là những lợi khí giúp họ thu phục nhân tâm. Mặc dù, cần sự ủng hộ của đám đông nhưng họ có tham vọng vượt hơn người với một ý chí mạnh mẽ và kiên vững. Mức độ này càng tăng dần tuỳ thuộc mẫu người hướng ngoại, vì khi càng mở rộng các mối quan hệ, họ càng thiết lập những hàng rào bảo vệ vững chắc cho tầm ảnh hưởng của mình. Điều này nếu không được ý thức đủ, sẽ dẫn đến thái độ qui kỷ và chiếm hữu vật chất cũng như người khác, nghĩa là dùng mọi thủ đoạn để trục lợi bản thân và điều khiển mọi sự theo ý mình.

Chúng ta vừa tìm hiểu sơ lược về hai đam mê nhục dục và danh vọng mà nghiên cứu mới của các nhà tâm lý học quả quyết rằng nó nằm trong bản chất con người. Vấn đề đặt ra khá gay go: Trong Đức Kitô có hai đam mê này không? Tất nhiên, chúng ta chỉ xét theo nhân tính của Chúa Giêsu, Ngài là con người thật và trọn vẹn một trăm phần trăm.

Thánh Giáo phụ Gioan Damasceno đưa ra một qui tắc: “Nếu có một cái gì nơi con người mà Ngôi Lời Thiên Chúa đã không đảm nhiệm, thì điều ấy chưa được cứu chuộc”. Điều này, cách gián tiếp khẳng định Chúa Giêsu đã đảm nhận và sống trọn kiếp người, tất nhiên cả bản tính sa đoạ của con người nữa ! Vì khởi đi từ việc con người sa ngã, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Thế và Chúa Giêsu đã mang lấy bản tính phải chết để cứu rỗi nhân loại. Vậy nếu chúng ta tuyên xưng ơn cứu độ phổ quát và toàn diện nơi Đức Kitô thì đồng thời, chúng ta phải xác quyết Chúa Giêsu đã đi xuống tận cùng của kiếp sống con người để vực dậy và đưa con người vào trong vinh quang phục sinh với Ngài.

Nếu xưa kia, con người vì đam mê nhục dục và danh vọng mà sa ngã, thì Đức Kitô cũng đảm nhận nó và mặc cho nó bộ mặt mới là đam mê tình yêu và đam mê danh Cha. Thư gửi tín hữu Do Thái ám chỉ Đức Giêsu khi quả quyết rằng: “Vị Thượng tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt, 4,15). Thật vậy, những đam mê ấy như những nỗi yếu hèn của ta đã được Đức Kitô cảm thương đảm nhận lấy, chúng là những thử thách đòi buộc Ngài phải trả giá và chiến thắng, vì Ngài không phạm tội nên nó trở thành công nghiệp lớn lao đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.

Như thế, nơi Chúa Giêsu cũng có đam mê nhục dục và danh vọng. Điều còn lại là phải giải thích thế nào khi những đam mê ấy được thăng hoa và gọi bằng tên đam mê tình yêu và đam mê danh Cha.

ĐAM MÊ TÌNH YÊU.

Trong thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, Đức Thánh Cha Benedicto XVI đã khẳng định: “Tình yêu là một thực tại duy nhất nhưng với nhiều chiều kích khác nhau; ở những thời điểm khác nhau, chiều kích này có thể xuất hiện rõ hơn chiều kích khác” [53]. Ở đây, chúng ta nhấn mạnh cụm từ “tình yêu là một thực tại duy nhất”. Và tiếp theo trong số 9, Đức Thánh Cha giải thích thêm: “Thiên Chúa yêu và tình yêu Ngài chắc chắn có thể gọi là eros nhưng tình yêu đó cũng hoàn toàn là agape”. Thật vậy, eros có thời người ta coi là đam mê nhục dục nay được Đức Thánh Cha mặc cho một tinh thần mới khi nói nó là một chiều kích thể hiện gương mặt yêu thương của Thiên Chúa trong Đức Kitô. Tình yêu eros được Đức Thánh Cha đồng hoá với cảm xúc của Thiên Chúa trong Cựu ước đã được thể hiện nơi thân xác Đức Kitô [54]. Thật vậy, chỉ có một thân xác mới khả dĩ diễn tả cảm xúc của mình và cảm xúc, đam mê ấy đã được Đức Kitô thăng hoa và được gọi là tình yêu siêu nhiên, bậc cao nhất trong phần đam mê nhục dục chúng ta vừa bàn đến.

Chúng ta dễ dàng nhận ra hình ảnh đam mê tình yêu của vị Thiên Chúa là Cha trong dụ ngôn Người Cha nhân hậu; với tất cả sự chờ đợi không biết mệt mỏi, chờ đợi con yêu hoang đàng trở về để tha thứ và tiếp tục yêu thương. Không còn dừng lại ở hình ảnh dụ ngôn nữa, chính vị Thiên Chúa làm người đã thân hành đến với mọi người, đặc biệt là người nghèo khổ, đau yếu và tội lỗi. Nỗi đam mê ấy được thể hiện đến cùng bằng tình yêu hiến mạng sống vì người mình yêu. Bởi đó, Đức Benendicto XVI có lý khi khẳng định trong thông điệp này: “Logos, Đấng thượng trí – lại đồng thời là một người biết yêu với tất cả đam mê của tình yêu thực sự. Eros vì thế đã nên tột cùng cao quí, nhưng đồng thời thuần khiết đến độ nên một với Agape” [55]. Đam mê như thế, Ngài trở nên gương mẫu cho những người dám sống đam mê để nên hoàn thiện.

ĐAM MÊ DANH CHA.

Chúng ta cảm thấy khó chịu khi ai đó tuyên bố Chúa Giêsu đam mê danh vọng, nhưng dễ chấp nhận khi nói Chúa Giêsu đam mê đi tìm danh Cha.

          Với tư chất của người đam mê danh vọng, Đức Kitô tìm mọi cách để thu hút đám đông, từ lời nói, cách giảng, làm phép lạ… nhưng thay vì để cho mình được vẻ vang hay muốn người khác tôn làm vua, Ngài lại tách riêng đi lên núi cầu nguyện với Cha: Tất cả cho danh Cha cả sáng.

Kinh thánh nói: đi đến đâu là Thiên chúa thi ân giáng phúc đến đó nhưng không như một ông chủ hay kiểu “cha chú”; trái lại, Chúa đến với mọi hạng người không trừ một ai; kể cả những người thu thuế, tội lỗi là những kẻ bị người đương thời khinh miệt và ruồng rẫy. Thay vì tìm danh vọng cho bản thân, Ngài phục hồi phẩm giá của họ; thay vì chờ người khác tôn vinh, Ngài hết mực tôn trọng từng người trong họ. Thay vì họ chỉ xin chữa trị thân xác, Ngài chữa lành tâm hồn họ. Chúa chữa lành thân xác để giúp họ gia nhập lại với cộng đoàn; chữa lành tâm hồn, Ngài giao hoà họ với Thiên Chúa. Ngài làm tất cả để họ khả dĩ sống an hoà với người và an lành với Chúa. Tất cả để cho danh Cha cả sáng.

Kẻ đam mê danh vọng, lấy quyền bính mà thống trị nhau, còn Chúa Giêsu lấy tình yêu mà phục vụ. Thay vì ngồi cao cho kẻ hầu người hạ, Ngài lại cúi xuống rửa chân và phục vụ mọi người như hàng tôi tớ. Vì quá đam mê, Đức Kitô như một “người điên” chết thay cho kẻ tội lỗi, trong khi vì tội lỗi, chúng ta đáng chịu cơn thịnh nộ của Chúa. Đã được tha tội, nhưng chúng ta vẫn sống lây lất trên trần gian, Ngài lại nên Bánh trường sinh nuôi sống chúng ta. Đã thế, không còn điều gì mà Chúa khước từ chúng ta miễn sao cho chúng ta được sống và sống dồi dào để cho danh Cha được cả sáng trong mọi sự.

Tóm lại, đam mê nhục dục và danh vọng, cách nào đó là thành phần chân lý nơi nhân tính Đức Kitô. Nói cách khác, khi tuyên xưng Đức Kitô là chân lý, đồng thời, chúng ta khẳng định những đam mê ấy diễn tả phần nào diện mạo chân lý về Đức Kitô. Điều tuyệt vời mà một kitô hữu được thừa hưởng là Đức Kitô đã đảm nhận bản tính nhân loại ngay cả những gì có thể làm cho con người sa đoạ, thành chất liệu luân chuyển trong toàn bộ con người Ngài. Để trong Ngài, chúng ta nhận ra bản chất con người mình và biến đổi nó nhờ sức sống thần linh nơi Ngài. Quả thật, tất cả những gì chúng ta để cho Ngài chạm đến đều có sức biến đổi từ bên trong. Và như thế, đam mê nhục dục và danh vọng là một trong những phương thế giúp ta sống hoàn thiện, dẫn ta đến chân lý đích thực là Đức Kitô.

6.SỰ THIỆN.

Không phải ngẫu nhiên mà Mạnh Tử lại phát biểu: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Quả thật, con người khi sinh ra đã là thiện vì Kinh Thánh nói Thiên Chúa dựng nên mọi sự và thấy thế là tốt đẹp. Sự thiện nơi con người còn được hiểu như có lời chép: Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Có thể nói Thiên Chúa dựng nên con người cho sự sống đời đời. Đó là ý muốn của Thiên Chúa ngay từ đầu trước khi nguyên tổ loài người sa ngã.

Ngay cả triết học cũng cho ta một qui tắc: Mọi hiện hữu đều là sự thiện. Cây cỏ, sỏi đá... tự nó đã là thiện, vì nó có đó để hoàn thành ý định Đấng tạo hoá đặt để trong trật tự thiên nhiên huống chi là con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Chúng ta hơn sinh vật khác ở chỗ, ý thức mình là sự thiện. Và chỉ khi nào chúng ta khám phá ra ý định của Thiên Chúa đặt để nơi mình, chúng ta mới nên hoàn thiện.

Con ong cho mật, con tằm cho tơ, con người cho gì ? Chúng ta phải cho đời chính những thứ gì thuộc “chất người”, ta mới hoàn thành sứ mạng Đấng Tạo Hoá trao cho. Chúng ta vẫn nghe nói có những kẻ lòng lang dạ sói, giết người không gớm tay. Xét cho cùng đó chỉ là những giây phút sa đà, lỡ lầm; không vì thế, chúng ta có quyền qui kết rằng họ không có “mầm thiện”, không có “chất người”. Bằng chứng là có những người phạm tội rồi sau đó ra tự thú, hoặc họ luôn bị tiếng lương tâm phán xét. Dù là ai và ở hoàn cảnh nào vẫn có mầm thiện trong con người - đó là bằng chứng rõ nét nhất phản ánh hình ảnh của Thiên Chúa. Và cho dẫu sự thiện đã ẩn khuất trong một giai đoạn nào đó thì sám hối là nét đẹp tuyệt đối nơi con người; hoán cải và trở về là sự thiện còn lại nơi con người là cơ hội giúp hối nhân tiếp xúc với Lòng Thương Xót Chúa, mà “Tên trộm lành” là một điển hình cụ thể.

Làm sao sám hối nếu không ý thức mình phạm tội; mà làm sao phạm tội nếu không hoàn toàn tự do (vì không ai cưỡng bức chúng ta phạm tội). Vậy ý thức và tự do cấu thành hành vi nhân linh của chúng ta phải được giáo dục và điều hướng. Nếu không, thay vì con người dùng nó như những nhân lực khám phá những điều hữu ích phục vụ nhân loại, thì lại làm mồi ngon cho nền văn hoá sự chết. Mầm thiện vẫn có trong ta nhưng không phải lúc nào cũng thành “cây thiện”. Chỉ khi nào mầm thiện được đặt trong mảnh đất tốt (môi trường) và được bản thân chăm sóc kỹ càng mới mong sinh hoa kết trái. Nhưng ngay cả khi chúng ta là một kitô hữu được sống trong môi trường đạo giáo, đồng thời được ân sủng Chúa nâng đỡ, mà không sinh trái, thế nghĩa là tại đâu ? Mặt trời vẫn chiếu sáng không trừ một ai nhưng mầm sống của bạn không đủ mạnh để vươn lên khỏi đất thì ánh sáng mặt trời trở nên vô dụng. Đừng để mầm sự thiện trong bạn chết khô.

Đến đây, tôi nhớ đến câu nói của triết gia Kierkegaard: con người không đam mê như cây khô không nhựa sống, bất động. Với ý thức và tự do, cộng thêm niềm đam mê sẵn có nơi bạn, chúng ta bắt đầu một cuộc phiêu lưu chinh phục sự thiện.

Mẹ Têrêsa Calcutta đã chấp nhận từ bỏ sự an toàn trong một tu viện để đến với người nghèo hầu chinh phục sự thiện là khám phá ra hình ảnh Đức Kitô trong họ. Đồng thời, với việc rời khỏi tu viện là những lời chỉ trích thậm tệ, đó cũng là giá phải trả cho một chọn lựa “sự thiện lớn hơn”. Bù lại, sau này ngài được mọi người thương mến. Họ gọi ngài là mẹ; tuy chưa một lần chuyển dạ, nhưng mẹ đã quặn đau sinh ra họ trong chiếc nôi tình thương. Có lần, một người trong số họ nói với mẹ: “Cảm ơn mẹ, vì đã cho tôi cái chết giống như một con người”. Số là, mẹ gặp họ đang chờ chết bên cống rãnh mà thân xác họ bị giòi bọ đục khoét. Mẹ đã đưa họ về nhà, chăm sóc, và họ được chết trong vòng tay mẹ. Có thể nói, mẹ đã khôi phục hình ảnh Đức Kitô trong họ. Cách nào đó, mẹ đã giúp họ ý thức phẩm giá của mình, mỗi người phải được tôn trọng.

Chúng ta không thể bỏ qua gương sống đam mê chinh phục sự thiện của Đức Phật. Xuất thân từ giai cấp hoàng tộc vương giả, ngài sống yên ổn, an toàn, sung túc và sang trọng nữa. Cho đến một ngày, ngài vi hành, ra xem dân tình thế thái thế nào. Sinh, lão, bệnh, tử, những cảnh khổ ấy khiến ngài cảm nhận sự vô thường của vạn vật và biết bao nỗi khổ trong đời. Từ đó, ngài đã từ bỏ những gì là tiện nghi để tầm sư học đạo. Ngài nhanh chóng thủ đắc cấp bậc thiền định cao nhất nơi các vị thầy. Nhưng đối với ngài, đó vẫn chưa phải là chung cuộc. Ngài đã ra sức thiền định, đạt đến sự giác ngộ chứng nghiệm Thực tại tối hậu trong nội tâm mình. Có thể nói, nỗi đam mê chinh phục sự thiện, sự giải thoát nơi ngài là một kỷ lục đáng nể vượt xa các vị thầy đương thời. Nỗi thao thức giúp chúng sinh được giải thoát đã trở thành lẽ sống của ngài. Nhưng không vì thế, ngài đoạn tuyệt với gia đình và hoàng cung, trái lại, ngài trở về đó mang cho họ một luồng sinh khí mới. Cuộc đam mê chinh phục ấy còn tiếp diễn nơi các hậu sinh. 

Chúng ta cần xác tín rằng, chấp nhận một cuộc phiêu lưu với những bấp bênh, khó khăn, đó là chưa nói đến thiệt hại mạng sống, tất cả chỉ để chinh phục sự thiện. Như thế, nó bao hàm một cuộc sống đạt đến hoàn thiện bản thân. Không phải khi chúng ta đã chinh phục một sự thiện nào là đã hoàn thiện đủ đâu, luôn có những đỉnh cao hơn và những trắc trở phía trước. Nhưng đỉnh cao nhất, sự thiện đích thực là chính Chúa. Nên chúng ta không sống đam mê một mình; song, có Chúa cùng đồng hành mỗi ngày, Ngài tỏ mình ra cho chúng ta và nhờ ơn Chúa, chúng ta sẽ đạt đến đỉnh cao của sự hoàn thiện với tất cả đam mê chinh phục sự sống mới.

7.VẺ ĐẸP

Vẻ đẹp là một trong ba giá trị được con người theo đuổi và vươn tới (Chân, Thiện, M). Nó được các nhà tri thức coi là một trong những ưu phẩm siêu việt; tất nhiên vì nó gắn liền với những giá trị tinh thần và mở ra cho Đấng Tuyệt Đối. Chính nhà tâm lý siêu nghiệm Roberto Assagioli đã khẳng định: “Vẻ đẹp là tính chất thần thánh cụ thể nhất, nhạy cảm nhất, được biểu hiện rõ nhất trong vật chất nên nó là phẩm chất được con người lạm dụng dễ nhất khi không thấy nguồn gốc cao siêu của nó, khi không kết nối nó với cội nguồn... mà lại coi nó như một phẩm chất nằm trong bản thân vật chất và trong những hình thức cụ thể của vật chất” [56]. Thật vậy, một khi con người dừng lại vẻ đẹp bên ngoài của sự vật, con người giết chết vẻ đẹp vốn giúp người chiêm ngắm vươn lên thực tại siêu nhiên. Chính ở điểm này mà đam mê mới có đủ lý do tìm đến vẻ đẹp. Có một điều gì đó bí ẩn và chất chứa sau và trên vẻ đẹp khiến con người ước muốn đạt đến nó.

Cha Phan Tấn Thành kể một câu chuyện vui hư cấu từ trình thuật sách Sáng Thế. Trước tiên, Thiên Chúa tạo dựng nên bầu trời trái đất. Sau khi chiêm ngắm chúng, Ngài nói: “Thật là tốt đẹp”. Rồi Ngài dựng nên Adam và cũng phán: “Thật là tốt đẹp”. Đến khi Thiên Chúa dựng nên người đàn bà, Ngài ngắm nghía hồi lâu rồi nói: “Cứ để mặc nó, vì nó biết trang điểm”. Nói như thế tác giả không có ý bảo rằng người đàn bà không đẹp vì tự thân mỗi hiện hữu là một vẻ đẹp, nó phát xuất từ Thiên Chúa chính là vẻ đẹp.

Mỗi loài, mỗi chúng ta được sinh ra từ tác động của tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Dẫn chứng Kinh thánh còn ghi lại: “Chúng Ta hãy dựng nên con người”. Ý tưởng này đủ mạnh khả dĩ giúp chúng ta thăng hoa mọi vẻ đẹp trong trời đất. Không có ai xấu cả chỉ có những người không có khả năng khám phá cái đẹp. Một thị Nở xem ra xấu xí lại được Chí Phèo khám phá vẻ đẹp và đem lòng say mê. Có một ông bầu show chuyên săn các người đẹp để cung cấp cho các hãng quảng cáo, một hôm được hỏi: “Tại sao ông chuyên đi tìm những người đẹp, vợ ông lại chột một mắt?”. Ông trả lời: “Đối với tôi, thế mới đẹp, còn các cô kia có hai mắt thì dư”. Như thế vẻ đẹp hết sức chủ quan nhưng ít ra nó giúp con người thăng hoa cuộc sống.

 Cha Maurice Zundel thật chí lý khi nói: Vẻ đẹp nâng chúng ta lên và tạo nên những cuộc đính hôn nhiệm mầu giữa vật chất với tinh thần, bằng cách hướng chúng ta đến với nhau và cùng hướng về ngọn nguồn vĩnh hằng[57]. Nếu như dừng lại ở vẻ đẹp bên ngoài, chúng ta bóp nghẹt mầm sống siêu nhiên thì một khi mở ra với tương quan, chúng ta dễ sống với những vẻ đẹp bất ngờ. Thật vậy, nếu chúng ta chỉ nhắm đến những vẻ đẹp bên ngoài của đóa hoa mà không quan tâm đến tâm tình của người trao tặng thì ba hôm nữa hoa tàn, mọi sự cũng biến tan. Đừng để một vẻ đẹp nào đi qua mà không giúp bạn lớn lên.

Nếu như sống hời hợt với vẻ hào nhoáng bên ngoài, xem ra chúng ta còn kém hơn một người mù. Phải chăng khi không bao giờ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp ngoại tại của tạo vật, họ lại dồn hết nội lực bên trong ? Nơi người mù có một trực giác nội tâm nào đó, từ điệu bộ một cái bắt tay họ có thể cảm nhận sự chân thành của người đối diện. Thiết tưởng, đôi lúc chúng ta cần nhắm mắt để dồn hết nội lực từ bên trong như một thiên hướng đam mê tìm về vẻ đẹp đích thực. Vẻ đẹp ấy từ lâu đã là chất liệu sống giúp bạn khám phá và đạt đến những giá trị vĩnh cửu. Giá trị ấy, ngay từ đầu đã được Thiên Chúa đặt để trong lòng, mà theo Thánh Augustino, đó là phần hồn được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, là chính vẻ đẹp. Vẻ đẹp nội tâm ấy không quá khó để diễn tả ra bên ngoài; trái lại, nó sống động trong thái độ ngạc nhiên và thán phục của bạn.

Sự ngạc nhiên được triết gia Hecralite diễn tả cách sinh động khi nói: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”.[58] Ngạc nhiên ấy không dừng lại ở sự khác biệt giữa hai con nước của dòng sông nhưng là cảm xúc trào tràn của tâm hồn nghệ sĩ. Xin nhắc lại tư tưởng: Đừng để một vẻ đẹp nào đi qua mà không giúp bạn lớn lên. Thật vậy, mỗi lần tắm sông là mỗi lần tắm gội ân tình, mỗi lần tắm sông là mỗi lần kinh nghiệm cuộc sống. Sự ngạc nhiên khi đối diện trước một thực tại làm con người trở nên tinh tế và phong nhiêu hơn. Cũng vậy, sự thán phục giúp bạn đánh tan sự đơn điệu của nhp sống thời gian. Cha Maurice Zundel nói thật chí lý: “Không chỉ có người nghệ sĩ mới đi vào nghệ thuật, nhưng cả những người đang chiêm ngắm, thán phục cũng được mời vào lễ hội này” [59]. Quả thật, mỗi chúng ta là một nghệ sĩ khi biết thán phục vẻ đẹp quanh ta. Phải chăng bạn đã quá đề cao tiêu chuẩn của người nghệ sĩ mà quên rằng ngay cả một bà mẹ nội trợ cũng là một nghệ sĩ khi cố gắng nấu ăn thật ngon và trưng bày thật đẹp mắt để phục vụ từng thành viên trong gia đình. Ở đây, sự thán phục được cụ thể qua việc ra khỏi bản thân, nghĩa là mở ra với tương quan. Từ đó, họ trở nên giàu có vì được chia sẻ sự phong nhiêu của mọi người và được tài bồi khi ngắm nhìn vẻ đẹp thiên nhiên. Ý thức được điều này, thánh Phanxico ra lệnh cho những bông hoa trong tu viện mọc lên, để cho những ai nhìn thấy chúng sẽ tìm lại vẻ đẹp vĩnh hằng. Như thế, tiếng hót của một con chim hay việc nhìn thấy một bông hoa đẹp làm cho tâm hồn mình ngay lập tức hướng lên Thượng Đế.

Xét cho cùng, mọi sự chỉ là phương thế giúp đạt đến Thiên Chúa như lời khẳng định của nhà thần học kiêm thi sĩ Maurice Zundel: “Những công trình nghệ thuật thì vô vàn, còn vẻ đẹp chỉ có một, mỗi tác phẩm đều diễn tả một góc cạnh của vẻ đẹp nhưng không cái nào múc cạn nó được, tất cả đều mĩ miều, nhưng không một cái nào là chính Vẻ đẹp” [60].

8. NHÂN CÁCH

Một đứa bé mới sinh ra không được gọi là một nhân cách. Nó chỉ là một nhân hình, nghĩa là chỉ dừng lại việc xác định hiện hữu của một con người. Hay một con người hoang dã sống thuần theo bản năng cũng không được coi là một nhân cách. Nhân cách bao gồm một ý thức hiện hữu với tư cách là một chủ thể, cộng với một ý thức trách nhiệm trong mọi hành vi mình làm. Chính ý thức hiện hữu sẽ giúp con người khám phá và tìm ra ơn gọi làm người của mình. Sinh ra đã là người nhưng làm người thì cũng có thể trăm năm (trăm năm trồng người). Và ý thức trách nhiệm giúp định hình và phát huy nhân cách của mỗi người từng ngày. Chúng ta cần nhấn mạnh cụm từ “định hình và phát huy nhân cách”, nghĩa là nhân cách không đóng khung một lần nhưng nó năng động theo lịch sử mỗi người. Định hình ở đây được hiểu là phong cách cá biệt của mỗi người, và phát huy nhân cách là sự tiến triển của một nhân cách đã được định hình ấy. Tất nhiên có nhiều cách thức giúp mỗi người sống và định hình nhân cách của mình. Trong giới hạn tập sách nhỏ này, chúng ta chỉ bàn đến đam mê như phương thế tối hảo giúp hình thành nhân cách và cố gắng trình bày đam mê như phương tiện thể hiện nhân cách hoàn thiện.

Khi nào một nhân cách đạt đến hoàn thiện ? Chúng ta cần xác tín rằng không có sự hoàn thiện tuyệt đối ở trần gian. Nhưng một cách tiệm tiến hôm nay hoàn thiện cách nào đó hơn hôm qua. Có hai bước giúp đạt đến mục tiêu này: thăng hoa những tiêu cực, sở đoản phát huy những tích cực, sở trường. Thực tế cuộc sống cho thấy, có những cố tật thâm căn cố đế, tưởng như chết mang theo; nhưng nhờ ơn Chúa, chúng ta có thể chuyển hướng và thăng hoa giúp cuộc sống tươi vui và hạnh phúc. Có thể nói, đôi khi nhờ những yếu đuối nào đó lại giúp chúng ta sống khiêm tốn và phó thác hơn trong việc hình thành nhân cách tôn giáo. Còn những tích cực, sở trường phải được chúng ta tận dụng tối đa và thúc đẩy nó biến thành những đam mê phục vụ cho thiện ích. Chính thái độ cởi mở này giúp chúng ta khả dĩ thiết lập những tương quan hữu ích và thân tình trong đời sống xã hội.

Chẳng hạn, khi nói đến đam mê âm nhạc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, chúng ta nghĩ ngay đến những dòng nhạc thâm trầm, sâu lắng với những lời ca được dệt nên từ một tâm hồn chiêm niệm. Có thể nói, những đứa con tinh thần ấy phản ánh chính nhân cách của tác giả, một người đam mê nét đẹp cuộc đời, tìm ra nét đẹp chính trong nỗi thất vọng tột cùng.[61] Nhân cách ấy còn được diễn tả qua đời sống siêu thoát của ông, có lần ông tâm sự: “Khi sáng tác, tôi phải lãng quên hiện hữu này để đi vào một thực tại, một thực tại phiêu bồng, ở đó không có những xung đột trần tục của chữ nghĩa và những lý luận ngõ cụt không đâu”. Thưởng thức những sáng tác của ông, chúng ta cảm nhận một sự thanh thoát và lạc quan phát xuất từ một nhân cách điềm đạm và rất mực trầm tư. Như thế, chính khí chất của nhạc sĩ cộng thêm sự đam mê thiên phú đã góp phần hình thành nhân cách độc đáo. Tất nhiên, cũng phải kể đến môi trường, cơ hội... Tựu trung, nhân cách được hình thành trong toàn diện sinh hoạt của con người, nghĩa là sự tham gia góp phần của mọi năng lực chủ thể.

Ngay cả những tiêu cực như sự yếu đuối về thể lý cũng như tinh thần đều góp phần tạo nên những tác phẩm tuyệt vời như trường hợp của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Những đêm trăng mất ngủ vì căn bệnh phong cùi, thế mà tác giả để lại cho đời những tuyệt tác về trăng, những đêm say trăng lòng thổn thức.

Chúng ta cần nhấn mạnh một yếu tố nổi trội và khá quan trọng mang tính chất quyết định trong việc hình thành nhân cách hoàn thiện là ý chí. Vì ý chí giữ vai trò điều hướng đam mê trong trật tự đời sống luân lý. Mà đời sống luân lý lại quyết định cho sự hoàn thiện của nhân cách tôn giáo. Trong đó, nhân cách tôn giáo lại đề cao tính tự chủ. Những tác động qua lại này giúp cá nhân sống tích cực những mối tương quan với bản thân, tha nhân và với Thượng Đế.

Nhân cách có nhiều khía cạnh để bàn đến nhưng trong giới hạn bài viết này, chúng ta chỉ dừng lại trong tương quan với người đam mê. Nói cách khác, sống đam mê giúp định hình nhân cách.

Trước tiên, một người có nhân cách phải xét đến và giả thiết, họ đã có những hành vi nhân linh, nghĩa là đủ hiểu biết và ước muốn, khả dĩ sống tốt đẹp và hiện hữu tương quan với chính mình và với tha nhân ngang qua chuẩn mực là các bậc thang giá trị. Mà theo người Phương Tây là ba ưu phẩm siêu việt: Chân – Thiện – Mỹ. Con người Phương Đông lại chấp nhận: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí và Tín. Chỉ khi nào cá nhân hiểu biết và ước muốn nhng điều tốt đẹp như thế mới khả dĩ đem lại sự hài hòa trong cuộc sống và bình an nội tại. Vì một nhân cách đích thực là diễn tả của một đời sng nội tâm. Trong khi đó, một người hời hợt, dễ bị hòa tan trong một tập thể vô danh.

Nhân cách đòi buộc chúng ta phải sống có ý nghĩa, mà làm sao sống có ý nghĩa nếu không tìm ra cho mình một lẽ sống hay ý nghĩa cuộc đời. Đó là những giá trị tinh thần như lực đẩy của lò xo, bung mình về phía trước để vươn tới những tầm cao hầu làm thỏa mãn tinh thần con người. Tinh thần chỉ được thỏa mãn bằng chính Tinh Thần. Và một khi tinh thần được phấn chấn, đồng thời được diễn tả qua phong thái, hành vi... của một cá nhân tạo nên nhân cách một người.

Lúc này, đam mê tham dự vào, làm nổi bật nhân cách mỗi người. Bạn đam mê văn học ư ? Bạn thích mạo hiểm ư ? Bạn có thể trở thành một nhà viết truyện trinh thám. Và chính trong môi trường lành mạnh này khả dĩ giúp bạn hình thành nhân cách độc đáo. Bạn đam mê vẻ đẹp ư ? Bạn yêu thích sáng tạo ư ? Nghệ thuật thời trang là đất dụng võ của bạn. Và trong khi sống hết mình với nỗi đam mê của mình, bạn sẽ dần khám phá ra nét độc đáo mà mình muốn thể hiện, đồng thời, lúc này nhân cách của bạn cũng được định hình rõ nét.

Đó là những thế mạnh và tích cực của nhân cách. Còn những điểm yếu và tiêu cực cũng không ít. Nếu không ý thức đủ, nó sẽ là một cản trở lớn khiến bạn không đạt đến thành công, ấy là chưa nói đến những bóng tối ấy làm tiêm nhiễm nhân cách của bạn. Thật vậy, nếu bạn không ý thức đủ những yếu đuối của bản thân thì thật nguy hại. Khi bạn không dám đối diện với nó, nó vẫn còn đó. Khi bạn dồn nén nó, nó lại mưu toan gây ảnh hưởng đến bạn. Chẳng có gì kín ẩn mà không lộ ra ngoài. Trong xã hội, bạn có quyền khẳng định bản thân bằng chính khả năng của mình, nhưng nếu bạn dùng thủ đoạn hạ gục đối thủ thì nhân cách của bạn lấy tiêu chuẩn nào để đánh giá: Chân – Thiện – M hay Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín ? Bạn nên biết rằng một người có nhân cách, sống có ý nghĩa không hệ tại được nhiều người biết đến nhưng là người biết mở ra và sống thân tình với mọi tương quan. Như thế, họ được lớn lên và tha nhân cũng được thăng tiến.

Từ những gì vừa trình bày về nhân cách nói chung, xem ra không khác gì lắm với biểu hiện của nhân cách tôn giáo. Xét về ngoại diện thì nó không có gì khác lắm, nhưng về phẩm chất thì khác hẳn. Nhân cách tôn giáo được đặt trên nền tảng đức tin, nghĩa là sống đam mê dưới sự hiện diện của Thiên Chúa nhờ sự trợ giúp của Ngài. Trong khi đó, nhân cách nói chung chỉ dừng lại mặt nhân bản và nhân văn. Để làm rõ nhân cách tôn giáo, chúng ta sẽ khởi đi từ điểm tiêu cực.

Chúng ta sẽ tiếp tục diễn giải về đam mê danh vọng như một điểm tiêu cực, thái quá  trong nhân cách tôn giáo. Trong thực tế cuộc sống, con người thường mặc vào mình những hình thức bề ngoài đôi khi không thích hợp với tư cách bản thân. “Chiếc mặt nạ” ấy chỉ như tấm bình phong che chắn cho sự an toàn nào đó để tránh sự đối diện với thực tế cuộc sống. Thông thường, chúng ta sống nhiều với những yêu sách của người khác nhằm làm hài lòng họ. Ngay cả những danh vọng, lời khen tiếng tốt của người đời lại trở thành nơi núp bóng của “cái tôi” muốn được vuốt ve trong sự dối lừa. Xét cho cùng, danh vọng sẽ trở nên thái quá khi con người không đánh giá mình đúng mức hoặc chỉ dựa vào cách nhìn nhận hời hợt của người đời. Văn hào M. Gorki, với giọng văn có phần hài hước, đã viết: “Cần phải loan báo cho các bạn mới vào nghề biết rằng danh vọng là một thứ nước có màu đùng đục, có một vị chua chua và nếu uống vào nhiều thì sẽ có tác dụng xấu với những hệ thần kinh yếu, gây nên ở người uống một trạng thái say sưa nặng nề giống như ‘say bia’. Khi uống thứ nước này phải thận trọng, một năm không quá một thìa cà phê, uống quá liều lượng sẽ sinh chứng thừa chất mỡ ở tim, chứng sưng bộ phận tự ái, chứng viêm tuyến hách dịch, tuyến tự cao, tuyến hẹp hòi mà nói chung là đủ thứ méo mó bệnh tật”.[62]

Chúng ta cần xác tín rằng đam mê như thế được hiểu là một khuynh hướng tự nhiên và bẩm sinh trong con người này nên nó không thể bị tiêu diệt mà chỉ được chuyển hướng và thăng hoa trong đức tin. Vì danh vọng ở đời, xét cho cùng nay còn mai mất, nay khen mai chê. Còn được Thiên Chúa biết đến thì hậu thế vẫn còn khen ngợi. Xin đơn cử trường hợp của chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Điều này sẽ được bàn thêm trong phần đam mê của chị. Ở đây, chúng ta chỉ nêu bật sự kiện rằng từ tuổi nhỏ, chị thích mặc những bộ áo váy thật đẹp để lôi kéo sự chú ý của mọi người, và phong cách thích tỏ ra người lớn. Thế mà khi vào dòng, chị thích âm thầm và chỉ muốn mình Chúa biết đến, chị ao ước như một loài hoa dại mọc trong khe núi mà chỉ một mình Chúa biết đến thôi! Bản thân chị thích làm việc lành dâng cho Chúa nhưng chị lại muốn dành niềm vui của việc phục vụ cho chị đồng tu, đồng thời chị chịu mang tiếng là lười biếng và chậm chạp.[63] Song những thứ đó không làm giảm nhân cách tôn giáo nơi chị nhưng luôn sống tinh thần con trẻ trước sự hiện diện của Thiên Chúa là Cha.

Thật vậy, nhân cách tôn giáo không ồn ào, không khua chiêng đánh trống. Một cụ già quì gối lần hạt trong ngôi giáo đường vắng vẻ không làm giảm giá trị của một nhân cách tôn giáo nơi nhà khoa học đại tài.[64]

Tất nhiên, một nhân cách tôn giáo đòi buộc phải liên tục vươn tới Thiên Chúa, tham dự vào đời sống của Ngài mỗi ngày một hơn, sống trước sự hiện diện của Ngài trong trên hết mọi sự.[65] Khẳng định này được áp dụng cụ thể trong trường hợp của cha Teihard de Chardin. Thật vậy, cha là tu sĩ của dòng Tên, với đam mê khoa học, cha sớm trở thành một nhà khảo cổ học. Tuy nhiên, với những ý tưởng cấp tiến, khó chấp nhận vào thời đó, cha phải chịu sự đỉnh chỉ của bề trên và phán quyết của Giáo hội, song những cản trở ấy không làm giảm nỗi đam mê khoa học nơi vị tu sĩ dòng Tên này. Trái lại, cha rút về cộng đoàn sống chiêm niêm với những gì mình đã khám phá. Điều này chứng tỏ một nhân cách cao thượng nơi ngài. Nếu chỉ dừng lại danh vọng và quyền lợi bản thân, chắc hẳn ngài đã tìm cách phản bác cách nào đó, nhưng đã đón nhận những chống đối từ phía anh em trong dòng và Giáo hội. Để thấy rõ nhân cách tôn giáo nơi ngài, nghĩa là hoàn toàn qui hướng về Chúa trong khi sống đam mê khoa học, chúng ta có thể ghi nhận chính lời ngài cầu nguyện: “Chúa ơi, xin hãy ban cho con niềm tin, để hôm nay, chẳng chất độc nào sẽ tác hại được con, chẳng nỗi chết chóc nào huỷ diệt được con, chẳng có chất rượu nào khiến con say khướt, để trong mọi tạo vật con khám phá ra Chúa và cảm nghiệm được Ngài”.[66]

Như thế đam mê góp phần tích cực trong việc hình thành nhân cách và nhân cách tôn giáo. Đam mê không những giúp cá nhân khám phá và định hình nhân cách lành mạnh, độc đáo mà còn làm cho đời sống đức tin của nhân cách tôn giáo có một nội dung và phẩm chất cao cả. Và xét cho cùng, môi trường di truyền, ý chí... là những hồng ân và quà tặng Chúa đặt để trong mỗi người để nhờ những đam mê thiên phú được đặt trong một môi trường thuận lợi và nhờ ý chí điều hướng giúp bản thân tự chủ hầu biết tự do chọn cho mình một phong cách hiện hữu là chính nhân cách tôn giáo giúp mỗi người đạt đến sự hoàn thiện.

Tắt một lời, nhân cách tôn giáo nằm trong chính hiện hữu của bạn. Chính khi bạn ý thức bản thân hiện hữu vì Ai khác, bạn sẽ mở ra với mọi tương quan. Và cuộc sống có ý nghĩa cho người khác thì làm đẹp lòng Chúa và là một NHÂN CÁCH ĐÍCH THỰC.

9. THỬ THÁCH.

Có lẽ bạn sẽ ngạc nhiên và tự hỏi: Tại sao những thử thách lại đặt trong phần những giá trị ? Quả thật, với những gì chúng ta vừa trình bày từ nhân phẩm, nhân vị đến nhân cách, tất cả đều là những giá trị đáng bạn ao ước, còn những thử thách xem ra là những điều tiêu cực tệ hại, dường như chúng cản trở con người sống đam mê.

Thật ra, những gì trình bày trước đây, chúng mang giá trị nội tại, nghĩa là con người có thể chỉ cần sử dụng sự hiểu biết của lý trí cũng có thể thủ đắc được vì chúng ẩn sâu trong con người. Trong khi đó, những thử thách có thể đến từ bên trong lẫn bên ngoài con người. Giá trị của nó không nằm trong những thử thách nhưng hệ tại ở chủ thể tiếp nhận nó. Nói cách khác, giá trị này chỉ được mua bằng kinh nghiệm bản thân thôi !

Trước tiên bạn hãy tập quan sát những thử thách phát sinh từ bản chất con người bạn. Phải nhìn nhận rằng, trong bạn có một khuynh hướng đam mê nhục dục ở mức độ nào đó. Thiên Chúa đã đặt để chúng trong bạn như một lực hút mãnh liệt để đến với người khác. Điều này đặt bạn trong một tương quan khả thể giúp bạn lớn lên, nhưng nó trở thành thử thách khi cản trở bạn đến với họ. Vì trong bạn đồng thời phát sinh  hướng vị kỉ quy về bản thân, ảo tưởng mình là trung tâm vũ trụ. Sự quyến rũ mà Thiên Chúa ban tặng cho bạn không ngoài mục đích giúp bạn dễ dàng đến với người khác như một nhu cầu giúp bạn lớn lên. Nếu bạn nhận ra nó là một ân huệ Chúa ban thì đó là một cơ hội giúp bạn đọc ra ý muốn của Chúa trong nỗi đam mê này. Nếu không nhận ra thì nó là một thử thách đòi buộc bạn vượt qua chính bản tính tự nhiên của mình. Đồng thời bạn phải nhìn lại chính mình dựa trên lời của thánh Phêrô: “Phần anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường” (1Pr 5, 10b).  Thật vậy, chỉ trong gian nan, thử thách mới đòi buộc con người vươn tới tầm cao để có thể sống mạnh mẽ với những hoài bão của mình và để có thể sống hoàn thiện với những đam mê lành mạnh của mình. Đối với cảm xúc sợ hãi chẳng hạn, người ta có thể ngất xỉu khi đứng trước một thử thách hay đau khổ nào đó như một cách tự vệ, trốn chạy thực tại. Trái lại, người đam mê không chịu khuất phục trước một khó khăn nào vì chỉ tìm cách đạt được đối tượng đam mê. Trở ngại càng lớn thì ý chí chiến đấu và chiến thắng của người ấy càng mạnh mẽ hơn. Bạn dễ dàng nhận thấy một người đam mê tình ái, họ chinh phục người yêu bằng bất cứ giá nào. Chính trong lối nhìn này, những thử thách mang một giá trị lớn lao đối với chủ thể. Giá trị này chỉ mua bằng kinh nghiệm bản thân.

Chúng ta vừa khảo sát tính nội tại của những thử thách và đơn cử khuynh hướng đam mê nhục dục trong con người. Điều này con người có thể lường trước và chủ động những tình huống có thể xảy ra. Để được thế, trước hết và trên hết, con người phải thực hiện cuộc khám phá và hiểu biết bản chất con người, cách riêng là những khuynh hướng chủ đạo bản thân; vì "biết mình trăm trận trăm thắng". Điều cần tâm niệm bạn không chiến đấu một mình nhưng có Chúa hướng dẫn, đỡ nâng và đồng hành: Ngài là Đấng vẽ đường thẳng từ những đường cong. Mọi sợi tóc trên đầu bạn Chúa đều đếm cả chẳng lẽ những khúc cong trong đời bạn Người chẳng biết gì sao ? Bạn sẽ xác tín điều này hơn nữa, khi những thử thách đến từ bên ngoài, đúng hơn đến từ chính Chúa.

Chúng ta biết mọi loài chính Chúa dựng nên, nên không có gì là ngẫu nhiên trước bàn tay uy quyền của Chúa. Một cú ngã ngựa của Phaolo không thể nào là một ngẫu nhiên. Cú ngã ngựa tưởng chừng như rào cản đem đến một thất bại nặng nề cho nỗi đam mê tôn giáo của ông. Chính Chúa đã tác động đến ý chí và đam mê của ông, chuyển hướng nó hơn là tiêu diệt. Nếu như trước đó ông nhân danh một Thiên Chúa độc thần của đạo Do Thái mà bắt bớ và giết hại các Kitô hữu, thì nay ông nhân danh Đức Kitô phục sinh để đến với mọi người và can đảm thốt lên rằng: “Hỡi anh em những người con bé nhỏ của tôi mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa cho đến khi Đức Kitô được thành hình nơi anh em” (Gl 4, 19). Quả thật, thử thách đến từ Thiên Chúa và kết thúc tốt đẹp trong Ngài. Chúng ta hãy nghe chính chứng nhân ấy quả quyết: “Không một thử thách nào xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người không để anh em bị thử thách quá sức, nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (1Cr 10, 13).

Như thế, dù thử thách đến từ bên trong hay bên ngoài bản thân đều là cơ hội giúp bạn lường sức mình khi đối diện với những thực tế nhiều cam go. Ngoài ra, bạn cần tái khám phá và chuyển hướng những nỗi đam mê mình đang sống theo chuẩn mực đam mê của Chúa Giêsu và các thánh, những vị đã vượt qua những thử thách mà vẫn còn sống hoài nỗi đam mê cho đến khi thành toàn. Ngày nào bạn còn sống, những thử thách vẫn đồng hành với bạn. Hãy tập đọc ra trong mỗi biến cố, ý muốn của Chúa, Người có một chương trình giành sẵn giúp cho bạn nên hoàn thiện. Những đam mê của bạn có trần tục thế nào đi nữa khiến bạn phải vấp ngã, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp. Điều quan trọng là bạn đừng để một thử thách nào xảy đến mà không giúp mình lớn lên.

10.Ý NGHĨA CUỘC SỐNG.

Rick Warren, vị mục sư Tin Lành đã có cái nhìn trực giác rất thú vị, khi nói: Thiên Chúa mỉm cười ngày bạn chào đời. Ngài mỉm cười vì nhiều lẽ: bạn là niềm vui của Ngài; bạn là hoa quả của tình yêu Ba Ngôi; và bạn là đối tượng tình yêu Ngài. Quả thật, từ đời đời, Ngài đã nghĩ đến bạn, vì bạn là đối tượng tình yêu Ngài. Vẻ đẹp đáng yêu nơi bạn chỉ mình Ngài là Đấng Tạo dựng mới khả dĩ chiêm ngưỡng. Cho đến khi nhập thể và nhập thế, bạn trở nên “hoa trái của lòng Ngài”, là vinh quang của Ngài ở trần gian. Giá trị con người thật cao cả đến nỗi, Công đồng Vatican II đã minh định: duy con người được dựng nên vì chính họ.[67] Lời phát biểu này phải đặt trong tương quan với Đấng Tạo Hoá. Khi đặt trong tương quan này, Giáo hội đề cao con người là hình ảnh Thiên Chúa, đồng thời, giúp chúng ta tránh thái độ độc tôn, coi mình là trung tâm vũ trụ và là ý nghĩa cho chính mình.

Thánh Gioan đã viết trong Lời Tựa Tin Mừng thứ tư: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,3). Thiển nghĩ, đây chính là chìa khoá mở ra mọi suy tư về ý nghĩa cuộc sống.

ĐTC Benedicto XVI đã khẳng định: “Ý nghĩa do chính chúng ta tạo ra nói cho cùng không phải là ý nghĩa. Ý nghĩa là nền tảng cho cả cuộc đời chúng ta tựa vào đó để có thể sống, ý nghĩa này chỉ có thể do lãnh nhận chứ không thể tự tạo ra được” [68]. Mà ý nghĩa ấy chúng ta lãnh nhận từ đâu nếu không phải từ bên ngoài, một Đấng bên trên ban phát. ĐTC giải thích tiếp: “Chính vì chúng ta được bao trùm, bao bọc bởi điều vô cùng lớn lao mà cuộc đời chúng ta mới được có ý nghĩa” [69]. Khi khẳng định “Logos”, nền tảng tựa nương đem lại ý nghĩa cho con người, ngài đã đồng hoá Ngôi Lời chính là Ý NGHĨA. Ngài nói: “Ý nghĩa của thế giới là một con người, một ngôi vị sống động” [70]. Chính trong chiều hướng này ĐTC đã đề cao thái độ tin là một cuộc gặp gỡ với con người Giêsu. Ngài nói tiếp: “Chính nơi cuộc đời Ngài, nơi sự tận hiến trọn vẹn cho nhân loại mà ta thấy được ý nghĩa của thế giới. Ý nghĩa đến với ta như quà tặng tình yêu khó tưởng tượng nổi. Một tình yêu miên viễn và không bị vẩn đục bởi mọi toan tính vị kỷ, nó không những yêu thương cả tôi, mà khiến cho cuộc đời tôi đáng sống” [71]. Quả thật, Đức Kitô đã chết thay cho chúng ta, nên chúng ta có sống là sống cho Chúa. Ý nghĩa của cuộc đời chúng ta được trả giá bằng chính cái chết và giá máu của Ngài.

Thông thường, khi suy tư về ý nghĩa cuộc sống, con người thích dùng những lời hết sức hoa mỹ, đôi khi còn đao to búa lớn nữa. Xét cho cùng, con người chỉ mới dừng lại bề nổi của thực tại. Và khi không còn ngôn từ để diễn tả, họ kết luận: con người là một huyền nhiệm. Ít ra, họ đã tạo được một tương quan tôn trọng lẫn nhau. Nhưng dưới nhãn quan thần học Kitô giáo, Ý nghĩa của cuộc đời tôi là chính Đấng đã chịu đóng đinh và chết vì tôi. Điểm độc đáo này là nối kết từng cá nhân với ý nghĩa đời họ; tương quan sống động giữa tôi và Đấng cứu chuộc tôi.

Vậy khi nói về đam mê, Đấng cứu chuộc tôi sống đam mê thế nào ? Tôi phải sống thế nào ? Cảm nghiệm tình yêu Chúa phải là động lực thúc đẩy những đam mê sống động của tôi. Và ý nghĩa cuộc sống, như một cỗ xe vô hình chuyên chở, bao bọc đam mê của tôi tiến thẳng về đích là chính Chúa, Ngôi vị tương quan với tôi.

Ý nghĩa của cuộc sống chỉ được hiểu dưới nhãn quan đức tin, điều này đòi buộc đam mê phải được thăng hoa và giải thích theo chiều hướng siêu nhiên. Từ đây, đam mê không còn giữ thái độ độc tôn nữa nhưng là có Chúa làm chủ đời mình; đam mê không còn được sở hữu đối tượng của mình nữa nhưng là hướng về Chúa. Tốt hơn hết, là đam mê chính Chúa và những gì thuộc về Ngài mà thôi.

Nhưng phải hiểu những gì thuộc về Ngài thế nào? Tất cả mọi sự trên thế gian này đều thuộc về Ngài. Như thế, chúng ta có thể đam mê bất cứ thứ gì?  Thánh Phaolô bảo rằng chúng ta có thể làm được mọi sự nhưng không phải mọi sự đều sinh ích. Thật vậy, chúng ta chỉ được phép đam mê trong chức phận của mình mà thôi! Phá đi ranh giới này, chúng ta dễ làm mồi cho những nguy hiểm dọc đường. Là kitô hữu, chúng ta không được đam mê vợ hay chồng người khác. Là môn đệ Chúa Kitô, bạn không thể đam mê và làm nô lệ cho tiền của được. Là tu sĩ hay linh mục, bạn không được đam mê quyền bính để cai trị người khác vì nó là ân ban đến từ Thiên Chúa… Kinh Thánh nói: “Thiên Chúa đã trồng vĩnh cửu trong trái tim con người” (Gv 3,11), nghĩa là niềm khát vọng, đam mê về thực tại siêu nhiên thuộc bản tính con người. Nhưng nó chỉ ở dưới dạng khả thể, như hạt giống chờ một mảnh đất tốt. Trái tim con người phải được thuần hoá và thần hoá mới có thể trở thành một không gian tốt cho “vĩnh cửu” lớn lên.

Có một con cá nhỏ ngày ngày nhởn nhơ, vui đùa trong làn nước, nó thắc mắc tự hỏi: “Nước là gì ? Tại sao tôi phải cần đến nước ?”. Nó đi tìm hiểu nơi những con cá lão làng và được trả lời rằng: Đã qua bao thế hệ cha ông cá nhà ta đã chết và qua đi, đã làm cho dòng nước ra hôi thối và ô nhiễm. Một ngày kia, có một con cá tự xưng mình là chết thay cho mọi loài cá và có khả năng thanh lọc dòng nước. Nó đã chết và từ đó nên nguồn sống thực cho chúng ta ngày nay. Nhưng cá con không được thuyết phục cho đến một ngày nó được vớt ra khỏi nước, thấy mình khô khốc và cằn cỗi, bấy giờ, nó muốn trở về nguồn nước xưa, là nguồn sống duy nhất đời nó.

Có những người cho rằng, Giáo hội quá tỉ mỉ, khắt khe khi đưa ra quá nhiều qui tắc, điều luật… làm bóp nghẹt sự sống con cái mình. Nhưng kỳ thực, nó là những bản chỉ đường do chính Thiên Chúa hướng dẫn và do biết bao kinh nghiệm của người đi trước (Kinh Thánh và Thánh Truyền). Cả hai nguồn đó không ngoài mục đích giúp ta chạy đúng và chạy mau đến đích, nơi các Ngài đã đạt đến (Chúa Giêsu, các thánh). Ai khôn ngoan nắm bắt những qui tắc ấy, họ sống đam mê mà không sợ lạc đường và đánh mất căn tính của mình. Bạn nghĩ xem, trước khi sinh bạn ra, cha mẹ của bạn đã liệu mọi sự từ cái tã, cái nôi… đến những chỗ bạn chơi đùa đều phải an toàn. Điều đó, bạn lại thấy khó chịu khi Thiên Chúa và Giáo hội định liệu cho bạn ư ? Tất cả chỉ vì cho cuộc sống bạn có Ý Nghĩa.

11.ĐỜI SỐNG TÂM LINH.

Trong thời đại vật chất lên ngôi, con người yêu cuồng sống vội, đời sống tâm linh như một loại xa xỉ phẩm chỉ dành cho những kẻ lạc điệu nếu không nói là ngu ngơ, khờ dại. Ở cái thời mà mọi nhu cầu của con người hầu như đều được các tổ chức xã hội chu cấp thì việc van xin một vị thần không nhanh bằng việc nhắc điện thoại: Alo ! Đã có một thời, con người muốn giết Thượng Đế để mình hoàn toàn tự do định đoạt tất cả; nhưng vẫn còn đâu đó, những người đầy đủ mọi sự lại đi tìm cái chết vì thấy rằng cuộc sống không có ý nghĩa. Tuy nhiên vẫn còn đâu đó, có những người còn giữ cho mình cảm thức tâm linh. Và ở một góc phố nghèo Calcutta tại Ấn Độ, có một Têrêsa nhỏ bé, ước muốn đánh tan sự dửng dưng và thờ ơ trước nỗi đau của đồng loài và Mẹ hằng kêu gọi mọi người trở về với đời sống tâm linh. Thật vậy, chỉ có cái nhìn tâm linh mới nhận ra hình ảnh Chúa Giêsu nơi người đồng loại, nhất là nơi những người đói khổ khốn cùng của xã hội.

Đời sống tâm linh là gì mà chân phước Têrêsa đã đi khắp nơi kêu gọi mọi người sống ? Quả thật, một người có đời sống nội tâm mang tính thần linh như Mẹ đã cảm hoá biết bao người. Vào một ngày nọ, Têrêsa đi vội ra ngoài không mang theo gì, khi gặp một người nghèo khổ, mẹ ôm lấy họ và nói: “Hôm nay, mẹ không mang quà gì cả, hôm khác nhé !”. Bạn biết người khốn khổ hạnh phúc thế nào không? Ông nói: “Thưa Mẹ, con chưa bao giờ được ai bắt tay và ôm phần cơ thể của con như thế, cảm ơn Mẹ”.  Thiết tưởng, đó là hoa trái của đời sống tâm linh.

Còn gì bằng thần linh làm trung tâm đời sống: đời sống con người được soi chiếu bởi mặt trời tự nhiên, còn những người khao khát đời sống tâm linh, họ được mặt trời công chính chiếu rọi. Thật vậy, dưới ánh sáng thần linh, tất cả các bậc thang giá trị đều bị đảo lộn. Chúng tạo ra sự thay đổi từ bên trong, thay đổi phẩm chất cuộc sống. Sống dưới ánh sáng này, con người không còn sợ bất cứ sự gì, sự nên một của một con tim kéo mọi người xiết chặt vòng tay. Với thao thức muốn mọi người hạnh phúc, Mẹ mời gọi mọi người "Hãy quỳ gối suy phục Thiên Chúa tình yêu".

Xét cho cùng, đời sống tâm linh là tương quan giữa linh hồn và vị Thiên Chúa của họ. Có thể nói, ba nhân đức đối thần nắm một vai trò chủ đạo trong đời sống này. Ở đây, bạn không còn phân biệt Tin, Cậy hay Mến Chúa nữa, nhưng cả ba hợp nên một trong cách sống của bạn. Chính thái độ quỳ gối của bạn trước Thánh Thể đã diễn tả hết thái độ suy phục của bạn vào sự hiện diện thực sự của Ngài. Bạn sống nhân đức cậy khi bạn đặt Ngài làm chủ cuộc đời bạn; và lòng mến không bao giờ giảm đi khi bạn thông giao thân tình với Ngài như một Ngôi vị sống động. Nói cách khác, bạn đã biết suy nghĩ bằng khối óc của bạn, ước muốn biết bằng ý chí của bạn và biết yêu bằng chính con tim của bạn.

Tin vào một vị Thiên Chúa hiện diện, sẽ giúp bạn mở toang đôi mắt nhìn thẳng vào thực tại siêu hình. Bạn sẽ không ngừng nhắc lại chân lý này khi sống trước sự hiện diện của Thiên Chúa rằng Chúa Cha đã thương bạn đến nỗi đã ban chính Con Một làm món quà lớn nhất trong cuộc sống kitô hữu của bạn. Và nói như Đức Thánh Cha Benedicto XVI: Thiên Chúa yêu thương với tất cả đam mê của tình yêu thực sự. Thật vậy, một Thiên Chúa đam mê thôi thúc bạn sống đam mê; một Thiên Chúa yêu thương thôi thúc bạn sống yêu thương. Tin vào sự hiện diện của Đấng ấy, ánh sáng đức tin ấy sẽ soi chiếu những đam mê của bạn. Bạn có quyền và tự do sống đam mê nhưng phải đam mê như Ngài đam mê: Đam mê đến nỗi trở nên sự hiện diện cho mọi người. Những đam mê của bạn phải làm sao giúp mọi người hướng về trời cao, làm sao bạn có thể trở thành dấu chỉ Nước Trời nếu đam mê của bạn không giúp bạn hoàn thiện bản thân.

Chính Đức Cậy sẽ giúp bạn sống và khát khao thực tại trời cao. Bạn chỉ thực sự là dấu chỉ Nước Trời khi có Chúa Giêsu là hạnh phúc miên trường, niềm vui vĩnh cửu và là chính Nước Trời, nếu không phải là đam mê chính Chúa ? Tất cả mọi đam mê trần gian, cách riêng những đam mê Chúa gieo hạt giống trong lòng bạn chỉ là những phương thế giúp bạn đạt đến mục đích duy nhất đó. Là hoạ sĩ, bạn hãy quỳ mà vẽ để nhờ những sắc màu vô nghĩa gợi nên những tâm tình cao thượng nơi người ngắm tranh. Như thế, bạn hoàn thành ơn gọi của mình là hoạ sĩ của Chúa, đồng thời mang lại niềm vui thánh thiện cho mọi người. Nếu Đức Cậy như là động lực và cùng đích của nỗi đam mê của bạn thì Đức Mến, tình yêu phải là nhựa sống luôn lưu chuyển trong từng đường gân thớ thịt của con người bạn.

Thật vậy, mối tương quan thân tình giữa bạn với Chúa phải trở thành điểm qui chiếu cho mọi đam mê của bạn; nghĩa là đời sống đam mê giúp bạn yêu Chúa hơn và mở ra với mọi tương quan khác gần gũi và thân tình hơn. Chính Thánh Thần sẽ thánh hoá và làm sinh động mọi sinh hoạt trong đời sống bạn, để mỗi phút sống đam mê của bạn là mỗi phút sống trong tình hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa. Nói cách khác, mỗi phút bạn sống đam mê là từng khoảnh khắc bạn tiền hưởng nếm thiên đàng. Thiên đàng ở đâu nếu không phải là nơi Chúa ngự. Mà Thiên Chúa ở đâu nếu không phải trong lòng những người thiện chí, những kẻ nghèo hèn. Tôi và bạn là những người nghèo, thiếu thốn... Như thế, chúng ta cần sống đam mê vì Chúa và cho mọi người. Còn những ai tưởng mình no đủ thì đời sống tâm linh là một cách quảng cáo mới để giúp họ thay đổi chiếc áo lỗi thời. Và như thế, đức tin, cậy và đức mến chỉ là chất liệu và màu sắc làm cho bộ cánh của họ thêm lộng lẫy, yêu kiều. Điều cảnh báo này giúp mỗi người luôn ý thức trong khi sống đam mê, con người có thể mê lầm. Chính đời sống đam mê của bạn mà có Chúa ấy là bạn đang bước vào lãnh vực tâm linh.

Để kết thúc, xin gợi lại tư tưởng của tác giả W.Jame như một dấu chỉ nhận biết người nào sống hạnh phúc trong đời sống tâm linh, ông viết: “Những người trưởng thành về tâm linh thì biểu lộ một đời sống tâm lý phong phú, bởi vì họ xác tín sự hiện diện của một cái gì linh thiêng trong đời. Điều này mang lại cho họ hạnh phúc, sự quân bình và sung sướng biến thành tâm tình muốn hiến dâng. Hạnh phúc trong tôn giáo thì khác với hạnh phúc bình thường. Trong đời sống, ta thấy hạnh phúc sau khi thoát được một cơn hoạn nạn hay đạt tới ước nguyện nào đó; sự hạnh phúc được hưởng cho riêng mình. Còn hạnh phúc trong tôn giáo thì muốn vượt ra khỏi mình”.[72]

V.CÁC CHỨNG NHÂN CỦA ĐAM MÊ

 

1. ĐỨC GIÊSU

Đức Giêsu, xét theo nhân tính, là một con người thực sự, sống trọn vẹn kiếp người như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi. Ngài cũng ăn, uống, ngủ, nghỉ như bao người; cũng yêu cũng ghét; cảm xúc và đam mê như con người. Có khác chăng nơi sự đam mê của Đức Giêsu mãnh liệt và liên tục hơn, định hướng rõ ràng hơn và hoàn tất nhưng không vương hại ai; trái lại, nỗi đam mê của Ngài đã dẫn đến cái chết sinh ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Để hoàn tất công trình cứu chuộc ở trần gian, Ngài đã trải qua 3 giai đoạn:

- Đam mê làm người

- Đam mê con người 

- Đam mê cứu độ con người.

Ba giai đoạn này có thể gồm tóm trong việc Đức Giêsu đam mê thi hành Thánh Ý Cha.

Triết gia Hegel đã nói rằng: “Không có gì cao cả trên cõi đời này lại có thể hoàn tất được mà không cần đến đam mê”. Khẳng định này được áp dụng cách triệt để và cụ thể nơi cuộc đời Đức Giêsu.

ĐAM MÊ LÀM NGƯỜI

Có một sự "điên rồ" nơi Thiên Chúa, khi chê bỏ Thiên tính, khước từ vinh quang dành cho Mình, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Điều kỳ diệu và khác thường đó chỉ một mình Thiên Chúa dám làm. Một khẳng định không sợ sai lầm đó là quyết định làm người là một đam mê điên rồ nơi Ngôi Hai Thiên Chúa - Đức Giêsu Kitô. Ngài đam mê không phải để thoả mãn bản thân nên chúng ta phải xét đến mục đích của Ngài đến trần gian, chính nó đã chi phối những tâm tình nội tại khiến Ngài quyết định làm người.

Nỗi đam mê mãnh liệt đã khiến Đức Giêsu quên đi phận mình là Thiên Chúa mà đến sống giữa con người. Ở đây không có sự đánh đổi vinh quang Thiên Chúa để chiếm loài thụ tạo. Muôn loài mọi sự đều thuộc về Ngài nên chẳng có gì đáng Ngài đánh đổi. Nhưng vì bản tính Ngài là tình yêu và muốn sống trọn nỗi đam mê, khi ý thức mãnh liệt, muốn thông ban sự sống thần linh cho mọi loài thọ tạo.

Phải chăng có một ý muốn sâu xa được thai nghén nơi cung lòng Chúa Cha, đã được ghi khắc sâu đậm trong cuộc đời dương thế của Đức Giêsu ? Cổ nhân đã khuyên: Dạy con từ thưở còn là bào thai, câu nói ấy được áp dụng một cách nào đó trong trường hợp này. Quả thật, những gì của Cha là của Con, tình yêu của Cha cũng là của Con và được diễn tả cách minh nhiên nơi cuộc đời Con. Có thể nói, từ khi Chúa Cha hứa ban Con Một để cứu độ trần gian cũng là lúc nỗi đam mê của Thiên Chúa đến với con người được manh nha và kết tựu nơi ý muốn mãnh liệt của Người. Tất nhiên, nơi Thiên Chúa không có thời gian, nên những tác động ấy được sống động và thành sự một trật.

Thiên Chúa có thể làm tất cả mọi sự, nhưng dường như chỉ có một điều là không thể làm người. Thật ra, điều không thể thực hiện được ngoài thời gian, thì với thời gian và trong thân xác, Thiên Chúa đã mặc xác phàm, Đức Giêsu nên giống anh em mình trong mọi sự chỉ trừ tội lỗi. Chính tiền đề này biện minh cho nỗi đam mê không sai lầm nơi Đức Giêsu và hiệu quả là mang ơn cứu độ cho loài người.

Nỗi đam mê này dần dà được thành hình khi Đức Giêsu đạt đến tuổi khôn hầu có thể ý thức sứ mạng cứu độ của mình ở trần gian. Đam mê càng mãnh liệt, thân xác càng hao mòn, phải chăng vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa mà Ngài phải thiệt thân. Đam mê nơi Đức Giêsu không mang tính mù quáng khiến rối loạn sinh hoạt tâm lý bình thường. Ngài sống với nỗi đam mê và là chính “đam mê”; vì mọi biểu hiện ngoại tại đều diễn tả chiều kích nội tâm cách hữu hiệu và sáng tỏ nơi Ngài. Thân xác, linh hồn và thần trí Ngài hoà hợp nên một, không có sự mâu thuẫn khiến sinh ra tội lỗi. Tất nhiên, Đức Giêsu không miễn trừ việc chiến đấu nhưng vì được điều hướng dưới cái nhìn của Chúa Cha, Ngài không hề phạm tội. Có thể nói, đam mê của Đức Giêsu rất người và rất thật vì nhắm vào chính đối tượng là con người.

ĐAM MÊ CON NGƯỜI

Thiên Chúa biết con người tự thân không thể đạt được Ngài, nên đã “Xuất thiên, nhập thế”, sống hết mình với nỗi đam mê chính con người. Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm ? Chính sự "yếu đuối" như thế mà Ngài đã đam mê đi tìm và cúi xuống trên con người; đồng thời, con người cũng được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, nên lý do duy nhất khiến Đức Giêsu đam mê con người là vì Ngài đã tìm thấy nó trong trái tim người Cha. Có thể nói, không ai đam mê con người như Đức Giêsu. Không ai tin vào sự cao cả của con người như Chúa Giêsu. Niềm đam mê ấy phải trả giá đắt bằng cuộc xuất thiên của Ngài. Niềm tin ấy phải trả bằng chính sự sống Ngài. Niềm tin và niềm đam mê vào con người đã được thể hiện rõ nét trong cuộc đời dương thế của Đức Giêsu với tư cách là vị mục tử nhân lành. Đức Giêsu đam mê đi tìm con người ngay khi nó còn là tội nhân và ngày nào Ngài không đến và cứu nó thì nó vẫn còn chìm đắm và chết trong tội lỗi. Đó là bằng chứng tình yêu vô vị lợi nơi Vị Mục tử. Không phải Đức Giêsu muốn bỏ 99 con kia để chỉ tìm con chiên lạc. Tình yêu của Ngài vô biên bao trùm cả nhân loại. Tình yêu và phẩm tính siêu việt của Ngài, cả nhân loại và mọi thời không thể múc cạn.

Nhưng Đức Giêsu muốn mặc khải một tình yêu cá biệt và thiết thân. Thật vậy, Ngài đã cúi xuống và đón nhận con chiên lạc, vác trên vai thánh mình mà dẫn về đồng cỏ xanh tươi nơi niềm vui và bình an ngự trị. Từ đó, Ngài giúp nó sống trọn vẹn mọi mối tương liên với bản thân, tha nhân và Thiên Chúa; khiến nó là nó và như Chúa yêu thương nó chứ không phải ai khác.

Nỗi đam mê đã đồng hoá Đức Giêsu với phường thu thuế và quân gái điếm. Ngài không đam mê tửu sắc như có kẻ cho Ngài là thế. Ngài đã đến với họ vì họ đã mở lòng ra với Ngài và để Ngài tự do bước vào đời sống họ. Không một ai thiện chí đến với Ngài mà không được Ngài yêu thương. Họ đã được thánh hoá trong tình yêu Ngài. Họ giúp Ngài sống nỗi đam mê cách chân thật và siêu nhiên hơn cả. Còn những kẻ dửng dưng hay bàng quan, nỗi đam mê của Ngài hoá thân trong người cùng khốn để kêu gào tình yêu và lòng thương xót của họ. Sống thực trong nỗi đam mê, Ngài biết mình phải làm gì với từng tâm hồn, vì nỗi đam mê của Ngài là được khao khát phục vụ con người. Ngài có thể quên ăn quên ngủ vì tập chú vào nỗi đam mê con người. Đó không phải là xu hướng mù quáng thiếu kiểm soát chỉ nhằm thoả mãn nỗi đam mê nhưng Ngài biết phải làm gì để con người được sống và sống dồi dào.

Trong lịch sử đời sống con người, nỗi đam mê đã làm bao đế quốc sụp đổ, nhiều ý thức hệ tiêu tan hay những tay bạo động làm băng hoại thế giới,... tất cả khởi đi từ nỗi đam mê quyền lực. Quyền lực vẫn luôn là cám dỗ lớn nhất cho con người mọi thời. Nó được ngụy trang dưới một chiêu bài hết sức tinh vi: ai mạnh kẻ ấy sẽ thắng và kẻ mạnh mới đủ sức xây dựng một thế giới tốt đẹp và phồn thịnh. Nhưng Đức Giêsu lại công bố với chúng ta: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10,43-44). Tất nhiên, Đức Giêsu không theo đuổi đam mê quyền lực như tên cám dỗ nhân loại bày ra; trái lại, Ngài đam mê phục vụ con người với tư cách một đầy tớ khiêm hạ. Trong khi hầu hết nhân loại, hễ có quyền là hành quyền trên người khác, Đức Giêsu lại cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài cúi xuống để nâng con người lên, đó là cung cách phục vụ của Đức Giêsu. Đó là cách phục vụ đích thực hầu nâng cao giá trị con người. Quả thật, không ai nhận ra sự cao cả của con người như Đức Giêsu; Ngài đam mê phục vụ con người. Và đi đến cùng nỗi đam mê ấy, đi đến cùng cung cách phục vụ ấy là dùng chính bản thân để chứng minh Một Tình yêu siêu việt. “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,44-45).

ĐAM MÊ CỨU CHUỘC CON NGƯỜI

Kết cục thất bại đã mỉm cười với Đức Giêsu, khi con người tuyên án tử cho Ngài. Đó cũng là hậu quả tất yếu cho một đam mê. Đam mêPassion và cũng là cuộc thương khó của Đức Giêsu. Có một sự trùng hợp trong ngôn ngữ nhưng hữu lý nơi con người Đức Giêsu. Phải chăng thập giá là biểu tượng đam mê của Vị Thiên Chúa ? Nếu như thập giá là sự xỉ nhục và điên rồ đối với thế gian thì nó lại là quyền năng và chiến thắng cho những ai đam mê đi tìm Đấng Phục Sinh. Qua bao thời đại, không ai khả dĩ trả lời cho định mệnh siêu việt của thế giới ngoại trừ Đức Giêsu. Qua cái chết tự nguyện, Ngài đã mang ơn cứu độ cho toàn nhân loại. Lại một lần nữa Hégel có lý khi khẳng định: “Không có gì cao cả trên cõi đời này lại có thể hoàn tất được mà không cần đến đam mê”.

Trong ánh sáng phục sinh, chúng ta còn nhận ra chân lý sau cùng của nỗi đam mê nơi Đức Giêsu: Đam mê nuôi sống nhân loại và ở cùng nhân loại cho đến ngày tận thế.

- Đam mê nuôi sống nhân loại:

Người cha vui mừng khi cứu con mình khỏi cạm bẫy sự chết, nhưng còn phải thi thố tình yêu khi trao ban cho nó bánh ăn hằng ngày. Đức Giêsu siêu việt hơn nhiều, Ngài dùng chính Thân thể làm của ăn của uống nuôi sống nhân loại. Bánh ăn hằng ngày nuôi sống và nhằm kéo dài sự sống con người trên trần gian nhưng rồi một ngày ai cũng phải chết, còn Thân thể Đức Giêsu là của ăn nuôi sống họ trên đường về Quê Trời. Những gì Thiên Chúa đã định liệu, Người cũng hoàn tất nơi Đức Giêsu. Đam mê nuôi sống là đặc tính của người cha. Người cha trần gian sẽ chết, nhưng Đức Giêsu hằng sống muôn đời.

- Đam mê ở cùng nhân loại:

Đức Giêsu đã hiện diện hữu hình trong một thời gian, Ngài đã chết rồi bước vào cõi sống. Từ đây, Ngài sẽ ở cùng nhân loại trong một chiều kích khác siêu việt hơn. Kinh Thánh nói gì về Đức Giêsu ? Ngài vui thích ở giữa dân Ngài, không như một người tạm trú nhưng đã cắm lều và cư ngụ giữa chúng ta. Ngày nào còn nhân loại, Ngài còn tiếp tục sống hoài nỗi đam mê, đam mê mãnh liệt và bền bỉ. Đam mê của một Đấng được mệnh danh là TÌNH YÊU.

* * *

Có thể nói, ý muốn Chúa Cha là đối tượng trung tâm của mọi đam mê nơi Chúa Giêsu. Nói cách khác, sứ mạng hay định mệnh của Chúa Giêsu đến trần gian là thi hành ý muốn Chúa Cha. Như có lần Ngài đã công bố: cũng vì giờ này mà tôi đến thế gian (giờ vâng lời Chúa Cha để đi chịu chết). Chúng ta cứu xét xem, Ngài nói gì với nỗi đam mê này ? “Lương thực của Thầy là  làm theo muốn Chúa Cha” (x. Ga 4.34).

Phải chăng khi nói, lương thực của Ngài là làm theo muốn Chúa Cha, Ngài đã hạ giảm ý muốn đó xuống hàng vật chất (lương thực hằng ngày) ? Chắc hẳn là không. Nếu như lương thực là nhu cầu thiết yếu không thể thiếu của thân xác con người và vì thiếu nó con người phải chết thế nào, thì ý muốn của Chúa Cha lại là yếu tố quyết định cho sự sống và ơn gọi của Chúa Giêsu. Hiểu như thế, chúng ta sẽ thấy đam mê này nơi Ngài là chính đáng. Đam mê trở thành một nhu cầu thường ngày trong đời sống Ngài.

Một ghi nhận khá quan trọng ở đây là: đam mê này nơi Chúa Giêsu không buông theo khuynh hướng tự nhiên nhưng điều khiển bằng ý chí lành mạnh và siêu việt. Thật vậy, thánh ý Chúa là chính Sự Thiện tuyệt đối mà một ý chí con người khả dĩ đạt đến. Nơi Chúa Giêsu, đam mê thi hành ý muốn Chúa Cha lại mang tính tuyệt đối hơn trong công cuộc cứu độ.

Dường như cả cuộc đời Chúa Giêsu, Ngài đã sống nỗi đam mê này một cách triệt để. Thư Do Thái viết: "Ngay khi bước vào trần gian, Chúa Giêsu đã nói: này con đến để thi hành thánh ý Cha” và cho đến khi chịu chết trên thập giá, Ngài tuyên bố: mọi sự đã hoàn tất. Thiết nghĩ, trong lịch sử nhân loại không một ai có thể can đảm tuyên bố như Chúa Giêsu, đơn giản vì con người lần mò đi tìm ý Cha từng phút sống, chỉ có Chúa Giêsu trực diện và thấu đạt ý muốn Chúa Cha, Ngài tuyên bố: mọi sự đã hoàn tất. Như thế, chỉ có cái chết mới khả dĩ hoàn tất một đam mê.

2.NHỮNG GƯƠNG MẶT ĐIỂN HÌNH

2.1.ÔNG BÀ NGUYÊN TỔ

Câu chuyện được ghi lại trong những chương đầu trong sách Sáng thế, được các thần học gia dùng để giải thích tội nguyên tổ. Ở đây, chúng ta chỉ dùng vài hình ảnh biểu tượng của câu chuyện huyền thoại này nhằm khám phá ra nỗi đam mê của ông bà nguyên tổ.

Trái của cây biết lành biết dữ mà chúng ta vẫn quen gọi là “trái cấm” mang nhiều yếu tố biểu tượng.

"Trái cấm” làm cho bầu khí của Vườn địa đàng mang nhiều gam màu u ám. Có một sự cấm đoán đè nặng trên ông bà nguyên tổ như một hình thức siêu ngã muốn thống trị trên con người; điều này dẫn đến con người không được tự do hoàn toàn và vì thế những quyết định không còn sáng suốt đủ. Đến khi con người ăn “trái cấm”, phạm tội lại được Thiên Chúa hứa ban Ơn cứu độ. Chính khi Thiên Chúa quyết định ban ơn cứu độ, con người nhận ra bản thân đã quan niệm sai lệch về một vị Thiên Chúa như một Đấng ganh tỵ, chiếm quyền con người. Bởi vậy, Đức cha Fulton Sheen có lý khi khẳng định: “Con người được cứu độ vì sự bất tri”. Trái lại, Satan không được cứu và bị trầm luân đời đời vì đã tự do quyết định chung cuộc trong sự hiểu biết hoàn toàn của một thiên thần Ánh sáng.

Cũng hình ảnh “trái cấm” ấy, theo thần học Maurice Zundel lại có cái nhìn thi vị hơn, ông coi đó là biểu tượng, dấu chỉ của hôn ước tình yêu. Như thế, một khi quyết định ăn trái ấy, con người phá vỡ bầu khí hiệp nhất. Trong khi Thiên Chúa muốn nên một, con người lại muốn nên bằng Thiên Chúa. Điều mà xưa kia ma quỷ đòi ngang hàng và quay sang chống đối Thiên Chúa và đã thất bại, nó lại khêu gợi và cám dỗ con người với nỗi đam mê danh vọng, lấy mình làm trung tâm, làm Thiên Chúa của mình. Còn nói theo sách Giáo lý Hội thánh Công giáo: “tội đầu tiên là con người đã chọn chính mình thay vì Thiên Chúa” [73]. Trong khi đó, nhà thần học Xavier Thévenot gọi đây là cuộc đam mê đi tìm sự vạn năng. Ảo tưởng này đã biến con người trở nên ngoại tại với bản thân. Nhưng sự vạn năng thuộc về Đấng, chiều chiều “đi dạo trong lòng con người”. Điều này, đòi buộc một cuộc trở về triệt để, trở về với Thiên Chúa, với lòng mình hầu tái lập lại hôn ước Tình Yêu.

Sách GLHTCG cũng đưa ra một quả quyết giúp định hướng cho mọi suy tư trong Giáo hội, rằng: ‘“Cây biết lành biết dữ’ (St 2,17) nói lên một biểu tượng ranh giới mà con người là thụ tạo không thể vượt qua”’ [74]. Xem ra, Thiên Chúa đã dựng nên con người cho nó tự do rồi lại đặt rào cản, không tạo điều kiện giúp nó thành toàn. Không phải thế ! Chính khi con người thực sự được mặc khải về giới hạn bản thân, hiểu đầy đủ và chính xác về mình, là điều kiện thiết yếu giúp sống viên mãn. Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng là vậy ! Nhưng khốn nỗi đam mê danh vọng, muốn bằng Thiên Chúa, đã phá vỡ “rào cản” đã phá trật “đường ray” mà chính nó giúp tiến nhanh trên đường hoàn thiện. Điều đáng chú ý là trái của cây trước và sau khi Satan cám dỗ chẳng có gì thay đổi; như thế, nỗi đam mê ấy đã khiêu gợi từ bên trong khiến ông bà nhìn thấy trái ấy “trông thì đẹp, ăn thì ngon”. Chẳng phải vì dục vọng đôi mắt khiến ông bà tìm thỏa mãn giác quan bằng cách ăn trái cây ấy, vì ông bà chẳng thiếu sự gì. Nhưng nó biểu hiện một nỗi khát vọng hướng về Vô biên. Nỗi khát vọng này tự nó thật chính đáng, song, vì ông bà không ý thức đủ về thân phận loài thọ tạo, đồng thời, nỗi đam mê ấy không hướng lên Chúa mà chỉ qui về bản thân nên dẫn đến sa ngã. Từ đó, hệ luỵ là chúng phá vỡ trật tự tự nhiên, con người từ đây xa lạ với bản thân, với Thiên Chúa và cả vũ trụ; từ đây, con người đổ lỗi cho nhau; tránh giáp mặt với Thiên Chúa và đất đã trổ sinh gai góc khiến con người phải đổ mồ hôi trán mới tìm được của ăn.

Một chi tiết khác, chúng ta cần ghi nhận: con người ở một mình không tốt. Trong ý định Thiên Chúa là muốn tạo nên một trợ tá tương xứng để sống với Adam nhưng tại sao Ngài không lấy đất nặn nên và thổi hơi như tạo dựng Adam mà lại cho một cơn mê ập xuống rồi rút lấy từ cạnh sườn ông mà làm nên người đàn bà ? Thiên Chúa dư sức toàn năng để làm điều đó nhưng đây lại là một biểu tượng khác.

Khi Thiên Chúa dẫn người đàn bà đến cho Adam, chẳng biết đầu đuôi thế nào thế mà ông đã reo lên: “Xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Chắc hẳn, có một trực giác nào đó khiến ông khám phá ra sự đồng điệu giữa mình và kẻ đối diện vừa xuất hiện. Trước khi Thiên Chúa tạo nên người đàn bà, Adam – con người ấy là một thực thể độc lập và thống nhất, rồi sau này cũng vậy, nhưng giải thích sao về sự có mặt của người đàn bà ? Có thể, người đàn bà là hoa quả của mối dây hiệp nhất bên trong nơi con người đầu tiên được hiển lộ ra ngoài. Điều này giúp chúng ta giải thích về sự liên đới trong việc cùng ăn trái cấm, đồng phạm tội. Tất nhiên, cả cha lẫn mẹ sống trong sự tội thì bào thai sau này được sinh ra, cũng là hệ quả của việc cưu mang trong tội lỗi. Sự liên đới thiêng liêng và vô hình này làm tiền đề giúp giải thích cho ơn cứu độ phổ quát của Đức Kitô.

Nếu như ngày đó con người phấn khởi reo lên “xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”, nghĩa là một thể thống nhất mà thôi, thì bây giờ Thiên Chúa tuyên án: “ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi”. Như thế, sự thèm muốn lẫn nhau giả thiết sự hiệp nhất ấy đã bị phá vỡ. Và rồi sau cùng có hoà hợp đi nữa cũng là nhằm thoả mãn đam mê nhục dục thân xác. Một cám dỗ khác nảy sinh, con người bị phân mảnh “và nó sẽ thống trị ngươi” (x. St 2,16).

Xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”, câu này gợi lên trong chúng ta cảm thức: họ thuộc về nhau nhưng một khi sa vào tội lỗi, nỗi đam mê tiêm nhiễm con người, giờ đây, họ tìm đến  nhau để sống hoài nỗi đam mê sắc dục. Theo lối giải thích của nhà thần học Xavier Thévenot về đoạn này, chúng ta hiểu rằng, chỉ sau khi phạm tội, ông bà mới nhận ra hai bên có sự khác biệt, có thể nói đó là lý chứng cho việc họ thèm muốn  lẫn nhau. Điều này nó chỉ được chấp nhận và trở nên thánh thiêng trong bí tích hôn nhân Kitô giáo, chính trong nhãn giới này những chương đầu của sách Sáng thế mới được “rửa tội”.

Từ những gì vừa trình bày, chúng ta nhận thấy, mọi sự phát sinh từ trái cấm ấy, tội cũng từ đấy mà ra. Điều mà thánh Augustino gọi là tội hồng phúc; như thế, trái cấm ấy phải được gọi là trái hồng phúc. Chính khi con người không nhận ra hồng phúc lớn lao là được mặc khải về giới hạn bản thân, sự bao bọc của Thiên Chúa yêu thương, thì con người lại quây quắt trong đam mê đi tìm danh vọng, nhưng con người không ý thức rằng không có danh nào đáng được họ ao ước bằng danh Thiên Chúa tình yêu. Đam mê danh vọng như ăn sâu trong bản tính con người “nó sẽ thống trị ngươi” nên không thể loại trừ mà không hạ thấp nhân phẩm. Điều thiết yếu là chuyển hướng đam mê ấy qui về Chúa vì con người có thống trị, sử dụng quyền bính cũng là để phục vụ và giúp mọi người lớn lên trong Chúa.

Và đam mê nhục dục, xét cho cùng, chỉ là mặt tiêu cực của nỗi đam mê hiệp nhất, thuộc về nhau như tác giả sách Sáng thế đặt trên miệng Adam: “xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”, và ở nhắm tới mức cao hơn và bền vững hơn như lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp loài người không được phân ly”

2.2. THÁNH PHAOLÔ

       Thoạt tiên, khi tìm hiểu cuộc đời của thánh Phaolô, chúng ta dễ dàng kết luận: Ngài sống với nỗi đam mê truyền giáo. Nhưng đây chỉ là cách thức diễn đạt nỗi đam mê tôn giáo nơi ngài. Thật vậy, cha mẹ Ngài là những người thế giá, là công dân Rôma. Ngài được giáo dục để trở thành một người biệt phái đúng nghĩa dưới chân thầy Gamalien. Qua cách Ngài bộc bạch trong các thư, ngài rất tự hào vì những gì mình được thụ huấn. Có thể nói, môi trường Do Thái nơi thánh Phaolô sống, giúp ngài xác tín về một Thiên Chúa uy quyền mạnh mẽ và riêng biệt của dân tộc Do Thái. Nỗi đam mê tôn giáo này chẳng có gì quá đáng. Ngài có quyền tự hào, đó có thể là cách diễn tả nềm tin sống động; đồng thời, thể hiện một con người nhiệt thành với tôn giáo, với lề luật và những nghi thức tôn giáo. Nếu chỉ dừng lại với những tác phong và lối hành đạo ở trên, thật đáng trân trọng nỗi đam mê này.

       Nhưng Ngài đã sai lầm khi ảo tưởng tự coi rằng tôn giáo mình là trổi vượt và bắt người khác phải theo truyền thống cha ông. Tất nhiên, động lực thúc đẩy ngài bắt bớ các tín hữu là do nhiệt thành sống đam mê tôn giáo của mình. Như sau này chúng ta thấy ngài thừa nhận là do hành động thiếu hiểu biết. Sự thiếu hiểu biết ở đây không phải do tình trạng yếu kém về mặt giáo lý của đạo nhưng sai lạc trong cách hành đạo. Ngài có quyền tuyên xưng niềm tin cách nào tuỳ ý như những người Pharisiêu công khai khác nhưng ngài không được quyền áp đặt tự do lựa chọn tôn giáo của người khác. Đây cũng là điều mà Giáo Hội ngày nay vẫn chịu bách hại vì những ý thức hệ cực đoan…

       Tất cả những gì diễn tả nỗi đam mê tôn giáo của ngài dường như đã tiêu tan sau biến cố tại Đamat. Phải trải qua kinh nghiệm đau thương mới giúp đương sự ngộ ra những chặng đường đã qua, để sau này ngài có thể nói: tôi quên những chặng đường đã qua, lao mình về phía trước hầu mong chiếm đoạt được Đức Kitô (x. Pl 3,13-14).

       Tất nhiên, từ sau biến cố để đời ấy, Phaolô đã thay đổi hoàn toàn, nhưng không có nghĩa là từ bỏ sống đam mê tôn giáo, ngài khởi đầu niềm đam mê với ý thức và tự do của một người muốn thuộc về Đức Kitô. Nỗi đam mê tôn giáo giờ đây được hiểu là nỗi đam mê chính Chúa Kitô phục sinh. Có những lúc ngài tự nhận mình như kẻ điên vì được Đức Kitô chiếm đoạt.

       Các nhà tâm lý học cổ điển cho rằng đam mê chỉ xuất hiện khi tâm hồn suy yếu, nhàn rỗi, chán nản và ngay cả ý chí yếu nhược. Có thể nói, đây là một lập trường không thể áp dụng cho trường hợp thánh Phaolô. Điều mà khoa học tự nhiên xem ra bất khả thì với Thiên Chúa đều có thể khi Ngài cho ân sủng can dự vào giúp hoàn thiện bản tính tự nhiên. Thiên Chúa dùng chính lòng nhiệt thành và ý thức tôn giáo sâu xa của thánh nhân mà thực hiện những công trình vĩ đại.

       Qua đó, chúng ta có thể khẳng định tự thân đam mê chẳng có gì là xấu hay tốt nhưng đối tượng đam mê sẽ "quyết định”, vì đó là chuẩn mực khả dĩ giúp đánh giá hành vi con người sống dấn thân. Tất nhiên, khi đề cao đối tượng đam mê chúng ta không thể bỏ qua cách sống nỗi đam mê của đương sự. Như thánh Phaolô, việc sống nỗi đam mê Do Thái giáo không có gì sai lầm nhưng trong cách thực hành đam mê ấy ngài tỏ ra thiếu hiểu biết. Nếu như con người cần hiểu để tin thì đam mê tôn giáo theo gương của thánh Phaolô đòi buộc mọi sự nhận thức đều qui về Chúa, Đấng là đối tượng của đam mê này.

2.3.THÁNH AUGUSTINO

O. Wide đã khẳng định: “Mỗi vị Thánh có một quá khứ, mỗi tội nhân có một tương lai”. Câu nói này được áp dụng triệt để cho cuộc đời của Thánh Augustino, một con người sống với nhiều nỗi đam mê. Có những đam mê đã kéo theo một đời sống lệch lạc và truỵ lạc, cũng có những đam mê giúp ngài sống thật và sống thánh. Tất cả được bộc bạch trong cuốn Tự Thuật, một trước tác của ngài.

Ở Đông Phương, khi nhắc đến Khổng Tử, người ta nghĩ ngay thuyết “Chính Danh” của ông, hay còn gọi “Chính Danh Định Phận”, nói cách bình dân Danh nào Phận nấy: Vua sống cho ra Vua, cha sống cho ra cha… nhưng đồng thời phát sinh hai thái cực. Một đàng, Vua sống không đúng danh nghĩa vua, người ta gọi “Hữu danh vô thực”; đàng khác, cha sống không đúng danh nghĩa cha; lạm quyền, sống hưởng thụ, người ta gọi là “Đam mê danh vọng”. Đam mê này được chính thánh Augustino nhìn nhận, thích trổi vượt hơn người khác, vì vậy vinh dự của ngài là làm đẹp lòng người khác [75] . Thật ra, nếu ngài có trí khôn và tài giỏi thì việc trổi vượt hơn người hay được người khác khen ngợi, đó là điều chính đáng. Nhưng vì ngài lừa dối giáo sư, cha mẹ vì ham chơi, say mê vở kịch nhảm nhí, điên cuồng; bắt chước các trình diễn đó rồi sinh ra kiêu hãnh, tìm tiếng khen… Chúng ta nghe chính ngài tự thú: “Về các loại cám dỗ khác, còn có một cách nào đó dò xét được mình, còn về loại này (đam mê danh vọng), thì hầu như không có cách nào cả” [76] . Nói như thế, ngài tỏ ra bất lực nhưng kỳ thực với ơn Chúa, ngài nỗ lực rất nhiều. Ngài ý thức đam mê này quá quy về bản thân nên ngài hướng ra tha nhân, ngài viết: “Con thấy rõ là các tiếng khen của người ta đã làm cho con chăm chú đến lợi ích của con” [77] . Điều này được chứng thực qua việc ngài dùng tài hùng biện để thuyết phục người khác tìm đến chân lý.

Quả thật, với vinh dự sinh viên thủ khoa môn này, ngài nhanh chóng trở thành nhà hùng biện. Đam mê này đã khiến ngài tìm đến Ciceron là tác giả cuốn Hortensius. Chính tác phẩm này làm thay đổi nguyện vọng và ước muốn của thánh nhân, muốn quay về sự khôn ngoan bất tử. Bắt đầu ngài tìm đọc Kinh Thánh nhưng cảm giác vô vị. Có thể nói, đây chỉ là một cảm xúc nhất thời vụt tắt. Nhưng dù sao, ngài cũng biểu hiện một cảm thức đam mê đi tìm Chân, Thiện, Mỹ.

Đam mê chân lý là một điều đáng ước ao nhưng chân lý là một thực tại không dễ thủ đắc vì lý trí đã ra tối tăm vì “vết thương tội lỗi”. Một khi lý trí sai lầm, chân lý ấy biến thành một loại nguỵ biện. Do đam mê hiếu tri đi tìm chân lý, thánh Augustino vương phải bè rối mà ngài ví như người có cặp mắt mù tối vướng phải cạm bẫy giăng trên đường. Bè rối ấy âm mưu đẩy khoa học lên đến đỉnh điểm để loại tôn giáo khỏi đời sống con người. Sự thể càng thêm trầm trọng khi một Giám Mục tên là Faustus cũng theo bè rối này. Với tài hùng biện và lối nói dí dỏm đã làm say mê thánh nhân khiến ngài càng xác tín về những “chân lý” sai lầm; dầu là những gì thánh nhân tiếp xúc chỉ là nguỵ biện. Nhưng điều tệ hại là một khi nhổ hết cỏ mọc hoang, mảnh đất tâm hồn trở nên trống rỗng vì không có một giáo lý lành mạnh khác trồng vào cho đến khi ngài gặp được Giám mục Ambrosiô, từ những bài giảng hùng hồn và không kém phần hùng biện, ngài đã nhận ra được chân lý mình phải tin nhận.

Nhưng cuộc trở về của ngài không phải một sớm một chiều. Chúng ta nghe ngài tâm sự: “Sự xấu kinh niên có sức mạnh trên con hơn là sự lành mới mẻ đối với con. Cái giây phút mà con sẽ được thay đổi càng gần tới, thì làm cho con càng sợ hãi; nó không làm cho con lùi bước, cũng chẳng đổi chiều, nhưng là lưỡng lự” . Đây là một cuộc chiến giằng co nội tâm nhưng “giờ Chúa đã đến”. Ngài tỏ ý muốn bằng chính dấu chỉ bên ngoài. Ngài viết: “Việc dạy học quá vất vả đã làm cho phổi con yếu đi, con khó thở và sự đau ngực chứng tỏ có vết thương” [78]. Nỗi đau này đồng nghĩa với việc từ bỏ nỗi đam mê hùng biện là mối cản trở lớn khiến ngài không thể hợp nhất với Giáo Hội. Thêm một dấu lạ khác nữa, “Chúa hành hạ con với cái bệnh đau răng nguỵ kịch đến nỗi làm cho con không nói được nữa. Trong lòng con nảy ra ý nghĩ là kêu gọi các bạn có mặt tại nhà cầu xin Chúa cho con… Nhưng chúng con vừa quỳ gối để khẩn khoản cầu xin thì cơn đau biến mất…Và tự đáy lòng, con cảm thấy một sự khuyến cáo của Chúa và vui vẻ trong đức tin” [79].

Từ những lời tự thuật trên, chúng ta có thể xác tín rằng đức tin là hồng ân Chúa ban và “giờ Chúa đến” thì không ai có thể ngăn cản được! Vì ý muốn của Chúa là ý muốn quyền năng, nghĩa là muốn gì thì được vậy !

Hành trình đi đến đức tin của thánh nhân còn nếm trải một nỗi đam mê chết người là đam mê sắc dục. Có thể nói, nó chi phối toàn bộ cuộc sống của ngài. Augustino đã tự thú: “Con không biết phân biệt sự sáng sủa của tình yêu và sự tối tăm của nhục dục. Cả hai tình yêu đều bốc cháy lẫn lộn trong con, lôi kéo tuổi xuân khờ dại của con qua những ghềnh dốc đam mê và dìm con xuống vực thẳm các nết xấu… Sự dâm đãng đã làm con dao động và xiêu té, phung phí và tiêu tan sức lực” [80]. Ngài và các bạn của ngài ganh đua nhau không phải tập tành nhân đức hay nghiên cứu tri thức mà lại so kè xem ai làm chuyện xấu xa đồi bại hơn. Có lúc, vì muốn hơn chúng bạn, ngài phải nói dối, ngài tâm sự: “Con sợ bị khinh thị vì vô tội, bị coi hèn hạ hơn vì trong sạch” [81].

Ngài mô tả đam mê nhục dục: “Chúng xuất hiện lờ mờ trước mặt khi con tỉnh thức, nhưng trong giấc ngủ, chúng gợi lên không những cảm giác thú vui, mà còn sự ưng thuận và như có cả hành động nữa” [82]. Ở đây, có sự can dự của tiềm thức; những hình ảnh đập vào mắt, chúng ám ảnh toàn diện con người nên dịp tội và ưng thuận là khoảng cách mong manh. Đến nỗi, khi nghĩ về những điều này, ngài thốt lên: “Trước thánh nhan Chúa, con là một bí mật cho con và đó chính là sự yếu đuối của con” [83]. Quả thật, đam mê nào cũng đi kèm với khoái lạc, mà đam mê nhục dục chi phối toàn bộ sinh hoạt con người nên khi muốn từ bỏ ngay đối tượng đam mê, khoái lạc lại khuấy động, cảm xúc trào dâng, giác quan dễ tìm lại cảm giác cũ. Với những nguy hiểm rình chờ, ngài chỉ còn cách kêu cầu Chúa: “Con đã nói cho Chúa nhân lành biết hiện trạng yếu đuối của con: con vui mừng mà run sợ về những ơn Chúa đã ban, con khóc lóc về những  thiếu xót trong con, con hy vọng Chúa sẽ hoàn tất nơi con lòng thương xót của Chúa, cho tới sự bình an trọn vẹn, mà mọi quan năng bề trong bề ngoài của con được hưởng nơi Chúa” [84].

Chúng ta vừa lược qua những đam mê của thánh Augustino, xem ra rất con người xác thịt nhưng nhờ ơn Chúa, ngài đã chuyển hướng biến nó thành phương tiện mang ơn cứu độ. Chắc hẳn, đây sẽ là sứ điệp về niềm hy vọng cho mỗi chúng ta, rằng: chúng ta vẫn sống hoài nỗi đam mê mà không làm nguôi ngoai khát vọng nên thánh. Một hành trình đến đức tin, một hành trình dài nên thánh đòi buộc ngài phải xét mình luôn, ngài tâm sự: “Con thường xuyên kiểm điểm về cái yếu đuối tội lỗi của con dưới những hình thức đam mê” [85]. Và xác tín như thánh Phao lô: chính lúc tôi yếu là lúc tôi mạnh.

Phải chăng chính khi ngài trải qua những đêm tối lầm lạc, đam mê nhiều phen mà Giáo hội đã có một hướng nhìn đúng đắn và cởi mở từ học thuyết đam mê của ngài ?

2.4. THÁNH PHANXICÔ ASSISI

Khi nói đến thánh Phanxicô, chúng ta nghĩ ngay đến Kinh Hòa Bình và Bài Ca Tạo Vật. Có thể nói, từ những tư tưởng này, ngài được mệnh danh là Sứ giả hòa bình bởi vì chúng là điểm qui chiếu cho đời sống an hòa nơi ngài.

Thiên thời, địa lợi và nhân hòa, cả ba chiều kích này được thánh nhân sống rất triệt để. Chính thái độ sống hòa đồng và hòa điệu với mọi chiều kích mà thánh nhân đáng được gọi là Sứ giả hòa bình.

Năm 1979, ĐGH Gioan Phaolô II đã công bố: Thánh Phanxicô là quan thầy của những người bảo vệ môi sinh. Chắc hẳn, đây không phải là một quyết định dựa trên tình cảm nhất thời, nhưng dựa vào đời sống của ngài được thể hiện cụ thể trong Bài ca Tạo Vật. Trong đó, chim trời mây nước và cả vũ trụ này đều có chỗ đứng và giá trị nào đó trong cuộc đời của ngài; tất cả nên chị nên anh, cả đến cái chết như là sự dữ tuyệt đối cũng được ngài gọi bằng một tên thân thương: chị chết. Như thế, không một thực tại nào mang màu sắc u tối, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống thánh nhân. Chính sự huyền đồng này (hòa điệu một cách huyền nhiệm) đã giúp ngài chinh phục cả những kẻ thù giết hại. Xin đơn cử giai thoại kể về cuộc gặp gỡ giữa ngài và con chó sói hung bạo tại Agodio Gubio.

Khi thánh nhân cư ngụ tại Agodio thì có một con chó sói hung dữ đã xuất hiện, nó quấy nhiễu và gieo rắc tại họa cho mọi người. Mỗi lần đi ra ngoài, ai ai cũng trang bị khí giới sẵn sàng chuẩn bị giao chiến với con thú dữ; có người sợ đến nỗi không dám ra khỏi nhà. Thấy vậy, ngày nọ ngài quyết định đến chạm trán với con thú, ngài làm dấu Thánh giá, đặt tất cả tin tưởng vào Chúa, rồi tiến thẳng đến trước mặt con vật. Vừa thấy thánh nhân, con vật nhe răng và chuẩn bị tấn công, nhưng ngài không lùi bước, ngài tiến lại gần, làm dấu Thánh giá và gọi nó lại. Ngài nói cùng nó với tất cả sự trân trọng vì nó cũng là một tạo vật của Chúa: “Này anh sói, anh lại đây, nhân danh Chúa Kitô, tôi truyền cho anh đừng hãm hại ai nữa”. Như một phép lạ, con chó sói hung dữ giờ đây ngoan ngoãn khép miệng lại và quấn quýt bên ngài, ngài lại tiếp tục nói như sau: “Này anh sói, anh đã gây không biết bao nhiêu thiệt hại cho vùng này, anh giết hại những tạo vật của Chúa mà không có phép Ngài. Anh không những sát hại súc vật mà còn giết hại cả loài người là hình ảnh Thiên Chúa nữa; anh đáng phạt vì những tội ấy… Nhưng tôi muốn giàn hòa giữa anh và họ để anh không còn hãm hại ai nữa”.

Thánh nhân vừa nói xong những lời đó thì con chó sói vặn mình ra điều biết lỗi và chấp nhận đề nghị của ngài. Ngài nói tiếp: “Này anh sói, hẳn anh thích làm hoà với mọi người, tôi hứa rằng: bao lâu còn sống, anh sẽ không bị đói khát nữa, anh có hứa với tôi là sẽ không hãm hại bất cứ người và vật nào nữa không ?”. Con vật cúi đầu như đoan hứa, thánh nhân đặt tay trên nó và đại diện cho thị dân Agodio long trọng cam kết những lời ngài vừa hứa với con sói. Giai thoại kể tiếp rằng: con vật tiếp tục sống hai năm tại đó, ngày ngày ra vào bất cứ nhà nào cũng như chính nhà của nó. Nó không làm hại ai và cũng không ai hãm hại nó, cuối cùng, con vật chết đi giữa tiếng khóc của dân làng.

Theo thánh nhân, chúng ta cần tỏ ra bất bạo động với thiên nhiên, với chim trời núi rừng, với không khí nước non. Chỉ với một tâm hồn thanh thản và hài hoà như thế, con người mới có thể xây dựng hoà bình trên thế giới.

Sự hoà giải này không dừng lại với tương quan thú vật nhưng còn mở ra với người khác. Chính ý hướng ngay lành này góp phần hoán cải các tâm hồn đối nghịch. Chúng ta thấy nỗi đam mê hoà giải không chỉ được phát huy lúc thời trai trẻ mà ngay cả lúc trên giường bệnh ngài vẫn dấn thân phục vụ hoà bình vì ích chung.

Điều này được cha Nguyễn Hồng Giáo [86] biên soạn khi ghi lại lịch sử cuộc đời thánh nhân: Năm 1226, vào những ngày cuối đời nằm trên giường bệnh, thánh nhân rất đau lòng khi nghe tin Đức giám mục và ông trị trưởng ở Assisi kình địch nhau. Vị Giám mục thì ra vạ tuyệt thông cho ông thị trưởng, còn ông này thì cấm không cho ai được mua bán và ký kết khế ước gì với Đức Cha.

Thánh nhân nói với anh em trong dòng: “Thật xấu hổ cho chúng ta, những người làm tôi Chúa, vị Giám mục và ông thị trưởng thù ghét nhau như thế mà chẳng ai đứng ra hoà giải”.

Chúng ta cũng có thể hỏi: thế bản thân ngài làm được gì khi mắt đã gần mù và thân xác kiệt quệ phải nằm một chỗ ? Có chứ ! Thánh nhân đã làm một việc quá sức tưởng tượng của mọi người, và có thể nói “rất Phanxicô”, đó là thêm vào Bài ca tạo vật mà ngài đã sáng tác trước đó ít lâu, một phiên khúc ca ngợi hoà bình và tha thứ, rồi cử anh em đi mời ông thị trưởng tới Tòa Giám mục. Khi ông tới nơi và hai người gặp nhau, các môn đệ nhân danh ngài, cất tiếng hát Bài ca tạo vật cùng với phiên khúc mới. Khi tiếng hát vừa dứt, hai người nắm tay nhau nói lời hoà giải và ôm hôn tỏ tình thân mật.

Chắc hẳn, thánh nhân không bao giờ tự coi mình có khả năng hoà giải nhưng luôn là khí cụ bình an của Chúa. Điều này được chứng thực trong lời Kinh Hoà Bình.

Lạy Chúa, xin hãy dùng con

Như khí cụ bình an của Chúa

Để con đem yêu thương vào nơi oán thù

Đem thứ tha vào nơi lăng nhục

Đem tin kính vào nơi nguy nan

Đem trông cậy vào nơi thất vọng

Dọi ánh sáng vào nơi tối tăm

Đem niềm vui đến chốn ưu sầu.

Lạy Chúa, xin hãy dạy con

Tìm an ủi người hơn được người ủi an

Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết

Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu

Vì hiến thân chính là nhận lãnh

Tha thứ cho người chính là được thứ tha

Cam lòng chịu chết là được sống muôn đời.

Thật ra, nhiều nhà chuyên môn nhìn nhận rằng kinh này không do thánh nhân trước tác nhưng được gán cho ngài vì tinh thần hoà bình của tác giả theo chủ trương của thánh nhân vào thời bấy giờ. Nhưng dù sao, chúng ta cũng có thể rút ra một kết luận tác giả đã khôn khéo khi truyền đạt điểm giáo lý này với một văn phong hết sức đạo đức trong bầu khí cầu nguyện. Thật vậy, tác giả ý thức hoà bình không phải là hoa trái của riêng nỗ lực cá nhân người nào mà có được nhưng phát xuất ơn hoán cải tâm hồn đến từ Thiên Chúa. Như thế, bầu khí cầu nguyện của lời kinh giúp mọi người ý thức sự yếu đuối của bản thân, từ đó, trông chờ ơn Chúa giúp. Ở đây chúng ta cảm nhận một thái độ sống đam mê xây dựng hoà bình, nhờ ơn Chúa và khởi đi từ chính bản thân sẽ mang lại hoa trái tốt đẹp cho các linh hồn. Khi chúng ta đặt lời kinh này trong bối cảnh thời ấy, mới nhận ra sự tranh chấp quyền lợi, tranh giành quyền bính… đã huỷ hoại bầu khí hoà bình; đồng thời, xác định tầm quan trọng về sự hiện diện của thánh nhân và sự quan phòng tốt đẹp của Chúa nhằm tái lập tinh thần Kitô giáo trong thời Trung cổ.

Ở đây, chúng ta cần xác tín lại điều đã khẳng định từ trước, môi trường là một trong những yếu tố làm phát sinh đam mê. Cụ thể hơn, chính môi trường rối loạn tranh chấp, bất hoà làm phát sinh niềm đam mê xây dựng hoà bình nơi thánh nhân và những người thiện chí đương thời. Bài ca tạo vật và Kinh hoà bình là những bằng chứng sống động cho một thời đen tối trong xã hội và Giáo hội.

Chúng ta vừa bàn qua tương quan giữa thánh nhân với thiên nhiên và tha nhân, xét cho cùng, hai chiều kích này chỉ là hệ quả tất yếu, hoa trái của một thực tại cao sâu hơn. Thiết nghĩ, chính tương quan giữa ngài với Thiên Chúa mới tạo nên nhựa sống trào tràn nuôi dưỡng cây sinh trái là hoà bình.

ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận kể lại giai thoại về thánh Phanxicô rằng [87]: Vào dịp thánh nhân qua Toà thánh để xin phê chuẩn luật dòng anh em hèn mọn, ĐTC thân mật hỏi ngài:

- Con có bao giờ thấy Chúa chưa?

+ Con vừa thấy đêm qua.

- Người có nói gì với con không?

+ Người và con bên nhau suốt đêm không nói gì. Tuy nhiên, cứ mỗi lúc con nói “Cha” với Người thì Người trả lời lại với con: “Con của Ta”. Cứ thế, chẳng có gì hơn cho đến lúc trời sáng.

Qua đó, chúng ta thấy thánh nhân có những khoảnh khắc nên Một với Chúa; thao thức của Chúa cũng là thao thức của ngài, đam mê của Chúa cũng là đam mê của ngài. Chúa đã chịu đóng đinh và chịu chết khả dĩ giao hoà nhân loại với Thiên Chúa. Qua thánh nhân, Chúa tiếp tục thân hành lên đường tìm kiếm những con chiên lạc để đưa về ràn. Có thể nói, qua thánh nhân, Chúa tiếp tục chịu đóng đinh và chết cho con người. Sự chia rẽ của con người cách nào đó in đậm 5 dấu thánh trên thân thể ngài. 5 dấu thánh là dấu chỉ sống động cụ thể thay cho lời mời gọi nhân loại: Hãy sống và xây dựng hoà bình, hãy sống và đam mê hoà bình vì bạn sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

2.5.THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU

Cũng như bao bậc vĩ nhân, thánh nữ Têrêsa là mẫu người thành công vì đã được mọi người biết đến và yêu mến. Với chỉ 24 năm sống ở trần gian, thánh nữ đã nêu gương mẫu cho biết bao người. Bí quyết nào đã dẫn ngài đến thành tựu ấy ? Thưa: ĐAM MÊ. Nếu nói như chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolo II: “Thành công lớn nhất là nên Thánh”, thì nơi thánh nữ, thành công lớn nhất là sống đam mê nên thánh. Chúng ta nghe ngài tâm sự trong tác phẩm Một Tâm Hồn trong thủ bản gửi mẹ bề trên Gonzaga năm 1897: “Thưa mẹ, như mẹ biết, con hằng ước ao được nên thánh”. Chúng ta vẫn ý thức rằng, nên thánh là lời mời gọi của Chúa Giêsu gởi đến mọi người không trừ một ai: “Anh em hãy nên hoàn thiện”. Nhưng ý thức thôi chưa đủ, còn phải ra sức tìm kiếm và tận dụng mọi phương thế khả dĩ giúp mình hoàn thành mục tiêu này. Trong lãnh vực đó, thánh nữ sẽ là người giúp ta sống đam mê nên thánh trong những việc tầm thường bằng tình yêu phi thường, trong những gì tự nhiên nhưng hết sức siêu nhiên. Các bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng, trong hội đồng quyết định việc phong thánh cho chị Têrêsa Hài đồng Giêsu, có một giáo chức thuộc giáo triều đã nói: “Đời chị Têrêsa không có gì lạ cả, chỉ toàn là những vệc tầm thường thôi”. Đức Piô XI trả lời ngay: “Tôi chấp nhận việc phong thánh cho chị, vì chị đã làm những việc tầm thường”. Qua đó chúng ta thấy thật sai lầm khi đánh giá công việc qua hiệu năng của chúng mà quên đi ý hướng và nội dung bên trong. Chính giá trị nội tại này mới giúp chúng ta sống phong phú và tích cực vượt qua những công việc xem ra nhàm chán, đơn điệu hằng ngày. Đam mê sẽ luôn là câu trả lời thiết thực nhất cho cuộc đời thánh nữ và những thành công của chúng ta.

Có thể nói thánh nữ phải trả giá đắt cho nỗi đam mê nên thánh của mình bằng sự hy sinh âm thầm không ai biết đến. Có lần thánh nữ kể: ‘“Đó là đang giờ chơi hôm ấy, chị coi cổng đánh hai tiếng chông, tức là phải mở cổng lớn dành cho công nhân để chở các cây vào làm hang đá. Giờ chơi buồn tẻ... và con nghĩ bụng sẽ rất vui nếu người ta kêu con đi phục vụ... Đúng lúc ấy Mẹ phó bảo con hoặc sơ đang ở gần con đi giúp, thế là con cởi bỏ tạp dề ra, nhưng rất từ từ để sơ bạn có thể cởi xong trước con, vì con muốn nhường cho sơ ấy niềm vui được phục vụ. Sơ quản lý nhìn chúng con và thấy con đứng dậy sau, sơ liền bảo: "Ồ! Chị biết mà, em không thể nào chiếm được viên ngọc cho vương miện của em, em chậm chạp quá”’.[88]

Khi đọc những lời bộc bạch này, bạn mới thấy sự tinh tế của thánh nhân, ngài khước từ niềm vui của việc phục vụ để nhận lấy một sự hiểu lầm mà nếu thánh nữ không nói ra chỉ có Chúa biết. Qua đó chúng ta thấy việc đam mê nên thánh không hệ tại ở điều người ta làm việc lành mà là khước từ cái tôi của mình, đến nỗi xoá mình đi không để cho người đời biết đến. Bởi đó, ngài đã ví mình như một loài hoa dại mọc nơi hốc đá chỉ mình Chúa thấy mà thôi.

Với nỗi khát khao nên thánh nhận được từ truyền thống gia đình đạo đức, ngay từ bé thánh nữ đã biết lợi dụng những khoảnh khắc để hy sinh dâng lên Chúa. Truyện kể rằng, vào một ngày nóng bức Têrêsa cùng các chị chơi đùa ngoài vườn. Một hồi lâu cảm thấy khát nước, hai chị em đua về nhà xem ai uống nước trước. Đến nơi trước, người chị rót nước đưa cho em và nói: “Lúc này em có dám hy sinh không uống nước để dâng cho Chúa, cầu nguyện  cho các linh hồn không?”. Têrêsa quyết định không uống, trở lại vườn. Người chị thấy vậy, lát sau mang nước đến cho Têrêsa và nói: “Chúa nhận của lễ của em rồi, em uống đi !”. Lúc đó Têrêsa mới vui vẻ nhận lấy nước và uống.

Qua đó, chúng ta cảm nhận tâm tình của chị thánh dành cho Chúa và cho các linh hồn lớn lao dường nào ! Hy sinh ấy và những tâm tình khác nữa làm nên những bước tiến lớn lên trong hành trình tâm linh nơi thánh nữ. Tâm tình thánh thiện này đạt đến đỉnh cao là việc quyết định dâng mình cho Chúa trong một đan viện ở tuổi 15. Trong một buổi tiếp kiến chung với Giáo hoàng Leo XIII, Têrêsa đã xin phép cho mình nhập dòng sớm hơn tuổi quy định của Giáo hội, nhưng Đức Giáo hoàng lại nói: “Này con, hãy làm theo ý bề trên quyết định”. Ít lâu sau, Giám mục Bayeux ra quyền cho bề trên dòng nhận Têrêsa. Biến cố này như một động lực mạnh mẽ thúc đẩy Têrêsa quyết tâm triệt để dùng môi trường đan viện là nơi Chúa muốn nhằm phát huy khát khao nên thánh trong âm thầm hy sinh.

Cũng như bao bạn trẻ, Têrêsa bước vào đời tu với một khí thế vững mạnh của một thiếu nữ đi tìm lẽ sống. Theo Têrêsa, lẽ sống ấy chính là Chúa. Thánh Augustino thật chí lý khi nói: Chúa đã dựng nên con, để con đi tìm Chúa. Thật vậy, với những người sống ngoài đời, họ tìm kiếm Chúa cách gián tiếp qua tha nhân mà họ gặp gỡ hay qua chính người bạn phối ngẫu của mình. Còn những ai sống đời tận hiến trong các dòng hoạt động, họ tìm Chúa trong đối tượng mình phục vụ và họ chỉ được nên thánh khi biết thánh hoá những công việc phục vụ của mình cho tha nhân. Riêng ơn gọi chiêm niệm như thánh Têrêsa thì đó là bước trực tiếp đến với Chúa, nghĩa là nói như thánh Augustino đi tìm Chúa, Đấng sâu thẳm hơn chỗ sâu thẳm nhất của lòng ta. Tắt một lời, những người trước tìm Chúa trong mọi người, còn Têrêsa tìm mọi người trong Chúa. Sống trọn ơn gọi của mình, cả hai đều tìm thấy Chúa và được thông hiệp với mọi người là chi thể sống động trong Đức Kitô.

Đam mê nên thánh mà chị đã nhận được từ gia đình, giờ đây nó được cụ thể qua việc sống đam mê tìm Chúa. Thật vậy, ở tuổi 15, chị đã có thể tạo cho mình những hoài bão lớn làm diễn viên, nhà viết kịch... Nhưng nhờ bầu khí đạo đức truyền thống của gia đình chị trở thành diễn viên bên cạnh đạo diễn Giêsu, chị thành nhà viết kịch, viết chính cuộc đời mình. Trong khi còn chưa dứt hơi ấm trong vòng tay người cha, thế mà chị đã can đảm quyết định dấn thân vào đời tu, khởi đầu cho một cuộc tìm Chúa thực sự, một cuộc đam mê nên thánh không ngừng. Vào dòng chị bắt đầu đi tìm những mẫu gương đã đạt đến Chúa là các thánh. Chị viết cho Mẹ bề trên: “Thưa mẹ, như mẹ biết, con hằng ước ao được nên thánh, nhưng than ôi mỗi lần sánh mình với các thánh, con đều nhận thấy giữa các ngài và con có một khoảng cách như giữa một ngọn núi cao chót vót và một hạt cát ti tiện dưới chân khách bộ hành”. Điều này chúng ta dễ nhận ra khi ngài nói về những sai phạm của mình, như một đứa trẻ vừa bước lên một bậc thang lại vấp ngã, trở lại điểm ban đầu. Vì thế thánh nữ mới phát minh một loại thang máy trong đời sống thiêng liêng. Ở đó, ngài chỉ cần đặt mình đúng chỗ là được cất cao lên. Chính Chúa là tác giả giúp ngài vươn cao lên. Chính cánh tay Chúa sẽ nâng ngài lên vượt mọi trở ngại. Thật thú vị! Qua đó thánh nữ đã tìm ra một cách thế là lòng phó thác con thơ trong bàn tay cha nhân từ. Thánh nữ viết: “Con chả cần phải lớn lên, trái lại, con cần phải cứ bé hoài và càng ngày sẽ càng bé dần mãi”. Chắc hẳn, trẻ thơ ở đây không có nghĩa trở nên ấu trĩ nhưng là tinh thần thơ ấu phó thác hoàn toàn vào sự quan phòng yêu thương của Cha trên trời.

Đến đây, dường như cảm thấy bất lực khi sống đam mê tìm Chúa, chị bắt đầu chân nhận vai trò của ơn sủng trong hành trình tâm linh. Có thể nói, ơn sủng lớn nhất mà chị nhận được là tìm ra một linh đạo, con đường thiêng liêng để đến với Chúa.

Chúng ta thử hỏi linh đạo hay con đường thơ ấu thiêng liêng do động lực nào đã khởi phát nơi thánh nữ ? Câu trả lời dễ dàng tìm được bởi tất cả được manh nha và thực hiện qua chính đời sống của chị trong nội vi đan viện.

Chị kể rằng, một hôm mấy chị em sang nhà láng giềng chơi, có con ngựa chắn ngay lối vào vườn. Trong khi các người lớn tìm lối khác mà đi, thì lũ trẻ con nghĩ ra sáng kiến: chui dưới bụng ngựa mà vào. Sau đó, chị đã kết luận rằng: được vậy vì chúng ta là trẻ nhỏ. Với trẻ em thì không có gì chướng ngại vật cả, chúng len lỏi khắp nơi. Thiết nghĩ, chính những tâm tình đại loại như thế đã vực dậy những tư tưởng xem ra bt lực khi ngắm nhìn những vị thánh vĩ đại. Quả thật, đối với trẻ em mọi sự dưng như đều có thể.

Một động lực chúng ta cần xét đến là tương quan giữa thánh nữ với người cha trần gian. Có thể nói đây là li thế mà Têrêsa được thụ hưởng ngay từ những ngày đầu đời, đặc biệt sau khi người mẹ qua đời. Chính đời sống gương mẫu của người cha này mà Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã tôn phong ông lên bậc chân phước. Xin đơn cử một sự kiện được thánh Têrêsa kể lại để thấy rõ đời sống thánh thiện của ngài ảnh hưởng khá lớn trên tuổi thơ và trong đời tu của thánh nữ:

Một chúa nhật trong năm 1888 cha Rohee là tổng quản nhà thờ chánh toà đã tuyên bố trên toà giảng là cần có một số tiền để có thể sắm một bàn thờ mới. Ông Martin đem tiền dâng ngài ngay và chỉ xin một điều là giữ kín không cho ai trong xứ biết tên người dâng cúng. Nhưng có một số người trong gia đình biết sự ấy và tỏ vẻ không bằng lòng, vì cho là một tặng vật vượt quá sức ông. Còn Têrêsa thì rất hài lòng, chị nói: “Sau khi cha đã dâng tất cả chúng mình cho Chúa thì dĩ nhiên cha phải dâng thêm bàn thờ để tế hiến chúng mình và tế hiến cả cha nữa chứ!”

Từ sự kiện này với bao buổi chiều sánh bước bên cha, đã tạo nơi tâm hồn thánh nữ những tâm tình tôn kính và mến phục cha. Có thể nói, chính mối tương quan tốt đẹp này đã giúp chị sống hiệu quả tương quan với vị Thiên Chúa là Cha. Và từ khi người cha qua đời, mối tương quan ấy cũng trở nên siêu nhiên và rất giống tương quan với Cha trên trời. Chị viết cho chị Céline: “Cái chết của cha không tạo cho em hiệu quả của một sự chết mà là của một sự sống thật. Em như gặp lại cha sau sáu năm cách biệt. Em cảm thy cha đang ở quanh em, nhìn em và che chở em”. Như thế, sau khi chị vào dòng được sáu năm, cha già mới mất. Cũng trong năm này, chị mới khám phá ra con đường thơ ấu thiêng liêng. Điều này chứng tỏ biến cố của người cha trần gian qua đời góp phần gieo ảnh hưởng cách nào đó trong tâm thức của nữ đan sĩ trẻ tuổi này.

Xem ra mối tương quan với Cha trên trời chưa phải là điểm nhấn trong linh đạo này khi chị viết: “Chỉ cần nhận ra sự hư vô của mình và phó thác mình như một đứa trẻ vào cánh tay Thiên Chúa tốt lành thì cũng đủ rồi” (Thư LT 226). Như thế việc nhận ra sự hư vô của mình phải là việc trước hết và trên hết. Theo Têrêsa, một đứa trẻ thật sự không chỉ ở việc phó thác vào tay cha lành nhưng còn phải chấp nhận sự bất lực của mình mà tự bản thân con trẻ không thể vượt qua. Như thế việc phó thác vào tay Cha giàu lòng thương xót tất nhiên là điều đến sau trong hành trình thiêng liêng. Như thế ta mới hiểu lời nguyện của thánh Augustino: Xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Biết con rồi biết Chúa, đây là trật tự không thể đảo ngược. Thật vậy, không ai có thể biết Chúa trực tiếp nếu không khởi đi từ chính hiện hữu và bản chất mỏng giòn của mình. Chính khi bản thân ý thức yếu đuối và cần đến Chúa, ta thật sự hiểu biết Ngài là Đấng giàu lòng thương xót.

Từ việc đam mê nên thánh của người con trong một gia đình truyền thống đạo đức đến việc đam mê tìm Chúa trong đan viện, chị đã đạt đến tình trạng ý thức mình là hư vô. Từ đó, chị phó thác cho Chúa trong hành trình thiêng liêng. Xét cho cùng, niềm đam mê của chị là chính Chúa.

Và sau mỗi biến cố lớn nhỏ trong đời, Têrêsa đều thốt lên: “Tất cả là hồng ân”. Thiết tưởng, đó cũng là tâm tình của những người một đời đam mê đi tìm Chúa, được ân sủng Chúa tắm gội và cảm nghiệm sự hiện diện của Ngài trong đời. Biết đâu, nhờ đó bạn lại có thể khai sáng một con đường mới đến với Chúa. Mỗi chúng ta là một con đường.

2.6.CHÂN PHƯỚC TÊRÊSA  CALCUTTA

Con người đương thời đã phong cho ngài tước vị làm Mẹ người nghèo. Tất  nhiên, mẹ không coi đây là một vinh dự nhưng là dịp mẹ được sống, chia sẻ với người nghèo và hơn nữa, mẹ trở nên như một người trong họ. Có thể nói, người nghèo là đối tượng của nỗi đam mê của mẹ khi thực sự đồng hoá với họ. Từ đó, mẹ dễ dàng cảm nhận những đau khổ, thiếu thốn… đồng thời, nhận ra nơi họ gương mặt của Đức Kitô.

Nhưng trước khi nhận ra ơn gọi độc đáo này, Mẹ là tu sĩ của tu viện Loreto ở Ái Nhĩ Lan. Song, cuộc sống ổn định của các nữ tu chuyên lo giáo dục những thanh thiếu nữ bất kể giàu nghèo, không làm mẹ thoả mãn. Cho đến một đêm, vào năm 1946 trên chuyến xe lửa đi DarJeeling, ngài bộc bạch: “Trong lúc cầu nguyện, tôi rực sáng ý thức về lời mời gọi từ trong lòng ơn gọi của tôi. Tôi phải bỏ tu viện hiến mình giúp người nghèo và sống giữa họ”. Từ đây, trong nội tâm mẹ xảy ra một cuộc chiến giằng co giữa sự ổn định của ơn gọi hiện giờ và ơn gọi mới là dấn thân cho người nghèo. Có thể nói, đây là giá phải trả cho nỗi đam mê phục vụ người nghèo. Chúng ta nghe chính mẹ tâm sự: “Bỏ Loreto, với tôi, là cuộc từ bỏ còn lớn hơn cả lần đầu bỏ nhà đi tu theo ơn gọi. Nhưng tôi phải bỏ. Vì đó là ơn gọi Chúa gọi tôi. Tôi biết nơi tôi phải tới, nhưng biết cách nào đây!”. Sau khi Mẹ quyết định theo tiếng Chúa mời gọi, mẹ bắt đầu sống hoài nỗi đam mê phục vụ người nghèo. Nhưng phục vụ không chỉ vì được phục vụ, song là phục vụ chính Chúa trong người nghèo, đó mới là động lực và điểm đến của nỗi đam mê nơi mẹ.

Chúng ta có thể hiểu phần nào nỗi đam mê này khi Mẹ nói: “Nếu có người nghèo trên mặt trăng, chúng ta sẽ đổ bộ trên mặt trăng”. Câu nói này không phải là cảm xúc nhất thời nhưng khởi đi từ một người ý thức sứ mạng lớn lao. Trong câu nói trên hàm chứa một sự khiêm tốn, từ “chúng ta” được hiểu rằng tự sức mình không thể “đổ bộ lên trên mặt trăng” nhưng nhờ ơn Chúa và mọi ngươì; đồng thời, việc phục vụ người nghèo là vinh dự chung cho mọi người “chúng ta” . Đối với mẹ: không nên coi việc trao tặng, phục vụ cho người nghèo như bổn phận nhưng như một khát vọng, đam mê phục vụ. Mẹ hằng xác tín khi phục vụ, Mẹ nhận lãnh nhiều hơn là ban phát khi Mẹ hay nhắc lời của thánh Vinh Sơn Phaolo “người nghèo là thầy dạy chúng ta”. Thật vậy người nghèo quảng đại hơn chúng ta tưởng.

Mẹ kể, một hôm, có người tới nhà chúng tôi, báo cho biết một gia đình Hindu tám đứa con đã nhiều ngày không được ăn gì. Tôi lấy cơm đủ một bữa ăn, đem tới cho họ. Tôi thấy những khuôn mặt đói khát, thấy mắt của những đứa con đã sưng húp; tình cảnh quá đáng thương. Người mẹ nhận cơm trên tay tôi, chia lấy nửa phần cơm rồi bước ra ngoài. Lát sau chị trở về, tôi hỏi: “Chị đi đâu, làm gì vậy ?”. Chị trả lời: “Họ cũng đang đói. Họ là một gia đình trong xóm, theo đạo Hồi cũng có số con tương đương, đang đói và cũng không có gì ăn”.

Chúng ta thấy, người phụ nữ này tuy đói nhưng mắt vẫn sáng để có thể nhìn thấy và đồng cảm hầu can đảm chia sẻ phần ăn khiêm tốn của mình.

Có lẽ những nghĩa cử cao đẹp ấy là chất xúc tác giúp mẹ sống hoài nỗi đam mê, nỗi đam mê phục vụ Chúa trong những người nghèo. Chắc hẳn không chờ sự đáp trả của họ nhưng mẹ muốn họ nhận ra, mọi người luôn trân trọng họ, nghèo khổ không cướp đi nhân phẩm của họ. Những tâm tình của Mẹ dành cho họ cũng được thông truyền cho một số người. Chẳng hạn, có lần Mẹ kể một đôi vợ chồng trẻ đến nhà chúng tôi và xin gặp tôi. Họ tặng tôi một số tiền lớn, tôi hỏi: “Các bạn kiếm được số tiền lớn này ở đâu ?”. Họ trả lời: “Chúng con mới cưới nhau hai ngày. Trước khi cưới, chúng con đã quyết định không tổ chức đám cưới, không sắm áo cưới, không làm tiệc cưới, chẳng hưởng tuần trăng mật. Chúng con muốn tặng mẹ số tiền chúng con dành dụm được”.

Đây là một nhân chứng trong muôn vàn trường hợp. Phải chăng qua việc hỗ trợ giúp mẹ sống phục vụ, họ đã chân nhận việc mẹ sống đam mê phục vụ những người cùng khổ là một việc làm chính đáng. Trái ngược với những gì tích cực ấy có lần Mẹ cũng nhận định: “Tôi cảm tưởng chúng ta đang vội vã đến mức, không có cả thời gian để nhìn nhau và cười với nhau”. Thật vậy, người ta nghèo đến nỗi không có một nụ cười trao nhau. Bởi vậy những người đó nghèo hơn hết mọi người. Làm sao con người có thể trao cho người khác một nụ cười ngay khi họ không biết “cười” với chính bản thân? Lắm kẻ phải chết trên đống vàng kếch xù vì tiền bạc không mua được nụ cười và niềm vui.

Có thể nói, nỗi đam mê phục vụ người nghèo nơi Mẹ Têrêsa làm cho chúng ta cảm nhận một sự giàu có, phong phú trong nhân loại ngày nay; đồng thời, chúng ta thừa nhận rằng một nhân loại đang hấp hối trong tình thương và lòng trắc ẩn. Thiết tưởng, thao thức chia sẻ với người đồng loại cách riêng những người bất hạnh đòi buộc chúng ta phải vượt qua bổn phận hằng ngày, và khởi đi từ môi trường chúng ta đang sống. Những chia sẻ của chúng ta không bao giờ trống rỗng và vô nghĩa, nói như Đức Cha Fulton Sheen, những người chúng ta giúp đỡ sẽ là chứng nhân cho chúng ta trên trời. Còn nói theo thánh Phanxico Assisi: Khi chết chúng ta chẳng mang theo được gì trừ những gì ta đã cho đi.

3.NHỮNG NGƯỜI ĐÃ HOÀN TẤT CUỘC SỐNG ĐAM MÊ

3.1. ĐỨC HỒNG Y PHANXICÔ XAVIÊ NGUYỄN VĂN THUẬN

Hy vọng là giá trị đáng mọi người ước ao. Đam mê là động lực giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Thông thường, niềm hy vọng nằm sâu trong tâm thức con người. Nó chỉ được vực dậy và khẳng định trong những giờ phút đen tối của cuộc đời. Mà theo thánh Tôma Aquinô hy vọng là một trong những hình thức của đam mê. Lược qua cuộc đời của đức Hồng Y Phanxicô Xaviê, chúng ta sẽ thêm xác tín về niềm đam mê này nơi ngài, đồng thời tìm được câu trả lời cho những vấn đề liên quan đến đức cậy của Kitô giáo: Hy vọng nơi Ngài là gì ? Hy vọng là sự sống đời đời và là chính Chúa. Nỗi đam mê của Ngài là đam mê sự sống đời đời và đam mê chính nguồn Hy vọng.

Trước tiên, đam mê sự sống đời đời nơi Ngài được vun trồng từ trong gia đình. Trong phần đầu của cuốn Chứng nhân Hy vọng gồm các bài giảng tĩnh tâm cho Đức Thánh Cha và Giáo Triều Rôma, ngài dành ít lời kính tặng mẹ Êlisabet, ngài viết: “Người đã giáo dục con từ khi con còn ở trong lòng mẹ. Mỗi tối mẹ kể cho con lịch sử các thánh tử đạo Việt Nam… Mẹ là người phụ nữ mạnh mẽ đã chôn xác các anh em mình bị những kẻ phản bội thảm sát…”. Tất nhiên, hình ảnh ấy ăn sâu trong ký ức cuả Ngài không chỉ như một nghĩa cử cao đẹp mà còn đọng lại trong ngài một niềm tin vào sự sống vĩnh cửu. Niềm hy vọng ấy còn được mẹ ngài làm sống động qua truyện các thánh tử đạo Việt Nam, và việc các Ngài lãnh triều thiên tử đạo trên trời. Những hình ảnh này đã ăn sâu bám chặt trong tâm thức của ngài ngay từ tuổi thơ và sau này khi sinh hoạt ở tiểu chủng viện. Có thể nói, những bài hát các thánh tử đạo mà thầy hát thuộc lòng khơi dậy niềm tự hào và còn làm tăng thêm nỗi đam mê hy vọng, đam mê đời sống vĩnh cửu.

Rồi sau này trong 8 năm phục vụ Giáo Phận Nha Trang và gần 4 tháng tại Giáo Phận Sài Gòn với tư cách Phó Tổng Giám Mục, thời gian ấy có thể coi là tràn đầy mùa xuân Hy Vọng. Vào ngày 15 tháng 8 năm 1975, lễ Mẹ hồn xác lên trời, “lúc Mẹ lìa bỏ thế gian mà về với Chúa”, thì ngài sống ơn gọi mới làm chứng nhân Hy Vọng cho môi trường mới. Ngài tâm sự: “Trong cuộc hành trình, tôi bắt đầu ý thức rằng mình đang mất tất cả” [89], cả đến chức linh mục đời đời cũng bị xoá sổ; chưa hết, cả đến tên gọi cũng bị thay thế bằng một con số xếp dài theo những con người bị tước đoạt nhân phẩm. Họ được gán một bảng hiệu to tướng “cải tạo”. Chính lúc ngài tưởng chừng như bị tước đoạt tất cả, khi không còn gì để mất, ngài nhận ra mọi người là đối tượng phục vụ. Ngài bộc bạch: “Từ đây, nhà tù này đã là ngôi nhà thờ chính toà đẹp nhất của tôi và những tù nhân này, không loại trừ ai, đã là dân của Thiên Chúa được tín thác cho việc chăm sóc mục vụ của tôi” [90].

Để đi đến một xác tín như trên, ngài đã phải trả giá bằng thinh lặng của Thiên Chúa, ngài viết: “Trong đêm đen của lòng tin, trong phục vụ, trong khiêm hạ, ánh sáng của niềm hy vọng đã thay đổi quan niệm của tôi” [91], nghĩa là từ đây Chúa muốn ngài phục vụ không phải một giáo phận mà liên giáo phận từ nam chí bắc; không chỉ những con chiên lạc trong tù mà cả những người thuộc các tôn giáo bạn, những lính canh tù nữa! Chính lúc ngài chấp nhận từ bỏ việc Chúa là phục vụ giáo phận, ngài đã chọn chính Chúa và quyết thực hiện ý muốn của Người. Quả thật, ý muốn Thiên Chúa vượt xa mọi dự phóng con người. Trước đây, “Sự lìa xa giáo dân là một cú ‘Sốc’ làm tan nát tim tôi” [92] thì bây giờ, sự chia sẻ nghịch cảnh với những bạn tù là niềm vui trong nỗi đam mê phục vụ hy vọng và ơn cứu độ phổ quát cho con người. Thiên Chúa còn gợi hứng lòng quảng đại của ngài đến những người cách nào đó đã bắt bớ mình. Ngài nói: “Trong thời gian tôi bị bắt giam, tôi được giao cho năm người canh gác. Họ thay phiên nhau luôn luôn, có hai người ở với tôi. Các cấp chỉ huy nói với họ: ‘Cứ mỗi hai tuần chúng tôi sẽ thay đổi các anh bằng một nhóm khác, để các anh không bị ‘tiêm nhiễm’ bởi ông Giám Mục nguy hiểm này”. Sau một thời gian, chính họ lại đổi quyết định: “Chúng tôi sẽ không thay đổi các anh nữa, bởi nếu không thì Giám Mục đó sẽ tiêm nhiễm tất cả công an của chúng ta” [93].

Qua đó, chúng ta nhận thấy nỗi đam mê chính đáng luôn có một hấp lực lôi kéo người khác cả những người không cùng chính kiến. Như thế, đam mê Hy Vọng của Đức Hồng Y vượt ra ngoài tường luỹ Giáo Hội. Đam mê ấy đầu tiên chỉ được manh nha trong lòng mẹ và chính gia đình của ngài rồi lan rộng khắp nước cho đến khi được Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II (nay là thánh Giáo Hoàng) mời giảng tĩnh tâm cho Giáo Triều Roma. Đây là công việc của Chúa Thánh Thần. Và từ khi các cán bộ hát thuộc lòng những bài: Veni Creator (xin Chúa Ngôi Ba…), Ngày vinh phước của Toma Thiện (Thánh chủng sinh tử đạo)… Người mang danh Chứng Nhân Hy Vọng đã được mọi người biết đến. Như thế, chúng ta hiểu được câu trả lời của Ngài khi được Đức Thánh Cha hỏi: “Đức Cha đã chọn đề tài nào chưa ?”. Ngài trả lời: “…có lẽ con có thể nói về Niềm Hy Vọng”. Vì mất tất cả, bị tước đoạt hoàn toàn, con người vẫn sống nhưng mất Hy Vọng, con người sẽ chết cái chết của kẻ không tin vào sự sống đời sau và không ai khác chính Chúa là Nguồn Hy Vọng.

3.2. NHẠC SĨ TRỊNH CÔNG SƠN.

Nhân kỷ niệm 10 năm, ngày người nghệ sĩ đa tài họ Trịnh hoàn tất “một cõi đi về”. Tôi cũng xin phần nhỏ trong tập sách này nói về một thời đam mê của ông. Trịnh Công Sơn là vị thầy, tôi học hỏi từ xa lúc còn trong Nhạc viện Thành Phố. Mặc dù chỉ cách nhà ông một con đường, nhưng chúng tôi chưa một lần duyên ngộ. Dù vậy, tư tưởng thâm thuý của người nghệ sĩ tài năng vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong hành trình tri thức của tôi.

Trên trang mạng có rất nhiều bài nói về con người và sự nghiệp của nghệ sĩ, với nhiều chủ đề rất phong phú và cũng có nhiều hướng nhìn khác nhau: tích cực lẫn tiêu cực. Điều này tôi không bàn luận và đánh giá, tôi chỉ nói một lời, chính những gì bạn tìm được nơi người nghệ sĩ, sẽ thành một huyền thoại để mọi thời “hát rong”. Đó cũng là điều tâm nguyện của ông khi còn sống.

Như chúng ta đã khẳng định, đam mê là sinh hoạt bao trùm cả đời sống con người. Nhưng thực tế, người ta đã đặt nó trong một số lãnh vực chuyên môn nào đó, đây là một sai lầm đáng tiếc ! Hệ luỵ kéo theo là dường như con người sống hai mặt: đời sống thực tế và đời sống đam mê. Tách biệt như thế, vô hình trung, chúng ta tách sinh hoạt tâm lý: cảm xúc, đam mê trở thành một thứ gì đó tuỳ phụ; trong khi đó, nó là trạng thái biểu hiện thực tại bên trong là tâm hồn chúng ta. Nhìn vào con người nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, chúng ta sẽ tìm lại sự hoà điệu giữa những phân mảnh của đời sống tưởng chừng như vô vọng, bất hoà hợp.

Nhạc sĩ Thiền, xin được phép gọi ông bằng tên gọi thân thương ấy, đã có lần nói: “Sống trên đời cần có một tấm lòng”. Tấm lòng ấy là gì nếu không phải là nỗi đam mê tình yêu mở ra với hết mọi người. Có người hỏi, tại sao nhạc sĩ ấy sống cô đơn cho đến lúc ra đi mặc dù rất nhiều cuộc tình đi qua đời ông ? Ta hãy nghe Nghệ sĩ Trịnh Cung thổ lộ: "Có lần người họ Trịnh đã công bố kết hôn rồi lại thôi". Phải chăng ngài thiếu trưởng thành trong việc quyết định những vấn đề sống còn của đời sống ? Sống và nghiệm những tác phẩm của ông, chúng ta sẽ phần nào tìm được câu trả lời.

Trước tiên, chúng ta khá quen thuộc một khẳng định của triết gia Gabriel Marcel rằng mỗi người là một huyền nhiệm. Với người nghệ sĩ, điều này lại càng tinh tế và huyền bí hơn. Tinh tế vì họ có lòng tôn trọng sâu xa với những thực tại đời sống, cách riêng với tình yêu một con người. Với tài năng trổi vượt, ông đủ tư cách để chọn một người mình yêu, nhưng có lẽ tình yêu ấy mang tính chiếm hữu. Có thể nói, chính khi khước từ chiếm hữu thì mọi người nữ, mọi vẻ đẹp đều thuộc về nhạc sĩ. Một con tim mở rộng là một tấm lòng chất chứa đầy tình yêu. Bởi đó, khi thưởng thức những đứa con tinh thần của nghệ sĩ, bạn đừng để cho những tiên kiến chi phối: nào là người đẹp tác giả nói đến là ai ?... Rồi suy ra, nghĩa này nghĩa nọ. Tất cả chỉ làm bạn đui chột mức cảm thụ nghệ thuật. Nó làm tâm hồn bạn trở nên nghèo nàn, thiếu sức sống. Thực dụng hoá đứa con tinh thần họ cưu mang là một phản nghệ thuật. Vì chúng ta biết rằng: một người đam mê tình ái chẳng hạn, họ thấy cả bầu trời là người yêu. Trong khi đó, người thưởng thức nghệ thuật chỉ phóng chiếu những tình cảm hạn hẹp, đôi khi lệch lạc của bản thân mình.

Còn khi nói về tính huyền bí của người làm nghệ thuật, cách riêng nhạc sĩ Thiền là một đáp trả riêng tư trước mọi thực tại đời sống. Chúng ta biết, Đường xa vạn dặm là ca khúc được nhạc sĩ viết sau biến cố mẹ ông qua đời. Trịnh đã tới mộ của mẹ để cầu siêu và đốt bản thảo của ca khúc này, nhưng những người bạn của ngài đã dập lửa và kịp thời cứu lấy đứa con tinh thần này. Có những khoảnh khắc riêng tư mà cả khi chết cũng không được tiết lộ, thế mà, có kẻ muốn biết và khi thưởng thức lại đánh giá hay - dở. Hay hoặc dở không phải là phạm trù để dùng khi nói về chiều sâu nội tâm. Phải xác định rằng, nó là tâm tình rất thật của nghệ sĩ. Nỗi đam mê hoà điệu nhưng bất ngờ đã bị chia cắt với một người thân thương nhất, đã sinh ra một đứa con tinh thần. Đó là điều đáng trân trọng. Quả thật, ngôn bất tận ý, nhạc bất tận tâm; ngôn từ không diễn đạt hết được ý nghĩa và nhạc cũng bất khả khi diễn đạt nội tâm con người.

Sự tinh tế và huyền bí ấy được diễn tả rất nhiều trong các tác phẩm của ông. Xin đơn cử giai thoại của ông và ca sĩ Hồng Nhung. Có lần ca sĩ hỏi: “Tại sao anh sáng tác nhiều bài thể loại “ru” thế ?”. Nhạc sĩ trả lời: “ Cuộc đời vốn đã đẹp và càng đẹp hơn khi ngủ và mơ, vì người ta vẫn nói: đẹp như mơ. Bởi đó, khi ru thì đời rất đẹp và còn gì đẹp đẽ khi có người ru ta”. Chúng ta thấy chỉ vỏn vẹn có hai câu mà nhạc sĩ đã kết nối ba thực tại: ru, đẹp và người ru. Qua đó, tác giả cho thấy, tình yêu là một bài hát ru, nó đẹp vì luôn ở bên người ru. Tình yêu ấy thoáng qua như một kỷ niệm mà ông đã giữ lấy với sự trân trọng của một cuộc tình. Đây chắc hẳn không phải là một tình yêu qua đường nhưng là một tình yêu cao thượng. Hơn nữa, nghệ sĩ có cách tỏ tình rất thú vị khi nói về ca khúc Ru tình. Tại sao lại nói: ru em ngồi đây nhé, tôi tìm cuộc tình cho…? – Em cứ ngồi đó, tôi đi tìm tình yêu cho em. Tìm một ngày, hai ngày… mà không thấy, thì chỉ có tôi quay lại với em. Thật vậy, tác giả như chủ động trong cuộc đi tìm tình yêu nhưng chỉ để hát ru một cuộc tình quá đẹp. Để đến sau này, tác giả thốt lên: “Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã dưới chân người…”. Có thể diễn đạt thế này: tôi yêu nhưng không luỵ phiền một ai, lòng tôi như biển rộng có lúc dậy sóng nhưng đừng làm xô ngã một ai.

Một tâm hồn tế nhị như thế, chắc hẳn đã trải qua những kinh nghiệm quý giá. Xin dành phần nhỏ để nói về đời tư của nhạc sĩ như một phác hoạ chân dung.

Bố mất sớm, gia đình bị phá sản, bỏ cơ hội đi du học Paris,… ông sinh ra buồn chán, cô đơn. Trịnh Công Sơn đã tập chơi ghita giải sầu và những ca khúc Ướt mi, Nhìn những mùa thu đi… lần lượt ra đời. Bởi vậy, có nhà tâm lý quả quyết thật xác đáng: buồn chán, suy nhược tinh thần sinh ra đam mê. Nhưng đó chỉ là yếu tố ngoại tại, chính tấm lòng rộng mở với thiên nhiên mới làm nghệ sĩ vui thoả trong đam mê.

Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, ông phải trốn ra Huế. Sau khi được đánh tiếng là sẽ bị thủ tiêu; bởi vì, tính chất hai mặt của ông trong âm nhạc và đời sống. Vì ông là bạn của những nhân vật cao cấp của chính quyền Sài Gòn. Trịnh Công Sơn đã từng viết Cho một người nằm xuống về cái chết của Lưu Kim Cương và đồng thời với Hai mươi năm nội chiến từng ngày, thì điều đó, người cộng sản không chấp nhận. Nỗi đam mê âm nhạc có thể quay lại phản bội ông nhưng không vì thế ông lại chối bỏ chính mình sống trong sự thật và nói những gì sự thật.[94]

Đến đây, chúng ta thấy rõ nét cá tính mạnh mẽ nơi nhạc sĩ. Sống đam mê nghệ thuật là sống thật với chính mình, đôi khi phải chấp nhận sự bách hại có thể xảy đến. Đó là sự trưởng thành của một nhân cách; đó là dấu chỉ của một người làm nghệ thuật chân chính, dám chịu trách nhiệm mọi hành vi bản thân. Và một khi mọi người bắt phải xin lỗi công khai, ông sẵn sàng đứng lên phát biểu giữa công chúng như một bài  “thu hoạch”, nói theo kiểu người nhà nước. Thật ra, đây là dịp nhạc sĩ tỏ lộ chính lập trường của mình, một người phục vụ đích thực cho sự nghiệp nghệ thuật chân chính chứ không phải một tay sáng tác nhạc “phản động” như có nhạc sĩ khác đánh giá và chi phối cả một cộng động đang hâm mộ nhạc Trịnh. Nhưng cũng có người trung dung hơn khi cho rằng, đây là dòng nhạc nói về thân phận con người.

Thật ra, nhạc sĩ này không tham gia cách mạng và ngay cả việc tham gia quân đội cũng chẳng màng. Thay vào đó, ông thi vào trường sư phạm Qui Nhơn để tiếp tục sinh hoạt tri thức, cho đến khi tốt nghiệp, ông được điều về làm việc tại một trường ở Bảo Lộc thuộc tỉnh Lâm Đồng. Từ đó, nhạc sĩ có dịp rảnh rỗi lên Đà Lạt chơi với những người bạn cùng phục vụ nghệ thuật và có ý định đi tìm một ca sĩ vô danh khả dĩ hát và diễn tả sống động những ca khúc của mình. Cuộc gặp gỡ một ca sĩ vô danh, sau này cô được phong là “nữ hoàng chân đất”, trông rất là nhếch nhác ở Đà Lạt, lại là một định mệnh. Cô bé ở tuổi đôi mươi đã chấp nhận lời đề nghị về Sài Gòn cùng với nhạc sĩ đam mê, khởi đầu từ môi trường sinh viên, nghĩa là hát mười năm không thù lao. Nhưng lại là dịp các vị bộc lộ nỗi đam mê phục vụ mọi người không chờ đền đáp; đối với họ, một tràng pháo tay quí hơn “khay tiền thưởng”. Có thể nói, Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trở thành hiện tượng điển hình và nổi bật về lãnh vực âm nhạc thời đó.

Nếu muốn nhiều người biết đến, chắc chắn nhạc sĩ đã cố chọn một ca sĩ đang nổi tiếng tại Sài Thành để sớm khẳng định bản thân. Không, ông đi tìm một ca sĩ vô danh nhưng có thể hát và lột tả chân thật nỗi niềm của tác giả. Đó là thái độ vô cầu, vô vị lợi, một nét đặc trưng nơi nhạc sĩ cá tính này. Đó cũng là nét đẹp của Đạo, của Thiền mà nó bàn bạc trong các tác phẩm của ông, phảng phất một màu quê hương rất Á Đông.

Chúng ta dễ hiểu tại sao chất Thiền được nhập thể trong từng tác phẩm, khi ông nói: “Người ta Thiền bằng cách gõ mõ tụng kinh, thắp hương khấn vái, tôi đây đến với Thiền bằng một cách khác bên ly rượu”. Thật vậy, Thiền là đói ăn, khát uống, Thiền là sống trọn vẹn từng Sát-na. Thoạt tiên, tưởng nhạc sĩ hạ giá và giản lược Thiền nhưng kỳ thực, chúng trở thành bản tính thứ hai nơi ông.

Chúng ta biết rằng, dưới nhãn quan của Thiền cũng như minh triết của phương Đông: trong âm có dương, trong hoạ có phúc, trong mùa đông có chồi lộc của mùa xuân… Như có lần nhạc sĩ Thiền đã viết: “Phải chăng thở than cũng là niềm bí ẩn của con người… hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như hoa… tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi lòng của tên tuyệt vọng” (bài viết “Tin vào niềm tuyệt vọng”). Có thể nói, nơi tác giả có một cảm nghiệm tâm linh rất sâu xa khi thấy tuyệt vọng cũng đẹp như hoa; tại sao tác giả lại ví tuyệt vọng như hoa mà không phải thứ khác ? - Tuyệt vọng chỉ đẹp vì nó chóng tàn như hoa. Quả thật, đoá hoa vô thường vẫn đẹp nhưng không tồn tại mãi.

Cũng có lần nhạc sĩ đã tâm sự: “Khi sáng tác, tôi phải lãng quên hiện hữu này để đi vào một thực tại, một thực tại phiêu bồng, ở đó không có những xung đột trần tục của chữ nghĩa và những lý luận ngõ cụt không đâu”. Rõ ràng, nhạc sĩ ý thức sự tạm bợ của cuộc sống, tính tương đối của mọi thực tại. Ngộ ra chân lý này, ông vẫn an nhiên tự tại khi đứng trước mọi xáo động xung quanh: “Đời cho ta thế, đứng giữa bão tố không buồn vui” (Đời cho ta thế). Đây chắc hẳn không phải là một thái độ vô cảm nhưng là một tình trạng siêu nghiệm, một ngộ nhân đã chứng nghiệm Thiền.

Với trực giác bén nhạy, cảm quan tinh anh, nhạc sĩ đã thấu cảm từng nỗi đau của phận người. Chính trong cõi tĩnh lặng tuyệt đối, ông lắng nghe nỗi đau của bia mộ, khi nói: “Làm sao em biết bia đá không đau, ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”. Thật vậy, bia đá cũng đau nỗi lòng của người nằm xuống và người còn lại, và nếu sỏi đá cũng cần có nhau thì ngày sau hai tâm hồn cũng duyên ngộ tương phùng.

Từ những gì vừa trình bày, chúng ta thấy rằng nỗi đam mê chủ đạo nơi nhạc sĩ họ Trịnh là đam mê sống thực tại tâm linh, còn âm nhạc chỉ là cách biểu hiện của những chứng nghiệm ấy. Nên tôi thích gọi ông là nhạc sĩ Thiền. Thiển nghĩ, chính khi thao thức mang triết lý vào âm nhạc mà những tâm tình của ông dễ đi vào lòng người vì triết lý chính là cuộc sống vậy! Và như có người đã cảm nghiệm và nói lên rằng: “Khi nghe bài ‘Một cõi đi về’, tôi không còn sợ chết nữa”. Đó là hoa trái, dấu chỉ tích cực cho một đời sống đam mê, một cuộc sống giá trị và đáng sống.

3.3.VẬN ĐỘNG VIÊN ĐỖ XUÂN TÂM

Em tên là Giuse Đỗ Xuân Tâm, con út của một gia đình di cư lao động gồm 7 người con: 5 trai 2 gái. Với mẫu người hướng ngoại, tính khí sôi nổi, bốc đồng, em sống trong sự che chở bao bọc của gia đình giữa một thành phố với những kỷ lục tệ nạn xã hội. Ý thức những nguy hiểm đang rình rập tính mê chơi dễ xa lầy của em, bố mẹ đã cho chúng tôi tham gia lớp giáo lý rất sớm và tiếp xúc gần gũi với bàn thờ qua việc giúp lễ. Những sinh hoạt đạo đức ấy xem ra chỉ là những rào chắn hữu hình giúp chúng tôi tránh giao du với những bạn xấu. Nhưng những thứ ấy, trái lại làm lộ rõ tính bốc đồng nơi em. Có thể nói, không một ngày vui nào của gia đình mà lại không là một ngày bất hạnh nơi em. Vì những yêu sách của em, một gia đình nghèo không thể đáp ứng nổi. Cứ mỗi lần bức xúc là tay đấm tường, đầu đập vách, miệng hét to như muốn xé bầu khí ngột ngạt của gia đình; một cách giải tỏa khác, em lấy xe đạp chạy từ trung tâm thành phố ra tới ngã ba Vũng Tàu gần 30 km (bây giờ thành ngã tư). chính đây là những dịp manh nha cho cuộc mạo hiểm, đam mê đua xe đạp của em sau này.

Em sở hữu một thân hình khá lý tưởng: cao 1m73, nặng 77kg. Vào một ngày đẹp trời, có thể nói dưới tác động của Chúa, những tay đua lão làng về hưu đang tụ tập một chỗ vui chơi đã thấy em và ngỏ lời, muốn giúp em theo nghiệp đua xe. Cả nhà đang trong tâm trạng lo lắng vì đi tìm em, em về nhà với điệu bộ khí thế xin gia đình cho 1 triệu để tậu một chiếc xe đua loại thường nhất. Lo lắng cộng thêm bất lực, gia đình chỉ trông vào Chúa. Trong lúc, gia đình bó tay vì hoàn cảnh khó khăn kiếm cơm từng ngày. Thế mà em đã nhờ người thân giúp đỡ, săn đồ ở chợ cũ. Cuối cùng cũng được một chiếc xe tạm ổn để theo đuổi đam mê này. Nỗ lực của em đã được trả giá, hơn một năm sau có người đỡ đầu em trong đội tuyển quốc gia. Chính tại đây, những giờ tập thể lực cao độ đã giúp em giải tỏa tính bốc đồng. Khí chất trở nên thuần tính và em bắt đầu trở lại tinh thần đạo đức của gia đình. Chính thức là từ biến cố đi tu của người anh 01-08-2002, em nói: “Bây giờ em mới tin là có Chúa hành động”.

Trong những lúc xa nhà tập huấn ở Hà Nội, nơi không có nhà thờ, em báo cho gia đình biết vì nhà thờ quá xa không thể tham dự thánh lễ, em đã tình nguyện lần hạt 3 chuỗi và đọc Kinh Thánh mỗi ngày. Phải chăng chính lúc điều kiện khắc nghiệt, mầm sống đức tin lại triển nở không ngờ ? Sự khắc nghiệt không chỉ từ yếu tố xa cách nhà thờ nhưng một bầu không khí “con cha cháu ông” trong đội tuyển: Kiểu sống cha chú rất thịnh trong thời điểm đó. Tâm bắt đầu tập đứng trên đôi chân của mình. Em đã viết trong nhật kí rằng: “Tâm, cố lên, mày không cố gắng hơn nữa thì sẽ bị loại, cố lên, cố lên”. (Mặc dầu em là vận động viên triển vọng nhất của đợt đua Sea Games 2003). Có lẽ Tâm trực giác được điều đó từ sau mỗi lần thao luyện và nghiêm huấn.

Sự nghi kị thì nơi nào cũng có, với Tâm sự chấp nhận và thông cảm xem ra dễ dàng. Tâm kể: có lần cấp trên cho anh bạn một vật gì đó nhưng anh không nói lời cám ơn hay tỏ dấu khiêm tốn vì mình là kẻ thụ ân, Tâm thẳng thắn nhắc anh ấy: “Sao anh không nói lời cám ơn gì cả, đó là điều nhân bản tối thiểu mà!”. Anh trả lời: “Nhân bản của mày có ăn được không ?” Tâm cũng chẳng vừa, đáp lễ: “Ăn không được nhưng không có nó anh chết đấy!”. Thế rồi anh ấy bỏ đi. Tỉ số tạm thời dẫn trước 1 – 0.

Vào ngày cuối tuần anh ấy và chúng bạn có tiền nên ra phố ăn chơi, còn Tâm ở nhà một mình. Em đã kiếm đủ việc để làm những giờ rảnh, chẳng hạn rửa xe giúp các bạn; dần dà Tâm đã cảm hóa được anh ta. Tuy nhiên bầu khí ganh đua trong cả đội không vì thế mà được cải thiện, không khí càng trở nên khó thở khi Tâm được cử đi nước ngoài thi đấu, ngày đó phần thưởng Tâm mang về là một cái yên xe. Số là Tâm đang đua trong tốp 10 người đầu tiên, đến lúc chạy bức phá thì yên xe bị rơi mất, phần thưởng Chúa đã ghi công nhưng người đời không biết đến. Trong dịp đó tôi chẳng biết an ủi Tâm thế nào, tôi chỉ bảo: “Chúa sợ Tâm kiêu ngạo nên rút phần thưởng đi”. Còn Tâm thì rất buồn mặc dù trong vòng gần 3 năm, Tâm đã đạt được hơn 10 huy chương từ các cuộc thi trong nước.

Có lần đang lúc tập luyện em nghe tin trên Đà Lạt có cuộc đua xe đạp, vì đam mê chiến thắng em bỏ giờ tập, lên Đà Lạt đăng ký thi. Thầy biết được cảnh cáo: “Em có thể chọn 1 trong 2, một là ở lại luyện tập, hai là đi thi đấu và đừng quay lại nữa”. Thế mà em vẫn quyết định bỏ đi. Em lên Đà Lạt gặp tôi lúc ở sân banh nhà dòng, em hỏi ý tôi xem thế nào. Tôi biết em là người nóng tính nên hay quyết đoán vội vã nhưng không có cách nào thuyết phục. Tôi bảo em: “Tâm cứ vào chầu Chúa và làm hai thăm hỏi ý Chúa, cầu nguyện rồi bốc một trong hai”. Cuối cùng em đã trở về Thành Phố tiếp tục chương trình luyện tập. Rõ ràng sống đam mê, nhưng em vẫn cảm thức sâu xa về sự hiện diện của một Đấng trên cao quan phòng yêu thương. Quả thật em được Chúa đáp lời nhưng cách hành động của Ngài không như con người nghĩ tưởng.

Một ngày định mệnh, sáng ngày 10 tháng 10 năm 2003 trên Bộ thực hiện một cuộc tuyển chọn đợt cuối, cuộc đua tiền Sea Games, ai chiến thắng sẽ được vào nhóm chính thức thi đấu. Ôi biết bao áp lực đè nặng trên Tâm, mọi người đều có hậu thuẫn, chỉ một mình em, đơn thương độc mã, đơn thân độc mạng. Cộng thêm mưu đồ của một tên Giuđa nào đó đã bỏ thuốc vào thức ăn khiến Tâm cả sáng hôm đó chỉ biết “đi ngoài”. Em rũ cả người, vắt kiệt sức. Trong sự âu lo, em báo tin tức về để gia đình cầu nguyện thêm. Chỉ có 6 vòng đua vòng đèo Hòa Bình, mỗi vòng 6km, tổng cộng là 36km, nhưng nỗi đam mê chiến thắng dường như rút ngắn khoảng cách trong Tâm. Em đã dẫn trước 5 vòng đầu và chỉ còn 600m nữa là về đích. Bánh xe bị ban, em vắt sức vác bộ nhưng không nổi vì áp lực tâm lý sợ thua cuộc, em đã ngã quỵ và bất tỉnh. Ban tổ chức biết thế nhưng vẫn để cuộc thi diễn ra đến lúc chung cuộc. Quay lại chỗ em ngã thì đã quá trễ. Một lần nữa Chúa không cho em cảm nếm niềm vui chiến thắng của một cuộc thi tầm cỡ quốc tế. Phải chăng Chúa đã tổ chức một buổi phát thưởng trên trời cho kẻ một đời sống và chết vì nỗi đam mê ! Không đoạn đường đua nào mà Tâm không nhớ đến Chúa, những bước xuất phát trong các cuộc thi, em luôn làm dấu Thánh giá. Xin Đấng em tuyên xưng đón nhận em trong tình yêu vô biên của Ngài.

Sau đó em được đưa đến bệnh viện, tại đây cũng không có bình oxy. Chuyển sang một bệnh viện khác, một hồi sau em mới được tiếp oxy. Vài tiếng sau đó, em lên cơn co giật, thả lỏng cơ và trút hơi thở cuối cùng. Điện não và tim đã ngưng hẳn, chỉ còn lồng ngực vẫn phập phồng, dường như nỗi đam mê của em vẫn còn thoi thóp, người thầy thấy vậy hốt hoảng chạy báo cho bác sĩ, bác sĩ cho biết: em đã ra đi. Em đã ra đi trước sự ngậm ngùi của bao người yêu mến.

Có rất nhiều cuộc ra đi, nhưng nghiệt ngã nhất là cuộc ra đi không hẹn ngày về. Nói như linh mục Thiện Cẩm, trong đức tin hẹn nhau trên Nước trời.

Xác em được quàn tại nhà tang bệnh viện Bạch Mai, rồi bằng đường bay, xác em đã nối hai miền đất nước. Về tới Sài Gòn, em lại được quàn tại nhà tang lễ Thành phố với lệnh trên, cử hành tang lễ như một người của nhà nước. Cuối cùng xác em được hiến cho trường Đại học Y Dược thành phố. Đó là ước nguyện của em và của gia đình.

Những dòng suy tư cuối cùng trước khi tạm biệt bạn đọc.

Khi còn sống em đã sống hết mình với nỗi đam mê, đam mê ấy đã giúp em chinh phục những đường đèo, những bánh xe vô hình đã san bằng những con người cao vọng, cúi mình xuống để vái và cầu siêu cho một người bạn đồng nghiệp. Những giọt nước mắt, tiếng nấc của những chàng thanh niên mạnh mẽ chinh phục mọi con dốc, lại có thể rơi xuống thương tiếc một người bạn tập huấn chung. Đó là niềm an ủi cho gia đình và tôi. Và nghĩa cử lớn lao khi em tự hiến thân xác cho trường Y đã là một lời khích lệ cho người tham dự tang lễ. Sống đã phục vụ hết tình và hết mình, và khi nằm xuống, vẫn còn khả năng phục vụ. ( Khát vọng của con người thật lớn lao và vượt biên giới, chúng muốn chinh phục mọi thực tại đời sống, sống vô biên trong cuộc đời hiện tại).

Dường như đam mê này đã làm nên định mệnh đời em. Sống trọn nỗi đam mê này Tâm ung dung ra trước mặt Chúa như hiên ngang bước lên lãnh phần thưởng cho kẻ chiến thắng. Phần thưởng của em giờ đây chính là Chúa, Đấng em tuyên xưng trên các đường đua. Để chuẩn bị tốt nhất cho cuộc hội ngộ chung cuộc, Chúa đã đặt em trong gia đình nghèo, gieo em vào mảnh đất khô cằn để em được lớn lên và vươn mạnh như cây tùng cây bách. Ít ra cuộc đời của em cũng nên bóng mát cho ai  đó một lần giải nhiệt, thêm phấn khởi cho ai đó để sống cuộc đời biết bao cơ hội đang chào đón. Chính lúc thời thế trở nên khắc nghiệt, em xứng đáng là vị anh hùng tạo nên thời thế. Nếu như chúng ta khẳng định một người thành công phải đạt ba chiều kích: thiên thời, địa lợi và nhân hòa, chỉ vì em tin tưởng vào Chúa, Ngài đã làm những việc lớn lao nơi cuộc đời em.

Sau khi em qua đời, cả gia đình ngỡ ngàng vì câu Lời Chúa năm đó đã nên lời hứa và định mệnh cho cuộc đời em. Câu Lời Chúa ấy vẫn còn mới nguyên nằm trong ví chưa được Ngài mặc khải:

“ Người kéo tôi ra chỗ thảnh thơi,

Vì yêu thương tôi nên người giải thoát” (Tv 17,20)

Chỗ thảnh thơi đó là chỗ nào ? Nếu không phải là nơi không còn ganh ghét, đua chen, không còn khóc lóc than van; chỉ còn niềm vui trong bó lúa đã gặt trong những lời kinh sốt mến râm ran khi chiều buồn rửa xe cho đồng bạn. Quả thật, vì yêu thương em nên Người giải thoát. Lời hứa này đã áp dụng cho cuộc đời em từng chữ một.

Sống trong cảnh nghèo, dần dà em ý thức và không còn yêu sách. Đôi khi có việc gì cần, em đã âm thầm bán máu, chính sự sống của mình để tiếp tục sống đam mê. Nhớ lại mỗi buổi phục vụ đám cưới được trả 30.000đ, em muốn đãi cả nhà một món bột chiên đến cả trăm ngàn. Khi đó tôi mới hiểu dụ ngôn Chúa kể về người phụ nữ tìm được nén bạc mà đã mời cả hàng xóm đến chung vui, vị chi có thể cả trăm đồng. Bởi đó niềm vui được chia sẻ là niềm vui đáng trân trọng nhất.

 Phải chăng Tin mừng em đọc được trở nên men muối làm phong phú, gieo rắc niềm vui nơi nào em đến ? Người bạn ngạo ngược của Tâm (tôi đã nói trên) kể rằng: Nhiều hôm Tâm và bạn ấy đọc Tin mừng và chia sẻ với nhau kinh nghiệm sống để đọc ra ý Chúa trong phút hiện tại.

Với thao thức cải thiện đời sống gia đình và muốn mẹ nghỉ bán hàng trong cảnh đua chen, Tâm gọi điện thoại nói với mẹ rằng: “Mẹ ơi! Mẹ nghỉ bán đi con sẽ mang vàng Sea Games về cho mẹ”. Em đã nằm xuống không kịp mang vàng Sea Games về. Và báo chí thời ấy đã đăng lại câu nói này của em khiến các tổ chức cảm thương gởi hiện kim giúp đỡ gia đình. Cho đến ngày nay, gia đình chúng tôi vẫn tri ân những người đã giúp đỡ bằng nhiều cách.

Với những dòng hồi ký trên đây, không khoa trương, không văn vẻ, nhưng như một lời nhắn nhủ với chính bản thân về một tấm gương sống và chết cho một đam mê định mệnh. Một người không thể sống đam mê nếu không hiểu biết chính mình. Chúa đã ban cho chúng ta một số nén bạc nhưng cũng có những kẻ chôn giấu vì nghĩ rằng nó quá ít. Nhưng họ không biết rằng cái bình 1 lít thì đựng đầy một lít, còn cái bình 5 lít thì phải đong đầy 5 lít. Bạn cần khám phá ra chính nén bạc của mình và tìm mọi cách làm cho bình nước đầy tràn, đó là việc hoàn thành định mệnh của mỗi người. Còn chất liệu trong ly ấy thiết nghĩ đó là cách bạn sống đam mê và tình yêu đặt để trong đó.

 

 

KẾT LUẬN

Chúng ta đã cùng đồng hành một chặng đường khá dài với xác tín: Trong mỗi người có một đam mê chủ đạo dẫn ta đến cùng Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta và ban đam mê ấy cho ta. Vấn đề còn lại là mỗi người phải cố gắng khám phá ra và đánh thức đam mê. Bước kế tiếp là bạn phải gọi tên và chỉ mặt chúng cách chính xác. Sau đó mới bước vào cuộc thao luyện. Cuộc thao luyện nào cũng đòi hỏi gian nan thử thách. Đó là chưa nói đến sự giằng co nội tâm vì chọn lựa những giá trị; đôi khi ranh giới của chúng rất mong manh. Sự mong manh ấy không do thực tại tạo nên nhưng do giới hạn sự hiểu biết nơi chúng ta. Bởi đó, chúng ta không tránh khỏi những lần thất bại, vấp ngã. Những sa sẩy ấy là chuyện bình thường mà các thánh cũng đã trải qua, chỉ có khác một điều là các ngài khiêm tốn dựa vào ơn Chúa mà vực dậy sau những bầm dập của cuộc thao luyện này; đồng thời, các ngài hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn.

Giờ đây, bạn có thể nói về đam mê của mình mà không sợ dẫn đến sự thác loạn. Đam mê là phẩm chất hiện hữu của bạn, vì nhờ nó mà bạn được tách ra khỏi đám đông. Điều này không có nghĩa bạn sống dị biệt và tách biệt với mọi người, nhưng nhờ sống đam mê, bạn định hình cho mình một cách thức hiện hữu độc đáo mà khi nói về bạn, họ nghĩ ngay đến đam mê của bạn. Bạn đam mê nên bạn hiện hữu. Bạn đam mê nên bạn độc đáo và duy nhất, không lẫn lộn và không thay thế.

Ngoài ra, đam mê là một thứ ngôn ngữ không lời, nói cách khác, nó là tiền ngôn ngữ. Vì nó được diễn tả bằng toàn bộ năng lực bản thân. Khi ấy, bạn là một nghệ sĩ không phải theo chủ nghĩa lãng mạn, mơ tưởng nhưng sống sáng tạo và hết mình, ngạc nhiên và thán phục mọi vẻ đẹp quanh bạn. Điều kỳ diệu là bạn sống cho chính mình nhưng không vì mình. Có thế, đam mê của bạn mới lành mạnh và chính đáng. Đam mê ấy hướng về một đối tượng duy nhất đồng thời lại mở ra với mọi chiều kích cuộc sống. Sự mâu thuẫn và giằng co ấy khiến bạn phải đổ máu, cái giá phải trả cho một cuộc đam mê Tình Yêu. Nếu như Chúa Giêsu đã đam mê bạn, đổ máu ra chết cho bạn để thể hiện tình yêu lớn nhất đối với bạn, cảm nghiệm được những điều ấy, chắc hẳn bạn chẳng tiếc sự gì đối với Ngài ! Bạn có thể hướng thẳng về Ngài để hội tụ cả tạo thành trong mình. Đó là điều các thánh đã làm.

Bạn có thể sống đam mê một cách liều lĩnh và táo bạo, vì nó đòi hỏi bạn bứng mình ra khỏi sự an toàn cá nhân. Sự đơn điệu làm bạn chán ngán ư ! Nhưng đam mê sẽ là chất liệu “ướp vào”, “nhập thể” trong từng hành vi tác phong của bạn; trông có vẻ tự nhiên song hết sức siêu nhiên.

Tưởng cũng cần nhắc lại, “nên hoàn thiện” không được hiểu theo mẫu người cầu toàn chỉ tìm sự tròn đầy và hoàn hảo trong thực tại đời sống. Trái lại, hoàn thiện trong đam mê luôn hàm chứa mọi gai góc và bất toàn. Gai góc vì cuộc sống không hoàn toàn như mình mong muốn và bất toàn vì bạn luôn chạm trán với những vấn đề mới.

Hoàn thiện được hiểu ở đây là hôm nay hơn hôm qua. Hôm qua sa sẩy trượt chân, hôm nay kinh nghiệm vượt qua. Thực tế cuộc sống cho thấy, bước được một bước, có khi lại trượt lùi hai bước. Đó là chuyện bình thường trong kiếp nhân sinh. Cho dù mất cả chì lẫn chài thì bạn vẫn còn một khối đam mê đang trào tràn trong hơi thở, huyết mạch và cả con người bạn. Đam mê bất chấp thất bại, vượt qua mọi trở ngại, quyết tiến. Thông thường, người ta dễ thất vọng vì nhìn vào những bước tiến của người khác. Bạn cần trở về với lòng mình, lượng định năng lực bản thân mà tiến. Nếu Chúa gởi đến cho người khác chiếc môtô để tiến về Nước Trời mà chỉ cho bạn chiếc xe đạp thì cớ gì bạn phải thất vọng. Chúa đâu đòi bạn phải chạy bằng tốc độ với người khác, song muốn bạn chạy hết con đường của riêng mình. Chúa sẽ cho bạn đủ thời gian để thực hiện tiến trình này.

Và cuối cùng, bạn chỉ thực sự sống đam mê để nên hoàn thiện khi đã xác tín đủ những bậc thang giá trị giúp hình thành đời sống bạn. Những xác tín ấy không được bạn phát biểu trên diễn đàn đâu ! Nhưng nó thể hiện rõ ràng trong những chọn lựa cụ thể trong suốt đời bạn. Những giá trị tinh thần ấy có thể núp né hay nguỵ trang cách nào đi nữa nhưng trong ánh sáng đức tin mọi sự sẽ được hiển hiện. Điều này người viết đã cố gắng nêu bật phần nào trong mục Những chứng nhân đam mê. Trong phần trên, tôi chỉ đề cập những người đã khuất, nghĩa là cách nào đó họ đã đạt đến Đam mê Chung cuộc. Còn xét theo nghĩa rộng thì mỗi chúng ta là một chứng nhân sống động. Đam mê của chúng ta còn bấp bênh nhưng hy vọng chắc chắn đến bến bình an; miễn là chúng ta phải bám vào Chúa. Chắc hẳn, Ngài không hiện ra tỏ tường, nhưng qua tha nhân hay các biến cố; không những thế, Ngài nói trong chính những khát vọng sâu kín của lòng ta. Những Danh, Lợi và Thú là những mặt trận chiến đấu, nơi đó, là cơ hội giúp bạn sống thật với chính mình. Cuộc chiến nội tâm luôn cần thiết cho những ai thao thức sống đời tâm linh và lấy Chúa làm niềm vui thoả.

 Lời cuối cùng xin gởi đến bạn:

Bạn đam mê nên bạn hiện hữu.

Bạn đam mê nên bạn hoàn thiện.

Hãy cho phép bản thân bạn được trở thành một con người đầy đam mê.

 

 

PHẦN PHỤ TRƯƠNG

THIÊN CHÚA CÓ ĐAM MÊ ?

Tôi xin mạo muội đưa ra một vài suy tư dựa trên dụ ngôn Người Cha nhân hậu của Tin Mừng thánh Luca 15,11-32 theo nhãn quan tâm lý học. Tất nhiên, điều này giả thiết những quy tắc nền tảng thần học Kinh Thánh phải được tuân thủ. Chẳng hạn, dụ ngôn này Chúa Giêsu kể nhằm mặc khải tình yêu Chúa Cha và qua nhân vật người cha, Người muốn phác hoạ chân dung của một vị Thiên Chúa Tình Yêu.

Chúng ta thấy nơi “người Cha”, có một “không gian” huyền nhiệm. Nhưng xem ra nó lại là bóng tối đối với hai người con. Đó có thể là lý do tại sao người con thứ muốn ra khỏi nhà và người con cả ở nhà lại không muốn vào đó. Có một bí ẩn mà người Cha chưa muốn mặc khải, nên sự thân tình của Cha đôi khi như một sự xúc phạm nặng nề đối với các con. Khi người Cha biết những nguy hiểm bủa vây con mình, ông đã ra lệnh cấm đoán các con: không được làm điều này hay phải làm điều kia; nhưng vì thiếu hiểu biết về tình thương của Cha, họ coi đây là một loại mệnh lệnh áp chế, tạo sức ép nặng nề trong cuộc sống của họ. Người Cha lại một lần nữa tự huỷ mình đi, để cho con được lớn lên: hạ mình xuống rửa chân cho con như một kẻ tôi tớ. Điều này lại cướp đi trong người con hình ảnh lý tưởng về một người Cha mạnh mẽ, uy quyền. Từ những hình ảnh méo mó về người Cha, nên người con thứ quyết định ra đi, ra khỏi thế giới của người Cha. Nó nghĩ rằng, tôi chỉ lớn lên và trưởng thành khi thoát khỏi sự kiềm toả của Cha. Như thế, sự bao bọc yêu thương của người Cha nên cớ vấp phạm cho những người con. Từ đây, nỗi đam mê đồng nhất hoá nơi người Cha, lý tưởng “nên một” này, giao ước tình yêu đã bị một bên khước từ.

Người con thứ xin điều gì ? Thánh Luca rất tinh tế khi cân nhắc sử dụng ngôn từ, ngài viết: xin cho con phần của riêng mình, nghĩa là thoát ra khỏi thế giới của Cha. Quả thật, người Cha đã cho nó sự sống, sự hữu và không hề có ý định rút lại. Người Cha thừa biết đây là sai lầm, ảo tưởng nơi người con. Nhưng ông đã cho nó chính sự tự do ra khỏi thế giới phong nhiêu của mình. Mặc dù, theo pháp lý, di chúc chỉ có hiệu quả và được thực hiện khi người viết qua đời, nhưng tình yêu có lý lẽ của nó; người Cha chấp nhận xoá mình đi, coi mình như đã chết để người con được quyền tự do sở hữu tài sản. Từ đây, người con quyết định ra đi, thoát khỏi vòng tay bao bọc của Cha. Nó tưởng rằng mình sẽ được thong dong tự tại, nhưng thật bất hạnh khi nó quyết định ra khỏi Tình yêu. Chỉ khi sống trong cảnh lạnh lùng người ta mới hối tiếc là đã đánh mất tình yêu. Bởi vậy, người Cha biết chắc một ngày con mình sẽ quay về. Điều này giải thích lý do vì sao ông không cho người đi tìm cậu dù đã trải qua một thời gian dài. Sự chờ đợi của người Cha diễn tả một nỗi đam mê tin chắc một ngày sẽ được đoàn tụ, một ngày sẽ “nên một”. Đối nghịch lại tâm tình đó của người Cha, thánh sử ghi: “Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa”. Có thể coi đây là một sự dứt khoát triệt để ra khỏi nhà cha, ra khỏi thế giới Tình Yêu.

Anh ra đi để sống nỗi đam mê của một người mất định hướng, chỉ biết sống thoả mãn bản thân. Niềm vui và khoái lạc của đam mê này chỉ được mua bằng tiền, nên hết tiền đồng nghĩa với đau khổ và thất vọng. Thánh sử ghi nhận: “Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình”. Tiền mất tật mang; lang thang chết đói; cuốn gói tìm về là thế ! Hậu quả từ một cuộc sống đam mê của kẻ vô tín. Mất đi sự tin tưởng và tương quan với người Cha, những cuộc gặp gỡ kia chỉ là lợi dụng và qua đường. Thật vậy, phẩm vị của con người tự tách ra khỏi Thiên Chúa thì không thực sự hiện hữu với tư cách người con và con người nữa, nó chỉ như một con vật, một con heo chỉ biết ăn đậu muồng. Thay vì lấy Thiên Chúa là điểm qui chiếu cho cuộc sống đam mê, anh lại si mê chính mình hay một tạo vật khác. Anh quên rằng mình là hình ảnh của người Cha, chính vì điều này mà anh đáng được tôn trọng. Nơi anh đã mất đi lòng tự trọng nói gì đến cuộc sống xứng với nhân phẩm, vì ngay đậu muồng cho heo anh cũng lấy ăn cho no bụng mà cũng không được. Một con heo lắm khi nuôi đàng hoàng lại trị giá hơn anh ? Quả thật, anh đang sống trong một thế giới vật chất bị đảo lộn các bậc thang giá trị.

Tại sao người cha thừa biết đứa con sẽ sống bất hạnh khi rời xa thế giới Tình Yêu mà lại không ngăn cản chúng ? Người Cha có một phần trách nhiệm trong nỗi khốn khổ này. Đây chính là vấn đề trách nhiệm của Thiên Chúa trong huyền nhiệm sự dữ. Chúa ở đâu khi sự dữ hoành hành trong nhân loại?

Chúa đã cho con người hiện hữu với sự tự do chọn sống trong nhà Chúa, thế giới của Tình Yêu. Đi đến đâu họ cũng được Lời Chúa hướng dẫn như những cử chỉ chăm sóc yêu thương.

Đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét,

Mọi nẻo đường con đi Ngài quen thuộc cả…

Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước

Bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con…

Dù chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện

Đến ở nơi chân trời góc biển phương tây

Tại đó cũng tay Ngài đưa dẫn

Cánh tay hùng mạnh giữ lấy con” (Tv 138, 3.5.9-10)

Nhưng con người vẫn thờ ơ. Tình yêu đã đến nhà mà người nhà không chịu tiếp đón và cuối cùng giết Chúa và giết chết tình yêu trong mình. Đó là thảm trạng của một đời sống vắng bóng Thiên Chúa của những kẻ vô thần.

Có một người mẹ rất yêu thương con: xin gì mẹ cũng cho, nhưng bảo con thế nào nó cũng không nghe. Biết cho tiền thì con chơi bời hư hỏng nhưng không còn cách nào khác. Mỗi lúc con đi chơi với chúng bạn ở đâu, là ở đó có sự hiện diện của người mẹ. Sự hiện diện đó có thể là nỗi tủi nhục của người con và nên cớ cho bạn bè bêu diếu. Người mẹ ấy chấp nhận cái giá phải trả, nhất là sự ruồng rẫy của người con. Nhưng thiện chí ấy đã được đền bù, người con ấy suy nghĩ lại, quyết tâm làm lại bằng cuộc sống mới.

Tại sao người cha không đi tìm đứa con hoang đàng ?

Một người cha quyền năng và yêu thương lại chọn tư thế ngồi chờ đợi một cách thụ động. Thế mà người đời nói rằng người cha đi bước trước trong tình yêu. Đúng ra nỗi đam mê đồng nhất hóa (nên một) phải thúc đẩy Ngài đi tìm con chiên lạc chứ! Ngài đã ban cho nó sự tự do chọn sống bên Ngài. Ngài cũng cho nó toàn quyền chọn sống nỗi đam mê riêng. Nhưng nó đã khước từ Ngài. Đó là sự bất lực của một người cha. Song, Thiên Chúa còn mạnh mẽ hơn sự mạnh mẽ của con người, nghĩa là Ngài có thể vẽ đường thẳng từ những đường cong.

Chúng ta không thể tìm ra lý lẽ của một con tim đang yêu và đang đam mê. Chỉ biết rằng người Cha đã chọn phần tốt nhất. Trong khi kẻ hoang đàng chỉ muốn trở về với 1 lý do đơn giản được thỏa mãn cái bụng nhưng người cha lại có chương trình riêng. Quả thật, “cậy nhờ thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời”. Khi thế giới vô thần tẩy chay nó, nó mới ý thức rằng tôi còn một người Cha. Nó đâu biết rằng người Cha không chỉ giết bê béo để ăn mừng nhưng còn phục hồi nhân phẩm, tước vị làm con Cha. Áo mới, nhẫn mới... đã sắm sẵn để đấy, không một người làm công nào được dùng, nó được giành riêng cho những “người con”.

Sau cùng, sự xuất hiện của người anh cả là đại diện cho những người không chối bỏ Thiên Chúa hoàn toàn nhưng sống theo lề luật Chúa truyền. Thật vậy, anh sống bên Cha mà không hiểu được Cha. Chúng ta thử hỏi: có bao giờ anh thực sự xin cha một con dê con hay một đặc ân nào chăng? Anh có lòng ước ao nhưng chưa bao giờ thổ lộ bằng lời. Mặc dù Thiên Chúa thấu biết mọi lời ta định nói nhưng Chúa muốn ta cầu nguyện và cầu xin. Một thái độ cởi mở là tác động đầu tiên của lời nguyện xin, điều này người anh cả không thực hiện: Sống bên Cha mà không có một tương quan gần gũi. Vì rõ ràng người Cha nói: “Tất cả những gì của Cha đều là của con”. Thế mà anh tự nghĩ rằng người Cha không cho lấy một con bê con.

Nơi anh có một sự áp đặt tư tưởng. Có nhiều lý do để giải thích xu hướng này. Trước tiên, có thể là do một thành kiến định sẵn. Kế đến có thể là sự mặc cảm hay tự tôn cá  nhân. Và yếu tố quan trọng nhất là chủ trương cá nhân. Dường như nơi anh có một nỗi đam mê tìm về bản thân. Anh lấy mình là thước đo chuẩn mực tâm tính suy xét người khác, kể cả Cha mình. Trong thâm tâm anh muốn có một con dê làm đầu câu chuyện và ăn mừng với bạn bè. Nhưng chưa bao giờ có, vì anh chỉ ước muốn suông. Đây là mẫu người hoang tưởng, thiếu thực tế. Anh nghĩ rằng việc anh chẳng khi nào trái lệnh cha đã là một sự hoàn hảo. Anh có thể là một người qui tắc nghiêm nhặt nhưng chưa bao giờ thực sự hiểu người Cha. Người Cha không muốn anh bó mình lại như một kẻ mất tự do hay nô lệ cho qui tắc trống rỗng và vô hồn.

Yếu điểm của người lấy mình làm trọng tâm là không chấp nhận ai hơn mình. Khi anh nói đến một con dê con để đối nghịch với một con bê béo cha đãi tiệc ăn mừng, thì anh tự đặt mình trong thế đối nghịch với mọi thực tại xung quanh. Một sự ấu trĩ như thế là dấu hiệu của sự ngưng đọng nhân cách.

Thánh Luca thật tinh ý khi dùng những lời lẽ đầu tiên để mô tả người anh cả: đang ở ngoài đồng về. Anh đã tìm vui trong lao nhọc, đúng hơn đây là một tình trạng chạy trốn thực tại. Với tư cách là con cả, và người cha thì đã già, anh phải quán xuyến và cáng đáng mọi sinh hoạt trong gia đình. Làm người ai chẳng mưu tìm quyền lợi, còn anh với ưu thế của người con ông chủ với biết bao người làm công, lại từ khước. Đó là biểu hiện của một sự mặc cảm tự ti.

Cũng chính thái độ mặc cảm tự ti đó, khiến anh lên án người em hoang đàng và xếp em mình đồng hàng với bọn đĩ điếm. Trong khi người Cha giải thích và muốn anh vào dự tiệc vui với em mình như một cách tái lập lại tình anh em. Điều đó, anh không những khước từ mà còn quay lại lên án chính cả Cha mình. Anh coi Cha như một người hà khắc và hình ảnh “con dê con” là bằng chứng cụ thể.

Anh đã lên án Cha mình. Anh kết án Thiên Chúa của anh, một Đấng hà khắc “gặt nơi không gieo, thu nơi không vãi”. Vì thế, căn nhà nơi anh đang ở, Giáo hội nơi anh đang sống là một không gian ngột ngạt mà anh đã được sinh ra và đang sống cách miễn cưỡng. Với một tâm thức như thế, anh ra khỏi nhà là một thực tế dễ hiểu. Anh khước từ quyền làm con để coi sóc những kẻ làm công. Anh khước từ chính niềm vui của người Cha mở tiệc ăn mừng. Dường như niềm vui của người khác lại là hoả ngục đối với anh. Nhưng anh đã tự nguyện sống trong tình trạng ấy. Thế chúng ta mới hiểu một Thiên Chúa đam mê và bất lực. Thiên Chúa đam mê con người song, nó lại dùng tự do khước từ tình yêu Chúa. Balthasar nói đúng: có người nào trong hoả ngục là dấu chứng về sự thất bại của Thiên Chúa. Ngài có thể biến những hòn đá thành những con cháu công chính của Tổ phụ Abraham nhưng không làm, vì Ngài không muốn xúc phạm đến tự do của bạn. Thiên Chúa đã ban cho bạn tự do khả dĩ yêu mến và sống kết hợp với Ngài. Thiên Chúa đã ban nghĩa là không bao giờ Ngài rút lại; và nếu Ngài có rút bớt nén bạc của bạn mà trao cho người khác thì cũng là muốn đặt bạn trong tương quan với tha nhân. Niềm vui của tha nhân sẽ là niềm vui của bạn. Niềm vui của người em cũng là niềm vui của người anh. Nếu người em đã mất nay lại tìm thấy thì người anh cũng phải “chết” để mai này sống lại trong niềm vui nên một.

Bởi vậy, anh xuất hiện sau cuộc trở về của người em, nghĩa là anh cũng sẽ ra đi và trở về sau đó. Anh cần thực hiện một cuộc trở về với cha và với em. Thánh Luca không cho biết sự gì sau đó nữa, nhưng chúng ta cũng hiểu, việc ngoài đồng của anh cũng đã thấm mệt, anh không cần ăn, anh cần nghĩ ngơi. Anh sẽ đi cổng sau để về phòng riêng, gặm nhấm với con dê của mình và chờ một ngày ăn mừng với chúng bạn. Hy vọng lúc anh “trở về”, con dê ấy đã được vỗ béo.

Còn người cha, sau một ngày chung vui với con thứ và đồng cảm với con cả, ngài cũng cần một cuộc trở về. Biển đã nhường cho đất phù sa một thời gian, nay đã chan hòa tạo thành một khối duy nhất. Thế là đam mê đồng nhất hóa thực sự thành hình, khi tự do của Thiên Chúa và tự do của con người NÊN MỘT.

 

 

 

 

 

 

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU. 2

DẪN NHẬP. 3

I. ĐAM MÊ. 7

1.KHÁI NIỆM. 8

2.MỘT VÀI QUAN NIỆM VỀ ĐAM MÊ. 9

2.1.ĐAM MÊ THEO QUAN ĐIỂM TÂM LÝ HỌC. 9

2.2. ĐAM MÊ THEO QUAN ĐIỂM LUÂN LÝ VÀ ĐẠO ĐỨC CỦA KITÔ GIÁO. 13

II.GIÁ TRỊ CỦA ĐAM MÊ. 16

1.CUỘC PHIÊU LƯU. 16

2.CUỘC CHINH PHỤC. 17

3.SỐNG THẬT VỚI CHÍNH MÌNH. 17

III.NHỮNG MÊ LẦM TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI 18

1.DANH. 18

2.LỢI 19

3.THÚ. 21

IV. ĐAM MÊ VÀ CÁC BẬC THANG GIÁ TRỊ 22

1.ĐAM MÊ GIÚP HOÀN THÀNH ĐỊNH MỆNH. 22

2.ĐAM MÊ và CÁC GIÁ TRỊ CHUNG. 25

3.SỰ SỐNG. 26

4.GIỚI TÍNH. 28

5.CHÂN LÝ. 29

6.SỰ THIỆN. 32

7.VẺ ĐẸP. 34

8.NHÂN CÁCH. 35

9. THỬ THÁCH. 38

10.Ý NGHĨA CUỘC SỐNG. 39

11.ĐỜI SỐNG TÂM LINH. 41

V.CÁC CHỨNG NHÂN CỦA ĐAM MÊ: 42

1. ĐỨC GIÊSU. 42

2.NHỮNG GƯƠNG MẶT ĐIỂN HÌNH. 45

2.1. ÔNG BÀ NGUYÊN TỔ. 45

2.2. THÁNH PHAOLÔ. 47

2.3. THÁNH AUGUSTINÔ. 48

2.4. THÁNH PHANXICÔ ASSISI. 50

2.5. THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU. 53

2.6. CHÂN PHƯỚC TÊRÊSA  CALCUTTA. 55

3.NHỮNG NGƯỜI ĐÃ HOÀN TẤT CUỘC SỐNG ĐAM MÊ. 57

3.1. ĐỨC HỒNG Y PHANXICÔ XAVIÊ NGUYỄN VĂN THUẬN. 57

3.2. NHẠC SĨ TRỊNH CÔNG SƠN. 58

3.3.VẬN ĐỘNG VIÊN ĐỖ XUÂN TÂM.. 61

KẾT LUẬN. 64

PHẦN PHỤ TRƯƠNG. 65

THIÊN CHÚA CÓ ĐAM MÊ ?. 65

 

 

 

 

Tải xuống tệp đính kèm gốc

 

 



[1] Lê Thành Trị, Hiện tượng luận về hiện sinh, tr.128.

[2]X.http://vi.wikipedia.org/wiki.

[3]X.http://www.iqtest.vn/content.

[4] Virender Kapoor, PQ - Chỉ số đam mê, tr. 23.

[5] 5 tầng trong Tháp nhu cầu của Maslow:

  • Tầng thứ nhất: Các nhu cầu về căn bản nhất thuộc "thể lý" (physiological) - thức ăn, nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi.
  • Tầng thứ hai: Nhu cầu an toàn (safety) - cần có cảm giác yên tâm về an toàn thân thể, việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo.
  • Tầng thứ ba: Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc (love/belonging) - muốn được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn có gia đình yên ấm, bạn bè thân hữu tin cậy.
  • Tầng thứ tư: Nhu cầu được quý trọng, kính mến (esteem) - cần có cảm giác được tôn trọng, kinh mến, được tin tưởng.

·         Tầng thứ năm: Nhu cầu về tự thể hiện bản thân (self-actualization) - muốn sáng tạo, được thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, trình diễn mình, có được và được công nhận là thành đạt; nói cách khác, hoàn thiện bản thân.

 

[6] Nếu có, sự sa đoạ chỉ gắn liền với một giai đoạn nào trong cuộc sống của các thánh mà nhờ lòng sám hối, các ngài đã được chữa lành. Chẳng hạn, trường hợp của thánh Augustinô, ngài đã tìm thoả mãn trong đam mê xác thịt, đến nỗi phải lấy vợ sớm để tránh tội dâm dục.

[7] GLHTCG số 1764.

[8] Đức Benedicto XVI, Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, số 10.

[9] Mahatma Gandhi (1869-1948): Anh hùng dân tộc Ấn, người đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Đế Quốc Anh giành độc lập cho dân tộc.

[10] Ngô Minh & Nguyễn Thế Minh, Từ vựng Triết-Thần căn bản Pháp-Việt.

[11] Nhóm Phiên dịch, Từ điển Thần học Tín lý Anh-Việt.

[12] Trần Bích Lan, Tâm Lý học, tr.90.

[13] X. Sđd, tr.91.

[14] X. Sđd, tr.91.    

[15] X. Sđd, tr.91.

[16] X. Võ Doãn Nhẫn, Tâm lý học 12 A-C, tr. 27.

[17] Trần  Bích Lan, Tâm Lý học, tr.94.

[18] Sđd, tr.94.

[19] Vĩnh Đễ và ctg, Tâm Lý học, tr. 140.

[20][20] X. Võ Doãn Nhẫn, Sđd, tr.28.

[21] Ở đây, chúng ta chỉ xét đến tác động của tính ngoại tại. Thực tế cho thấy, một số người với ý chí mạnh mẽ đã vượt qua những yếu tố này để thăng hoa những đam mê như trường hợp của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đam mê Cách Mạng.

[22] Khi Kant khẳng định điều này, phải hiểu là sự khác biệt ở mức độ của đam mê hơn là đối tượng của đam mê.

[23] X. Phan Tấn Thành, Đạo Kười, tr.146.

[24] X. Trần Bích Lan, Sđd, tr.95.

[25] X.Vĩnh Đễ và ctg, Tâm Lý học, tr.142.

[26] GLHTCG, số 1763

[27] GLHTCG, số 1764.

[28] GLHTCG, số 1769.

[29] Xem phần CÁC CHỨNG NHÂN CỦA ĐAM MÊ.

[30] Đức Benedicto XVI, Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, số 10.

[31] Karl H. Peschke, Thần Học Luân Lý, tr.91.

[32] X. Sđd, tr. 92-93.

[33] http://khatvongtuoitre.com: Câu chuyện của Chữ Bích Phượng ( cô nói: “ Không được học ngành mình yêu thích thì khổ cả đời” - Tuổi trẻ 30-07) trở thành một hiện tượng khi dám từ bỏ hai trường đại học danh giá là Y Hà nội và Ngoại thương để thi lại và đậu thủ khoa Đại học Nông nghiệp ngành công nghệ sinh học. Cô dám từ bỏ những gì mình đang có để đi cùng đam mê của mình.

[35] Johann Wolfgang Von Goethe (1749-1832) đã viết:

Mất ngày hôm nay lang thang - mọi việc vẫn là câu chuyện cũ

Ngày mai và ngày sau vẫn chậm chạp;

Mỗi lần thiếu quả quyết sẽ gây thêm trì hoãn,

Và tháng ngày lại trôi qua để than vãn về những ngày đã mất.

Bạn có nghiêm túc không ? Hãy giữ lấy giây phút này –

Sự can đảm có cảm hứng, sức mạnh và bí ẩn bên trong.

Chỉ khi tìm tòi và cảm thấy hứng khởi –

Hãy bắt đầu rồi mọi việc sẽ hoàn thành (Wayne W.Dyer, Minh triết xưa và nay,tr.108)

[36]  Beethoven, nhà soạn nhạc đại tài người Đức, vào những năm cuối đời, đôi tai của ngài như điếc hẳn và cơ thể ngài bị nhiễm chì rất nặng. Ngoài ra, nhiều tài liệu nghiên cứu cho rằng ngài bị giang mai bẩm sinh. Nhưng ngài vẫn sống đam mê soạn nhạc, đã để cho hậu thế nhiều tuyệt tác là các Bản Giao hưởng. 

[37] Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng.

[38] Vĩnh Đễ và ctg, Tâm Lý học, tr.144.

[39] Viktor E. Frankl, Đi tìm lẽ sống, tr.7.

[40] R. Tagore, Người làm vườn, số 52.

[41] X. Đức Bênêdictô XVI, Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, số 4.

[42] Thánh Augustinô, Tự Thuật,Q X, XX, XIV, 51.

[43] Tu luật thánh Augustinô số 8,9.

[44] Gibran, Ngôn sứ, Nguyễn Ước dịch, Nxb Phương Đông, tr.104.

[45] X. Thiện Cẩm, Niềm tin Thao thức, tr. 187.

[46] X. Philomina Agudo, Ta đã chọn con, tr. 98.

[47] ĐGM Nguyễn Thái Hợp, Chút này làm tin, tr.91-92.

 

[48] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp về Sự Sống, số 39.

[49] Sđd, số 34.

[50] Karl H. Peschke, Thần Học Luân Lý dưới ánh sáng công đồng Vatican II, tập 2,tr.230.

[51] Bà Đỗ Thùy Dương, Giám đốc công ty cổ phần Hội tụ nhân tài (Talent pool)  cho rằng: “Có lẽ là do chúng tôi cũng sống dựa nhiều vào tình cảm. Và nếu được hỏi đánh đổi giữa tạo ra một doanh nghiệp vĩ đại hay tạo ra một văn hóa tình cảm và nương tựa, tôi và nhiều phụ nữ vẫn xin chọn con đường thứ hai”. Http://news.zing.vn//CEO-nu-Viet-Nam-thanh-cong-nho-tin-vao-truc-giac-post410378.html#redirected

 

[52] X. Millball Demad, Tâm lý mục vụ thực hành, tr.220-225.

[53] Đức Bênêdictô XVI, Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, Số 8.

[54] X. Sđd, số 9.

[55] Sđd, số 10.

[56] Roberto Assagioli, Sự phát triển siêu cá nhân, tr.383-384.

[57] X. Marc Donzé, Tư tưởng Thần Học của Maurice Zundel, người dịch Nguyễn Thị Chung, tr.87.

[58] Mặc dù, ý hướng ban đầu của tác giả muốn nói về tình trạng biến dịch, nhưng người viết mượn tư tưởng này để diễn tả sự ngạc nhiên khi tiếp xúc với thực tại.

[59] Marc Donzé, Sđd, tr.94.

[60] Marc Donzé, Sđd, tr. 99-100.

[61] Phải chăng thở than cũng là niềm bí ẩn của con người… hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như hoa… tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi lòng của tên tuyệt vọng” (bài viết “Tin vào niềm tuyệt vọng”).

[62] Phạm Quang Trung, Danh vọng cần hay không cần? http://www.pqtrung.com/ly-luan-van-chuong/ly-luan-van-chuong-hien-dhai/danh-vng-cn-hay-khng-cn.

[63] Đó là đang giờ chơi hôm ấy, chị coi cổng đánh hai tiếng chông, tức là phải mở cổng lớn dành cho công nhân để chở các cây vào làm hang đá. Giờ chơi buồn tẻ... và con nghĩ bụng sẽ rất vui nếu người ta kêu con đi phục vụ... Đúng lúc ấy Mẹ phó bảo con hoặc sơ đang ở gần con đi giúp, thế là con cởi bỏ tạp dề ra, nhưng rất từ từ để sơ bạn có thể cởi xong trước con, vì con muốn nhường cho sơ ấy niềm vui được phục vụ. Sơ quản lý nhìn chúng con và thấy con đứng dậy sau, sơ liền bảo: "Ồ! Chị biết mà, em không thể nào chiếm được viên ngọc cho vương miện của em, em chậm chạp quá. Trích lại Truyện Một tâm hồn, tr.444-445.

[64] Trên chuyến xe lửa từ Paris xuống miền nam nước Pháp. Hành khách đông nghẹt, ồn ào, kẻ lên người xuống, hàng hóa ngổn ngang. 1 chàng sinh viên khoa học đang cố gắng len lỏi tìm chỗ ngồi. Bất giác chàng thấy 1 Ông cụ già đang ngồi lâm râm lần hạt Mân Côi. Chàng liền đến ngồi bên Cụ, thực chất là để xem Ông Cụ già lẩm cẩm này làm cái gì, thời buổi văn minh bây giờ mà còn ngồi đọc mấy cái kinh nhảm nhí.
Chàng mở to tờ bào khoa học có đăng hình nhà bác học Louis Pasteur, đang nghiên cứu về 1 đề tài bàn luận về vi trùng học. Anh vội chạy lại vỗ vai Ông Cụ, và nói: Bác có cần sách báo gì để đọc, cho cháu địa chỉ, cháu sẵn sàng gửi đến cho Bác. Thời nay văn minh rồi, ai còn tụng niệm như Bác nữa. Ông Cụ gật đầu, đọc hết kinh kính mừng, Cụ mở ví ra, rút 1 tấm danh thiếp đưa cho chàng sinh viên. Chàng cầm tấm danh thiếp và đọc: “ Bác Học Louis Pasteur, Giám Đốc Viện nghiên cứu vi trùng học quốc tế, Giáo sư chuyên khoa Đại Học hoá học và sinh vật học.” Chàng sinh viên bật ngửa, kêu to lên: thì ra đây là 1 vị đại Giáo sư mà mình đang là học trò của Ông. Chàng liền so sánh hình chụp trong
tờ báo khoa học, và hình ông Cụ nhà quê đang ngồi lần chuỗi Mân Côi, thì giống y chang. Chàng liền quỳ xuống bên cạnh Ông Cụ, xin lỗi, và cúi hôn chuỗi hạt Mân Côi mà Cụ đang cầm trong tay. Http://giacmongbinhyen.blogspot.com/2013/10/chuoi-hat-man-coi-voi-nha-bac-hoc-louis.html.

[65] Adrian Van Kaam, Nhân cách tôn giáo, Dịch giả Ngô Văn Vững, tr.8.

[66] Pierre Teilhard de Chardin, Thánh lễ trên địa cầu, chuyển ngữ Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt và lm Nguyễn Văn Diễm, Nxb Tôn Giáo, tr 19.

[67] X. GLHTCG số 1703.

[68] ĐTC Bênêdictô XVI, Đức tin Kitô giáo hôm qua và hôm nay, Nxb Tôn giáo, tr.73.

[69] Sđd, tr. 79.

[70] Sđd, tr. 79.

[71] Sđd, tr. 80.

[72] Phan Tấn Thành, Đời sống tâm linh, cuốn 1, tr.74.

[73] GLHTCG, số 397.

[74] GLHTCG, số 396.

[75] X.Thánh Augustino, Tự Thuật, QI, XIX, 30.

[76] Sđd, QX, XXXVII, 60.

[77] Sđd, Q X, XXXVII, 62.

[78] Sđd, Q IX, II, 4.

[79] Sđd, Q IX, IV, 12.

[80] Sđd, Q II,II.

[81] Sđd, Q II, III,7.

[82] Sđd, Q X, XXX, 4.

[83] Sđd, Q X, XXXIV, 50.

[84] Sđd, Q X, XXX, 42.

[85] Sđd, Q X, XLI, 66.

[86] X. Nguyệt san Công giáo và dân tộc, số 58.

[87] X. ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Những người lữ hành trên đường Hy vọng, tr.44.

[88] Truyện Một tâm hồn, tr.444-445.

[89] ĐHY Phanxicô Xaviê, Chứng nhân Hy vọng, tr.26.

[90] ĐHY Phanxicô Xaviê, Sđd, tr.93-94.

[91] ĐHY Phanxicô Xaviê, Sđd, tr.93.

[92] ĐHY Phanxicô Xaviê, Sđd, tr.68.

[93] ĐHY Phanxicô Xaviê, Sđd, tr.84-85.

[94] Trịnh Cung, Bi kịch Trịnh Công Sơn, Http://www.trinh-cong-son/trcung.html.