EYMARD
An Mai Đỗ O.Cist.
SỐNG
ĐAM MÊ
giúp
nên hoàn thiện
Hành trình từ nhân bản
đến tâm linh
NHÀ
XUẤT BẢN TÔN GIÁO
2013
Cuốn
sách bạn đang cầm trên tay được hình thành từ một ngẫu nhiên hết sức thú vị.
Trong khi tra cứu thuật ngữ Passion:
cuộc thương khó của Chúa Giêsu, tôi lại thấy chúng có một nghĩa khác là Đam mê. Sự trùng hợp này đã tạo nơi tâm
trí tôi một sự chú tâm và ý thức lớn lao về chủ đề này. Sau đó tôi càng xác tín
hơn về định hướng của mình khi tham dự các tiết học về môn Tâm Lý học do linh mục
Nguyễn Đình Vịnh OFM, tiến sĩ tâm lý trị liệu, giảng dạy tại học viên. Trong dịp
đó, chúng tôi thuyết trình về chủ đề Đam mê mà đã được ngài đánh giá cao. Thời
gian sau, tôi tiếp tục được tham dự những buổi nói chuyện về Nhân cách do nữ tu
Trần Thị Giồng CND, cũng là tiến sĩ Tâm lý trị liệu với nhiều năm kinh nghiệm
trong việc giảng dạy và trị liệu. Từ đó, tôi đã quyết định tiếp tục theo đuổi đề
tài này và tìm cách tiếp cận dưới nhãn quan Nhân cách. Nhưng người viết sẽ mở rộng theo nhãn quan nhân cách tôn
giáo. Như thế, đam mê sẽ được “nhập thể” trong hành trình tâm linh.
Điều
thao thức của người viết là trình bày cách nào giúp bạn đọc dễ lĩnh hội. Chắc hẳn,
cuốn sách này không phải là một nghiên cứu thực nghiệm của Tâm lý học nhưng là
một sách thuộc loại hướng dẫn kỹ năng sống. Vì vậy, chúng có xu hướng dẫn dụ thực
hành. Song bạn sẽ không tìm được những hướng dẫn cụ thể, vì những nguyên tắc thực
hành thiết thực không thể phổ quát cho mọi người, nhưng phải đáp ứng cho một đối
tượng cụ thể; trong đó, phải xét đến: môi trường, di truyền, cá tính, ý chí của
cá nhân...Đó là một việc nhiêu khê, ngoài khả năng người viết.
Trong
cuốn sách này, sau khi xác định thuật ngữ đam mê, người viết đề cao giá trị của
đam mê như một lực đẩy giúp bạn định hướng và sống đam mê. Tiếp đến, người viết
trình bày về những mê lầm trong cuộc sống ngang qua ba đam mê chủ đạo: Danh, Lợi
và Thú. Sau đó, từ những kinh nghiệm đau thương của thực trạng đam mê vừa nói
trên, người viết đề ra những bậc thang giá trị, hầu giúp bạn xác lập một lần nữa
những gì là đam mê đúng đắn. Cuối cùng, là những chứng nhân đam mê; chính những
người này đã hoàn tất những đam mê của mình trong những nền văn hoá Đông – Tây
khác nhau. Qua đó, người viết muốn khẳng định rằng, trong bất cứ xã hội, nền
văn hoá nào, con người đều khả dĩ sống đam mê và hoàn tất nó một cách khả
quan.
Chúng
ta cùng khởi động từ câu chuyện người thật việc thật.
Tiger
Woods sinh ngày 30 tháng 12 năm 1975 là một vận động viên Golf chuyên nghiệp
người Mỹ. Cha của anh là Earl Woods, một tay chơi Golf nghiệp dư, người đã có ảnh
hưởng lớn nhất trong cuộc đời sự nghiệp của anh. Ông đã truyền đam mê chơi Golf
cho anh từ lúc 2 tuổi, và đến năm 11 tuổi, anh đã đánh bại đối thủ đầu tiên là
chính cha mình. Năm 1996, anh chính thức bước vào môn thể thao này với tư cách
một tay chơi Golf chuyên nghiệp. Dần dà, anh đã đi vào lịch sử huyền thoại của
nước Mỹ, với kỷ lục quán quân nhiều năm. Nhưng gần đây, anh công khai tự thú rằng:
là một người nghiện sex. Mặc dù, anh
đang sống rất hạnh phúc bên người vợ và hai con. Với nỗi đam mê sắc dục, anh đã
quan hệ với gần 20 phụ nữ khác nhau đủ mọi tầng lớp: từ các nữ diễn viên khiêu
dâm đến những nữ chủ hợp đêm. Ngoài ra, anh còn nhiều lần hẹn hò với người tình
một đêm.
Như
thế, chúng ta thấy, nơi anh, có hai nỗi đam mê: thể thao và sắc dục; một tốt, một xấu. Đánh giá khách quan này chỉ
dựa trên đối tượng đam mê. Với đam mê
thể thao là một điều tốt, anh cần phát huy và phát triển tối đa. Còn đam mê sắc
dục là một nguy hại, vì không làm chủ được bản thân, anh đã sa đà trở thành một
tay nghiện sex. Cuối cùng, tiền mất tật mang, anh phải trả 100 triệu bản cho
người vợ khi phân chia tài sản trong cuộc ly dị này.
Đứng
trước đam mê xấu đại loại như thế, chúng ta đưa ra hai giải pháp: một là triệt
tiêu đam mê ấy, hai là chuyển hướng nó. Cách thứ hai sẽ là hướng đi của cuốn
sách này; vì theo Karl Jaspers: “ Không một
thiện chí hay một thiện tâm nào, không một lý luận hay một chương trình biện
pháp nào, nói tóm lại, không một lực lượng nào, vật chất hay tinh thần, có khả
năng bịt mồm bịt miệng của đam mê đến độ làm cho nó hoàn toàn bị hủy diệt” [1].
Thật vậy, đam mê nằm trong chính khuynh hướng của bản tính con người nên hủy diệt
đam mê là hủy hoại mầm mống hoạt động, là tự hủy diệt mình. Bởi vậy, thay vì
chúng ta cứ loay hoay tìm cách chặn đứng và bóp nghẹt đam mê thì cần chuyển hướng
và thăng hoa nó.
Và cuốn
sách này là đứa con tinh thần đầu tiên nên không tránh những thiếu sót, rất
mong bạn đọc thông cảm. Chính khi đón nhận cuốn sách này, bạn nhận lấy hoa trái
của niềm đam mê của người viết.
Bây
giờ, xin mời bạn bước vào thế giới của đam mê.
Có thể nói, hạn từ thành công mang một hấp lực
rất lớn, đến nỗi, nó là “nỗi ám ảnh” của con người. Vì vậy, con người truy tìm
và khám phá mọi phương thế đạt đến thành công; khởi đi từ thế giới bên ngoài đến
những thực tại bên trong. Đã có một thời, con người nói đến nhiều chỉ số IQ.
CÁC
LOẠI CHỈ SỐ
IQ
- chỉ số thông minh là khái niệm được
nhà khoa học người Anh, Francis Galton đưa ra trong cuốn sách Hereditary Genius
xuất bản vào cuối thế kỷ 19. IQ - (Intelligence Quotient – chỉ số thông minh),
khái niệm này đã “thống trị” khá lâu trong quan niệm về thước đo phẩm chất dẫn
đến thành công của con người. Một người bình thường có chỉ số IQ khoảng 100,
còn nhà thiên tài như Einstein đạt đến 150.
Chỉ số này đôi khi được đồng hóa với tính suy
luận của con người. Nhưng thực tế cho thấy, không phải ai có chỉ số thông minh
cao hay đạt kết quả cao trong những năm học đường, đều thành công trong cuộc sống.
Trong số họ cũng có người “thành công” nhưng là thành công trong việc tổ chức
cướp nhà băng.[2]
Thật vậy, có tài mà không có đức là người phá hoại. Vấn đề đặt ra, yếu tố nào
thực sự quyết định đến việc thành công?
Tiến xa hơn bước nữa, năm 1995 Daniel Goleman
đã đưa ra một khái niệm mới: chỉ số cảm
xúc (EQ – Emotional Quotient) [3]
như một yếu tố cơ bản dẫn đến thành công.
Chỉ số này mô tả kỹ năng hay khả năng nhận thức để xác định đánh giá tâm trạng và
điều tiết cảm xúc của bản thân cũng như người khác. Chính khi người có chỉ số
tri cảm xúc cao biết rõ và làm chủ cảm xúc của mình mà không làm ảnh hưởng tiêu
cực đến hiệu quả của công việc. Sự phát hiện chỉ số mới này giải thích tại sao
một số người không thông minh lý tính IQ nhưng có sự nhạy cảm cao lại thành
công hơn. Có thể nói, đây là bước đầu mà khoa học nhìn nhận tầm ảnh hưởng của cảm
xúc trong đời sống con người.
Có một số người muốn phối hợp hai chỉ số IQ
và EQ khi gọi một tên chung là trí tuệ
xúc cảm, nhưng phần lớn các nhà khoa học không chấp nhận cảm xúc thuộc loại
trí thông minh. Thật vậy, EQ không thể
được đo bằng con số. Cho dù, bạn có chấp nhận phối hợp hai chỉ số này, cả hai
cũng không phải là yếu tố hoàn toàn quyết định sự thành công của con người.
Chỉ sau hai năm, tức năm 1997, nhà tâm lý học người Mỹ, Paul
Stoltz lần đầu tiên đưa ra một khái niệm mới: AQ (Adversity Quotient) trong cuốn
Adversity Quotient:Turning Obstacles into
Opportunities (AQ - Xoay chuyển trở ngại thành cơ hội). Trong đó, ông định
nghĩa AQ là đại lượng đo khả năng đối diện và xoay sở của một người trước các
thay đổi áp lực và các tình huống khó khăn gọi tắt là chỉ số vượt khó. Như chúng ta biết, tiến sĩ Stoltz là giám đốc
dự án ứng phó toàn cầu và phụ trách giám sát tại 17 quốc gia. Ông được người
điều hành của Excellence ca ngợi “là một trong
số 100 nhà tư tưởng có ảnh hưởng nhất của thời đại chúng ta”. Quan trọng
hơn cả, cuốn sách này sẽ giúp người đọc tìm lại
được nguồn nghị lực bên trong để kiên cường chiến đấu và chiến thắng. Bằng
những kiến thức, kỹ năng lĩnh hội được từ AQ - Chỉ số vượt khó, chúng ta không những sẽ cải thiện được bản thân mà
còn có thể giúp những người khác, cũng như chính tổ chức của mình tiến lên phía
trước.
Cho đến năm 2005, tác giả nhà báo Thomas L.
Friedman đã cho xuất bản cuốn “Thế giới
phẳng: tóm lược lịch sử thế giới thế kỷ 21”, đề cập đến hai khái niệm CQ
(Curiosity Quotient - Chỉ số tò mò) và PQ
(Passion Quotient- chỉ số đam mê). Nhưng đến những năm gần đây, PQ - chỉ số đam mê mới được chính thức
tác giả Virender Kapoor giới thiệu trong tác phẩm PQ - chỉ
số đam mê. Trong đó, tác giả
cho rằng: "Chất
lửa trong con người, hay chính là chỉ số say mê, đã đóng góp rất nhiều cho những
thành tựu kỳ diệu của nhà khoa học thiên tài Albert Einstein hơn cả chỉ số IQ của
ông". Thật vậy, sự đam mê
là ngọn lửa thổi bùng lên lòng nhiệt huyết, khiến mỗi chúng ta không ngừng khám
phá những tiềm năng vô tận ẩn sâu trong mỗi con người.
Virender Kapoor còn khẳng định: “Đam mê mang đến cho con người hai điều: thứ nhất, nó giúp chúng ta được
là chính mình, sống và đối nhân xử thế như mình mong muốn. Thứ hai, nó hòa hợp
và làm hoàn thiện bản thân” [4].
Tất nhiên, hoàn thiện bản thân theo tác giả, là sự thành công được nhiều
người biết đến và nhìn nhận. Nhưng, cuốn sách bạn đang cầm còn có tham vọng
hơn, hoàn thiện bản thân theo tinh thần kitô giáo, nghĩa là nên thánh. Vì như chân phước Gioan
Phaolo II nói: “Thành công lớn nhất của
đời người là nên thánh”.
SỐNG
ĐAM MÊ ĐỂ NÊN HOÀN THIỆN.
Phần đông con người trên thế giới đều mong muốn
và đi tìm sự thành công. Đó không chỉ để chứng minh năng lực của bản thân mà
còn thỏa mãn khao khát chiến thắng vốn tự có trong mỗi con người. Mà chiến thắng
lớn nhất là làm chủ bản thân, nghĩa là đạt được điều mình muốn. Bạn có thể kể
hoặc viết ra một loạt những ước muốn của mình nhưng xét cho cùng, tất cả chỉ là
phương thế giúp đạt đến ước muốn cao cả nhất là hoàn thiện bản thân,[5]
nên thánh mỗi ngày.
Chúa Giêsu đã mời gọi mọi người: Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em
trên trời là Đấng hoàn thiện. Thế mà, đã có một thời gian dài, người ta
nghĩ rằng, nên hoàn thiện hay nên thánh là việc dành riêng cho bậc trọn lành,
những người “đi tu”. Còn bạn, bạn nghĩ sao ? Nếu như người khác Chúa trao cho
năm nén bạc để họ sinh lợi ra năm nén khác thì bạn được Chúa trao cho hai nén,
lại không sinh lợi hai nén sao? Ai nấy sẽ hạnh phúc trong chức phận của mình,
vì đã hoàn thành sứ mạng được trao ở trần gian.
Bởi đó, khi cuốn sách này đề nghị với các bạn:
sống đam mê để nên hoàn thiện, có thể tạo cho bạn một cảm giác khó chịu, vì từ
lâu đam mê chỉ được hiểu là dẫn đến sa đọa. Điều này không thể có nơi các
thánh,[6]
thì nói gì đến việc nên thánh bằng cách sống đam mê. Ở đây, chúng ta có thể hiểu
một cách khái quát: “các đam mê là thành
phần tự nhiên của sinh hoạt tâm lý con người. Chúng nối kết với đời sống cảm
giác và tinh thần. Theo lời của Đức Kitô, tâm hồn là nguồn phát xuất các rung động
đam mê”.[7]
Chính lúc làm chủ các khuynh hướng này thì con người có cơ may sống hoàn
thiện bản thân. Đó là điều các nhà thiên tài đã tận dụng tối đa, và thành công
trong đời sống cụ thể cách nào đó. Đơn cử trường hợp của chân phước Têrêsa
Calcutta vì đam mê phục vụ Thiên Chúa trong người nghèo khổ mà ngài đã hoàn tất
đời sống mình trong sự thánh thiện.
Có thể nói, cuốn sách này là một cố gắng lấy lại thế quân bình
cho việc sống đam mê, và chúng tôi muốn khẳng định rằng cả Thiên Chúa cũng sống
đam mê theo một nghĩa siêu việt nhất, như lời Đức Thánh Cha Benedicto XVI đã khẳng
định trong thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, rằng: “Một mặt, chúng ta thấy
mình đứng trước một hình ảnh rất siêu hình
của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối và là nguồn mạch mọi loài; nhưng mặt
khác, chủ tể tác tạo hoàn vũ này … Logos, Đấng Thượng Trí-lại đồng thời là một
người biết yêu với tất cả đam mê của một tình yêu thực sự” [8].
Quả thât, Thiên Chúa vẫn đang sống đam mê bằng
một tình yêu thực sự cũng muốn mời gọi bạn sống đam mê đích thực để đạt đến
Ngài, vì Ngài là Tình Yêu, “nỗi đam mê đích thực” mà mỗi chúng ta nhắm đến. Cuốn
sách này, cách nào đó sẽ giúp bạn đạt đến điều bạn đang mong chờ. Điều chúng ta
cần làm lúc này là đánh thức đam mê, vì
theo Vince Lombardi thì “nếu trong bạn
trước giờ vẫn chưa có được ngọn lửa đam mê thắp sáng, thì bạn phải thổi bùng nó
lên”.
ĐÁNH
THỨC ĐAM MÊ
Truyện kể rằng: có một người nhặt được quả trứng
đại bàng đặt vào ổ trứng gà. Tất cả cùng nở ra và lớn lên. Chúng cúi mặt xuống
đất chỉ biết bắt mồi, mổ trùng mà ăn… cho đến một ngày, chú gà đại bàng ngẩng cổ
lên trời cao thấy một con chim vĩ đại, nó hỏi chú gà khác: “con gì đấy?” – “Đó
là chúa tể của các loài chim. Nó thuộc về trời cao còn chúng ta thuộc về trái đất”.
Một ngày kia, chú gà đại bàng nằm mơ nghe
tiếng vọng từ trời bảo rằng: “Mày không thuộc đất thấp, nhưng thuộc về trời
cao. Mày là chúa tể các loài chim”. Tỉnh giấc, chú sống với một ý thức mới,
tôi là chúa tể các loài chim tôi thuộc về
trời cao. Một ngày đẹp trời, chú đã tạm biệt đàn gà và tung cánh bay thẳng
hướng về mặt trời.
Cũng vậy, chúng ta được đặt làm chủ điều khiển
muôn loài và thuộc về trời cao, chúng ta phải dùng đôi cánh ĐAM MÊ mà hướng thẳng
về cội nguồn và cũng là đích điểm của đời người. Ví như đôi cánh giúp chim bay
cao, đam mê cũng giúp con người vươn tới Chúa. Ví von như thế cũng chưa lột tả
được chiều kích nội tại của đam mê vì đam mê là quà tặng được ban cho con người ngay từ đầu. Hơn nữa, đam mê ví thể bản
tính thứ hai của con người. Bản tính thứ nhất giúp xác định con người với
một nhân phẩm đáng tôn trọng, bản tính thứ
hai cao trọng hơn khi nó giúp tái lập
sự hiện hữu độc đáo, riêng biệt của một nhân vị. Thật thế, đam mê làm nên phẩm chất độc đáo nơi chúng ta.
Bạn cần dành nhiều giờ cho đam mê và nhận diện
ra nó vì đam mê không dừng lại ở những việc giải trí mà đam mê gắn liền với sứ
mạng của bạn ở trần gian. Chúng ta sẽ bàn sâu rộng điểm này sau nhưng ngay bây
giờ bạn phải xác tín giá trị lớn lao của nó để việc bạn dành nhiều giờ đầu tư
không trở nên vô ích. Trong lúc bạn đang khám phá niềm đam mê chủ đạo của mình,
chúng tôi xin giới thiệu cho bạn những nhân vật nổi tiếng với cách thức họ đã
nhận diện niềm đam mê của mình và phát huy thế mạnh bản thân.
Có một giai thoại kể lại:
Đại tướng Nhật Bản là Nabunaga quyết định tấn
công quân giặc, cho dù đội quân của ông chỉ có “một chọi mười”. Nhưng ông biết
chắc thế yếu của quân địch và sẽ dành chiến thắng, còn binh sĩ của ông thì đầy
nghi ngờ điều đó.
Trên đường đi đến chiến trường, ông đã dừng lại
ở một đền thờ Thần Giáo. Sau khi đã cầu nguyện trong đền thờ, ông đi ra và nói:
“Bây giờ tôi tung một đồng tiền lên: nếu ‘ngửa’
chúng ta sẽ thắng; nếu ‘sấp’ chúng ta sẽ thua”.
Ông tung đồng tiền lên: “ngửa”. Các binh sĩ nức
lòng chiến thắng nên họ đã ra quân và thắng trận cách dễ dàng.
Bạn biết không ? Vị chỉ huy này đang cầm
trong tay một đồng tiền đều hai mặt ngửa. Ngửa
hay sấp chỉ là chiêu bài điều binh khiển tướng của các vị chỉ huy.
Ở đây, chúng ta ghi nhận công của ông đã kích
thích những tư tưởng tích cực nơi các binh lính, đồng thời, kích động niềm khát
khao giành chiến thắng nơi họ.
Trong cuộc đời của bạn, chắc hẳn, cũng có người
đã đến gõ cửa lòng bạn, muốn khơi gợi nỗi đam mê nơi bạn. Họ đến rồi đi, nhưng
nỗi đam mê vẫn trong bạn, nó cuồn cuộn như những đợt sóng vỗ dập, vượt qua mọi
hiểm nguy, lướt thắng tất cả để giúp bạn sống thực sự đam mê.
Có một ngày bạn buồn, “tôi buồn chẳng biết vì sao tôi buồn”, bỗng nghe được một bản nhạc,
cảm thấy mình phấn khởi và lấy lại sức sống. Tài năng của người cha đã khơi dậy
nỗi đam mê âm nhạc nơi bạn: muốn phục vụ người khác, muốn lấy đàn mua vui. Đó
cũng có thể là cách thức Chúa muốn bạn phục vụ trong nỗi đam mê này.
Mahatma Gandhi [9]
đã từng bị tống khỏi chuyến tàu ở Nam Phi vì ông là người Ấn Độ. Ông rất bất
bình khi bị đối xử bất công, nhưng thay vì trở nên con người hiếu chiến đứng
lên chống lại những người nhục mạ mình, ông đã coi đó như một bài học giúp mình
sống cao thượng hơn khi lấy “việc lành đáp lại lời nguyền rủa”. Cũng từ đó, niềm
đam mê chính trị đã lớn mạnh trong ông. Với chủ trương bất bạo động, ông đã chứng
minh cho con người thời đại: chiến thắng
thuộc về sức mạnh bên trong.
Không phải ai cũng lợi dụng được những sự kiện
tiêu cực. Đôi khi hoàn cảnh nghiệt ngã giết chết một đam mê. Truyện kể rằng: có
một phụ nữ hiền lành và nhân hậu, hằng ngày làm việc và chu toàn bổn phận của
mình cách tốt đẹp. Nhưng vào một ngày vì quá mỏi mệt, người mẹ này chỉ muốn nằm
nghỉ. Đứa bé với thói quen đến nhảy múa ca hát làm vui lòng mẹ. Thay vì, người
mẹ vui tươi và khen ngợi, lại mất tự chủ, không kiểm soát được bản thân nên thốt
lên: “Im đi, tiếng của mày nghe chát chúa
quá!”. Câu nói tiêu cực ấy thấm nhiễm đứa bé và giết chết nỗi đam mê múa hát trong em.
Bởi vậy khi đối diện với những hình thái tiêu
cực, bạn cần phải thăng hoa và “gán” cho nó một ý nghĩa. Nếu đam mê giúp bạn đủ
sức vượt qua mọi khó khăn thì bạn cần bắt đầu bằng những câu nói khẳng định đam
mê của bạn: Tôi biết những đam mê cháy bỏng từ nơi sâu thẳm lòng mình sẽ giúp
tôi thành công và hoàn thiện; tôi khát khao được làm mọi điều tốt đẹp cho bản
thân và cho mọi người; mỗi ngày trôi
qua, đam mê trong tôi càng mãnh liệt hơn. Tôi sẵn sàng vượt qua mọi gian khổ để
đạt được trọn vẹn nỗi đam mê của mình… và tin vào ơn Chúa trợ lực giúp thành
công.
Bạn cần xác quyết, đam mê là một yếu tố quan
trọng, là động lực chủ yếu thúc đẩy bạn đi tới không ngừng, đam mê giúp bạn đứng
dậy, tiếp tục bước đi mỗi khi bạn có suy nghĩ bỏ cuộc, đầu hàng. Một khi ngọn lửa
đam mê trong bạn bùng cháy mãnh liệt thì chẳng có rào cản nào, chẳng có ai có
thể làm chùn bước tiến của bạn. Xin gởi đến cho bạn một "người thật việc
thật" về kinh nghiệm biết vượt qua nghịch cảnh để thực hiện ước nguyện của
mình, cô Terry.
Ngay từ bé, Terry rất thích thể thao và tham
gia vào bất kỳ môn nào mà cô bé có thể chơi được. Chưa hết, cô bé luôn có mặt
trong các buổi học múa ba lê, bởi cô mơ ước một ngày nào đó, sẽ trở thành một
diễn viên múa chuyên nghiệp. Nhưng khi lên 12 tuổi, một chuyện không may ập đến
với cô bé, một tai nạn xe hơi rất kinh hoàng đã làm lưng và cột sống của cô bé
bị chấn thương nặng. Ai cũng nghĩ rằng cô ta sẽ chẳng bao giờ có thể vận động
được nữa.
Đối với nhiều người, có lẽ một tai nạn như thế
hẳn sẽ dập tắt mọi ước mơ và khát vọng thành công của họ. Nhưng với Terry thì
khác hẳn! Mặc dù được bác sỹ cho biết hung tin này, nhưng ngọn lửa hy vọng
trong cô vẫn không hề tắt lịm bởi chúng đã là một phần tất yếu luôn hiện hữu
trong cô. Với mẫu người có cá tính mạnh, những khó khăn này càng giúp cô thêm
nghị lực và sống xác quyết với nỗi đam mê hằng ấp ủ trong lòng; vượt lên nỗi
đau, không ngừng phấn đấu, cô bé vẫn yêu đời, lạc quan, cô cảm thấy cuộc đời vẫn
mỉm cười với mình.
Tai nạn đã cướp đi sự hoạt động của đôi chân
cô, nhưng không cướp đi được nghị lực kiên cường và nỗi đam mê bền bỉ trong cô.
Đôi chân cô không thể cử động, nhưng ý
chí và lòng khát khao trong cô không hề bị tê liệt. Cô bé phát huy hết sức
mạnh phần cơ thể còn lại của mình để có thể di chuyển tốt hơn bằng xe lăn. Cuối
cùng nỗ lực của cô đã sinh hoa trái, nghĩa là cô đã khẳng định mình trong lãnh
vực tri thức, đã tốt nghiệp đại học với hai chuyên ngành: nghệ thuật và truyền
thông. Như thế, đam mê nghệ thuật khi xưa của cô giờ đây có dịp được biểu diễn
mỗi ngày chuyên nghiệp hơn. Một điều thú vị nữa là, từ đây, cô quan tâm hơn đến
những người cùng cảnh ngộ. Cô nuôi quyết tâm sẽ làm một điều gì đó để có thể
giúp được những người như cô tìm được nhiều niềm vui trong cuộc sống.
Qua đó, bạn thấy rằng đam mê là ngọn lửa nung
nấu niềm hăng say, là động lực tiếp sức cho sự phấn đấu không mệt mỏi. Đằng sau
bất cứ một thành công nào cũng chất chứa một ngọn lửa đam mê khát vọng luôn hừng
hực cháy. Keith D. Harrell thật chí
lý khi nói: “Khát vọng chính là nguồn động
lực có sức mạnh vô biên, tiềm tàng bên trong mỗi con người. Động lực này được
thể hiện qua những hoạt động không ngơi nghỉ, để con người không bao giờ từ bỏ
ước mơ, không bao giờ khuất phục hoàn cảnh”.
Bạn có thể nuôi khát vọng đam mê của mình bằng
cách mỗi ngày dành một chút thời gian để quan sát, cảm nhận rõ hơn những gì mà
bạn đang mong muốn. Một khi bạn đã nhận diện niềm đam mê của mình và phát huy
thế mạnh bản thân, bạn cần tiếp tục thổi bùng lên ngọn lửa này để niềm đam mê
ăn sâu trong tâm khảm, chảy mạnh vào huyết mạch, chuyển lưu trong từng hơi thở
và làm phong phú hiện hữu của bạn vì như lời khẳng định của Margaret Deland: “Ai cũng cần phải khao khát một điều gì đó để
có thể tồn tại ”. Và nói một cách xác quyết hơn: ai cũng cần phải đam mê một điều gì đó để có thể nên hoàn thiện.
Với những xác quyết đó, xin mời bạn tiếp tục
đồng hành với chúng tôi qua những trang sách này để có thể hiểu đam mê là gì ?
Những hình thức đam mê; Đam mê và các bậc thang giá trị; Và những chứng nhân của
đam mê.
Hơn bao giờ hết, con người ngày nay sống nhiều
với nỗi đam mê. Có lẽ vì nó đã trở thành thành phần của đời sống khiến người ta
không thấy cần phải đặt lại vấn đề. “ Vấn đề ” được hiểu đơn giản là: lợi hại
thế nào? Ảnh hưởng đến đời sống ra sao ? Đam mê khởi đi từ đâu ? Làm cách nào để
điều hướng đam mê ?..Trong phần này chúng ta sẽ cố gắng triển khai trong mức độ
có thể về những góc cạnh của điều đó. Một ghi nhận cần nói ngay, cả hai người
có cùng nỗi đam mê, song cách thức họ sống lại hình thành nơi mỗi người một
tính cách độc đáo và cá vị.
Theo Từ Điển Tiếng Việt của Minh Tân và các
tác giả, đã viết: “ Đam mê là ham thích
thái quá, thường là cái không lành mạnh, đến mức như không còn biết việc gì
khác nữa”. Định nghĩa như thế dễ tạo nơi chúng ta thái độ sống đam mê một
cách tiêu cực vì nó “thường là cái không lành mạnh”. Nhưng thế nào là cái không
lành mạnh ? Và mức độ nào đánh giá cái lành mạnh ? Khi dùng một hạn từ chưa được
xác đinh để phát biểu hay định nghĩa một thuật ngữ mới, chắc hẳn không tránh khỏi
sự hàm hồ.
Điều này đòi buộc chúng ta phải truy tìm về
nguyên ngữ Hán Việt và các ngôn ngữ khác. Theo Hán Việt, chiết tự Đam mê: Đam có nghĩa là chìm đắm, ham mê; như khi ta nói: người
này ham chơi, người kia chìm đắm trong ảo tưởng. Còn mê có nghĩa là lạc, mất
hay say mê, say đắm, làm cho mê muội,
như khi ta nói: tiền của làm cho con người ra mê muội…Theo khái niệm này đam mê
cũng chẳng có gì tích cực.
Ngoài ra, Pháp
ngữ và Anh ngữ cùng sử dụng chung một chữ Passion. Pháp ngữ [10]
ngoài nghĩa đam mê, passion còn được hiểu
là dục tình, dục vọng; thụ động; mãnh liệt.
Xem ra cách hiểu này có phần trung dung hơn vì
dục tình hay dục vọng, tự nó được hiểu theo nghĩa xấu lẫn nghĩa tốt. Còn
theo nghĩa thụ động vì đam mê tuỳ thuộc
phần lớn đối tượng. Và mãnh liệt được
gán cho cường độ của đam mê.
Trong
khi đó, Anh ngữ [11]
lại có phần tích cực hơn.
Passion:
-Nhiệt
tình, nhiệt tâm.
-Đam
mê, tình cảm, kích dục…
-Cuộc
khổ nạn của Chúa Giêsu
(viết hoa).
Sự
nhiệt tình, nhiệt tâm phải có trong đam mê
đòi hỏi một thái độ sống năng động và tích cực hầu diễn tả những tình cảm được kích động qua thân xác của người sống đam mê. Riêng Passion được hiểu là Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu gợi lên cho
ta hai ý nghĩa:
-Cuộc
khổ nạn này hay Thánh Giá là đối
tượng cho con người đam mê.
-Đam mê của Ngài dẫn đến cái chết sinh ơn cứu
độ.
Tất nhiên, hai ý nghĩa này không được ngôn từ
diễn đạt nhưng dưới chiều kích đức tin, chúng ta có thể dễ dàng chấp nhận và
đây cũng là vấn đề được bàn kỹ trong phần Đam mê của Đức Giêsu.
Với những giới hạn khi hiểu về đam mê khác
nhau như vậy, thiết nghĩ, chúng ta cần lược qua những quan niệm của các trường
phái riêng biệt nhằm làm sáng tỏ hơn thuật ngữ này, và khi nêu lên những mặt
tích cực của nó, đồng thời sẽ là ý nghĩa mà bài viết này muốn nhắm đến.
MỘT CỐ GẮNG ĐỊNH
NGHĨA.
Triết gia Kierkeegard đã không ngần ngại quả
quyết rằng: “Không đam mê, con người như
cây khô không nhựa sống, bất động”. Ông còn khẳng định: “Đam mê là hiện hữu nhất”, nghĩa là chính đam mê giúp con người sống,
hiện hữu thực sự mang ý nghĩa hiện sinh. Thật vậy, đam mê được hiểu là sinh hoạt
của tinh thần con người. Nói cách khác, nó là thành phần làm nên hiện hữu con
người. Bởi vậy, khi cố gắng tìm một định nghĩa cho thuật ngữ đam mê, ta không
thể tách chúng ra khỏi bản chất hiện hữu của con người. Vì đam mê là một hình
thức của khuynh hướng thuộc bẩm sinh. Hiện nay, tâm lý học cũng chưa có cái
nhìn thống nhất, dung hoà giữa các trường phái để rút ra một định nghĩa chuẩn
xác, thuộc bản chất và ý nghĩa của đam mê.
Những gì các nhà tâm lý học hiện đại phát biểu
đều dựa vào những phạm trù khác có tương quan với đam mê, mà xét cho cùng,
chúng chỉ là những đặc tính của đam mê.
Chẳng hạn, Ribot đã định nghĩa đam mê bằng
cách so sánh nó với cảm xúc. Ông cho rằng: “Đam mê là cảm xúc kéo dài và tri thức
hoá” [12].
Chúng ta biết rằng, đam mê và cảm xúc đều là những trạng thái tình cảm mãmh liệt
và đều làm biến đổi sinh hoạt tâm lý toàn diện của con người. Nhưng nơi đam mê,
sinh hoạt ấy được kéo dài (đam mê đọc sách: suốt đời). Còn việc tri thức hoá,
chúng ta có thể hiểu là chủ thể nhận thức đối tượng đam mê. Phát biểu này còn
nhiều thiếu sót.
Kế đến, đam mê đối chiếu với tình cảm [13]:
có thể đơn cử đam mê tình ái với tình cảm vui hay buồn, tất nhiên, nó mãnh liệt
hơn tình cảm. Mặt khác, một tình cảm cũng có thể kéo dài hay chóng qua, còn đam
mê thì thường bền bỉ. Dựa vào đặc tính này, các nhà tâm lý kết luận: đam mê là
tình cảm mãnh liệt và lâu bền. Nhận định như vậy xem ra cũng phiến diện.
Ngoài ra, các nhà tâm lý hiện đại còn đi xa
hơn nữa khi căn cứ vào nguồn gốc, nói cách khác, đi sâu vào bản chất của đam mê
là khuynh hướng [14].
Có thể nói, đam mê là một hình thức của khuynh hướng, nghĩa là mang đặc tính bẩm
sinh nhưng nó không phải là một khuynh hướng thông thường vì nó là một tâm trạng
ý thức trong khi khuynh hướng thường chỉ là động lực vô thức. Sở dĩ có sự khác
nhau đó là vì khuynh hướng có sức mạnh bình thường còn đam mê có sức mạnh mãnh
liệt. Sự mãnh liệt của nó thường do nhiều khuynh hướng kết hợp lại và dồn hết
năng lực về một đối tượng duy nhất. Ví dụ: sự tập trung của chủ thể vào các
giác quan: mắt đọc sách, tai nghe, miệng đọc, trong khi đó có thể mắt đọc sách
nhưng tai vẫn nghe nhạc… như thế, sự phân tán của trường hợp hai làm giảm hiệu
quả đạt đến đối tượng đam mê là việc nghiên cứu sách.
Sau cùng, khi nói đến đam mê, chúng ta không
thể tách chúng ra khỏi phạm trù thời gian. Có thể nói, chúng là một trạng thái
muộn màng, nghĩa là chỉ xuất hiện ở tuổi trưởng thành; trẻ con không biết đến
đam mê. Đúng hơn, đam mê không được thể hiện và hình thành rõ nét nơi trẻ con.
NHỮNG
YẾU TỐ PHÁT SINH ĐAM MÊ.
Một trong những định nghĩa được các nhà tâm
lý chấp nhận nhiều nhất: “Đam mê là khuynh hướng nổi bật, bá chủ và độc tôn” [15].
Tất nhiên, khuynh hướng thuộc bẩm sinh ai cũng có nhưng kèm theo các đặc tính vừa
kể, mà chúng phải được đặt trong môi trường thuận lợi, đòi buộc những yếu tố
phát sinh chủ quan và khách quan.
Yếu
tố chủ quan:
Cảm
tính.
Cảm tính là một yếu tố khiến con người dễ xúc
động (hỉ, nộ, ai, lạc…) trước ngoại cảnh mà đa số người khác vẫn giữ thái độ
bình thản. Các nhà tâm lý thường qui các sinh hoạt đam mê cho những người nhiều
cảm xúc, nhờ đó, không có một biến cố nào (một tri giác, một ý tưởng…) xảy ra
mà lại không gây nên một dao động mãnh liệt. Có thể nói, chính yếu tố dao động
mãnh liệt này, cộng thêm việc kéo dài trong thời gian dẫn đến đam mê. Chẳng hạn,
sự hứng khởi đến từ những cuốn phim hay, họ xem đi xem lại và nuôi hoài nỗi đam
mê nghệ thuật.
Còn Pierre Janet nói rằng người nào lành mạnh
về hai phương diện tinh thần và thể xác thì rất khó nhiễm đam mê.[16]
Tất nhiên, đam mê có thể xuất hiện nơi những tâm hồn suy nhược, chán nản vì mệt
mỏi, thất bại nhưng nó không phải là yếu tố quyết định cho việc phát sinh đam
mê. Stendhal có vẻ phiến diện khi nói: “Tôi
biết một người bắt đầu yêu khi thấy người ấy buồn” [17].
Thật vậy, bạn có thể đi tìm tình yêu trong tâm trạng buồn nhưng không thể
phủ nhận những tâm hồn cao thượng khát vọng một tình yêu chân thành. Bởi đó, yếu
tố cảm tính được điều hướng đóng một vai trò quan trọng tích cực trong sinh hoạt
đam mê.
Óc
tưởng tượng.
Chúng ta biết rằng khả năng tưởng tưởng dồi
dào cũng là yếu tố thiết yếu làm phát sinh đam mê như Ribot đã nói: “Tưởng tượng chính là căn bản của đam mê. Nó
là một sự tham gia thiết yếu hơn là một ảnh hưởng” [18].
Thật vậy, một khi nói tưởng tượng là một ảnh hưởng trên đam mê thì chúng ta nói
đến sự tương tác qua lại, nghĩa là trí tưởng tượng càng dồi dào, đam mê càng mạnh
mẽ. Điều này, chúng ta muốn nhấn mạnh đến tính quyết định của trí tưởng tượng.
Vì chúng đã biến đổi đối tượng từ một vật tầm thường thành một lý tưởng. Nói
cách khác, chúng đã biến cái tương đối thành cái tuyệt đối, đã “thần thánh hoá”
đối tượng đam mê. Chính ở điểm này, trí tưởng tượng trở thành nguyên nhân phát
sinh đam mê. Với Burloud, nó không chỉ là nguyên nhân mà còn là hậu quả của đam
mê [19].
Là hậu quả, vì đam mê dục vọng của ta
có thể bị kích thích từ hình ảnh. Bởi đó, chúng ta hiểu vì sao thánh Gioan đã
nói đến dục vọng của đôi mắt như một nguy hại khôn lường của linh hồn. Song, dù
là nguyên nhân hay hậu quả, nó luôn bao hàm một yếu tố chủ quan và thụ động,
nghĩa là trí tưởng tượng tuỳ thuộc vào mỗi chủ thể và khi bạn thụ động tiếp nhận
nó, điều này có nguy cơ, bạn dễ bị ảo tưởng xa rời thực tế hơn là sống đam mê.
Có thể nói, khả năng tưởng tượng là năng lực
mạnh mẽ nhất mà bạn có được để sống đam mê. Tất cả những cải thiện trong cuộc sống
của bạn đều bắt đầu từ sự cải thiện về những hình ảnh trong tâm trí bạn. Tình
trạng hiện nay của bạn thế nào phần lớn là do những bức tranh trong tâm trí bạn
dẫn dắt. Khi bạn thay đổi những hình ảnh trong tâm trí mình thì thế giới bên
ngoài của bạn cũng đổi thay tương ứng. Bởi vậy, Denis Waitley thật chí lý khi
nói: “Trí tưởng tượng của bạn là tiền cảnh
về những điều hấp dẫn của cuộc đời sắp đến”.
Zig Ziglar đã chia sẻ kinh nghiệm của ông trước
khi thành một diễn giả nổi tiếng. Ông thú nhận "Hằng đêm, tôi cố tưởng tượng ra bản thân mình đang nói chuyện trước đám
đông đến hàng vạn người, thu hút cử toạ bằng những lời nói và cử chỉ của mình
và rồi đón nhận những tràng pháo tay nhiệt liệt từ họ một cách khiêm tốn. Viễn
cảnh đó chắc chắn không bao giờ xảy ra chỉ sau một đêm, và sẽ không bao giờ có
được nếu như tôi không ngừng vươn lên, hoặc nếu tôi cho phép hình ảnh đó phai
nhoà trong tâm trí tôi".
Dường như mọi thành công hay những gì xảy ra
trong hiện tại đều tỏ lộ hình ảnh và sứ điệp trong trí tưởng tượng của bạn
trong quá khứ.
Quá
khứ.
Một yếu tố nữa khá quan trọng mà khi bàn đến
đam mê chúng ta không thể bỏ qua đó là quá khứ. Điều này đã được Alquié nhấn mạnh
nhiều ở chiều kích cá nhân, nó liên quan đến một quá khứ xa xôi mà ta không nhớ
rõ. Vì nó được đan xen chằng chịt giữa biết bao sự kiện, đồng thời, có một chỗ
riêng để chứa nó mà C.Jung gọi là tiềm thức. Có thể nói, quá khứ là chất liệu
làm giàu cuộc sống hiện tại, điều này thật thích hợp khi áp dụng cho các đam mê
của chúng ta. Chúng đã được chủ thể đảm nhận và chịu trách nhiệm như một hậu quả
hay một hệ quả còn âm vang và ảnh hưởng cách nào đó trong hiện tại. Tâm lý chiều
sâu cũng đồng quan điểm với Alquié khi cho rằng tính tham ăn chỉ là sự bù trừ của
dục tính bị ngăn cấm mà nguyên nhân là việc thôi bú quá sớm. Cũng vậy, hành vi
ăn cắp vặt chỉ là thái độ đi tìm một tình yêu gia đình đã mất.[20]
Theo C.Jung, chúng ta chỉ mới bàn đến vô thức
cá nhân - kết quả của một quá khứ dài, còn vô thức tập thể thì phức tạp hơn nhiều.
Quá khứ gần với bản thân ta nhất gắn liền với gia đình và truyền thống ta thủ đắc
từ môi trường đó. Thật vậy, một gia đình lâu đời sống trong cảnh nghèo có thể tạo
nơi các thành viên một nỗi đam mê tiền bạc dẫn đến việc hà tiện, ky cóp. Đến một
lúc nào đó điều kiện sống được cải thiện phần nào, tập quán ấy cũng kho thay đổi
bởi vì đã biến thành “một nhân đức” trường tồn. Trong tư tưởng, lời nói và những
hành động của họ, dường như tiền bạc vẫn luôn là yếu tố chính chi phối quyết định
vận mệnh và có chỗ đứng quan trong trong mọi phán đoán và quyết định của họ.
Yếu
tố khách quan.
Đó là môi trường địa lý và hoàn cảnh xã hội
E. Kant nói rằng những dân sống miền khí hậu nóng có những đam mê khác với dân
sống ở miền khí hậu lạnh. Một mảnh đất cằn cỗi, nghèo nàn đòi hỏi nhiều cố gắng,
cực nhọc của người nông dân trong lúc mưu sinh, thường dễ tạo ra tính tham lam
và hà tiện [21].
Điều này, chúng ta thấy rõ khi ngày nay người ta bàn đến nhiều các truyền thống
Bắc, Trung, Nam ảnh hưởng đến dân cư sống tại đây. Trong khi đó, những người được
sống nơi vùng khí hậu mát mẽ, tính tình của họ cũng thuận hoà hơn và đam mê của
họ cũng khác [22].
Chúng ta cũng thấy xã hội tạo ra khung cảnh,
không khí thuận lợi cách nào đó cho đam mê xuất hiện và phát triển. Lịch sử cho
ta biết, thời đại thánh chiến là môi trường thuận lợi cho đam mê tôn giáo, thời
phục hưng thuận lợi cho đam mê tri thức, thời cách mạng thuận lợi cho đam mê
chính trị… Cũng cùng hoàn cảnh thời đó lại sinh ra những đam mê có những sắc
thái khác tuỳ từng dân tộc. Chẳng hạn, cũng thời đại cách mạng nhưng có vị chủ
trương lấy sức mạnh vũ trang làm chính yếu, nhưng tại một dân tộc Ấn độ nghèo,
Gandhi lại lấy sức mạnh tinh thần, chủ trương bất bạo động làm lợi khí.
Như thế, chúng ta nhận thấy yếu tố chủ quan
và khách quan đan xen tác động lẫn nhau, có những thời điểm đam mê chịu ảnh hưởng
nhiều bởi yếu tố chủ quan, thời điểm khác lại nêu bật yếu tố khách quan. Người
xưa nói thật chí lý: thời thế tạo anh hùng và anh hùng tạo thời thế.
HẬU
QUẢ CỦA ĐAM MÊ.
Tình
cảm.
Trong tác phẩm Đạo Kười, Linh mục Phan Tấn
Thành có kể một câu chuyện vui, hư cấu rất ấn tượng. Vào một ngày đẹp trời, bà
Eva đi dạo trong vườn, thấy chồng ở đó, bà thắc mắc: “Từ trước đến nay, em chưa nghe anh nói một câu ‘anh yêu em’ ?”.
Ông Adam nghĩ một lát và tỏ vẻ hối tiếc, ông nói: “Em thấy đó, anh không còn cách nào khác để chọn lựa vì trong vườn chỉ
có mình em”. Nghe thấy thế, bà Eva vẫn tỏ vẻ nghi kỵ đợi lúc ông ngủ, bà vạch
áo ông ra và đếm xem đã mất mấy chiếc xương sườn [23].
Câu chuyện vui này cho chúng ta một cái nhìn
về người đam mê tình ái mà đại diện là bà Eva. Đặc tính nổi bật nơi bà là muốn
chiếm vị trí độc tôn trong lòng chồng và muốn chiếm ông làm sở hữu riêng. Thật
vậy, đam mê là một tình cảm mãnh liệt; chúng gây ra sự rung động mạnh cho đời sống
tình cảm của con người. Như chúng ta đã nói trí tưởng tượng khiến con người thần
tượng người yêu; một khi thần tượng bị sụp đổ, họ cũng rơi từ tình trạng này
sang tình trạng tiêu cực khác. Quả vậy, người đam mê chỉ lý tưởng hoá đối tượng
khi chưa chiếm đoạt trọn vẹn chúng. Đối tượng này sẽ mất giá trị lý tưởng một
khi chủ thể chiếm đoạt trọn vẹn. Lúc ấy, người đam mê bắt đầu thất vọng và xa
lánh đối tượng vì thấy thần tượng tuyệt đối của mình chỉ là những thực tại hoàn
toàn tương đối.
Tri
thức.
Nếu xét hoàn toàn trong lãnh vực tri thức thì
người đam mê loại này biết sử dụng lý trí, nhận thức của mình sẽ dễ dàng thành
công vì đặc tính của đam mê là hoạt động không ngừng. Thật vậy, đứng trước khó
khăn, cảm xúc sẽ rút lại, chùn bước còn đam mê thì sử dụng mọi quan năng vượt
qua rào cản, đạt cho được đối tượng của mình là phát triển trí thức tới mức tối
đa. Có thể nói, chính chân lý khách quan mà các ngành khoa học hằng theo đuổi
đã giúp người đam mê sống định hướng nhờ nội lực tập chú vào đối tượng nên dễ
thành công.
Ra khỏi môi trường thuần tri thức, chúng ta
cũng dễ nhận ra hậu quả của đam mê trong sự nhận thức của con người. Người đam
mê cờ bạc biết mưu tính mọi cách sao cho thâu đạt nhiều "bàn thắng"
trong khi chơi. Đây là cấp bậc thấp nhất, chỉ dừng lại ở việc mưu tính và những
kinh nghiệm thất bại trong quá khứ. Ở cấp độ cao hơn, người đam mê tình ái cũng
biết suy tính tìm ra biện pháp để gần gũi đối tượng yêu. Chưa hết, họ còn tìm
cách gây thiện cảm với gia đình người yêu, tìm cách loại hết địch thủ nếu có,
khiến cản trở bước tiến giúp đạt đến đối tượng đam mê… Truyện Kiều cho chúng ta
biết trường hợp của Kim Trọng, đã di chuyển chỗ ở để có nhiều cơ hội gặp gỡ và
gần gũi Thuý Kiều hơn [24].
Chúng ta không thể nào phủ nhận sự sáng suốt
của người đam mê nhưng do họ đặt sai những bậc thang giá trị mà họ dễ chọn lựa
và quyết định những giá trị nghịch với mục tiêu tối hậu hay ý nghĩa cuộc đời.
Xu hướng chung, họ chỉ nhắm đích của mình là đối tượng đam mê nên lắm khi giản
lược và coi thường các thực tại khác. Từ đó, nhận thức của họ chỉ qui về đối tượng
đam mê. Thái cực này khiến họ dễ dùng óc suy luận mà biện minh cho những gì
mình theo đuổi. Lý luận này của người đam mê được Ribot gọi là lý luận biện
chính [25],
nghĩa là cái tuỳ phụ được đưa lên làm chính yếu. Chính lối nguỵ biện này đã kéo
theo những sai lạc khác mang tính quyết định, nghĩa là như chúng ta vừa nói, nó
làm người đam mê rời xa những giá trị tinh thần siêu việt.
Bởi đó, tri thức đúng nghĩa là một sự hiểu biết
thực tại chứ không phải là một lối nguy biện làm xa rời sự thật, làm tha hoá
con người. Vì như triết gia Hégel nói: đam
mê làm cho con người trở nên vĩ đại, là những người làm chủ bản thân và trưởng
thành trong phán đoán.
Ngay từ số đầu tiên nói về chủ đề này, sách
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (GLHTCG) đã viết: “Thuật ngữ ‘đam mê’ nằm trong di sản Kitô giáo” [26].
Chúng ta dễ dàng chấp nhận khẳng định này vì đam mê là một sinh hoạt ôm trọn cuộc
sống hiện sinh mà đức tin Kitô giáo lại là nền tảng mọi đời sống tín hữu nên
dành riêng một phần lớn trong nền luân lý và đạo đức của mình, quả là điều
chính đáng. Giáo hội như người mẹ nuôi dưỡng và bao bọc con cái, đồng thời dạy
dỗ và định hướng đời sống cho từng thành viên trong “gia đình" thiêng
liêng và rộng lớn. Vì không nhất thống về quan điểm nên trong Giáo hội đã có
nhiều ngộ nhận đáng tiếc liên quan đến vấn đề đam mê. Điều này được minh chứng
rõ rệt trong lịch sử, đã được các Giáo Phụ bàn đến khá cụ thể và chi tiết cùng
những phương thế điều chỉnh và trị liệu. Riêng thánh Augustino, sau cuộc hoán cải,
đã giúp hậu thế sống và định hướng đam mê theo tinh thần Kitô giáo. Phần này,
chúng ta sẽ bàn riêng trong phần đam mê của ngài. Ở đây, chúng ta làm sáng tỏ định
đề: “Thuật ngữ ‘đam mê’ nằm trong di sản
Kitô giáo”.
Thuật ngữ đam mê, trước hết và trên hết, được
áp dụng cho cuộc đời Đức Kitô. Chúng ta biết rằng hạnh phúc là nhu cầu chính
đáng và cao cả nhất của con người. Ai ai cũng tìm cách đạt đến hạnh phúc cho cuộc
đời mình. Trong nhiều phương thế giúp con người đạt đến điều này chắc hẳn đam
mê là một phương thế tuyệt vời. Ở đây, chúng ta có gương đam mê của Đức Kitô
làm chuẩn mực và định hướng cho nhân loại. Điểm này cũng được trình bày sâu rộng
trong một phần riêng. Nhưng ở đây thiết tưởng, chúng ta cần nhấn mạnh hạnh phúc
mà con người đang tìm kiếm là gì ? Xét cho cùng hạnh phúc thật là chính Chúa.
Tiên vàn, chúng ta cần hiểu di sản Kitô giáo
là gì ? Theo Giáo luật, di sản truyền thống ấy chính là tinh thần, linh đạo và
những gì làm nên căn tính Kitô giáo. Để tránh cho các tín hữu có thể hiểu thuật
ngữ này cách hời hợt và ham hồ, Giáo hội đã đặt chúng trong ngoặc kép với một sự
cẩn trọng, dè dặt và cân nhắc hầu giúp chúng ta sống đúng tinh thần Giáo hội
theo một nghĩa tích cực nhất.
Tiếp đến, chúng ta cần tìm hiểu những đóng
góp của đam mê trong di sản Kitô giáo. “Các
đam mê là thành phần tự nhiên của sinh hoạt tâm lý con người. Chúng nối kết với
đời sống cảm giác và tinh thần. Theo lời Đức Kitô, tâm hồn là nguồn phát xuất
các rung động đam mê (x. Mc 7,21)” [27].
Như thế, đam mê chỉ thực sự trở thành di sản khi nó phát xuất từ một tâm hồn được
Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Vì tự bản chất, đam mê không tốt không xấu. Giáo hội
thật chí lý khi dạy rằng: “Trong đời sống
kitô hữu, Chúa Thánh Thần thực hiện công trình của Ngài, bằng cách huy động mọi
sự nơi con người, kể cả những đau khổ, sợ hãi và buồn phiền, như trong cơn hấp
hối và cuộc khổ nạn của Đức Kitô” [28]. Như thế, khởi đi từ những đam mê của Đức
Kitô trọn cuộc sống nhất là trong cơn hấp hối và cuộc thụ nạn của Ngài cách nào
đó đem ơn cứu độ thành toàn cho mỗi chúng ta. Đó là di sản lớn nhất mà chúng ta
có thể ghi nhận trong suốt chiều dài lịch sử Giáo hội, mở đầu là Đức Kitô rồi đến
các thánh. Có thể nói, mỗi thánh là một đặc nét về nỗi đam mê. Trong giới hạn
sách này, xin nêu bật một vài vị tiêu biểu,[29]
cách nào đó vẫn còn ảnh hưởng trên cuộc đời chúng ta.
Chúng ta không thể tìm ra câu trả lời dứt
khoát về vai trò của đam mê trong di sản của Giáo hội vì như thế, chúng ta sẽ đụng
chạm đến nền luân lý tích cực lấy con người là hình ảnh Thiên Chúa là tiền đề
cho mọi suy tư. Ở đây, chúng ta chỉ nhắc đến điểm căn bản nhất của đam mê. Theo
sách GLHTCG số 1765 đã minh định: “Đam mê
căn bản nhất là tình yêu do điều thiện hảo lôi cuốn. Tình yêu tác động lên ước
muốn điều thiện hảo chưa có và niềm hy vọng sẽ đạt được. Vận hành này chỉ kết
thúc trong hoan lạc và niềm vui do chiếm hữu được điều đó”. Nếu thánh Gioan
đã khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu” (1
Ga 4,16), thì theo một nghĩa nào đó, phải chăng Thiên Chúa là hiện thân của đam
mê ? Đúng hơn, Ngài là đối tượng đam mê của con người. Thật vậy, ngay từ đầu
Thiên Chúa dựng nên con người và đặt trong chúng khát vọng hiệp nhất với Ngài.
Thánh Augustino thật chí lý khi xác quyết: tâm hồn con mãi khắc khoải cho đến
khi được nghỉ yên trong Chúa. Nếu Thiên Chúa là đối tượng đam mê của chúng ta
thì Đức Kitô là gương mẫu và là câu trả lời xác thực nhất cho đam mê của con
người. Vì Ngài là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Chưa hết, Ngài còn là “nỗi đam mê của Thiên Chúa nữa”. Và như
lời khẳng định của ĐTC Benedicto XVI: “ Một
mặt chúng ta thấy mình đứng trước một hình ảnh rất siêu hình của Thiên Chúa:
Thiên Chúa là Đấng Tuyệt đối và là nguồn mạch mọi loài; nhưng mặt khác, chủ tể
tác tạo hoàn vũ này – Logos, Đấng Thượng trí - lại đồng thời là một người biết
yêu với tất cả đam mê của tình yêu thực sự” [30].
Có những người vì quá lý tưởng đời sống vô tội
của Chúa Giêsu và Mẹ Maria, đã kết luận rằng các Ngài không có dục vọng và đam
mê. Theo cha Peschke: “Người không có dục
vọng hay đam mê thì cũng không có khả năng tự vệ, khả năng phát triển và hoàn
thiện” [31].
Thật vậy, nơi bản tính nhân loại của Chúa Giêsu cũng phải thi hành ý muốn
Chúa Cha để có thể tuyên bố mọi sự đã hoàn tất và nên hoàn thiện. Hay nơi Đức
Maria cũng phải có những đam mê nhưng nhờ sự cộng tác của Mẹ trong sự hướng dẫn
của Chúa Thánh Thần để có thể kết thúc trong hoan lạc và niềm vui do đạt trọn vẹn
ý muốn của Thiên Chúa.
Chính khi quá chú trọng đến ơn Chúa mà quên
đi nỗ lực và hợp tác của con người, vô hình trung, chúng ta biến Thuyết Tiền định
thành Thuyết Tất định.
Chúng ta biết rằng, muốn đạt tới mức hoàn hảo
luân lý hay nhân linh, con người cần phải dùng lý trí điều khiển các đam mê. Mà
nơi Chúa Giêsu và Đức Maria, chúng không thể sai lầm do tội nguyên tổ. Chính sự
vô tội của các Ngài chứng thực đam mê của các Ngài hoàn toàn chính đáng.
Thật vậy, đam mê mang giá trị luân lý không
chỉ tuỳ thuộc mức độ liên hệ thực sự với lý trí mà còn tương tác với ý chí nữa
! Theo Cha Peschke, đam mê được chia làm hai loại: đam mê tiền kết và hậu kết [32]
.
Đam
mê tiền kết là đam mê có trước
khi ý chí hoạt động và đồng thời lôi kéo ý chí ưng thuận theo. Đó là trường hợp
các hành vi không tự nguyện. Chẳng hạn, thức ăn ngon dọn trên bàn tự nhiên làm
ta đói và thèm ăn. Bởi đó, nó làm suy giảm ý chí, đôi khi làm tê liệt ý chí
hoàn toàn. Đồng thời, nó thúc giục ta hành động và lối kéo ý chí thuận theo.
Đam mê càng mãnh liệt, lý trí và ý chí càng yếu kém. Đôi lúc, con người không
thực sự tự do lựa chọn. Đam mê này trở thành miếng mồi ngon khiến con người sa
ngã phạm tội.
Chúng ta không thể bỏ qua nguyên tắc này: nếu đam mê làm sút giảm ý chí, thì ngược lại
chúng cũng có thể làm tăng cường hướng đi của ý chí. Điều này được áp dụng
theo nghĩa mạnh trong trường hợp đam mê hậu kết, nghĩa là đam mê đi sau ý chí.
Tất nhiên, đam mê hậu kết không gây ra tình trạng ý chí bị giảm sút. Đã nói đến
hậu kết là ý chí đã ưng thuận hoàn toàn. Tính mãnh liệt của nó được thể hiện trong
cách đáp ứng với đối tượng đam mê. Chúng ta không chỉ ưng thuận một lần thay
cho tất cả vì trong mỗi cảnh huống và khoảnh khắc, nó luôn đặt trước mắt chúng
ta, đòi hỏi sự phán đoán và suy tính của lý trí, đồng thời khả năng chọn lựa của
ý chí tự do. Chọn lựa của chúng ta càng xa lìa mục tiêu tối hậu, nghĩa là càng
xa với ý Chúa thì càng có nguy cơ sai lầm.
Hành vi của đam mê hậu kết có tác động mạnh mẽ
và trực tiếp hơn đam mê tiền kết trên chủ thể. Như sách GLHTCG số 1769 đã minh
định: “Đam mê sẽ tốt nếu góp phần vào một
hành động tốt và xấu trong trường hợp ngược lại. Ý chí ngay thẳng hướng các cảm
xúc về điều thiện và hạnh phúc đích thực; ý chí xấu không chống nổi các đam mê
hỗn loạn và làm chúng trở nên dữ dội hơn. Các cảm xúc và tình cảm có thể được
đón nhận trong các nhân đức, hoặc bị băng hoại trong các thói xấu”. Thật vậy,
yêu thương có thể biến thành bác ái hoặc sắc dục có thể dẫn đến thác loạn.
Như thế, sự phân biệt giữa đam mê tiền kết và
hậu kết chỉ giúp đánh giá mức nặng hoặc nhẹ của hành vi luân lý. Chính ý hướng
có ngay từ đầu xác định đó là đam mê hậu kết và có tính chủ động hơn. Trong khi
đó, đam mê tiền kết không qui nặng về trách nhiệm của đương sự mà xét tuỳ vào sự
yếu đuối của bản thân. Nhưng dù là đam mê nào, yếu tố giáo dục phải đặt hàng đầu,
vì không ai sinh ra đã là thánh mà phải sống đam mê một cách đúng đắn và theo sự
hướng dẫn của Thánh Thần mới khả dĩ nên thánh.
Có thể nói, đây là phần tích cực nhất khi bàn
đến đam mê. Vì chính những yếu tố này định hướng cho những đam mê của bạn. Hơn
nữa, chúng là động lực giúp bạn phấn khích dấn thân sống đam mê như: cuộc phiêu
lưu, cuộc chinh phục và là cách tốt nhất giúp bạn sống thật với chính mình
trong tiến trình hình thành nhân cách và sống hoàn thiện.
Sống đam mê là tự nguyện bước vào một cuộc
phiêu lưu. Thật vậy, phiêu lưu là ra khỏi nhịp sống đơn điệu hằng ngày mà chỉ
có cách sống đam mê mới giúp bạn khám phá những gì mới mẻ. Khi nói đến cuộc
phiêu lưu, bạn có thể nghĩ ngay đến những khó khăn, thử thách. Với những ai sống
an phận thủ thường, những chướng ngại này có thể làm họ thoái lui; trái lại, đó
lại là cơ hội giúp những người sống đam mê dùng ý chí vượt qua. Quả thật, không
một rào cản nào khả dĩ làm chùn bước người đam mê.
Chắc hẳn, phiêu lưu bao hàm một sự liều lĩnh
nào đó. Bạn cần chấp nhận liều lĩnh để tìm cho mình một hướng đi riêng biệt. Vì
ngày nào, bạn vẫn còn sống vì ước muốn của ai đó, bạn vẫn là một tên nô lệ. Đôi
khi bạn sống vì những thao thức hay ước muốn của cha mẹ [33],
cho dù đó là ý hướng ngày lành, nhưng có thể là rào cản khiến bạn không sống
đúng những đam mê của bạn. Và như thế, bạn liều đánh mất chính mình như lời
Parkinson nhận định: “Có quá nhiều người
đánh mất chính mình để làm hài lòng người khác” [34].
Bạn cần xác định hướng đi của mình và ý thức rằng liều lĩnh ở mức cao nhất có
thể là tự tách mình ra khỏi đám đông. Nó mãi mãi là một thách thức lớn mà chỉ
có những người đam mê thực sự mới can đảm sống như vậy.
Một điều bạn cần lưu ý: sống phiêu lưu không
phải là một cuộc lang thang [35].
Nếu lang thang là một tình trạng bấp bênh không định hướng, không đích đến thì
trái lại, phiêu lưu diễn tả một trạng thái tâm hồn luôn rộng mở, luôn nắm bắt
cơ hội và hy vọng đạt đến thành công. Có thể nói, hy vọng là nét đẹp tiêu biểu
của người sống đam mê trong cuộc phiêu lưu. Bởi đó, lang thang là một ảo vọng
trong khi đó, sống phiêu lưu là một khởi đầu đầy hy vọng. Theo thi sĩ Goethe,
lang thang chỉ để than vãn về những ngày đã mất, còn phiêu lưu, hát vang bài ca
hy vọng với niềm cảm hứng, sức mạnh và bí ẩn bên trong.
Trong mọi cuộc chinh phục đều giả thiết bạn
đã xác định đam mê riêng của mình.
Mỗi cuộc chinh phục là một cuộc vượt qua. Thật
vậy, Christopher Columbus phải vượt qua mọi biên giới để có thể khám phá châu Mỹ
như ngày nay. Để chinh phục, bạn phải cần vượt qua. Vượt qua trước hết là vượt
qua bản thân bạn.
Bản thân với những giới hạn nhất định, muốn
chinh phục bạn phải vượt qua. Có hai bước trong tiến trình này: vượt qua (khắc
phục) những sở đoản và phát huy những sở trưởng; từ đó tái lập nỗi đam mê của bạn
[36].
Những yếu tố nội tại này chính bạn phải khai phá vì “ Biết mình biết ta trăm trận
trăm thắng” [37]
là thế ! Có một yếu tố khác, bên ngoài bạn mà bạn cần vượt qua.
Bạn là người của gia đình và xã hội. Cuộc
chinh phục của bạn thường chịu chi phối bởi những gì bạn hấp thụ trong nền văn
hoá ấy, nhưng không vì thế, bạn trở nên người thụ động; trái lại, bạn phải biết
gạn đục khơi trong, nghĩa là biết nắm bắt những gì lợi ích nhằm đáp ứng cho cuộc
chinh phục của bạn. Bạn biết rằng một khi “tách mình” ra khỏi những gì cố hữu,
bạn phải trả một giá rất đắt để giữ lấy xác tín sống đam mê trong cuộc chinh phục
này.
“ Mỗi
người đều là một cá nhân độc đáo, riêng biệt nhưng thông thường cá tính của ta
bị đè nén, uốn nắn theo mẫu mực của xã hội để đồng nhất với người xung quanh.
Chỉ trong đam mê, cá tính của ta mới được vùng dậy để đạp đổ những áp lực của
xã hội và để sống một cuộc sống trung thực. Chỉ có đam mê, ta mới thực sự là
ta” [38].
Qua lời khẳng định của Giáo sư Vĩnh Đễ, chúng ta nhận ra để sống một cuộc sống
trung thực hay để mình thực sự là mình, quả là một thách đố. Chúng ta đang sống
trong một xã hội đề cao việc tiêu thụ và quảng cáo thì những cái vốn hào nhoáng
bên ngoài lại được đánh giá cao, nên đôi khi, một số người dễ bị ảnh hưởng mà sống
vụ hình thức.
Có thể nói, sống thật với chính mình là sống
hài hoà giữa hình thức và nội dung; “tôi có sao thì sống là vậy”. Thật thế, sống
đúng với những xác tín của mình, sống thật với những giá trị mình đã chọn là
cách thể hiện tự do đích thực của một nhân cách trưởng thành. Chúng ta đã biết,
tự do không phải là một hành vi “buông thả” muốn làm gì thì làm nhưng là thái độ
sống trách nhiệm với những gì mình chọn. Và một nhân cách trưởng thành luôn chọn
và sống mở ra với các tương quan. Như thế, bạn không chỉ được mời gọi sống hài
hoà trong chính bản thân mà còn sống chan hoà với mọi người.
Có một sự giằng co giữa bạn và tha nhân nhưng
khi cả hai dẫn đến sự chấp nhận nhau trong mức độ tình người, khi ấy bạn có khả
năng sống chan hoà với mọi người. Bởi đó, sự linh động và thích ứng trong mọi
hoàn cảnh cuộc sống luôn là một trong những đòi hỏi cho người trưởng thành.
Nhưng sự linh động và thích ứng chúng ta nói đây vượt qua mức độ cho phép thông
thường thì nó biến thành một kiểu đối phó và luồn lách sự thật.
Đến đây, bạn cần xác định lại đam mê của mình
vì chỉ khi bạn biết mình sống đam mê gì và nó có liên hệ hỗ tương thế nào với
đam mê của tha nhân, bạn mới thực sự dấn thân phục vụ thiện ích chung. Và khi
đó, bạn mới khả dĩ tìm cách thức xứng hợp diễn tả đam mê của mình trong tương
quan với tha nhân. Bạn là thi sĩ dệt nên những vần thơ tuyệt đẹp, tôi là nhạc
sĩ mượn những vần thơ ấy tạo nên một giai điệu mượt mà. Như thế, đam mê của bạn
và tôi đã tìm được chỗ đứng trong lòng mọi người. Trong một khoảnh khắc nào đó,
tôi với bạn nên một trong tinh thần. Và chỉ những người sống thật với chính
mình mới tìm được bản thân trong lòng tha nhân.
Đây
là mặt tối của cuộc sống. Phần này chúng ta không đi sâu vào đời tư của một
nhân vật nào; những gì được bàn đến là những mặt nổi mà ai cũng có thể quan sát
được. Chỉ dùng những sự kiện ấy để phân tích về mặt trái của 3 nỗi đam mê vẫn hằng
đeo bám con người: DANH, LỢI và THÚ.
Ở
giai đoạn tuổi mới lớn, con người dễ thiên hướng đi tìm và xây dựng cho mình một
mẫu người lý tưởng, một thần tượng cho bản thân. Bước sang giai đoạn tuổi trưởng
thành, con người chứng tỏ bản lĩnh, khẳng định bản thân và cố tạo cho mình một
“Danh ”khác biệt, độc đáo. Điều này biểu hiện một khuynh hướng quy ngã, quy về
bản thân. Thần tượng ngày xưa đã bị xoá sổ và được thay thế: cái tôi trở thành
trung tâm của vũ trụ, nghĩa là danh tôi phải được mọi người biết đến.
Chúng ta biết rằng danh vọng là điều người khác nghĩ về
mình: nay khen mai chê, nay còn mai mất. Đến ngay như một Alexander Đại đế, một
người chinh phục cả thế giới mà đến cuối đời lại tự coi mình là một kẻ thất bại.
Truyện
kể rằng, vào một ngày trở thành người chinh phục được cả thế giới, ông đã đóng
cửa phòng ngồi khóc.
Những
tướng lĩnh của ông rất lấy làm ngạc nhiên và lo lắng; vì chưa từng thấy ông
khóc bao giờ. Họ đã từng sát cánh cùng ông vào những giờ phút hiểm nghèo nhất.
Đôi khi cả cái chết kề bên nhưng họ cũng không hề thấy trên gương mặt của ông tỏ
vẻ thất vọng. Ông luôn là tấm gương về sự dũng cảm. Thế mà giờ đây điều gì đã xảy
ra, khi mà cả thế giới đã bị ông chinh phục ?
Họ gõ
cửa phòng ông và hỏi:
-Thưa
ngài, tại sao ngài lại khóc, điều gì đã xảy ra ?
Alexander
Đại đế trả lời:
-Bây
giờ ta trở thành người chiến thắng thì ta hiểu ra rằng ta đã thất bại. Bây giờ
trong lòng ta sự chinh phục vô nghĩa đang trỗi dậy. Điều này chỉ bây giờ mới biết,
bởi vì trước đây ta luôn ở trên đường, có mục đích. Bây giờ ta không còn biết
đi đâu, chinh phục ai nữa. Ta cảm thấy bên trong mình có một sự trống rỗng khủng
khiếp. Ta đã thất bại.
Chắc
bạn đã rõ, mục đích của ông là danh vọng, và khi đã dạt đến đỉnh cao của danh vọng,
ông hụt hẫng và thất vọng. Ông từ nhận mình là kẻ thất bại. Thất bại vì đã đặt
sai cùng đích đời mình bằng những sự phù hoa nay còn mai mất. Đúng là bản chất
sự vật ở thế gian này đều vô thường. Mà đã ngộ ra điều này, vị Đại đế phải mất
cả đời người để trả giá. Càng đuổi bám theo danh vọng thì ông càng phí sức mà
chẳng bao giờ giữ nó được mãi trong tay. Cái bóng danh vọng đã choán tầm nhìn của
ông về thực tại trên cao.
Cuối
cùng, ông đã chết vào năm 33 tuổi. Khi đưa ông đến nơi an táng, người ta thấy
hai cánh tay của ông thò ra ngoài quan tài. Đấy là người ta làm theo lời di
chúc của ông. Ông muốn cho người đời nhìn thấy rằng mình từ giã cõi đời với hai
bàn tay trắng.
Nếu
như danh tiếng, danh vọng là điều người
khác nghĩ về bạn thì danh tánh là điều
Chúa biết về bạn. Nhưng có bao giờ Chúa không biết tôi không ? Dụ ngôn Mười cô
trinh nữ đã để lại trong tôi vấn nạn lớn đó.
Dụ
ngôn kể rằng, sau khi 5 cô khôn vào dự tiệc cưới với Tân lang, rồi người ta
đóng cửa lại. Sau cùng 5 cô còn lại cũng đến gõ cửa. Tân lang đã trả lời: “ Tôi
bảo thật các cô, Tôi không biết các cô” (x. Mt 25,1-13). Tân lang ấy là Chúa
Giêsu, lại trả lời: Tôi không biết các cô là sao ? Có bao giờ Chúa không biết
tôi không ?
Muôn
loài, muôn vật nhờ Ngài mà có. Thế sao Ngài lại bảo: Ta không biết ngươi ?
Hoá
ra sự toàn năng của Ngài không bao trùm hết vạn vật ? Ngài đã không biết tôi ? Ngài
đã loại tôi ra khỏi trái tim yêu thương của Ngài ?
Lời của
Chúa như cứ chất vấn tôi, lởn vởn trong đầu tôi cho đến một ngày tôi đang sống
trong cảnh mất phương hướng, trở nên xa lạ với bản thân. Tôi mới ngộ ra: mình
đã trở nên tha hoá, xa lạ với chính mình. Tôi không còn nhận ra tôi. Tôi không
còn phải là tôi. Khi ấy, Lời Chúa vọng lại: Ta
không biết ngươi.
Bao nỗ
lực đi tìm danh vọng, bao cố gắng chinh phục con người, tôi trở nên xa lạ với
chính mình. Quả thật, khi tôi muốn làm vừa lòng mọi người, tôi liều đánh mất bản
thân. Khi tôi đi tìm sự trọng vọng và ngưỡng mộ của người khác cách quá đáng và
bất chính, tôi đánh mất chính mình. Ngay khi tôi chinh phục cả thế giới mà thiệt
hại mạng sống thì được ích gì ?
Chưa
hết, danh vọng còn liên hệ trực tiếp với một kẻ tên là độc tài. Khi nó mưu cầu vị thế độc tôn, độc đoán và áp đặt ý muốn của
mình lên người khác như một kẻ độc tài. Hậu quả là cảm xúc của người khác không
được bộc lộ và do dồn nén lâu ngày, nó tạo nên một sự chống đối khủng khiếp. Với
thời gian, nó sẽ tạo thành khối u ác tính lây lan và phá hoại cả tập thể. Đam
mê danh vọng và độc tài như thế chỉ là hiện trạng thác loạn của những kẻ mất tự
chủ. Nó làm giảm phẩm chất cuộc sống con người. Không những thế, nó còn tạo ra
chứng rối loạn nhân cách, nói chi đến việc hoàn thiện bản thân.
Ngày
nay, chúng ta nghe nói nhiều đến cuộc khủng hoảng căn tính: “ Cái tôi là”. Nguyên nhân chính là do con
người lẫn lộn giữa “ Cái tôi có” và “ Cái tôi là”, hay nói theo triết gia
Gabriel Marcel phạm trù “ Chiếm hữu” và “ hiện hưũ”. Thật vậy, cái
chúng ta chiếm hữu là những gì bên
ngoài ta, nó được thêm vào hay bớt đi cũng được. Chúng ta có quyền sử dụng và cả
việc chuyển nhượng chúng nữa! Trái lại, phạm trù hiện hưũ là cái cốt cách làm nên trọn vẹn con người tôi. Không ai
có quyền lấy đi và xúc phạm nó. Hiện hưũ
là chính thực tại còn chiếm hữu là
cái tuỳ phụ gắn thêm vào. Theo triết gia
Gabriel Marcel, chính tương quan biện chứng và ảnh hưởng qua lại giữa người chiếm hữu ( tôi là) và vật chiếm hữu, tạo nên một cuộc khủng hoảng
căn tính.
Cả
hai chiều kích trên được chủ thể đón nhận cách tích cực trong cuộc hiện sinh
nên khó phân biệt. Chỉ khi xảy ra một cuộc tước đoạt toàn diện, nghĩa là tách
riêng hai phạm trù xem cái nào tồn tại, cái nào chính, cái nào phụ. Triết gia
và nhà tâm lý Viktor E. Frankl sẽ giúp ta làm sáng tỏ. Điều xảy ra trong trại tập
trung Auschwitz của Đức Quốc Xã , những người bị bắt, họ sẽ bị tước lột mọi sự
ngay cả vật che thân. Đứng trước thực tại này, ai cảm thấy bị xúc phạm, bị mất
tất cả, họ dễ dàng dây mình vào giàn kẽm gai điện mà chết đi. Còn ai ý thức sự
hiện hữu lớn lao của hữu thể mình, họ vẫn sống. Và theo ông: “ Sức mạnh bên trong của con người có thể đưa
ngươì ấy vượt lên số phận nghiệt ngã của mình” [39].
Nhưng
thực tế cho thấy, con người chỉ biết chiếm hữu, chiếm đoạt, sống thực dụng và lấy
những vật chiếm hữu ( học vị, xe hơi…) làm thước đo mọi sự. Họ khá tự tin, khi
thấy mình có gía trị và được tôn trọng
vì họ có khả năng làm ra của cải phục vụ đồng loại. Điều này kéo theo
các mối tương quan của họ chỉ dựa trên lợi nhuận: Ai làm ích lợi cho tôi thì
tôi chơi … và nghĩ rằng có thể giải quyết mọi sự dựa trên tiền bạc, của cải. Họ
lợi dụng và coi tha nhân như phương tiện giúp đạt mục đích của mình. Luôn bận rộn
với công việc, họ trở thành người sống hời hợt thiếu chiều sâu; nên khi gặp nghịch
những cảnh, họ sống đối phó. Do thiếu sức mạnh từ bên trong, họ sống đối phó.
Do thiếu sức mạnh từ bên trong, họ khó vượt qua. Do không tìm ra lợi ích hay ý
nghĩa trong biến cố, nghịch cảnh họ thất vọng, buông xuôi. Khi bị ai sống lợi dụng,
họ thu mình vào vỏ ốc bản thân, bo bo, sống ích kỷ, tìm thú vui và hưởng thụ
riêng mình. Thi sĩ R.Tagore đã mô tả về họ:
“ Tại sao ánh đèn bị tắt ?
Ánh đèn đã tắt vì tôi ích kỷ lấy vạt áo
che đậy
Để hưởng thụ một mình tôi, nên ánh đèn đã
tắt.
Tại sao bông hoa đã héo?
Bông hoa đã héo vì tôi ích kỷ ép sát nó
vào ngực
Để hưởng thụ một mình tôi nên bông hoa đã
héo…[40]
Hay như nhà thần học Maurice Zundel đã dùng hình ảnh thật
thú vị: một đứa bé ích kỷ giấu con chim đẹp trong vạt áo, đến một lúc, nó đã mổ
sạch ruột của cậu. Bởi vậy, những ai quá đề cao vật chiếm hữu, chính nó sẽ huỷ
hoại họ.
Ích kỷ
là thái độ sống nông cạn và tầm thường nhất. Dần dà họ trở nên thờ ơ và bàng
quan trước nỗi bất hạnh của tha nhân. Họ không có giờ để chia sẻ ít là một nụ
cười, một câu chào hỏi. Nếu ta thấy xuất hiện nơi họ những hành vi xem ra tốt
lành như thế thì cũng mặc lấy một ý hướng thiếu lành mạnh, nó len lỏi vào ngõ
ngách để rút tỉa quyền lợi của người khác. Thái độ qui kỷ này phản ánh một tâm
thức ấu trĩ. Chính thái độ nhận lãnh mà không biết cho đi tạo nên một không
gian “biển chết” nơi họ. Mặc dù, họ thủ đắc rất nhiều thứ nhưng vẫn là một người
nghèo vì không có khả năng chia sẻ và cho đi. Mọi tương quan của họ đều dựa
trên vật chất và quyền lợi bản thân. Với một tâm thức thực dụng như thế, họ mất
dần cảm thức về sự thánh thiêng và ý thức trách nhiệm.
Trong
Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu,
thông điệp đầu tiên của triều đại Giáo Hoàng, từ những số đầu, Đức Bênêditô XVI
đã giúp độc giả có một hướng nhìn đúng đắn về khái niệm “Eros” (Tình ái) mà một số người chỉ hiểu là tình dục. Ngài nói đến trong các tôn giáo, có các giáo phái tôn thờ
khả năng sinh sản, chẳng hạn như tục mại dâm “linh thiêng” nở rộ trong nhiều đền
thờ. Eros, vì thế được thờ như một thứ quyền năng thiêng liêng, đồng hàng với
Thiên Chúa [41].
Tuy nhiên, việc đề cao quá đáng tính dục đến nỗi thần thánh hoá chúng, chắc hẳn,
đồng thời hạ thấp con người. Ngài trích dẫn: nhưng gái điểm trong các đền thờ,
những người phải cúi đầu trước trạng thái say sưa thần bí này đã không được đối
xử như con người. Điều này kéo theo hệ luỵ, là thân xác con người bị khinh chê.
Có thời, người ta coi thân xác là mồ chôn của linh hồn và đời sống tính dục như một sự hạ cấp, thấp hèn không đáng bàn đến.
Một
điều chúng ta cần khẳng định: tính dục chỉ có ý nghĩa và chỉ được thực hiện một
cách lành mạnh và hợp lẽ thường trong khuôn khổ tình yêu vợ chồng và việc thông
truyền sự sống. Ra khỏi khuôn khổ này, nó bị coi là thói đam mê sắc dục, mà
thánh Phaolô gọi là đam mê của tính xác thịt. Thánh Gioan lại xếp nó vào những
mối thị dục và gọi chúng là dục vọng của đôi mắt. Ngài có lý khi cảnh giác
chúng ta phải canh chừng đôi mắt. Vì vua David khi xưa, với khả năng làm chủ đội
quân, đã đánh dẹp quân loạn; làm vua, làm chủ cả vận mệnh đất nước. Thế mà, vua
đã không làm chủ được bản thân, không canh chừng được đôi mắt khiến đam mê sắc
dục lộng hành, dẫn đến những hậu quả khôn lường như chúng ta đã biết.
Thánh
Augustino cũng có kinh nghiệm này, ngài viết trong cuốn Tự thuật: “Suốt ngày, bao lâu con tỉnh thức, chúng quấy
quả con, không để con được yên tĩnh… ban ngày, bất cứ ở đâu, nó mơn trớn con bằng
muôn vàn cách, mặc dù khi con làm việc khác và không lưu tâm đến nó. Nhưng nó
xâm nhập quá mạnh đến nỗi, nếu bất thần nó biến đi, thì người ta ước ao tìm kiếm
nó; và giả như nó vắng bóng lâu, thì tâm hồn người ta đâm ra buồn chán” [42].
Hiểu thấu nguy hiểm của dục vọng đôi mắt, thánh nhân đã dạy các môn đệ trong tu
luật: “Nếu anh em thấy ai không giữ con mắt
như đã nói, hãy khuyến cáo họ ngay để điều trái ấy được chữa trị kịp thời và khỏi
nặng nề hơn”, ngài con trích dẫn Kinh thánh: “Chúa ghê tởm những người cắm mắt vào phụ nữ” [43].
Đam
mê này thời nào cũng có, nhưng ngày nay nó được phổ biến, quảng bá trên các
phương tiện công chúng mà người ta không còn phải nhọc công đi tìm. Bằng chứng
rõ rệt nhất có thể thấy nơi công nghệ quảng cáo tiếp thị ngày nay; sử dung những
hình ảnh khiêu dâm để giới thiệu sản phẩm, hấp dẫn khách hàng… Thoạt nhìn, những
hình ảnh có vẻ vô thưởng vô phạt nhưng là những chất liệu đầu độc ám ảnh và chi
phối toàn bộ đời sống con người. Những dịp
ấy dẫn đến sa ngã là một khoảng cách rất mong manh. Họ không chỉ tự tìm
khoái lạc bản thân mà còn kéo theo những hệ lụy, lối sống tiền hôn nhân, sống
thử… Trong những hoàn cảnh đó, tính dục thay vì là khả năng xây dựng hạnh phúc
gia đình, lại trở nên nguyên cớ làm tha hóa con người. Con người hiện đại có thể
bị tha hóa bằng nhiều cách, nhưng một trong những hình thức tha hóa nhất chính
là tính dục.
Nhưng
không vì thế, chúng ta có thể cự tuyệt năng lực ấy. Như S. Freud và C. Jung đã
từng quả quyết: con người không thể hoàn
toàn loại bỏ, bóp nghẹt hay phủ nhận những ham muốn thể xác mà không bị loạn thần
kinh chức năng. Còn thi sĩ Gibran nói: “ Khi tự mình khước từ lạc thú, các bạn chỉ tích trữ khát vọng ấy vào chỗ
sâu kín của hữu thể mình”.[44]
Thật vậy, chúng ta không thể khước từ lạc thú hay khoái lạc vì như thế vương hại
đến toàn bộ đời sống con người. Mặc dù cảm nghiệm của thú vui này chóng qua
nhưng nó lại là thành phần thiết yếu của cuộc sống. Những khoảnh khắc thi vị ấy
luôn truyền tải một sứ điệp niềm vui cho đời sống mới. Song, vì lẫn lộn nó với
hạnh phúc thực sự nên có người đã sai lầm khi tìm kiếm nó như cứu cánh đời
mình.
Dường
như chúng ta chưa bao giờ làm việc gì mà không mang theo cái tôi hưởng thụ. Tất
nhiên, hưởng thụ là nhu cầu chính
đáng của con người, nhưng nếu hưởng thụ chỉ để thoả mãn cái tôi của mình thì bản
thân không được thực sự lớn lên. Vì những giá trị tinh thần mới giúp con người
lớn lên vượt qua những vui thú và ham muốn hạ đẳng.
Để kết
luận phần này xin đơn cử trường hợp của anh Tiger Woods, vận động viên chơi
golf từng chiếm giải quán quân nhiều năm và đã từng là một huyền thoại cho người
Mỹ. Mỗi lần lãnh giải vô địch, anh không ngừng đề cao đời sống hôn nhân. Có lần
anh khẳng định: “ Hôn nhân là liều thuốc
bổ cho trái tim, là phép mầu cho những chiến thắng của tôi và giúp tôi tìm lại
phong độ của chính mình”. Lần khác anh còn quả quyết mạnh mẽ hơn: “ Hôn nhân là một điều kỳ diệu. Nó thực sự
đã giúp tôi chơi tốt hơn tại mỗi giải đấu. Trở về nhà từ một trận đấu căng thẳng
tôi luôn cảm thấy thoải mái khi đón nhận những nụ cười dễ thương từ người vợ
yêu quí và mọi mệt mỏi trên gương mặt dường như biến mất khi Elin trao cho tôi
những nụ hôn ngọt ngào. Từ khi cô ấy bước vào đời tôi, mọi chuyện trở nên tốt đẹp
hơn nhiều”.
Với
những lời bộc bạch trên, chúng ta nhận thấy dường như danh vọng và lợi thú đều
mỉm cười với anh. Nếu những lời ấy thốt ra từ một con tim rất chân thành và một
xác tín lớn lao về đời sống hôn nhân thì những lời tự thú dưới đây là một sự thật
mà Elin, cựu người mẫu, vợ của anh phải hứng chịu.
Huyền
thoại golf người Mỹ này lại là một kẻ nghiện sex. Anh thú nhận đã quan hệ thể
xác với gần 20 phụ nữ đủ mọi tầng lớp, từ diễn viên phim khiêu dâm đến nhân
viên hầu bàn, chưa kể những người tình một đêm. Bạn thử nghĩ xem, anh ta đón
nhân tình về nhà quan hệ trong phòng làm việc khi cô vợ đang ở nhà và chăm sóc
hai đứa con nhỏ cách đó vài phòng.
Cuối
cùng, anh phải chấp nhận một cuộc chia tay trong nước mắt và không bao giờ trở
lại dù anh đã nhiều lần công khai xin lỗi người vợ.
Như
thế, đam mê thể thao giúp anh đạt đến những đỉnh cao danh vọng, mang lại cho
anh cuộc sống vui khoẻ và hạnh phúc bên người vợ một thời gian; đồng thời, đam
mê ấy nên cớ khiến anh trở thành kẻ phục vụ cho những ham muốn thấp hèn.
Tiger
Woods được tự do chọn cách sống đam mê của mình và bạn cũng khả dĩ khẳng định
mình qua những đam mê nhưng hãy dựa theo những tiêu chí là các giá trị tinh thần,
giúp nâng cao cuộc sống hiện tại.
Sống
đam mê là sống lời mời gọi hoàn thành định mệnh đời mình. Mỗi người sinh ra, Chúa trao cho mỗi loại nén
bạc, thiên hướng khác nhau. Chính nét riêng, duy nhất, độc đáo ấy làm nên một
cuộc hành trình giúp mỗi người tiến về Chân – Thiện – Mỹ. Bạn sinh ra, Chúa ban
cho một đôi tai bén nhạy khả dĩ lắng nghe những nốt nhạc tinh tế nhất. Người
khác sinh ra, Chúa ban cho giọng hát mượt mà có thể cất cao, ngân nga những
giai điệu trầm bổng. Người khác nữa sinh ra, Chúa ban cho cặp mắt nghệ thuật và
đôi tay điêu luyện khả dĩ vẽ nên những vẻ đẹp thiên nhiên… Khi sống nỗi đam mê
riêng ấy, họ đi vào quỹ đạo ý muốn của Đấng Tạo Hóa và giúp hoàn
thành định mệnh đời mình.
Có lần họa sĩ Nguyễn Gia Trí đã tâm sự những
lời thật sâu sắc: “Đừng nghĩ đến kết quả
của tranh, hay kết quả của đời nghệ sĩ. Hãy yêu và say mê cái đẹp. Đối với họa
sĩ, vẽ tranh là một cách thể hiện Đạo, mà đi Đạo là để đạt được ‘Vô ngã’ và chỉ
khi mình ‘vô ngã’ nghệ thuật mới bắt đầu… Nghệ thuật là phương tiện để mình đi
vào thế giới chưa từng biết và hội họa gần với tôn giáo, vì nó phát xuất từ tâm
người ta. Nó không phải làm bằng óc hay làm bằng tay”.[45] Như thế theo ông, đam mê nghệ thuật
giúp mình dễ dàng tìm đến tôn giáo, nơi sống và thực hiện một cuộc hạnh ngộ với
Đấng Tạo Hóa.
Philomina Agudo, một nhà tâm lý trị liệu, tác
giả quyển sách Ta đã chọn con, có lần
ngài chia sẻ kinh nghiệm: “Tôi đã gặp một
thân chủ có khả năng hội họa nhưng ông đã không bao giờ phát huy năng khiếu ấy,
mà lại còn tự khiển trách vì đã phung phí thời giờ vào chuyện vẽ vời. Ông vất bỏ
cọ, sơn để hãm mình. Ông trở nên trầm cảm và vài năm sau thì muốn tự vẫn. Trong
thời gian điều trị, tôi khuyên ông vẽ tranh. Ông càng vẽ thì sự trầm cảm và ý
muốn tự vẫn dần dần biến mất. Ông lấy lại sự quân bình cảm xúc khi ông được tự
do phát huy các tài năng Chúa ban” [46].
Chúng ta thử hỏi, tại sao ông ấy muốn tự vẫn
? Phải chăng ông cảm nhận cuộc sống vô nghĩa, là người vô dụng. Chỉ khi ông tái
khám phá năng lực bản thân và sống như một người đam mê, và khi đó, ông vinh dự
hoàn thành nỗi đam mê như một sứ mạng.
Không ai có thể thay thế và đảm nhận thay ông sứ mạng đó.
Một khi mỗi chúng ta ý thức đam mê nào đó là
sứ mạng ta được hoàn thành thì sống hay chết với nó đều là một vinh dự.
Cha Maurice Zundel có kể một câu chuyện chính
ngài mục kích. Một bác sĩ ở vùng quê thấm mệt vì công tác phục vụ. Nghe tin một
người bị bệnh nguy kịch cần được mổ kịp thời, bác sĩ nuốt miếng cơm xong lại tiếp
tục tham gia ca mổ. Ca mổ vừa xong và thành công, bác sĩ trút hơi thở cuối cùng
tại bàn mổ.
Có thể nói vị bác sĩ này sống đến cùng nỗi
đam mê phục vụ con người và nếu có thể nói được lời gì cuối cùng, có lẽ bác sĩ
sẽ nói: “tôi đã hoàn tất”. Ở đây,
chúng ta mới thấy đam mê khác hẳn với cảm xúc. Cảm xúc khi không gặp điều kiện
thuận lợi có thể tháo lui; trái lại, đam mê bất chấp điều kiện bên ngoài, vẫn
miệt mài theo đuổi đối tượng đam mê.
Hồi ký của linh mục trẻ miền Bắc viết về vị
cha bố của mình, ghi lại rằng: lúc ấy ngài là một chú giúp lễ đến báo cho cha bố
về một bà lão ở vùng sâu đang chờ linh mục đến ban các bí tích sau cùng. Khổ nỗi,
lúc ấy vị cha già cũng đang bị một cơn đau dằn vặt, cản mấy cha cũng quyết định
đi và nói rằng: “Cha muốn chết đang lúc
thi hành sứ vụ”. Và cha đã ra khỏi nhà giữa cái lạnh khắc nghiệt của trời
miền Bắc. Đến nơi, cha làm bí tích sau cùng cho bà lão; xong việc, cha cũng
trút hơi thở cuối cùng trước sự ngỡ ngàng của bao người hiện diện. Hình ảnh ấy
ăn sâu trong ký ức của cậu giúp lễ, và đó là khởi đầu của một cuộc tìm Chúa của
cậu.
Cha đã sống và chết với nỗi đam mê phục vụ
con người với một ao ước nhỏ bé: “cha muốn
chết đang lúc thi hành sứ vụ”.
Từ hai câu chuyện trên về vị bác sĩ và vị
linh mục, chúng ta rút ra một kết luận khi họ sống nỗi đam mê, có một ý hướng
hay cảm thức hướng dẫn họ, nó như bột men vùi trong đấu bột, mầm sống ấy có thể
là: vinh dự của tôi là phục vụ bệnh nhân hay ước muốn của tôi là sống, chết cho
sứ vụ Chúa trao... Cảm thức ấy đeo bám con người không như loài ký sinh trùng
giết chết chủ mình nhưng cảm thức sống và chi phối mọi sinh hoạt của con người
đam mê.
Ngoài những cảm thức chi phối sinh hoạt đam
mê, chúng ta còn nhận thấy những khoái lạc.
Đam mê lành mạnh và đích thực mang lại cho con người khoái lạc “vô vi” và chính đáng. Chẳng hạn, nhà hóa học
Dany đã nhảy múa trong phòng thí nghiệm, lúc ông khám phá ra chất
Potassium. Đó là những khoảnh khắc hạnh phúc bất ngờ của người sống hoài nỗi
đam mê.
Những bước thành công được người đời đón nhận
là một xác tín sâu xa của người đam mê. Nhưng cũng có thứ khoái lạc tinh thần
được diễn tả trong đời thường khiến ta phải ngẫm nghĩ, như trường hợp của nhà
khoa học Archimède. Nhà vật lý này tìm ra nguyên lý lực đẩy. Một lần ông ngâm
mình trong bồn tắm, chợt nhận thấy nước tràn ra đúng bằng thể tích cơ thể mình.
Bỗng một ánh sáng tư duy vụt lóe lên trong đầu ông. Ông chạy ra ngoài phố mà
trên người không một mảnh vải và reo hò như phát cuồng “Eureca, Eureca” (đã thấy rồi, đã thấy rồi). Mọi người ngoài phố
cũng nhìn ông và bảo “ chúng tôi đã thấy rồi”.
Như thế, chúng ta thấy, đôi khi đối tượng cuốn
hút người đam mê khiến họ không còn biết tình trạng của mình thế nào và đang ở
đâu. Điểm mạnh của người sống đam mê là có thể dồn sức chú ý vào đối tượng.
Một đặc tính khác của đam mê là luôn ở thế chủ động. Đam mê ví như một
chất bôi trơn và lực đẩy mạnh mẽ. Động cơ không thể hoạt động tốt, nếu không đủ
chất bôi trơn, thì đam mê cũng vậy, nó kích động, huy động và phát động mọi
năng lực sáng tạo. Đam mê không chấp nhận thói quen, tập quán, những gì làm cho
cuộc sống đơn điệu; đam mê luôn tiên phong trong “cuộc cách mạng”. Chắc hẳn,
cách mạng không có nghĩa là thay đổi toàn diện sinh hoạt con người nhưng chỉ
làm mới những gì liên quan đến đối tượng đam mê. Cụ thể hơn, thói quen, tập quán
tạo nên nếp sống kỷ luật thường ngày, còn đam mê sẽ làm mới bằng cách giúp thể
hiện nét độc đáo duy nhất trong mọi sinh hoạt và tương quan. Chẳng hạn, một ca
sĩ có thể nghêu ngao đang khi quét nhà hoặc nấu ăn.
Ngoài ra, đam
mê còn có tham vọng chinh phục mọi đỉnh cao. Chúng ta có thể hình dung người
đam mê leo núi, họ chuẩn bị những vật dụng và cả thức ăn cần thiết để đáp ứng
trong suốt quá trình này; thay vì đáp trực thăng để đến đỉnh núi sớm hơn. Người
sống đam mê luôn phiêu lưu. Đam mê thích khẳng định mình. Vì thế, chúng ta dễ
nhận ra có những niềm vui, khoái lạc bất ngờ tạo nên nơi người đam mê một cá
tính mạnh mẽ. Hay đơn giản là việc nấu ăn, đam mê của người nội trợ là tìm tòi,
nghiên cứu ngay cả việc thử nghiệm để có thể có một bữa ăn hoàn hảo hơn hầu phục
vụ và đáp ứng nhu cầu ăn uống cho người khác.
Cuối cùng, chúng ta có thể khẳng định rằng
đam mê thuộc khuynh hướng bẩm sinh, nên không thể bị hủy diệt. Có những trường
hợp đam mê phát sinh do hoàn cảnh hay điều kiện môi trường, có thể bị mất đi. Chẳng
hạn, lúc có tiền, có thể thưởng thức âm nhạc nhưng khi do điều kiện khó khăn,
do làm ăn buộc phải từ bỏ đam mê ấy. Xét cho cùng, nó chưa thực sự là đam mê,
nó chỉ là sở thích giúp giải trí. Còn đam mê là khuynh hướng không thể hủy diệt.
Chúng ta chỉ có thể chuyển hướng từ những đam mê tầm thường sang cao thượng, hầu
giúp thăng hoa cuộc sống. Đam mê là hương vị của cuộc sống giúp hoàn thành định
mệnh Chúa trao.
Đam mê, tự thân là một giá trị và khi nó được
phối hợp với các giá trị khác, chúng làm phong phú và tăng vẻ đẹp cho nhau. Trước
tiên, chúng ta nói đến phẩm giá con người.
Có thể nói, từ đứa trẻ sơ sinh chưa làm được
gì cho mình hay cho người khác đến một anh hùng xả thân phục vụ thiện ích
chung, nơi họ phẩm giá đều như nhau. Thật vậy, phẩm giá con người là một thực tại
tĩnh, trước sau như một không thay đổi. Mỗi con người vừa sinh ra, được hiện hữu
nghĩa là phẩm giá của họ phải được thừa nhận và tôn trọng trong cộng đồng nhân
loại. Như thế, đam mê chẳng thêm được gì cho phẩm tính của nó nhưng có thể làm
tăng vẻ đẹp. Phẩm giá của mọi người như nhau, song, chính đam mê lành mạnh khiến
họ trở nên đáng yêu và cách nào đó đáng được tôn trọng.
Nếu như phẩm giá con người được xét chung
trong cộng đồng nhân loại thì nhân vị
lại nói lên tính độc đáo của mỗi cá nhân. Vì như Đức Cha Nguyễn Thái Hợp đã gợi
ý một định nghĩa: “Nhân vị là một hữu thể
tự tại, bất khả phân chia, cá biệt và do đó độc đáo vô nhị. Tuy nhiên nhân vị
không phải là một hữu thể khép kín, mà tự bản chất là một hữu thể tương quan và
mở rộng cho tha nhân, cũng như cho xã hội” [47].
Người đam mê thường có cá tính mạnh mẽ, nó giúp định hình trong sự khác biệt
của mỗi nhân vị. Theo thánh Toma, thú vật cũng có một số hình thái đam mê nhưng
chỉ ở cấp thấp; lại nữa, nó có thể chỉ mang đặc tính theo giống loài. Còn con
người, yếu tố độc đáo được thể hiện một cách cá vị. Vậy khi nói đến niềm đam mê
này chúng ta nghĩ ngay đến người đó và nếu có cùng một đam mê đặc loại như hội
hoạ chẳng hạn, mỗi cá thể cũng có một phong thái rất đặc trưng theo nghành hội
họa. Nói như thế, đam mê cũng chẳng thêm gì cho phẩm tính của nhân vị nhưng nó
giúp phân biệt từng cá vị trong cộng đồng nhân loại.
Đi xa thêm bước nữa, chúng ta nói đến phẩm vị của mỗi người. Phẩm vị của mỗi
người nói chung là sự cao cả của địa vị họ và sự tôn trọng mà họ xứng đáng lãnh
nhận do địa vị họ mang lại. Về mặt nhân loại, phẩm vị lệ thuộc vào địa vị xã hội
của mỗi người; tất nhiên ông vua khác với thường dân. Còn về mặt tôn giáo và
siêu nhiên, nó lệ thuộc vào mức độ họ kết hợp với Chúa. Như thế, một Giám Mục kết
hợp với Chúa trong chức thánh thì được tôn trọng hơn một giáo dân. Cũng vậy, một
người sống đam mê trở thành vĩ nhân họ đáng được cộng đồng xã hội tôn trọng;
còn một tín hữu sống thân tình với Chúa thì hữu xạ tự nhiên hương. Một bên là
phẩm vị được xã hội công nhận, một bên do ân huệ Chúa ban, chắc hẳn chúng ta hiểu
phẩm vị nào bền vững và đáng trân trọng hơn. Điều này giúp khơi gợi trong chúng
ta sống đam mê những gì cao thượng thuộc về Thiên Chúa.
Chúng ta vừa khẳng định, đam mê tạo sự khác
biệt trong mỗi nhân vị, điều này càng được thể hiện rõ nét nơi nhân cách mỗi
người.
Chúng ta đặt đam mê của mỗi người trong ba
chiều kích: bản thân, tha nhân và Thiên Chúa; đó là những yếu tố cấu thành nhân
cách con người. Để giúp nhân cách thành toàn chắc chắn bản thân người đam mê đã
ý thức đủ về sự hiểu biết cá nhân mình; kế đến, họ tương quan với tha nhân, người
cùng sống đam mê trong một môi trường lành mạnh. Tất nhiên, cả hai cùng bổ túc
và làm phong phú cho nhau như ca sĩ thể hiện thành công ca khúc của một nhạc sĩ
đại tài. Cuối cùng, người đam mê tương quan với Thiên Chúa, Đấng vừa là tác
nhân (ban ân sủng) vừa là đối tượng của đam mê. Quả thật, một nhân cách trưởng thành giả thiết một môi trường đam mê
lý tưởng và những con người sống trong đó cũng chuyên chú một lý tưởng đã được
định hình từ trước.
Một đặc nét của đam mê giúp hình thành nhân cách là sống chân tình và hết mình.
Vì biết cách bộc lộ cảm xúc và đam mê nên họ tránh được mọi căng thẳng, dồn nén
gây hại cho việc hình thành nhân cách. Xét ở cấp độ cao hơn, khi sống cao thượng,
nghĩa là xả thân cho đối tượng đam mê, họ tự tạo cho mình một nhân cách với những nét phong phú và vẻ đẹp rất
riêng tư.
Chưa hết, đam mê còn giúp con người sống tự do và sáng tạo. Người đam mê
thích sống độc đáo nhưng đôi lúc lại bị coi là quá khích. Tất nhiên đòi ta phải
có cái nhìn toàn diện và chân thành; nhưng nhìn chung nó giúp phá tan mọi nếp sống
cũ kỹ, thiếu sáng tạo. Nó giúp con người cởi mở với mọi chiều kích. Kẻ đam mê
tình ái cũng yêu thơ, nhạc, thú vật và mọi cảnh vật thiên nhiên; đi đến đâu, họ
cũng nhận ra bóng dáng người yêu.
Hơn nữa, một người tự do đích thực là một người
hiểu mình hơn ai hết; bao gồm cả những điều lớn lao và giới hạn bản thân. Họ sống
tự do, nhưng không có nghĩa họ tự đủ cho chính mình, song giúp họ mở ra với mọi
thực tại và Đấng Siêu Việt. Chính ý thức về sự cao cả của mình liên hệ với Đấng
trên cao mà con người sống đam mê với những thực tại siêu nhiên: Chân, Thiện, Mỹ…
Một người sáng tạo đúng nghĩa không nhất thiết
phải sống lập dị, vì như thế, họ tự tách mình ra khỏi cộng đồng là nơi giúp họ
trưởng thành về mọi phương diện; cũng không phải là người theo đuổi các cuộc cải
cách, họ kêu gào đổi mới mà lại không biết khởi đầu từ đâu. Một khi đã đánh mất
chính bản chất và căn tính của mình thì cải cách chỉ là thay đổi bộ cánh ngoài
da nhưng thực sự, họ đã bị “biến chất” từ bản chất. Sáng tạo không hệ tại việc khám phá hay sáng chế những gì mới mẻ
nhưng cốt ở cung cách phục vụ giúp chủ thể mỗi ngày một lớn lên và trưởng thành
trong nhân cách.
Cuối cùng, chúng ta không thể bỏ qua giá trị
thiết yếu và tinh tế nhất, đúng hơn, nó gồm tóm mọi giá trị, đó là lương tâm. Sống lương tâm là sống với ý
muốn của Chúa; điều này đặt đam mê trước một rào cản vô hình nhưng mang tính
quyết định. Chúng ta biết rằng một trong những đặc tính nổi bật của đam mê là
vượt qua hết mọi rào cản. Nhưng đứng trước tiếng nói lương tâm, tiên vàn người
đam mê thực sự phải tìm ra ý Chúa. Đó là dấu chỉ chứng thực cho một người tự
do, sáng tạo thực sự hầu giúp đạt đến nhân cách viên thành.
Chúng ta có thể khởi đi từ sự sống là giá trị
căn bản nhất của con người. Nếu như sự sống là điểm khởi đầu của hiện hữu thì
đam mê giúp chủ thể sống triển nở hơn trong cuộc hiện sinh này.
Thời phong kiến, vua chúa nắm quyền sinh sát
đồng loại nhưng ngày nay chính người mẹ nắm quyền sinh sát đứa con mình cưu
mang; đến nỗi, chân phước Têrêsa Calcutta phải đau lòng mà thốt lên rằng: có hai cái chết trong một cuộc phá thai: cái
chết của đứa con và cái chết của linh hồn người mẹ. Những cảnh tượng đại loại
như thế đã khiến chân phước Gioan Phaolô II khẳng định: đây là thời của nền văn hoá
sự chết. Có thể nói, giết người là một sự dữ tuyệt đối mà không có một lý
do nào xác đáng và đủ mạnh để biện minh cho một hành vi tội ác như thế. Sự sống
không còn là ân ban của Thiên Chúa nữa, đứa con xem ra không còn phải là hoa quả
của một tình yêu trao hiến nữa vì nó trở nên gánh nặng khiến người ta phải trục
xuất ra khỏi cuộc đời mình. Ở đây có một thứ đam mê nhục dục, một tình yêu vị kỷ
tiêm nhiễm trong những quyết định của con người. Thay vì đam mê theo ý muốn của
Thiên chúa, là con người trao hiến toàn thân và nên một với nhau trong tình yêu
thì con người lại đắm mình trong mê hoặc thân xác, hưởng thụ lẫn nhau mà không
sống trong phúc lành của Chúa.
Trước khi đi vào tương quan giữa sự sống và
đam mê, thiển nghĩ chúng ta cần khẳng định sự sống ấy vốn thánh thiêng vì đến từ
Thiên Chúa.
Xét cho cùng, người cha người mẹ không tự
mình làm phát sinh một sự sống mới nhưng Thiên Chúa dùng các ngài như những tác
nhân cần thiết và hữu dụng để góp phần trong việc duy trì nòi giống. Tất nhiên,
điều này Giáo hội chỉ chấp nhận khi nó là hoa trái của một tình yêu thực sự.
Như thế, thánh Irênê mới có lý khi khẳng định rằng: vinh quang Thiên Chúa là
con người được sống. Hiện hữu hay sự sống tự nó là một điều thiện hảo vì nó đến
từ Thiên Chúa như thông điệp Tin mừng về Sự sống đã viết: “Sự sống của con người từ Thiên Chúa mà đến, đó là ân huệ của Ngài, là
hình ảnh dấu ấn của Ngài” [48].
Ở chỗ khác, Đức Gioan Phaolô II còn nói rõ hơn: “Sự sống mà Thiên chúa ban tặng
con người là một hồng ân, qua đó Thiên Chúa làm cho thụ tạo tham dự vào cái gì
đó của chính Ngài” [49].
“Cái gì đó của chính Ngài ?” Ở đây, chúng ta phải hiểu là tham dự vào Thiên
tính của Ngài. Bởi đó, Đức Thánh Cha có lý khi khẳng định rằng sự sống con người
mang tính thánh thiêng.
Nếu sự sống là ân ban của Thiên Chúa thì
chúng ta chỉ là người quản lý sự sống như lời cha Peschke khẳng định: “Sự sống thể xác là một món quà Thiên Chúa
trao cho con người không phải để làm chủ nhân nhưng là quản lý và thu hoa lợi.
Bởi thế, con người không được phép sử dụng và làm hại sự sống ấy cũng như sự
toàn vẹn của thân xác một cách tuỳ tiện”. [50]
Như thế, quản lý không được quyền tự quyết mạng sống mà chỉ biết tìm mọi cách
cho sự sống ấy triển nở đến mức thập toàn.
Bước đầu, chúng ta đã xác tín sự sống đến từ
Thiên Chúa. Kế đến, Thiên chúa đã đặt để đam mê trong lòng con người. Có thể
nói, nó như chất liệu góp phần tăng thêm phẩm chất cuộc sống.
Nhưng một điều nữa, chúng ta cần lưu ý: Thiên
Chúa đặt ta trong một môi trường cụ thể, hầu giúp ta sống triệt để nỗi đam mê ấy.
Trường hợp Têrêsa Calcutta là một điển hình. Thiên Chúa đã đặt Têrêsa trong một
khu ổ chuột ở Calcutta; thay vì than thân trách phận, mẹ lại đọc ra ý muốn của
Ngài là sống nỗi đam mê phục vụ người cùng khốn. Như thế, sự sống Thiên Chúa
trao ban và đam mê Ngài đặt để trong Têrêsa, đồng thời, nhờ hoàn cảnh mà tất cả
được thành hình. Nó trở thành ơn gọi giúp mẹ nên thánh.
Với chân phước Têrêsa Calcutta, hoàn cảnh khó
khăn chỉ là yếu tố ngoại tại, chúng ta sẽ xét đến những yếu tố khác, nó ảnh hưởng
đến sự sống của con người như những trường hợp khuyết tật. Đối với những người
bi quan yếm thế, bệnh tật hay khuyết tật là một sự dữ phải loại trừ; còn những
người lạc quan tin tưởng, chúng là cơ hội giúp họ vượt thắng bản thân. Họ có thể
khuyết tật thân xác nhưng tinh thần thì không; họ có thể bệnh tật thể lý nhưng
ý chí thì không. Họ luôn vững mạnh. Chính đam mê sẽ giúp họ tập chú vào phẩm chất
hơn là việc lành lặn tay chân hay một bộ phận nào trên cơ thể.
Lưu Vỹ, chàng trai hai mươi ba tuổi đến từ
Trung Quốc đã làm một điều phi thường: đánh đàn piano bằng chân. Sinh ra là một
người bình thường, có cơ thể nguyên vẹn và lành lặn, nhưng đến năm mười tuổi,
dòng điện cao thế đã lấy đi đôi tay của anh. Sau những ngày dài chán nản, khóc
than và bất lực, anh đã quyết định thay đổi cách sống. Anh tiếp tục sống nỗi
đam mê âm nhạc là chơi piano bằng chân. Trong cuộc thi China’s gottalent năm
2010, Lưu Vỹ đã giành giải nhất trong cuộc thi với tiết mục đánh đàn piano bằng
chân.
Tương tự như Lưu Vỹ, chúng ta cũng có thể kể
đến nhà giáo Nguyễn Ngọc Ký, người bị tật nguyền đôi tay và phải dùng đôi chân
của mình để tập viết. Có những lần bị chuột rút đến quặp cả bàn chân, đau đớn đến
vã cả mồ hôi nhưng sức mạnh tinh thần và nỗi đam mê giáo dục đã giúp ông vượt
qua khó khăn. Đáng khâm phục! Chính lúc sự sống như bị đe doạ lại là lúc con
người sống miệt mài với nỗi đam mê. Như thế, đam mê là động lực giúp tăng cường
ý chí nơi chủ thể.
Tình cảnh này vẫn chưa bi đát bằng trường hợp
của Helen Keller. Cô không bị mù và điếc bẩm sinh. Khi chào đời được mười chín
tháng, cô bé bị ốm nặng sốt cao viêm màng não không may hỏng mất đôi mắt và sau
đó tai cũng bị điếc. Càng lớn, cô càng trở nên nóng nảy cáu gắt và thiếu kiên
nhẫn. Sau này cô bắt đầu học tài liệu bằng chữ nổi dành cho người mù. Cô kiên
trì học tới mức khi nào đầu ngón tay rướm máu mới chịu dừng. Đến năm hai mươi
tư tuổi, Keller tốt nghiệp và trở thành người mù điếc đầu tiên được tốt nghiệp
tại một trường cao đẳng. Cô thông thạo năm ngôn ngữ, viết mười hai tác phẩm, đi
giảng thuyết trên ba mươi quốc gia. Đồng thời, cô đã lập một hội hỗ trợ những
người có hoàn cảnh bất hạnh. Có thể nói, nỗi đam mê tri thức đã giúp cô vượt
qua mọi khó khăn, thách đố trong đời sống hằng ngày. Còn con tim của cô thì
sao? Có lần cô tâm sự: “Tôi đã khóc vì
không có giày để đi cho đến khi tôi nhìn thấy một người không có chân để mang
giày”. Điều này, diễn tả phần nào niềm trắc ẩn nơi cô. Thiết tưởng, đó mới
làm nên phẩm chất cao đẹp của một sự sống xem ra bất hạnh. Thật vậy, chẳng có gì bất hạnh đối với
một người sống đam mê và giàu lòng trắc ẩn.
Mỗi người là duy nhất và
đặc thù. Qui tắc này không được bỏ qua khi xét con người như một nhân vị. Nhưng trong cái rất riêng biệt ấy vẫn mang một
mẫu số chung nào đó mà giới tính là một điển hình. Cũng cùng đam mê nhưng nơi
người phụ nữ có những biểu hiện rất đặc trưng và khác hẳn so với người đàn ông.
Sự khác biệt này chúng ta có thể ví von: cùng một bản nhạc song lại được độc tấu
bởi hai loại nhạc cụ khác nhau
nên hiệu ứng âm nhạc cũng khác nhau.
Để có thể nêu bật những
nét đặc trưng của giới tính, chúng ta sẽ đối chiếu chúng với một số lĩnh vực của
cuộc sống. Từ đó chúng ta đi đến kết luận đam mê của người nữ khác với đam mê của
người nam dựa theo đặc tính và phẩm tính.
Trong lĩnh vực khoa học
và triết học, chúng ta thấy sự xuất hiện của bóng dáng người nữ rất hạn chế. Điều
này cho thấy đặc tính của người đàn ông là dựa nhiều trên lý trí mà những lãnh
vực này đòi buộc tính hợp lý, chính xác và chuẩn mực. Ngoài ra phải kể đến tính sáng tạo nổi bật
nơi người đàn ông. Trong khi đó người phụ nữ suy tư và hành động phần lớn dựa trên tình cảm, ước muốn
và trực giác cá nhân.[51]
Vì thế, người phụ nữ lại thành công trong ngành tâm lý học. Họ trở thành những
chuyên gia tâm lý trị liệu nhờ trực giác và kinh nghiệm cá nhân. Chưa hết, nhờ
phẩm tính dịu dàng và cởi mở, họ dễ dàng tiếp cận với các thân chủ, là những
người cần đến một chuyên gia trị liệu. Thật vậy, đặc tính của người mẹ dễ dàng
đến với những đứa con đau yếu hơn là phong
thái người cha.
Còn lĩnh vực chính trị,
uy thế của người đàn ông giúp nhiều cho việc lãnh đạo. Trong quân sự và binh
lính chắc hẳn rất hiếm thấy nữ giới. Nhưng trong giới hạn lãnh đạo
nói chung, người nữ vẫn phát huy mặt mạnh của mình. Tất nhiên đam mê quyền lực nơi người phụ nữ biểu
hiện khác với người đàn ông nhưng khuynh hướng muốn khẳng định mình đều dành
cho hai giới. Nếu người nam chủ yếu dùng sức mạnh cơ bắp và tư tưởng hầu thống
trị người khác thì người nữ lại dùng kế sách ôn hòa mà thuyết phục mọi người. Cả hai đều có thế mạnh
nhưng cần bổ sung cho nhau. Bởi đó người ta đã lý tưởng thực tại này khi nói: “Sau lưng người đàn ông thành công là bóng
dáng người phụ nữ”. Chắc hẳn, người phụ nữ ở đây là người vợ không trực tiếp
lãnh đạo nhưng sự nâng đỡ tinh thần sẽ góp phần thành công cho người đàn ông.
Trái lại, lĩnh vực văn
hóa giáo dục, phụ nữ chiếm ưu thế. Chỉ riêng trong bậc mầm non, phụ nữ cũng đã phát huy hết vai trò của
mình. Họ đảm nhận công việc phục vụ như một người mẹ trong gia đình. Nhưng
trong lĩnh vực giáo dục, người đàn ông
đóng vai trò định hướng tư tưởng và khuyến dụ hành động cho mọi thành phần. Còn
trong môi trường nghệ thuật, nếu thuộc những lãnh vực đòi hỏi khả năng sáng tạo
thì giới mày râu nhiều hơn, chẳng hạn nhạc sĩ, nhà tư tưởng... không chỉ yếu tố
sáng tạo mà còn khả năng tiếp cận thực tế. Ngoài ra còn do khả năng suy lí và
óc phê bình chuẩn mực nhờ việc tổng hợp vấn đề của các phái nam. Phần vì các bà lệ thuộc
nhiều lãnh vực cảm xúc nên dễ mơ
mộng viển vông, khó tiếp cận thực
tế. Những điểm vừa kể xem ra là yếu thế của quý bà trong lĩnh vực suy tư thực
tiễn thì lại trở nên thế mạnh trong các loại hình ước lệ như: cải lương, ca nhạc,
tiểu thuyết. Bởi đó, dù sống trong nỗi đam mê nào phải hiểu biết những yêu sách
khách quan đòi buộc ta và trau dồi những kĩ năng cần thiết. Chính thái độ phục vụ nghiêm túc giúp bạn lớn lên không những
về mặt chuyên môn mà còn trưởng thành trong nhân cách nghề nghiệp. Đặc biệt
trong thời buổi công nghệ thông tin như ngày nay, chỉ những ai thực lực, nghĩa
là sống bằng khả năng thực sự của mình cộng thêm yếu tố đạo đức nghề nghiệp mới
đứng vững và chiếm lĩnh thị trường. Bạn không thể là bạn nếu như không đứng
trên đôi chân của mình.
Những gì vừa trình bày rất
khái quát, không ngoài mục đích gợi mở nơi bạn những nét đặc trưng của mỗi giới
tính. Hy vọng giúp bạn nhận ra những điểm yếu để khắc phục và những điểm mạnh để
phát huy. Một khi đã phát triển hết năng lực bản thân, bạn nắm phần quyết định
đời sống mình. Bạn là người đàn ông năng động và hoạt bát, sẽ có những đam mê
dành riêng cho bạn. Hay bạn là
người phụ nữ trầm tĩnh và sâu lắng, cũng sẽ có những đam mê dành riêng cho bạn.
Một điều bạn cần xác tín rằng những tư
chất Chúa ban cho bạn không ai có thể thay thế được. Nếu làm thất thoát hay
không sống hết mình với nén bạc được trao, bạn đánh mất chính mình, đồng thời làm băng
hoại thế giới. Trái lại, nếu sống tích cực và hi vọng, bạn sẽ làm sáng lên như một ngọn đèn bé nhỏ và khiêm tốn
nhưng là phần đóng góp của riêng bạn. Một người phụ nữ nhỏ bé như mẹ Teresa Calcutta lại
ôm một cao vọng biến đổi thế giới. Nhờ ơn Chúa cộng thêm sự cộng tác của mẹ trong việc trung
tín sử dụng nén bạc Chúa trao, mẹ đã hoàn tất ơn gọi của mình.
Chân lý, theo thánh Toma, là sự tương hợp giữa
phán đoán của chúng ta với thực tại. Xét như thế, vì thánh nhân đặt chúng trong
tương quan giữa chủ thể và đối tượng, giữa ta với sự vật. Ở đây, chúng ta muốn
nhấn mạnh đến chân lý ở ngay chính sự vật. Thật vậy, ngay từ đầu, Thiên chúa đã
đặt chân lý trong chính qui luật thiên nhiên, trong chính bản chất của sự vật.
Trước khi có nhà khoa học Newton, trong thiên nhiên vẫn tồn tại định luật vạn vật
hấp dẫn. Ông đã có công khám phá ra định luật ấy mà ngày nay, chúng ta khẳng định,
nó là chân lý. Xét trên bình diện nhân học, tâm lý học ngày nay đã khám phá ra
hai loại đam mê đều hiện diện trong con người là đam mê nhục dục và danh vọng.
Có thể coi, đây cũng là chân lý mà Thiên Chúa đã đặt định trong bản tính con người. Điều quan trọng là chúng ta tìm hiểu ý
định của Thiên Chúa và tìm ra cách trình bày chân lý về hai đam mê chủ đạo
này trong con người. Chắc hẳn, những đam mê nơi mỗi người được sống và diễn tả
ra ngoại diện khác nhau. Ở đây, chỉ cố gắng trình bày những nét tiêu biểu nhất
giúp bạn tái khám phá bản thân và chỉ khi nào bạn nêu đích danh đam mê ấy trong
bạn, mới khả dĩ giúp bạn làm chủ tình thế và bản thân.
ĐAM
MÊ NHỤC DỤC [52].
Theo Millball Demad, để hiểu đam mê này, ta
phải hiểu các loại và các giai đoạn của tình yêu. Ông chia ra ba giai đoạn như
sau:
1.Giai đoạn thấp nhất của tình yêu chỉ tự biểu
lộ như một cảm xúc tự phát, nên nó thuộc tiến trình thuần tuý bản năng xây trên
những tiến trình sinh lý.
2. Bước kế tiếp là tình yêu tự nhiên. Ở mức độ
này, tình yêu được thể hiện bằng sự ý thức đầy đủ và một ý chí vững mạnh; đồng
thời, chủ thể có một trực giác nhạy bén trong nhiều tình huống bất ngờ.
3. Bậc cao nhất có thể có nơi con người trong
đời sống này là tình yêu siêu nhiên. Nó được thấm nhuần bởi niềm tin và ân sủng
đến từ Thiên Chúa.
Một hệ quả tích cực được rút ra từ đam mê nhục
dục là ước muốn mãnh liệt làm cho người khác được hạnh phúc. Tất nhiên, điều
này đòi buộc bạn sống thông cảm với tha nhân (giai đoạn một) và luôn có một trực
giác lành mạnh (giai đoạn hai) giúp tìm đến tha nhân và đồng cảm với họ. Một
con người như thế sẽ gieo vãi ánh sáng niềm vui và tình yêu ở bất cứ nơi đâu.
Nhưng ở mức độ này, tình yêu vẫn còn mang tính vị kỷ, nghĩa là yêu người vì
mình hơn là vì người khác. Nói cách khác, tình yêu mang tính chiếm hữu. Có một
lực thúc đẩy bạn hiến trao cho người khác nhưng khi tình yêu và hy sinh của bạn
càng lớn, thì ước vọng nhận lại tình yêu đáp trả nơi người khác cũng phải cân xứng.
Chỉ khi nào bạn như ông Phêrô bắt gặp được ánh mắt yêu thương của Chúa và nhờ
ân sủng nâng đỡ, ông mới thực sự quyết tâm phục vụ hạnh phúc người khác vì nước
trời (giai đoạn 3).
Nếu như những mặt tích cực giúp ta nhanh
chóng đạt đến tình yêu siêu nhiên thì những bóng tối có thể làm ta ngã quỵ, ít
ra làm cản bước tiến ta sống hoàn thiện. Chẳng hạn, tính lệ thuộc, lòng quyến luyến, tìm khoái cảm nhục dục, hay nuông chiều
thân xác… những thứ này sẽ làm nhiễm bẩn tình yêu siêu nhiên của bạn và làm
bạn xa lìa ý muốn của Chúa; lấy mình làm trung tâm, ý mình là ý Chúa. Đó cũng
chính là mối nguy của đam mê danh vọng.
ĐAM
MÊ DANH VỌNG.
Đam mê danh vọng cũng như nhục dục đều xét
trong mối tương quan, nghĩa là cần đến tha nhân. Nhưng nếu đam mê nhục dục đến
với nhau bằng tình yêu thì danh vọng xử sự nhau bằng quyền lực. Một bên là sự
thúc đẩy hiến trao, bên kia là sự thúc đẩy tôn trọng. Xét về cấp bậc, sự hiến
trao đòi buộc hai bên bình đẳng, còn sự tôn trọng hàm chứa thứ bậc trên dưới.
Nên đam mê này phù hợp cho những nhà lãnh đạo.
Tất nhiên, những tư chất đi kèm với người đam
mê danh vọng là quyết đoán, can đảm, nhiệt
tình… sẽ là những lợi khí giúp họ thu phục nhân tâm. Mặc dù, cần sự ủng hộ
của đám đông nhưng họ có tham vọng vượt hơn người với một ý chí mạnh mẽ và kiên
vững. Mức độ này càng tăng dần tuỳ thuộc mẫu người hướng ngoại, vì khi càng mở
rộng các mối quan hệ, họ càng thiết lập những hàng rào bảo vệ vững chắc cho tầm
ảnh hưởng của mình. Điều này nếu không được ý thức đủ, sẽ dẫn đến thái độ qui kỷ
và chiếm hữu vật chất cũng như người khác, nghĩa là dùng mọi thủ đoạn để trục lợi
bản thân và điều khiển mọi sự theo ý mình.
Chúng ta vừa tìm hiểu sơ lược về hai đam mê
nhục dục và danh vọng mà nghiên cứu mới của các nhà tâm lý học quả quyết rằng
nó nằm trong bản chất con người. Vấn đề đặt ra khá gay go: Trong Đức Kitô có
hai đam mê này không? Tất nhiên, chúng ta chỉ xét theo nhân tính của Chúa
Giêsu, Ngài là con người thật và trọn vẹn một trăm phần trăm.
Thánh Giáo phụ Gioan Damasceno đưa ra một qui
tắc: “Nếu có một cái gì nơi con người mà
Ngôi Lời Thiên Chúa đã không đảm nhiệm, thì điều ấy chưa được cứu chuộc”. Điều
này, cách gián tiếp khẳng định Chúa Giêsu đã đảm nhận và sống trọn kiếp người,
tất nhiên cả bản tính sa đoạ của con người nữa ! Vì khởi đi từ việc con người
sa ngã, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Thế và Chúa Giêsu đã mang lấy bản tính
phải chết để cứu rỗi nhân loại. Vậy nếu chúng ta tuyên xưng ơn cứu độ phổ quát
và toàn diện nơi Đức Kitô thì đồng thời, chúng ta phải xác quyết Chúa Giêsu đã
đi xuống tận cùng của kiếp sống con người để vực dậy và đưa con người vào trong
vinh quang phục sinh với Ngài.
Nếu xưa kia, con người vì đam mê nhục dục và
danh vọng mà sa ngã, thì Đức Kitô cũng đảm nhận nó và mặc cho nó bộ mặt mới là
đam mê tình yêu và đam mê danh Cha. Thư gửi tín hữu Do Thái ám chỉ Đức Giêsu
khi quả quyết rằng: “Vị Thượng tế của
chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì
người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội”
(Dt, 4,15). Thật vậy, những đam mê ấy như những nỗi yếu hèn của ta đã được
Đức Kitô cảm thương đảm nhận lấy, chúng là những thử thách đòi buộc Ngài phải
trả giá và chiến thắng, vì Ngài không phạm tội nên nó trở thành công nghiệp lớn
lao đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.
Như thế, nơi Chúa Giêsu cũng có đam mê nhục dục
và danh vọng. Điều còn lại là phải giải thích thế nào khi những đam mê ấy được
thăng hoa và gọi bằng tên đam mê tình yêu và đam mê danh Cha.
ĐAM
MÊ TÌNH YÊU.
Trong thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, Đức
Thánh Cha Benedicto XVI đã khẳng định: “Tình
yêu là một thực tại duy nhất nhưng với nhiều chiều kích khác nhau; ở những thời
điểm khác nhau, chiều kích này có thể xuất hiện rõ hơn chiều kích khác” [53].
Ở đây, chúng ta nhấn mạnh cụm từ “tình
yêu là một thực tại duy nhất”. Và tiếp theo trong số 9, Đức Thánh Cha giải
thích thêm: “Thiên Chúa yêu và tình yêu
Ngài chắc chắn có thể gọi là eros nhưng tình yêu đó cũng hoàn toàn là agape”. Thật
vậy, eros có thời người ta coi là đam mê nhục dục nay được Đức Thánh Cha mặc
cho một tinh thần mới khi nói nó là một chiều kích thể hiện gương mặt yêu
thương của Thiên Chúa trong Đức Kitô. Tình yêu eros được Đức Thánh Cha đồng hoá
với cảm xúc của Thiên Chúa trong Cựu ước đã được thể hiện nơi thân xác Đức Kitô
[54].
Thật vậy, chỉ có một thân xác mới khả dĩ diễn tả cảm xúc của mình và cảm xúc, đam
mê ấy đã được Đức Kitô thăng hoa và được gọi là tình yêu siêu nhiên, bậc cao nhất
trong phần đam mê nhục dục chúng ta vừa bàn đến.
Chúng ta dễ dàng nhận ra hình ảnh đam mê tình
yêu của vị Thiên Chúa là Cha trong dụ ngôn Người Cha nhân hậu; với tất cả sự chờ
đợi không biết mệt mỏi, chờ đợi con yêu hoang đàng trở về để tha thứ và tiếp tục
yêu thương. Không còn dừng lại ở hình ảnh dụ ngôn nữa, chính vị Thiên Chúa làm
người đã thân hành đến với mọi người, đặc biệt là người nghèo khổ, đau yếu và tội
lỗi. Nỗi đam mê ấy được thể hiện đến cùng bằng tình yêu hiến mạng sống vì người
mình yêu. Bởi đó, Đức Benendicto XVI có lý khi khẳng định trong thông điệp này:
“Logos, Đấng thượng trí – lại đồng thời
là một người biết yêu với tất cả đam mê của tình yêu thực sự. Eros vì thế đã
nên tột cùng cao quí, nhưng đồng thời thuần khiết đến độ nên một với Agape” [55].
Đam mê như thế, Ngài trở nên gương mẫu cho những người dám sống đam mê để nên
hoàn thiện.
ĐAM
MÊ DANH CHA.
Chúng ta cảm thấy khó chịu khi ai đó tuyên bố
Chúa Giêsu đam mê danh vọng, nhưng dễ chấp nhận khi nói Chúa Giêsu đam mê đi
tìm danh Cha.
Với tư chất của
người đam mê danh vọng, Đức Kitô tìm mọi cách để thu hút đám đông, từ lời nói,
cách giảng, làm phép lạ… nhưng thay vì để cho mình được vẻ vang hay muốn người
khác tôn làm vua, Ngài lại tách riêng đi lên núi cầu nguyện với Cha: Tất cả cho danh Cha cả sáng.
Kinh thánh nói: đi đến đâu là Thiên chúa thi
ân giáng phúc đến đó nhưng không như một ông chủ hay kiểu “cha chú”; trái lại,
Chúa đến với mọi hạng người không trừ một ai; kể cả những người thu thuế, tội lỗi
là những kẻ bị người đương thời khinh miệt và ruồng rẫy. Thay vì tìm danh vọng
cho bản thân, Ngài phục hồi phẩm giá của họ; thay vì chờ người khác tôn vinh,
Ngài hết mực tôn trọng từng người trong họ. Thay vì họ chỉ xin chữa trị thân
xác, Ngài chữa lành tâm hồn họ. Chúa chữa lành thân xác để giúp họ gia nhập lại
với cộng đoàn; chữa lành tâm hồn, Ngài giao hoà họ với Thiên Chúa. Ngài làm tất
cả để họ khả dĩ sống an hoà với người và an lành với Chúa. Tất cả để cho danh Cha cả sáng.
Kẻ đam mê danh vọng, lấy quyền bính mà thống
trị nhau, còn Chúa Giêsu lấy tình yêu mà phục vụ. Thay vì ngồi cao cho kẻ hầu
người hạ, Ngài lại cúi xuống rửa chân và phục vụ mọi người như hàng tôi tớ. Vì
quá đam mê, Đức Kitô như một “người điên” chết thay cho kẻ tội lỗi, trong khi
vì tội lỗi, chúng ta đáng chịu cơn thịnh nộ của Chúa. Đã được tha tội, nhưng
chúng ta vẫn sống lây lất trên trần gian, Ngài lại nên Bánh trường sinh nuôi sống
chúng ta. Đã thế, không còn điều gì mà Chúa khước từ chúng ta miễn sao cho
chúng ta được sống và sống dồi dào để cho danh Cha được cả sáng trong mọi sự.
Tóm lại, đam mê nhục dục và danh vọng, cách
nào đó là thành phần chân lý nơi nhân tính Đức Kitô. Nói cách khác, khi tuyên
xưng Đức Kitô là chân lý, đồng thời, chúng ta khẳng định những đam mê ấy diễn tả
phần nào diện mạo chân lý về Đức Kitô. Điều tuyệt vời mà một kitô hữu được thừa
hưởng là Đức Kitô đã đảm nhận bản tính nhân loại ngay cả những gì có thể làm
cho con người sa đoạ, thành chất liệu luân chuyển trong toàn bộ con người Ngài.
Để trong Ngài, chúng ta nhận ra bản chất con người mình và biến đổi nó nhờ sức
sống thần linh nơi Ngài. Quả thật, tất cả những gì chúng ta để cho Ngài chạm đến
đều có sức biến đổi từ bên trong. Và như thế, đam mê nhục dục và danh vọng là một
trong những phương thế giúp ta sống hoàn thiện, dẫn ta đến chân lý đích thực là
Đức Kitô.
Không phải ngẫu nhiên mà Mạnh Tử lại phát biểu:
“Nhân chi sơ tính bản thiện”. Quả thật,
con người khi sinh ra đã là thiện vì Kinh Thánh nói Thiên Chúa dựng nên mọi sự
và thấy thế là tốt đẹp. Sự thiện nơi con người còn được hiểu như có lời chép:
Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Có thể nói Thiên Chúa dựng
nên con người cho sự sống đời đời. Đó là ý muốn của Thiên Chúa ngay từ đầu trước
khi nguyên tổ loài người sa ngã.
Ngay cả triết học cũng cho ta một qui tắc: Mọi
hiện hữu đều là sự thiện. Cây cỏ, sỏi đá... tự nó đã là thiện, vì nó có đó để
hoàn thành ý định Đấng tạo hoá đặt để trong trật tự thiên nhiên huống chi là
con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Chúng ta hơn sinh vật khác ở
chỗ, ý thức mình là sự thiện. Và chỉ khi nào chúng ta khám phá ra ý định của
Thiên Chúa đặt để nơi mình, chúng ta mới nên hoàn thiện.
Con ong cho mật, con tằm cho tơ, con người
cho gì ? Chúng ta phải cho đời chính những thứ gì thuộc “chất người”, ta mới
hoàn thành sứ mạng Đấng Tạo Hoá trao cho. Chúng ta vẫn nghe nói có những kẻ
lòng lang dạ sói, giết người không gớm tay. Xét cho cùng đó chỉ là những giây
phút sa đà, lỡ lầm; không vì thế, chúng ta có quyền qui kết rằng họ không có “mầm
thiện”, không có “chất người”. Bằng chứng là có những người phạm tội rồi sau đó
ra tự thú, hoặc họ luôn bị tiếng lương tâm phán xét. Dù là ai và ở hoàn cảnh
nào vẫn có mầm thiện trong con người - đó là bằng chứng rõ nét nhất phản ánh
hình ảnh của Thiên Chúa. Và cho dẫu sự thiện đã ẩn khuất trong một giai đoạn
nào đó thì sám hối là nét đẹp tuyệt đối nơi con người; hoán cải và trở về là sự
thiện còn lại nơi con người là cơ hội giúp hối nhân tiếp xúc với Lòng Thương Xót
Chúa, mà “Tên trộm lành” là một điển hình cụ thể.
Làm sao sám hối nếu không ý thức mình phạm tội; mà làm sao phạm tội
nếu không hoàn toàn tự do (vì không
ai cưỡng bức chúng ta phạm tội). Vậy ý thức
và tự do cấu thành hành vi nhân linh của chúng ta phải được giáo dục và điều
hướng. Nếu không, thay vì con người dùng nó như những nhân lực khám phá những
điều hữu ích phục vụ nhân loại, thì lại làm mồi ngon cho nền văn hoá sự chết. Mầm
thiện vẫn có trong ta nhưng không phải lúc nào cũng thành “cây thiện”. Chỉ khi
nào mầm thiện được đặt trong mảnh đất tốt (môi trường) và được bản thân chăm
sóc kỹ càng mới mong sinh hoa kết trái. Nhưng ngay cả khi chúng ta là một kitô
hữu được sống trong môi trường đạo giáo, đồng thời được ân sủng Chúa nâng đỡ,
mà không sinh trái, thế nghĩa là tại đâu ? Mặt trời vẫn chiếu sáng không trừ một
ai nhưng mầm sống của bạn không đủ mạnh để vươn lên khỏi đất thì ánh sáng mặt
trời trở nên vô dụng. Đừng để mầm sự thiện trong bạn chết khô.
Đến đây, tôi nhớ đến câu nói của triết gia
Kierkegaard: con người không đam mê như
cây khô không nhựa sống, bất động. Với ý thức và tự do, cộng thêm niềm đam
mê sẵn có nơi bạn, chúng ta bắt đầu một cuộc phiêu lưu chinh phục sự thiện.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã chấp nhận từ bỏ sự an
toàn trong một tu viện để đến với người nghèo hầu chinh phục sự thiện là khám
phá ra hình ảnh Đức Kitô trong họ. Đồng thời, với việc rời khỏi tu viện là những
lời chỉ trích thậm tệ, đó cũng là giá phải trả cho một chọn lựa “sự thiện lớn
hơn”. Bù lại, sau này ngài được mọi người thương mến. Họ gọi ngài là mẹ; tuy
chưa một lần chuyển dạ, nhưng mẹ đã quặn đau sinh ra họ trong chiếc nôi tình
thương. Có lần, một người trong số họ nói với mẹ: “Cảm ơn mẹ, vì đã cho tôi cái chết giống như một con người”. Số là,
mẹ gặp họ đang chờ chết bên cống rãnh mà thân xác họ bị giòi bọ đục khoét. Mẹ đã
đưa họ về nhà, chăm sóc, và họ được chết trong vòng tay mẹ. Có thể nói, mẹ đã
khôi phục hình ảnh Đức Kitô trong họ. Cách nào đó, mẹ đã giúp họ ý thức phẩm
giá của mình, mỗi người phải được tôn trọng.
Chúng ta không thể bỏ qua gương sống đam mê
chinh phục sự thiện của Đức Phật. Xuất thân từ giai cấp hoàng tộc vương giả,
ngài sống yên ổn, an toàn, sung túc và sang trọng nữa. Cho đến một ngày, ngài
vi hành, ra xem dân tình thế thái thế nào. Sinh, lão, bệnh, tử, những cảnh khổ ấy
khiến ngài cảm nhận sự vô thường của vạn vật
và biết bao nỗi khổ trong đời. Từ đó, ngài đã từ bỏ những gì là tiện nghi để
tầm sư học đạo. Ngài nhanh chóng thủ đắc cấp bậc thiền định cao nhất nơi các vị
thầy. Nhưng đối với ngài, đó vẫn chưa phải là chung cuộc. Ngài đã ra sức thiền
định, đạt đến sự giác ngộ chứng nghiệm Thực tại tối hậu trong nội tâm mình. Có
thể nói, nỗi đam mê chinh phục sự thiện, sự giải thoát nơi ngài là một kỷ lục
đáng nể vượt xa các vị thầy đương thời. Nỗi thao thức giúp chúng sinh được giải thoát đã trở thành lẽ sống của ngài. Nhưng
không vì thế, ngài đoạn tuyệt với gia đình và hoàng cung, trái lại, ngài trở về
đó mang cho họ một luồng sinh khí mới. Cuộc đam mê chinh phục ấy còn tiếp diễn
nơi các hậu sinh.
Chúng ta cần xác tín rằng, chấp nhận một cuộc
phiêu lưu với những bấp bênh, khó khăn, đó là chưa nói đến thiệt hại mạng sống,
tất cả chỉ để chinh phục sự thiện. Như thế, nó bao hàm một cuộc sống đạt đến
hoàn thiện bản thân. Không phải khi chúng ta đã chinh phục một sự thiện nào là
đã hoàn thiện đủ đâu, luôn có những đỉnh cao hơn và những trắc trở phía trước.
Nhưng đỉnh cao nhất, sự thiện đích thực
là chính Chúa. Nên chúng ta không sống đam mê một mình; song, có Chúa cùng
đồng hành mỗi ngày, Ngài tỏ mình ra
cho chúng ta và nhờ ơn Chúa, chúng ta sẽ đạt đến đỉnh cao của sự hoàn thiện với
tất cả đam mê chinh phục sự sống mới.
Vẻ đẹp là một trong ba
giá trị được con người theo đuổi và vươn tới (Chân, Thiện, Mỹ). Nó được các nhà tri thức coi là một
trong những ưu phẩm siêu việt; tất nhiên vì nó gắn liền với những giá trị tinh
thần và mở ra cho Đấng Tuyệt Đối. Chính nhà tâm lý siêu nghiệm Roberto Assagioli đã khẳng định: “Vẻ đẹp là tính chất thần thánh cụ thể nhất,
nhạy cảm nhất, được biểu hiện rõ nhất trong vật chất nên nó là phẩm chất được
con người lạm dụng dễ nhất khi không thấy nguồn gốc cao siêu của nó, khi không
kết nối nó với cội nguồn... mà lại coi nó như một phẩm chất nằm trong bản thân
vật chất và trong những hình thức cụ thể của vật chất” [56]. Thật vậy, một khi con
người dừng lại vẻ đẹp bên ngoài của sự vật, con người giết chết vẻ đẹp vốn giúp
người chiêm ngắm vươn lên thực tại siêu nhiên. Chính ở điểm này mà đam mê mới
có đủ lý do tìm đến vẻ đẹp. Có một
điều gì đó bí ẩn và chất chứa sau và trên vẻ đẹp khiến con người ước muốn đạt đến
nó.
Cha Phan Tấn Thành kể một câu chuyện vui hư cấu
từ trình thuật sách Sáng Thế. Trước tiên, Thiên Chúa tạo dựng nên
bầu trời trái đất. Sau khi chiêm ngắm chúng, Ngài nói: “Thật là tốt đẹp”. Rồi Ngài dựng nên Adam và cũng phán:
“Thật là tốt đẹp”. Đến khi Thiên Chúa dựng nên người đàn bà, Ngài ngắm
nghía hồi lâu rồi nói: “Cứ để mặc nó, vì
nó biết trang điểm”. Nói như thế tác giả không có ý bảo rằng người đàn bà
không đẹp vì tự thân mỗi hiện hữu là một vẻ đẹp,
nó phát xuất từ Thiên Chúa chính là vẻ đẹp.
Mỗi loài, mỗi chúng ta
được sinh ra từ tác động của tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Dẫn chứng Kinh thánh
còn ghi lại: “Chúng Ta hãy dựng nên con
người”. Ý tưởng này đủ mạnh khả dĩ giúp chúng ta thăng hoa mọi vẻ đẹp trong
trời đất. Không có ai xấu cả chỉ có những người không có khả năng khám phá cái
đẹp. Một thị Nở xem ra xấu xí lại được Chí Phèo khám phá vẻ đẹp và đem lòng say
mê. Có một ông bầu show chuyên săn các người đẹp để cung cấp cho các hãng quảng
cáo, một hôm được hỏi: “Tại sao ông
chuyên đi tìm những người đẹp, vợ ông lại chột một mắt?”. Ông trả lời: “Đối với tôi, thế mới đẹp, còn các cô kia có
hai mắt thì dư”. Như thế vẻ đẹp hết sức chủ quan nhưng ít ra nó giúp con
người thăng hoa cuộc sống.
Cha Maurice Zundel thật chí lý khi nói: “ Vẻ đẹp nâng chúng ta lên và tạo nên những cuộc
đính hôn nhiệm mầu giữa vật chất với tinh thần, bằng cách hướng chúng ta đến với
nhau và cùng hướng về ngọn nguồn vĩnh hằng” [57]. Nếu như dừng lại ở vẻ
đẹp bên ngoài, chúng ta bóp nghẹt mầm sống siêu nhiên
thì một khi mở ra với tương quan, chúng ta dễ sống với những vẻ đẹp bất ngờ. Thật
vậy, nếu chúng ta chỉ nhắm đến những vẻ đẹp bên ngoài của đóa hoa mà không quan
tâm đến tâm tình của người trao tặng thì ba hôm nữa hoa tàn, mọi sự cũng biến
tan. Đừng để một vẻ đẹp nào đi qua mà không giúp bạn lớn lên.
Nếu như sống hời hợt với
vẻ hào nhoáng bên ngoài, xem ra chúng ta còn kém hơn một người mù. Phải chăng
khi không bao giờ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp ngoại tại của tạo vật, họ lại dồn hết
nội lực bên trong ? Nơi người mù có một trực giác nội tâm nào đó, từ điệu bộ một cái bắt tay họ có thể cảm nhận sự chân thành của
người đối diện. Thiết tưởng, đôi lúc
chúng ta cần nhắm mắt để dồn hết nội lực từ bên trong như một thiên hướng đam
mê tìm về vẻ đẹp đích thực. Vẻ đẹp ấy từ lâu đã là chất liệu sống giúp bạn khám
phá và đạt đến những giá trị vĩnh cửu. Giá trị ấy, ngay từ đầu đã được Thiên Chúa đặt để
trong lòng, mà theo Thánh Augustino, đó là phần hồn được dựng nên giống hình ảnh
Thiên Chúa, là chính vẻ đẹp. Vẻ đẹp nội tâm ấy không quá khó để diễn tả ra bên
ngoài; trái lại, nó sống động
trong thái độ ngạc nhiên và thán phục
của bạn.
Sự ngạc nhiên được triết gia Hecralite
diễn tả cách sinh động khi nói: “Không ai
tắm hai lần trên một dòng sông”.[58]
Ngạc nhiên ấy không dừng lại ở sự khác biệt giữa hai con nước của dòng sông nhưng là cảm xúc trào tràn của tâm hồn nghệ sĩ. Xin nhắc lại
tư tưởng: Đừng để một vẻ đẹp nào đi qua mà không giúp bạn lớn lên. Thật vậy, mỗi
lần tắm sông là mỗi lần tắm gội ân tình, mỗi lần tắm sông là mỗi lần kinh nghiệm
cuộc sống. Sự ngạc nhiên khi đối diện trước một thực tại làm con
người trở nên tinh tế và phong nhiêu hơn. Cũng vậy, sự thán phục giúp bạn đánh
tan sự đơn điệu của nhịp sống thời gian. Cha
Maurice Zundel nói thật chí lý: “Không chỉ
có người nghệ sĩ mới đi vào nghệ thuật, nhưng cả những người đang chiêm ngắm,
thán phục cũng được mời vào lễ hội này” [59]. Quả thật, mỗi chúng ta
là một nghệ sĩ khi biết thán phục vẻ đẹp quanh ta. Phải chăng bạn đã quá đề cao
tiêu chuẩn của người nghệ sĩ mà quên rằng ngay cả một bà mẹ nội trợ cũng là một
nghệ sĩ khi cố gắng nấu ăn thật ngon và trưng bày thật đẹp mắt để phục vụ từng
thành viên trong gia đình. Ở đây, sự thán phục được cụ thể qua việc ra khỏi bản
thân, nghĩa là mở ra với tương quan. Từ đó, họ trở nên giàu có vì được chia sẻ
sự phong nhiêu của mọi người và được tài bồi khi ngắm nhìn vẻ đẹp thiên nhiên.
Ý thức được điều này, thánh Phanxico ra lệnh cho những bông hoa trong tu viện mọc
lên, để cho những ai nhìn thấy chúng sẽ tìm lại vẻ đẹp vĩnh hằng. Như thế, tiếng
hót của một con chim hay việc nhìn thấy một bông hoa đẹp làm cho tâm hồn mình
ngay lập tức hướng lên Thượng Đế.
Xét cho cùng, mọi sự chỉ
là phương thế giúp đạt đến Thiên Chúa như lời khẳng định của nhà thần học kiêm
thi sĩ Maurice Zundel: “Những công trình
nghệ thuật thì vô vàn, còn vẻ đẹp chỉ có một, mỗi tác phẩm đều diễn tả một góc
cạnh của vẻ đẹp nhưng không cái nào múc cạn nó được, tất cả đều mĩ miều, nhưng
không một cái nào là chính Vẻ đẹp” [60].
Một đứa bé mới sinh ra
không được gọi là một nhân cách. Nó chỉ là một nhân hình, nghĩa là chỉ dừng lại
việc xác định hiện hữu của một con người. Hay một con người hoang dã sống thuần
theo bản năng cũng không được coi là một nhân cách. Nhân cách bao gồm một ý thức
hiện hữu với tư cách là một chủ thể, cộng với một ý thức trách nhiệm trong mọi
hành vi mình làm. Chính ý thức hiện hữu sẽ giúp con người khám phá và tìm ra ơn
gọi làm người của mình. Sinh ra đã là người nhưng làm người thì cũng có thể
trăm năm (trăm năm trồng người). Và ý thức trách nhiệm giúp định hình và phát
huy nhân cách của mỗi người từng ngày. Chúng ta cần nhấn mạnh cụm từ “định hình và phát huy nhân cách”, nghĩa
là nhân cách không đóng khung một lần nhưng nó năng động theo lịch sử mỗi người. Định hình ở đây được hiểu là phong cách cá biệt của mỗi người, và phát huy nhân cách là sự tiến triển của
một nhân cách đã được định hình ấy. Tất
nhiên có nhiều cách thức giúp mỗi người sống và định hình nhân cách của mình. Trong giới hạn tập sách nhỏ này, chúng ta chỉ bàn đến đam mê như phương thế
tối hảo giúp hình thành nhân cách và cố gắng trình bày đam mê như phương tiện
thể hiện nhân cách hoàn thiện.
Khi nào một nhân cách đạt
đến hoàn thiện ? Chúng ta cần xác tín rằng không có sự hoàn thiện tuyệt đối ở
trần gian. Nhưng một cách tiệm tiến hôm nay hoàn thiện cách
nào đó hơn hôm qua. Có hai bước giúp đạt đến mục
tiêu này: thăng hoa những tiêu cực, sở
đoản và phát huy những tích cực, sở trường. Thực tế cuộc sống cho thấy, có
những cố tật thâm căn cố đế, tưởng
như chết mang theo; nhưng nhờ ơn Chúa, chúng
ta có thể chuyển hướng và thăng hoa giúp
cuộc sống tươi vui và hạnh phúc. Có
thể nói, đôi khi nhờ những yếu đuối nào đó lại giúp chúng ta sống khiêm tốn và
phó thác hơn trong việc hình thành nhân cách tôn giáo. Còn những tích cực, sở
trường phải được chúng ta tận dụng tối đa và thúc đẩy nó biến thành những đam
mê phục vụ cho thiện ích. Chính thái độ cởi mở này giúp chúng ta khả dĩ thiết lập
những tương quan hữu ích và thân tình trong đời sống xã hội.
Chẳng hạn, khi nói đến đam mê âm nhạc của nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn, chúng ta nghĩ ngay đến những dòng nhạc thâm trầm, sâu lắng với
những lời ca được dệt nên từ một tâm hồn chiêm niệm. Có thể nói, những đứa con
tinh thần ấy phản ánh chính nhân cách của tác giả, một người đam mê nét đẹp cuộc
đời, tìm ra nét đẹp chính trong nỗi thất vọng tột cùng.[61]
Nhân cách ấy còn được diễn tả qua đời sống siêu thoát của ông, có lần ông tâm sự:
“Khi sáng tác, tôi phải lãng quên hiện hữu
này để đi vào một thực tại, một thực tại phiêu bồng, ở đó không có những xung đột
trần tục của chữ nghĩa và những lý luận ngõ cụt không đâu”. Thưởng thức những sáng
tác của ông, chúng ta cảm nhận một
sự thanh thoát và lạc
quan phát xuất từ một nhân cách điềm đạm và rất mực trầm tư. Như thế, chính khí chất của nhạc sĩ cộng thêm sự đam mê thiên
phú đã góp phần hình thành nhân cách
độc đáo. Tất nhiên, cũng phải kể đến môi trường, cơ hội... Tựu trung, nhân cách
được hình thành trong toàn diện sinh hoạt của con người, nghĩa là sự tham gia
góp phần của mọi năng lực chủ thể.
Ngay cả những tiêu cực như sự yếu đuối về thể lý cũng như
tinh thần đều góp phần tạo nên những tác phẩm tuyệt vời như trường hợp của thi
sĩ Hàn Mặc Tử. Những đêm trăng mất ngủ vì căn bệnh phong cùi, thế mà tác giả để lại cho đời
những tuyệt tác về trăng, những đêm say trăng lòng thổn thức.
Chúng ta cần nhấn mạnh một
yếu tố nổi trội và khá quan trọng mang tính chất quyết định trong việc hình
thành nhân cách hoàn thiện là ý chí. Vì ý chí giữ vai trò điều hướng đam mê
trong trật tự đời sống luân lý. Mà đời sống luân lý lại quyết định cho sự hoàn
thiện của nhân cách tôn giáo. Trong đó, nhân cách tôn giáo lại đề cao tính tự
chủ. Những tác động qua lại này giúp cá nhân sống tích cực những mối tương quan
với bản thân, tha nhân và với Thượng Đế.
Nhân cách có nhiều khía cạnh để bàn đến nhưng
trong giới hạn bài viết này, chúng ta chỉ dừng lại trong tương quan với người
đam mê. Nói cách khác, sống đam mê giúp định hình nhân cách.
Trước tiên, một người có
nhân cách phải xét đến và giả thiết, họ đã có những hành vi nhân linh, nghĩa là
đủ hiểu biết và ước muốn, khả dĩ sống tốt đẹp và hiện hữu tương quan với chính
mình và với tha nhân ngang qua chuẩn mực là các bậc thang giá trị. Mà theo người
Phương Tây là ba ưu phẩm siêu việt: Chân – Thiện – Mỹ. Con người Phương Đông lại chấp nhận: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí và Tín. Chỉ khi nào
cá nhân hiểu biết và ước muốn những điều tốt đẹp như thế mới khả dĩ đem lại sự hài hòa trong cuộc sống và
bình an nội tại. Vì một nhân cách đích thực là diễn tả của một đời sống nội tâm. Trong khi đó, một người hời hợt,
dễ bị hòa tan trong một tập thể vô danh.
Nhân cách đòi buộc chúng
ta phải sống có ý nghĩa, mà làm sao sống có ý nghĩa nếu không tìm ra cho mình một
lẽ sống hay ý nghĩa cuộc đời. Đó là
những giá trị tinh thần như lực đẩy của lò xo, bung mình về phía trước để vươn
tới những tầm cao hầu làm thỏa mãn tinh thần con người. Tinh thần chỉ được thỏa
mãn bằng chính Tinh Thần. Và một khi tinh thần được phấn chấn, đồng thời được
diễn tả qua phong thái, hành vi... của một cá nhân tạo nên nhân cách một người.
Lúc này, đam mê tham dự
vào, làm nổi bật nhân cách mỗi người. Bạn đam mê văn học ư ? Bạn thích mạo hiểm
ư ? Bạn có thể trở thành một nhà viết truyện trinh thám. Và chính trong môi trường
lành mạnh này khả dĩ giúp bạn hình thành nhân cách độc đáo. Bạn đam mê vẻ đẹp ư
? Bạn yêu thích sáng tạo ư ? Nghệ thuật thời trang là đất dụng võ của bạn. Và
trong khi sống hết mình với nỗi đam mê của mình, bạn sẽ dần khám phá ra nét độc
đáo mà mình muốn thể hiện, đồng thời, lúc này nhân cách của bạn cũng được định
hình rõ nét.
Đó là những thế mạnh và
tích cực của nhân cách. Còn những điểm yếu và tiêu cực cũng không ít. Nếu không
ý thức đủ, nó sẽ là một cản trở lớn khiến bạn không đạt đến thành công, ấy là
chưa nói đến những bóng tối ấy làm tiêm nhiễm nhân cách của bạn. Thật vậy, nếu
bạn không ý thức đủ những yếu đuối của bản thân thì thật nguy hại. Khi bạn
không dám đối diện với nó, nó vẫn còn đó. Khi bạn dồn nén nó, nó lại mưu toan
gây ảnh hưởng đến bạn. Chẳng có gì kín ẩn mà không lộ ra ngoài. Trong xã hội, bạn
có quyền khẳng định bản thân bằng chính khả năng của mình, nhưng nếu bạn dùng
thủ đoạn hạ gục đối thủ thì nhân cách của bạn lấy tiêu chuẩn nào để đánh giá:
Chân – Thiện – Mỹ hay Nhân, Lễ, Nghĩa,
Trí, Tín ? Bạn nên biết rằng một người có nhân cách, sống có ý nghĩa không hệ tại
được nhiều người biết đến nhưng là người biết mở ra và sống thân tình với mọi
tương quan. Như thế, họ được lớn lên và tha nhân cũng được thăng tiến.
Từ những gì vừa trình
bày về nhân cách nói chung, xem ra không khác gì lắm với biểu hiện của nhân
cách tôn giáo. Xét về ngoại diện thì nó không có gì khác lắm, nhưng về phẩm chất thì khác hẳn. Nhân cách tôn giáo
được đặt trên nền tảng đức tin,
nghĩa là sống đam mê dưới sự hiện diện của Thiên Chúa nhờ sự trợ giúp của Ngài.
Trong khi đó, nhân cách nói chung chỉ dừng lại ở mặt nhân bản và nhân văn. Để làm rõ nhân cách tôn giáo, chúng ta sẽ khởi đi
từ điểm tiêu cực.
Chúng ta sẽ tiếp tục diễn
giải về đam mê danh vọng như một điểm tiêu cực, thái quá trong nhân cách tôn giáo. Trong thực tế cuộc sống, con người thường mặc
vào mình những hình thức bề ngoài đôi khi không thích hợp với tư cách bản thân.
“Chiếc mặt nạ” ấy chỉ như tấm bình phong che chắn cho sự an toàn nào đó để
tránh sự đối diện với thực tế cuộc sống. Thông thường, chúng ta sống nhiều với
những yêu sách của người khác nhằm làm hài lòng họ. Ngay cả những danh vọng, lời
khen tiếng tốt của người đời lại trở thành nơi núp bóng của “cái tôi” muốn được
vuốt ve trong sự dối lừa. Xét cho cùng, danh vọng sẽ trở nên thái quá khi con
người không đánh giá mình đúng mức hoặc chỉ dựa vào cách nhìn nhận hời hợt của
người đời. Văn hào M. Gorki, với giọng văn có phần hài hước, đã viết: “Cần phải loan báo cho các bạn mới vào nghề
biết rằng danh vọng là một thứ nước có màu đùng đục, có một vị chua chua và nếu
uống vào nhiều thì sẽ có tác dụng xấu với những hệ thần kinh yếu, gây nên ở người
uống một trạng thái say sưa nặng nề giống như ‘say bia’. Khi uống thứ nước này
phải thận trọng, một năm không quá một thìa cà phê, uống quá liều lượng sẽ sinh
chứng thừa chất mỡ ở tim, chứng sưng bộ phận tự ái, chứng viêm tuyến hách dịch,
tuyến tự cao, tuyến hẹp hòi mà nói chung là đủ thứ méo mó bệnh tật”.[62]
Chúng ta cần xác tín rằng đam mê như thế được hiểu là một khuynh hướng tự
nhiên và bẩm sinh trong con người này nên nó không thể bị tiêu diệt mà chỉ được chuyển hướng và
thăng hoa trong đức tin. Vì danh vọng ở đời, xét cho cùng nay còn mai mất, nay
khen mai chê. Còn được Thiên Chúa biết đến thì hậu thế vẫn còn khen ngợi. Xin
đơn cử trường hợp của chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Điều
này sẽ được bàn thêm trong phần đam mê của chị. Ở đây, chúng ta chỉ nêu bật sự
kiện rằng từ tuổi nhỏ, chị thích mặc những bộ áo váy thật đẹp để lôi kéo sự chú
ý của mọi người, và phong cách thích tỏ ra người lớn. Thế mà khi vào dòng, chị
thích âm thầm và chỉ muốn mình Chúa biết đến, chị ao ước như một loài hoa dại mọc
trong khe núi mà chỉ một mình Chúa biết đến thôi! Bản thân chị thích làm việc
lành dâng cho Chúa nhưng chị lại muốn dành niềm vui của việc phục vụ cho chị đồng
tu, đồng thời chị chịu mang tiếng là lười biếng và chậm chạp.[63]
Song những thứ đó không làm giảm nhân cách tôn giáo nơi chị nhưng luôn sống
tinh thần con trẻ trước sự hiện diện của Thiên Chúa là Cha.
Thật vậy, nhân cách tôn
giáo không ồn ào, không khua chiêng đánh trống. Một cụ già quì gối lần hạt trong
ngôi giáo đường vắng vẻ không làm giảm giá trị của một nhân cách tôn giáo nơi
nhà khoa học đại tài.[64]
Tất nhiên, một nhân cách tôn giáo đòi buộc phải
liên tục vươn tới Thiên Chúa, tham dự vào đời sống của Ngài mỗi ngày một hơn, sống
trước sự hiện diện của Ngài trong và trên hết mọi sự.[65]
Khẳng định này được áp dụng cụ thể trong trường hợp của cha Teihard de Chardin.
Thật vậy, cha là tu sĩ của dòng Tên, với đam mê khoa học, cha sớm trở thành một
nhà khảo cổ học. Tuy nhiên, với những ý tưởng cấp tiến, khó chấp nhận vào thời
đó, cha phải chịu sự đỉnh chỉ của bề trên và phán quyết của Giáo hội, song những
cản trở ấy không làm giảm nỗi đam mê khoa học nơi vị tu sĩ dòng Tên này. Trái lại,
cha rút về cộng đoàn sống chiêm niêm với những gì mình đã khám phá. Điều này chứng
tỏ một nhân cách cao thượng nơi ngài. Nếu chỉ dừng lại danh vọng và quyền lợi bản
thân, chắc hẳn ngài đã tìm cách phản bác cách nào đó, nhưng đã đón nhận những
chống đối từ phía anh em trong dòng và Giáo hội. Để thấy rõ nhân cách tôn giáo
nơi ngài, nghĩa là hoàn toàn qui hướng về Chúa trong khi sống đam mê khoa học, chúng
ta có thể ghi nhận chính lời ngài cầu nguyện: “Chúa ơi, xin hãy ban cho con niềm tin, để hôm nay, chẳng chất độc nào sẽ
tác hại được con, chẳng nỗi chết chóc nào huỷ diệt được con, chẳng có chất rượu
nào khiến con say khướt, để trong mọi tạo vật con khám phá ra Chúa và cảm nghiệm
được Ngài”.[66]
Như thế đam mê góp phần
tích cực trong việc hình thành nhân cách và nhân cách tôn giáo. Đam mê không những
giúp cá nhân khám phá và định hình nhân cách lành mạnh, độc đáo mà còn làm cho
đời sống đức tin của nhân cách tôn giáo có một nội dung và phẩm chất cao cả. Và
xét cho cùng, môi trường di truyền, ý chí... là những hồng ân và quà tặng Chúa
đặt để trong mỗi người để nhờ những đam mê thiên phú được đặt trong một môi trường
thuận lợi và nhờ ý chí điều hướng giúp bản thân tự chủ hầu biết tự do chọn cho
mình một phong cách hiện hữu là chính nhân cách tôn giáo giúp mỗi người đạt đến
sự hoàn thiện.
Tắt một lời, nhân cách
tôn giáo nằm trong chính hiện hữu của bạn. Chính khi bạn ý thức bản thân hiện hữu
vì Ai khác, bạn sẽ mở ra với mọi
tương quan. Và cuộc sống có ý nghĩa cho người khác thì làm đẹp lòng Chúa và là
một NHÂN CÁCH ĐÍCH THỰC.
Có lẽ bạn sẽ ngạc nhiên
và tự hỏi: Tại sao những thử thách lại đặt trong phần những giá trị ? Quả thật,
với những gì chúng ta vừa trình bày từ nhân phẩm, nhân vị đến nhân cách, tất cả
đều là những giá trị đáng bạn ao ước, còn những thử thách xem ra là những điều
tiêu cực tệ hại, dường như chúng cản trở con người
sống đam mê.
Thật ra, những gì trình
bày trước đây, chúng mang giá trị nội tại, nghĩa là con người có thể chỉ cần sử
dụng sự hiểu biết của lý trí cũng có thể thủ đắc được vì chúng ẩn sâu trong con
người. Trong khi đó, những thử thách có thể đến từ bên trong lẫn bên ngoài con người. Giá trị của nó không nằm
trong những thử thách nhưng hệ tại ở chủ thể tiếp nhận nó. Nói cách khác, giá
trị này chỉ được mua bằng kinh nghiệm bản thân thôi !
Trước tiên bạn hãy tập
quan sát những thử thách phát sinh từ bản chất con người bạn. Phải nhìn nhận rằng,
trong bạn có một khuynh hướng đam mê nhục dục ở mức độ nào đó. Thiên Chúa đã đặt
để chúng trong bạn như một lực hút mãnh liệt để đến với người khác. Điều này đặt bạn trong một
tương quan khả thể giúp bạn lớn lên, nhưng nó trở thành thử thách khi cản trở bạn đến với họ.
Vì trong bạn đồng thời phát sinh hướng vị
kỉ quy về bản thân, ảo tưởng mình là trung tâm vũ trụ. Sự quyến rũ mà Thiên Chúa ban tặng cho bạn không ngoài
mục đích giúp bạn dễ dàng đến với người khác như một
nhu cầu giúp bạn lớn lên. Nếu bạn nhận ra nó là một ân huệ Chúa ban thì đó là một
cơ hội giúp bạn đọc ra ý muốn của Chúa trong nỗi đam mê này. Nếu không nhận ra
thì nó là một thử thách đòi buộc bạn vượt qua chính bản tính tự nhiên của mình.
Đồng thời bạn phải nhìn lại chính mình dựa trên lời của thánh Phêrô: “Phần anh em là những
kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường” (1Pr 5, 10b). Thật
vậy, chỉ trong gian nan, thử thách mới đòi buộc con người vươn tới tầm cao để
có thể sống mạnh mẽ với những hoài bão của mình và để có thể sống hoàn thiện với những đam mê
lành mạnh của mình. Đối với cảm xúc sợ hãi chẳng hạn, người ta có thể ngất xỉu
khi đứng trước một thử thách hay đau khổ nào đó như một cách tự vệ, trốn chạy
thực tại. Trái lại, người đam mê không chịu khuất phục trước một khó khăn nào
vì chỉ tìm cách đạt được đối tượng đam mê. Trở ngại càng lớn thì ý chí chiến đấu
và chiến thắng của người ấy càng mạnh mẽ hơn. Bạn dễ dàng nhận thấy một người
đam mê tình ái, họ chinh phục người yêu bằng bất cứ giá nào. Chính trong lối
nhìn này, những thử thách mang một giá trị lớn lao đối với chủ thể. Giá trị này
chỉ mua bằng kinh nghiệm bản thân.
Chúng ta vừa khảo sát
tính nội tại của những thử thách và đơn cử khuynh hướng đam mê nhục dục trong
con người. Điều này con người có thể lường trước và chủ động những tình huống
có thể xảy ra. Để được thế, trước hết và trên hết, con người phải thực hiện cuộc
khám phá và hiểu biết bản chất con người, cách riêng là những khuynh hướng chủ
đạo bản thân; vì "biết mình trăm trận trăm thắng". Điều cần tâm niệm là bạn không chiến đấu một mình nhưng có Chúa
hướng dẫn, đỡ nâng và
đồng hành: Ngài là Đấng vẽ đường thẳng từ những đường cong. Mọi sợi tóc trên
đầu bạn Chúa đều đếm cả chẳng lẽ những khúc cong trong đời bạn Người chẳng biết
gì sao ? Bạn sẽ xác tín điều này hơn nữa, khi những thử thách đến từ bên ngoài,
đúng hơn đến từ chính Chúa.
Chúng ta biết mọi loài
chính Chúa dựng nên, nên không có gì là ngẫu nhiên trước bàn tay uy quyền của
Chúa. Một cú ngã ngựa của Phaolo không thể nào là một ngẫu nhiên. Cú ngã ngựa tưởng chừng như rào cản đem đến một thất bại
nặng nề cho nỗi đam mê tôn giáo của ông. Chính Chúa đã tác động đến ý chí và
đam mê của ông, chuyển hướng nó hơn là tiêu diệt. Nếu như trước đó ông nhân danh một
Thiên Chúa độc thần của đạo Do Thái
mà bắt bớ và giết hại các Kitô hữu, thì nay ông nhân danh Đức Kitô phục sinh để
đến với mọi người và can đảm thốt lên rằng: “Hỡi anh em những người con bé nhỏ của tôi mà tôi phải quặn đau sinh ra một
lần nữa cho đến khi Đức Kitô được thành hình nơi anh em” (Gl 4, 19). Quả thật, thử
thách đến từ Thiên Chúa và kết thúc tốt đẹp trong Ngài. Chúng ta hãy nghe chính chứng nhân ấy quả
quyết: “Không một thử thách nào xảy ra
cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người
không để anh em bị thử thách quá sức, nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ
cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (1Cr 10, 13).
Như thế, dù thử thách đến
từ bên trong hay bên ngoài bản thân đều là cơ hội giúp bạn lường sức mình khi đối
diện với những thực tế nhiều cam go. Ngoài ra, bạn cần tái khám phá và chuyển hướng những nỗi đam mê mình
đang sống theo chuẩn mực đam mê của Chúa Giêsu và các thánh, những vị đã vượt qua những thử thách mà vẫn còn sống
hoài nỗi đam mê cho đến khi thành toàn. Ngày nào bạn còn sống, những thử thách vẫn
đồng hành với bạn. Hãy tập đọc ra trong mỗi biến cố, ý muốn của Chúa, Người có
một chương trình giành sẵn giúp cho bạn nên hoàn thiện. Những đam mê của bạn có
trần tục thế nào đi nữa khiến bạn phải vấp ngã, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp.
Điều quan trọng là bạn đừng để một thử thách nào xảy đến mà không giúp mình lớn
lên.
Rick Warren, vị mục sư Tin Lành đã có cái
nhìn trực giác rất thú vị, khi nói: Thiên
Chúa mỉm cười ngày bạn chào đời. Ngài mỉm cười vì nhiều lẽ: bạn là niềm vui của Ngài; bạn là hoa quả của tình yêu Ba Ngôi; và bạn là
đối tượng tình yêu Ngài. Quả thật, từ
đời đời, Ngài đã nghĩ đến bạn, vì bạn là đối tượng tình yêu Ngài. Vẻ đẹp đáng
yêu nơi bạn chỉ mình Ngài là Đấng Tạo dựng mới khả dĩ chiêm ngưỡng. Cho đến khi
nhập thể và nhập thế, bạn trở nên
“hoa trái của lòng Ngài”, là vinh quang của Ngài ở trần gian. Giá trị con người
thật cao cả đến nỗi, Công đồng Vatican II đã minh định: duy con người được dựng nên vì chính họ.[67]
Lời phát biểu này phải đặt trong tương quan với Đấng Tạo Hoá. Khi đặt trong
tương quan này, Giáo hội đề cao con người là hình ảnh Thiên Chúa, đồng thời,
giúp chúng ta tránh thái độ độc tôn, coi mình là trung tâm vũ trụ và là ý nghĩa
cho chính mình.
Thánh Gioan đã viết trong Lời Tựa Tin Mừng thứ
tư: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo
thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,3). Thiển nghĩ, đây chính là chìa khoá mở ra mọi
suy tư về ý nghĩa cuộc sống.
ĐTC Benedicto XVI đã khẳng định: “Ý nghĩa do chính chúng ta tạo ra nói cho
cùng không phải là ý nghĩa. Ý nghĩa là nền tảng cho cả cuộc đời chúng ta tựa
vào đó để có thể sống, ý nghĩa này chỉ có thể do lãnh nhận chứ không thể tự tạo
ra được” [68].
Mà ý nghĩa ấy chúng ta lãnh nhận từ đâu nếu không phải từ bên ngoài, một Đấng
bên trên ban phát. ĐTC giải thích tiếp: “Chính
vì chúng ta được bao trùm, bao bọc bởi điều vô cùng lớn lao mà cuộc đời chúng
ta mới được có ý nghĩa” [69]. Khi khẳng định “Logos”, nền tảng tựa
nương đem lại ý nghĩa cho con người, ngài đã đồng hoá Ngôi Lời chính là Ý
NGHĨA. Ngài nói: “Ý nghĩa của thế giới là
một con người, một ngôi vị sống động” [70]. Chính trong chiều hướng này ĐTC đã đề
cao thái độ tin là một cuộc gặp gỡ với con người Giêsu. Ngài nói tiếp: “Chính nơi cuộc đời Ngài, nơi sự tận hiến trọn
vẹn cho nhân loại mà ta thấy được ý nghĩa của thế giới. Ý nghĩa đến với ta như
quà tặng tình yêu khó tưởng tượng nổi. Một tình yêu miên viễn và không bị vẩn đục
bởi mọi toan tính vị kỷ, nó không những yêu thương cả tôi, mà khiến cho cuộc đời
tôi đáng sống” [71].
Quả thật, Đức Kitô đã chết thay cho chúng ta, nên chúng ta có sống là sống cho
Chúa. Ý nghĩa của cuộc đời chúng ta được trả giá bằng chính cái chết và giá máu
của Ngài.
Thông thường, khi suy tư về ý nghĩa cuộc sống,
con người thích dùng những lời hết sức hoa mỹ, đôi khi còn đao to búa lớn nữa.
Xét cho cùng, con người chỉ mới dừng lại bề nổi của thực tại. Và khi không còn
ngôn từ để diễn tả, họ kết luận: con người là một huyền nhiệm. Ít ra, họ đã tạo được một tương quan tôn trọng lẫn
nhau. Nhưng dưới nhãn quan thần học Kitô giáo, Ý nghĩa của cuộc đời tôi là
chính Đấng đã chịu đóng đinh và chết vì tôi. Điểm độc đáo này là nối kết từng
cá nhân với ý nghĩa đời họ; tương quan sống động giữa tôi và Đấng cứu chuộc
tôi.
Vậy khi nói về đam mê, Đấng cứu chuộc tôi sống
đam mê thế nào ? Tôi phải sống thế nào ? Cảm nghiệm tình yêu Chúa phải là động
lực thúc đẩy những đam mê sống động của tôi. Và ý nghĩa cuộc sống, như một cỗ
xe vô hình chuyên chở, bao bọc đam mê của tôi tiến thẳng về đích là chính Chúa,
Ngôi vị tương quan với tôi.
Ý nghĩa của cuộc sống chỉ được hiểu dưới nhãn
quan đức tin, điều này đòi buộc đam mê phải được thăng hoa và giải thích theo
chiều hướng siêu nhiên. Từ đây, đam mê không còn giữ thái độ độc tôn nữa nhưng
là có Chúa làm chủ đời mình; đam mê không còn được sở hữu đối tượng của mình nữa
nhưng là hướng về Chúa. Tốt hơn hết, là đam mê chính Chúa và những gì thuộc về
Ngài mà thôi.
Nhưng phải hiểu những gì thuộc về Ngài thế nào? Tất cả mọi sự trên thế gian này đều
thuộc về Ngài. Như thế, chúng ta có thể đam mê bất cứ thứ gì? Thánh Phaolô bảo rằng chúng ta có thể làm được
mọi sự nhưng không phải mọi sự đều sinh ích. Thật vậy, chúng ta chỉ được phép
đam mê trong chức phận của mình mà thôi! Phá đi ranh giới này, chúng ta dễ làm
mồi cho những nguy hiểm dọc đường. Là kitô
hữu, chúng ta không được đam mê vợ hay chồng người khác. Là môn đệ Chúa Kitô, bạn không thể đam mê
và làm nô lệ cho tiền của được. Là tu sĩ
hay linh mục, bạn không được đam mê quyền bính để cai trị người khác vì nó
là ân ban đến từ Thiên Chúa… Kinh Thánh nói: “Thiên Chúa đã trồng vĩnh cửu trong trái tim con người” (Gv 3,11), nghĩa là niềm khát vọng, đam mê
về thực tại siêu nhiên thuộc bản tính con người. Nhưng nó chỉ ở dưới dạng khả
thể, như hạt giống chờ một mảnh đất tốt. Trái tim con người phải được thuần hoá
và thần hoá mới có thể trở thành một không gian tốt cho “vĩnh cửu” lớn lên.
Có một con cá nhỏ ngày ngày nhởn nhơ, vui đùa
trong làn nước, nó thắc mắc tự hỏi: “Nước
là gì ? Tại sao tôi phải cần đến nước ?”. Nó đi tìm hiểu nơi những con cá
lão làng và được trả lời rằng: Đã qua bao thế hệ cha ông cá nhà ta đã chết và
qua đi, đã làm cho dòng nước ra hôi thối và ô nhiễm. Một ngày kia, có một con
cá tự xưng mình là chết thay cho mọi loài cá và có khả năng thanh lọc dòng nước.
Nó đã chết và từ đó nên nguồn sống thực cho chúng ta ngày nay. Nhưng cá con
không được thuyết phục cho đến một ngày nó được vớt ra khỏi nước, thấy mình khô
khốc và cằn cỗi, bấy giờ, nó muốn trở về nguồn nước xưa, là nguồn sống duy nhất
đời nó.
Có những người cho rằng, Giáo hội quá tỉ mỉ,
khắt khe khi đưa ra quá nhiều qui tắc, điều luật… làm bóp nghẹt sự sống con cái
mình. Nhưng kỳ thực, nó là những bản chỉ đường do chính Thiên Chúa hướng dẫn và
do biết bao kinh nghiệm của người đi trước (Kinh Thánh và Thánh Truyền). Cả hai
nguồn đó không ngoài mục đích giúp ta chạy đúng và chạy mau đến đích, nơi các
Ngài đã đạt đến (Chúa Giêsu, các thánh). Ai khôn ngoan nắm bắt những qui tắc ấy,
họ sống đam mê mà không sợ lạc đường
và đánh mất căn tính của mình. Bạn nghĩ xem, trước khi sinh bạn ra, cha mẹ của
bạn đã liệu mọi sự từ cái tã, cái nôi… đến những chỗ bạn chơi đùa đều phải an
toàn. Điều đó, bạn lại thấy khó chịu khi Thiên Chúa và Giáo hội định liệu cho bạn
ư ? Tất cả chỉ vì cho cuộc sống bạn có Ý Nghĩa.
Trong thời đại vật chất
lên ngôi, con người yêu cuồng sống vội, đời sống tâm linh như một loại xa xỉ phẩm
chỉ dành cho những kẻ lạc điệu nếu không
nói là ngu ngơ, khờ dại. Ở cái thời mà mọi nhu cầu của con người
hầu như đều được các tổ chức xã hội chu cấp thì việc van xin một vị thần không
nhanh bằng việc nhắc điện thoại: Alo ! Đã có một thời, con người
muốn giết Thượng Đế để mình hoàn toàn tự do định đoạt tất cả; nhưng vẫn còn đâu đó, những người đầy đủ mọi
sự lại đi tìm cái chết vì thấy
rằng cuộc sống không có ý nghĩa. Tuy
nhiên vẫn còn đâu đó, có những người còn giữ cho mình cảm thức tâm linh. Và ở một
góc phố nghèo Calcutta tại Ấn Độ, có một Têrêsa nhỏ
bé, ước muốn đánh tan sự dửng dưng và thờ ơ trước nỗi đau của đồng loài và Mẹ hằng
kêu gọi mọi người trở về với đời sống tâm linh. Thật vậy, chỉ có cái nhìn tâm
linh mới nhận ra hình ảnh Chúa Giêsu nơi người đồng loại,
nhất là nơi những người đói khổ khốn cùng của xã hội.
Đời sống tâm linh là gì
mà chân phước Têrêsa đã đi khắp nơi kêu gọi mọi người sống ? Quả thật, một người có đời sống nội tâm mang
tính thần linh như Mẹ đã cảm hoá biết bao người. Vào một ngày nọ, Têrêsa đi vội ra ngoài không mang theo gì, khi gặp một người
nghèo khổ, mẹ ôm lấy họ và nói: “Hôm nay,
mẹ không mang quà gì cả, hôm khác nhé !”. Bạn biết người khốn khổ hạnh phúc
thế nào không? Ông nói: “Thưa Mẹ, con
chưa bao giờ được ai bắt tay và ôm phần cơ thể của con như thế, cảm ơn Mẹ”. Thiết tưởng, đó là hoa trái của đời sống
tâm linh.
Còn gì bằng thần linh
làm trung tâm đời sống: đời sống con người được
soi chiếu bởi mặt trời tự nhiên, còn những người khao khát đời sống tâm linh, họ
được mặt trời công chính chiếu rọi. Thật vậy, dưới ánh sáng thần linh, tất cả
các bậc thang giá trị đều bị đảo lộn. Chúng tạo ra sự thay đổi từ bên trong,
thay đổi phẩm chất cuộc sống. Sống dưới ánh sáng này, con người không còn sợ bất cứ sự gì, sự
nên một của một con tim kéo mọi người xiết chặt vòng tay. Với thao thức muốn mọi
người hạnh phúc, Mẹ mời gọi mọi người "Hãy quỳ gối suy phục
Thiên Chúa tình yêu".
Xét cho cùng, đời sống
tâm linh là tương quan giữa linh hồn và vị Thiên Chúa của họ. Có thể nói, ba
nhân đức đối thần nắm một vai trò chủ
đạo trong đời sống này. Ở đây, bạn không còn phân biệt Tin, Cậy hay Mến Chúa nữa,
nhưng cả ba hợp nên một trong cách sống của bạn. Chính thái độ quỳ gối của bạn
trước Thánh Thể đã diễn tả hết thái độ suy phục của bạn vào sự hiện diện thực sự
của Ngài. Bạn sống nhân đức cậy khi bạn đặt Ngài làm chủ cuộc đời bạn; và lòng mến không bao giờ giảm đi khi bạn thông giao thân tình với Ngài như một
Ngôi vị sống động. Nói cách khác, bạn
đã biết suy nghĩ bằng khối óc của bạn, ước muốn biết bằng ý chí của bạn và biết
yêu bằng chính con tim của bạn.
Tin vào một vị Thiên
Chúa hiện diện, sẽ giúp bạn mở toang đôi mắt nhìn thẳng vào thực tại siêu hình.
Bạn sẽ không ngừng nhắc lại chân lý này khi sống trước sự hiện diện của Thiên
Chúa rằng Chúa Cha đã thương bạn đến nỗi đã ban chính Con Một làm món quà lớn
nhất trong cuộc sống kitô hữu của bạn. Và nói như Đức Thánh Cha Benedicto XVI: Thiên Chúa yêu thương với tất cả đam mê của
tình yêu thực sự. Thật vậy, một Thiên Chúa đam mê thôi thúc bạn sống đam
mê; một Thiên Chúa yêu thương thôi thúc bạn sống yêu thương. Tin vào sự hiện diện
của Đấng ấy, ánh sáng đức tin ấy sẽ soi chiếu những đam mê của bạn. Bạn có quyền
và tự do sống đam mê nhưng phải đam mê như Ngài đam mê: Đam mê đến nỗi trở nên sự hiện diện cho mọi
người. Những đam mê của bạn phải
làm sao giúp mọi người hướng về trời cao, làm sao bạn có thể trở thành dấu chỉ Nước Trời nếu đam mê
của bạn không giúp bạn hoàn thiện bản thân.
Chính Đức Cậy sẽ giúp bạn
sống và khát khao thực tại trời cao. Bạn chỉ thực sự là dấu chỉ Nước Trời khi
có Chúa Giêsu là hạnh phúc miên trường, niềm vui vĩnh cửu và là chính Nước Trời,
nếu không phải là đam mê chính Chúa ? Tất cả mọi đam mê trần gian, cách riêng những đam mê Chúa gieo hạt giống
trong lòng bạn chỉ là những phương thế giúp bạn đạt đến mục đích duy nhất đó.
Là hoạ sĩ, bạn hãy quỳ mà vẽ để nhờ những sắc màu vô nghĩa gợi nên những tâm
tình cao thượng nơi người ngắm tranh. Như thế, bạn hoàn thành ơn gọi của mình
là hoạ sĩ của Chúa, đồng thời mang lại niềm vui thánh thiện cho mọi người. Nếu Đức
Cậy như là động lực và cùng đích của nỗi đam mê của bạn thì Đức Mến, tình yêu
phải là nhựa sống luôn lưu chuyển trong từng đường gân thớ thịt của con người bạn.
Thật vậy, mối tương quan
thân tình giữa bạn với Chúa phải trở thành điểm qui chiếu cho mọi đam mê của bạn;
nghĩa là đời sống đam mê giúp bạn yêu Chúa hơn và mở ra với mọi tương quan khác
gần gũi và thân tình hơn. Chính Thánh Thần sẽ thánh hoá và làm sinh động mọi
sinh hoạt trong đời sống bạn, để mỗi phút sống đam mê của bạn là mỗi phút sống
trong tình hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa. Nói cách khác, mỗi phút bạn sống
đam mê là từng khoảnh khắc bạn tiền hưởng nếm thiên đàng. Thiên đàng ở đâu nếu không phải là nơi Chúa ngự. Mà Thiên
Chúa ở đâu nếu không phải trong lòng
những người thiện chí, những kẻ nghèo hèn. Tôi và bạn là những người nghèo, thiếu thốn... Như thế, chúng ta cần sống đam mê vì Chúa và cho mọi người. Còn những ai tưởng mình no đủ thì đời sống
tâm linh là một cách quảng cáo mới để giúp họ thay đổi chiếc áo lỗi thời. Và
như thế, đức tin, cậy và đức mến chỉ là chất liệu và màu sắc làm cho bộ cánh của
họ thêm lộng lẫy, yêu kiều.
Điều cảnh báo này giúp mỗi người luôn ý thức trong khi sống đam mê, con người
có thể mê lầm. Chính đời sống đam mê của bạn mà có Chúa ấy là bạn đang bước vào
lãnh vực tâm linh.
Để kết thúc, xin gợi lại tư tưởng của tác giả
W.Jame như một dấu chỉ nhận biết người nào sống hạnh phúc trong đời sống tâm
linh, ông viết: “Những người trưởng thành
về tâm linh thì biểu lộ một đời sống tâm lý phong phú, bởi vì họ xác tín sự hiện
diện của một cái gì linh thiêng trong đời. Điều này mang lại cho họ hạnh phúc,
sự quân bình và sung sướng biến thành tâm tình muốn hiến dâng. Hạnh phúc trong
tôn giáo thì khác với hạnh phúc bình thường. Trong đời sống, ta thấy hạnh phúc
sau khi thoát được một cơn hoạn nạn hay đạt tới ước nguyện nào đó; sự hạnh phúc
được hưởng cho riêng mình. Còn hạnh phúc trong tôn giáo thì muốn vượt ra khỏi
mình”.[72]
Đức Giêsu, xét theo nhân tính, là một con người
thực sự, sống trọn vẹn kiếp người như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi. Ngài cũng ăn,
uống, ngủ, nghỉ như bao người; cũng yêu cũng ghét; cảm xúc và đam mê như con
người. Có khác chăng nơi sự đam mê của Đức Giêsu mãnh liệt và liên tục hơn, định
hướng rõ ràng hơn và hoàn tất nhưng không vương hại ai; trái lại, nỗi đam mê của
Ngài đã dẫn đến cái chết sinh ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Để hoàn tất
công trình cứu chuộc ở trần gian, Ngài đã trải qua 3 giai đoạn:
- Đam mê làm người
- Đam mê con người
- Đam mê cứu độ con người.
Ba giai đoạn này có thể gồm tóm trong việc Đức
Giêsu đam mê thi hành Thánh Ý Cha.
Triết gia Hegel đã nói rằng: “Không có gì cao cả trên cõi đời này lại có
thể hoàn tất được mà không cần đến đam mê”. Khẳng định này được áp dụng
cách triệt để và cụ thể nơi cuộc đời Đức Giêsu.
ĐAM
MÊ LÀM NGƯỜI
Có một sự "điên rồ" nơi Thiên Chúa,
khi chê bỏ Thiên tính, khước từ vinh quang dành cho Mình, mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Điều kỳ diệu và khác thường
đó chỉ một mình Thiên Chúa dám làm. Một khẳng định không sợ sai lầm đó là quyết
định làm người là một đam mê điên rồ nơi Ngôi Hai Thiên Chúa - Đức Giêsu Kitô.
Ngài đam mê không phải để thoả mãn bản thân nên chúng ta phải xét đến mục đích
của Ngài đến trần gian, chính nó đã chi phối những tâm tình nội tại khiến Ngài
quyết định làm người.
Nỗi đam mê mãnh liệt đã
khiến Đức Giêsu quên đi phận mình là Thiên Chúa mà đến sống giữa con người. Ở
đây không có sự đánh đổi vinh quang Thiên Chúa để chiếm loài thụ tạo. Muôn loài
mọi sự đều thuộc về Ngài nên chẳng có gì đáng Ngài đánh đổi. Nhưng vì bản tính
Ngài là tình yêu và muốn sống trọn nỗi đam mê, khi ý thức mãnh liệt, muốn thông
ban sự sống thần linh cho mọi loài thọ tạo.
Phải chăng có một ý muốn sâu xa được thai
nghén nơi cung lòng Chúa Cha, đã được ghi khắc sâu đậm trong cuộc đời dương thế
của Đức Giêsu ? Cổ nhân đã khuyên: Dạy
con từ thưở còn là bào thai, câu nói ấy được áp dụng một cách nào đó trong
trường hợp này. Quả thật, những gì của Cha là của Con, tình yêu của Cha cũng là
của Con và được diễn tả cách minh nhiên nơi cuộc đời Con. Có thể nói, từ khi
Chúa Cha hứa ban Con Một để cứu độ trần gian cũng là lúc nỗi đam mê của Thiên
Chúa đến với con người được manh nha và kết tựu nơi ý muốn mãnh liệt của Người.
Tất nhiên, nơi Thiên Chúa không có thời gian, nên những tác động ấy được sống động
và thành sự một trật.
Thiên Chúa có thể làm tất cả mọi sự, nhưng dường
như chỉ có một điều là không thể làm người.
Thật ra, điều không thể thực hiện được ngoài thời gian, thì với thời gian và
trong thân xác, Thiên Chúa đã mặc xác phàm, Đức Giêsu nên giống anh em mình
trong mọi sự chỉ trừ tội lỗi. Chính tiền đề này biện minh cho nỗi đam mê không
sai lầm nơi Đức Giêsu và hiệu quả là mang ơn cứu độ cho loài người.
Nỗi đam mê này dần dà được thành hình khi Đức
Giêsu đạt đến tuổi khôn hầu có thể ý thức sứ mạng cứu độ của mình ở trần gian.
Đam mê càng mãnh liệt, thân xác càng hao mòn, phải chăng vì nhiệt tâm lo việc
Nhà Chúa mà Ngài phải thiệt thân. Đam mê nơi Đức Giêsu không mang tính mù quáng
khiến rối loạn sinh hoạt tâm lý bình thường. Ngài sống với nỗi đam mê và là
chính “đam mê”; vì mọi biểu hiện ngoại tại đều diễn tả chiều kích nội tâm cách
hữu hiệu và sáng tỏ nơi Ngài. Thân xác, linh hồn và thần trí Ngài hoà hợp nên một,
không có sự mâu thuẫn khiến sinh ra tội lỗi. Tất nhiên, Đức Giêsu không miễn trừ
việc chiến đấu nhưng vì được điều hướng dưới cái nhìn của Chúa Cha, Ngài không
hề phạm tội. Có thể nói, đam mê của Đức Giêsu rất người và rất thật vì nhắm vào
chính đối tượng là con người.
ĐAM
MÊ CON NGƯỜI
Thiên Chúa biết con người tự thân không thể đạt
được Ngài, nên đã “Xuất thiên, nhập thế”,
sống hết mình với nỗi đam mê chính con người. Con người là chi mà Chúa cần
nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm ? Chính sự "yếu đuối"
như thế mà Ngài đã đam mê đi tìm và cúi xuống trên con người; đồng thời, con
người cũng được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, nên lý do duy nhất khiến Đức
Giêsu đam mê con người là vì Ngài đã tìm thấy nó trong trái tim người Cha. Có
thể nói, không ai đam mê con người như Đức Giêsu. Không ai tin vào sự cao cả của
con người như Chúa Giêsu. Niềm đam mê ấy phải trả giá đắt bằng cuộc xuất thiên
của Ngài. Niềm tin ấy phải trả bằng chính sự sống Ngài. Niềm tin và niềm đam mê
vào con người đã được thể hiện rõ nét trong cuộc đời dương thế của Đức Giêsu với
tư cách là vị mục tử nhân lành. Đức Giêsu đam mê đi tìm con người ngay khi nó
còn là tội nhân và ngày nào Ngài không đến và cứu nó thì nó vẫn còn chìm đắm và
chết trong tội lỗi. Đó là bằng chứng tình yêu vô vị lợi nơi Vị Mục tử. Không phải
Đức Giêsu muốn bỏ 99 con kia để chỉ tìm con chiên lạc. Tình yêu của Ngài vô
biên bao trùm cả nhân loại. Tình yêu và phẩm tính siêu việt của Ngài, cả nhân
loại và mọi thời không thể múc cạn.
Nhưng Đức Giêsu muốn mặc khải một tình yêu cá
biệt và thiết thân. Thật vậy, Ngài đã cúi xuống và đón nhận con chiên lạc, vác
trên vai thánh mình mà dẫn về đồng cỏ xanh tươi nơi niềm vui và bình an ngự trị.
Từ đó, Ngài giúp nó sống trọn vẹn mọi mối tương liên với bản thân, tha nhân và
Thiên Chúa; khiến nó là nó và như Chúa yêu thương nó chứ không phải ai khác.
Nỗi đam mê đã đồng hoá Đức Giêsu với phường
thu thuế và quân gái điếm. Ngài không đam mê tửu sắc như có kẻ cho Ngài là thế.
Ngài đã đến với họ vì họ đã mở lòng ra với Ngài và để Ngài tự do bước vào đời sống
họ. Không một ai thiện chí đến với Ngài mà không được Ngài yêu thương. Họ đã được
thánh hoá trong tình yêu Ngài. Họ giúp Ngài sống nỗi đam mê cách chân thật và
siêu nhiên hơn cả. Còn những kẻ dửng dưng hay bàng quan, nỗi đam mê của Ngài
hoá thân trong người cùng khốn để kêu gào tình yêu và lòng thương xót của họ. Sống
thực trong nỗi đam mê, Ngài biết mình phải làm gì với từng tâm hồn, vì nỗi đam
mê của Ngài là được khao khát phục vụ con người. Ngài có thể quên ăn quên ngủ
vì tập chú vào nỗi đam mê con người. Đó không phải là xu hướng mù quáng thiếu
kiểm soát chỉ nhằm thoả mãn nỗi đam mê nhưng Ngài biết phải làm gì để con người
được sống và sống dồi dào.
Trong lịch sử đời sống con người, nỗi đam mê
đã làm bao đế quốc sụp đổ, nhiều ý thức hệ tiêu tan hay những tay bạo động làm
băng hoại thế giới,... tất cả khởi đi từ nỗi đam mê quyền lực. Quyền lực vẫn
luôn là cám dỗ lớn nhất cho con người mọi thời. Nó được ngụy trang dưới một
chiêu bài hết sức tinh vi: ai mạnh kẻ ấy sẽ thắng và kẻ mạnh mới đủ sức xây dựng
một thế giới tốt đẹp và phồn thịnh. Nhưng Đức Giêsu lại công bố với chúng ta: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người
phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc
10,43-44). Tất nhiên, Đức Giêsu không
theo đuổi đam mê quyền lực như tên cám dỗ nhân loại bày ra; trái lại, Ngài đam
mê phục vụ con người với tư cách một đầy tớ khiêm hạ. Trong khi hầu hết nhân loại,
hễ có quyền là hành quyền trên người khác, Đức Giêsu lại cúi xuống rửa chân cho
các môn đệ. Ngài cúi xuống để nâng con người lên, đó là cung cách phục vụ của Đức
Giêsu. Đó là cách phục vụ đích thực hầu nâng cao giá trị con người. Quả thật,
không ai nhận ra sự cao cả của con người như Đức Giêsu; Ngài đam mê phục vụ con
người. Và đi đến cùng nỗi đam mê ấy, đi đến cùng cung cách phục vụ ấy là dùng
chính bản thân để chứng minh Một Tình yêu siêu việt. “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục
vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,44-45).
ĐAM
MÊ CỨU
Kết cục thất bại đã mỉm cười với Đức Giêsu,
khi con người tuyên án tử cho Ngài. Đó cũng là hậu quả tất yếu cho một đam mê. Đam mê là Passion và cũng là cuộc
thương khó của Đức Giêsu. Có một sự trùng hợp trong ngôn ngữ nhưng hữu lý
nơi con người Đức Giêsu. Phải chăng thập giá là biểu tượng đam mê của Vị Thiên
Chúa ? Nếu như thập giá là sự xỉ nhục và điên rồ đối với thế gian thì nó lại là
quyền năng và chiến thắng cho những ai đam mê đi tìm Đấng Phục Sinh. Qua bao thời
đại, không ai khả dĩ trả lời cho định mệnh siêu việt của thế giới ngoại trừ Đức
Giêsu. Qua cái chết tự nguyện, Ngài đã mang ơn cứu độ cho toàn nhân loại. Lại một
lần nữa Hégel có lý khi khẳng định: “Không
có gì cao cả trên cõi đời này lại có thể hoàn tất được mà không cần đến đam
mê”.
Trong ánh sáng phục sinh, chúng ta còn nhận
ra chân lý sau cùng của nỗi đam mê nơi Đức Giêsu: Đam mê nuôi sống nhân loại và
ở cùng nhân loại cho đến ngày tận thế.
- Đam mê nuôi sống nhân loại:
Người cha vui mừng khi cứu con mình khỏi cạm
bẫy sự chết, nhưng còn phải thi thố tình yêu khi trao ban cho nó bánh ăn hằng
ngày. Đức Giêsu siêu việt hơn nhiều, Ngài dùng chính Thân thể làm của ăn của uống
nuôi sống nhân loại. Bánh ăn hằng ngày nuôi sống và nhằm kéo dài sự sống con
người trên trần gian nhưng rồi một ngày ai cũng phải chết, còn Thân thể Đức
Giêsu là của ăn nuôi sống họ trên đường về Quê Trời. Những gì Thiên Chúa đã định
liệu, Người cũng hoàn tất nơi Đức Giêsu. Đam mê nuôi sống là đặc tính của người
cha. Người cha trần gian sẽ chết, nhưng Đức Giêsu hằng sống muôn đời.
- Đam mê ở cùng nhân loại:
Đức Giêsu đã hiện diện hữu hình trong một thời
gian, Ngài đã chết rồi bước vào cõi sống. Từ đây, Ngài sẽ ở cùng nhân loại
trong một chiều kích khác siêu việt hơn. Kinh Thánh nói gì về Đức Giêsu ? Ngài
vui thích ở giữa dân Ngài, không như một người tạm trú nhưng đã cắm lều và cư
ngụ giữa chúng ta. Ngày nào còn nhân loại, Ngài còn tiếp tục sống hoài nỗi đam
mê, đam mê mãnh liệt và bền bỉ. Đam mê của một Đấng được mệnh danh là TÌNH YÊU.
* * *
Có thể nói, ý muốn Chúa Cha là đối tượng
trung tâm của mọi đam mê nơi Chúa Giêsu. Nói cách khác, sứ mạng hay định mệnh của
Chúa Giêsu đến trần gian là thi hành ý muốn Chúa Cha. Như có lần Ngài đã công bố:
cũng vì giờ này mà tôi đến thế gian (giờ vâng lời Chúa Cha để đi chịu chết).
Chúng ta cứu xét xem, Ngài nói gì với nỗi đam mê này ? “Lương thực của Thầy là làm theo
muốn Chúa Cha” (x. Ga 4.34).
Phải chăng khi nói, lương thực của Ngài là
làm theo muốn Chúa Cha, Ngài đã hạ giảm ý muốn đó xuống hàng vật chất (lương thực
hằng ngày) ? Chắc hẳn là không. Nếu như lương thực là nhu cầu thiết yếu không
thể thiếu của thân xác con người và vì thiếu nó con người phải chết thế nào,
thì ý muốn của Chúa Cha lại là yếu tố quyết định cho sự sống và ơn gọi của Chúa
Giêsu. Hiểu như thế, chúng ta sẽ thấy đam mê này nơi Ngài là chính đáng. Đam mê
trở thành một nhu cầu thường ngày trong đời sống Ngài.
Một ghi nhận khá quan trọng ở đây là: đam mê
này nơi Chúa Giêsu không buông theo khuynh hướng tự nhiên nhưng điều khiển bằng
ý chí lành mạnh và siêu việt. Thật vậy, thánh ý Chúa là chính Sự Thiện tuyệt đối
mà một ý chí con người khả dĩ đạt đến. Nơi Chúa Giêsu, đam mê thi hành ý muốn
Chúa Cha lại mang tính tuyệt đối hơn trong công cuộc cứu độ.
Dường như cả cuộc đời Chúa Giêsu, Ngài đã sống
nỗi đam mê này một cách triệt để. Thư Do Thái viết: "Ngay khi bước vào trần gian, Chúa Giêsu đã nói: này con đến để thi hành
thánh ý Cha” và cho đến khi chịu chết trên thập giá, Ngài tuyên bố: mọi sự đã hoàn tất. Thiết nghĩ, trong lịch sử nhân loại không một ai có thể can đảm
tuyên bố như Chúa Giêsu, đơn giản vì con người lần mò đi tìm ý Cha từng phút sống,
chỉ có Chúa Giêsu trực diện và thấu đạt ý muốn Chúa Cha, Ngài tuyên bố: mọi sự
đã hoàn tất. Như thế, chỉ có cái chết mới khả dĩ hoàn tất một đam mê.
Câu chuyện được ghi lại trong những chương đầu
trong sách Sáng thế, được các thần học gia dùng để giải thích tội nguyên tổ. Ở
đây, chúng ta chỉ dùng vài hình ảnh biểu tượng của câu chuyện huyền thoại này
nhằm khám phá ra nỗi đam mê của ông bà nguyên tổ.
Trái của cây biết lành biết dữ mà chúng ta vẫn
quen gọi là “trái cấm” mang nhiều yếu tố biểu tượng.
"Trái cấm” làm cho bầu khí của Vườn địa
đàng mang nhiều gam màu u ám. Có một sự cấm đoán đè nặng trên ông bà nguyên tổ
như một hình thức siêu ngã muốn thống trị trên con người; điều này dẫn đến con
người không được tự do hoàn toàn và vì thế những quyết định không còn sáng suốt
đủ. Đến khi con người ăn “trái cấm”,
phạm tội lại được Thiên Chúa hứa ban Ơn cứu độ. Chính khi Thiên Chúa quyết định
ban ơn cứu độ, con người nhận ra bản thân đã quan niệm sai lệch về một vị Thiên
Chúa như một Đấng ganh tỵ, chiếm quyền con người. Bởi vậy, Đức cha Fulton Sheen
có lý khi khẳng định: “Con người được cứu
độ vì sự bất tri”. Trái lại, Satan không được cứu và bị trầm luân đời đời
vì đã tự do quyết định chung cuộc trong sự hiểu biết hoàn toàn của một thiên thần
Ánh sáng.
Cũng hình ảnh “trái cấm” ấy, theo thần học
Maurice Zundel lại có cái nhìn thi vị hơn, ông coi đó là biểu tượng, dấu chỉ của hôn ước tình yêu. Như thế, một
khi quyết định ăn trái ấy, con người phá vỡ bầu khí hiệp nhất. Trong khi Thiên
Chúa muốn nên một, con người lại muốn nên bằng Thiên Chúa. Điều mà xưa kia ma
quỷ đòi ngang hàng và quay sang chống đối Thiên Chúa và đã thất bại, nó lại
khêu gợi và cám dỗ con người với nỗi đam mê danh vọng, lấy mình làm trung tâm,
làm Thiên Chúa của mình. Còn nói theo sách Giáo lý Hội thánh Công giáo: “tội đầu tiên là con người đã chọn chính mình
thay vì Thiên Chúa” [73].
Trong khi đó, nhà thần học Xavier Thévenot gọi đây là cuộc đam mê đi tìm sự vạn
năng. Ảo tưởng này đã biến con người trở nên ngoại tại với bản thân. Nhưng sự vạn
năng thuộc về Đấng, chiều chiều “đi dạo trong lòng con người”. Điều này, đòi buộc
một cuộc trở về triệt để, trở về với Thiên Chúa, với lòng mình hầu tái lập lại
hôn ước Tình Yêu.
Sách GLHTCG cũng đưa ra một quả quyết giúp định
hướng cho mọi suy tư trong Giáo hội, rằng: ‘“Cây
biết lành biết dữ’ (St 2,17) nói lên một biểu tượng ranh giới mà con người là
thụ tạo không thể vượt qua”’ [74].
Xem ra, Thiên Chúa đã dựng nên con người cho nó tự do rồi lại đặt rào cản,
không tạo điều kiện giúp nó thành toàn. Không phải thế ! Chính khi con người thực
sự được mặc khải về giới hạn bản thân, hiểu đầy đủ và chính xác về mình, là điều
kiện thiết yếu giúp sống viên mãn. Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng là
vậy ! Nhưng khốn nỗi đam mê danh vọng, muốn bằng Thiên Chúa, đã phá vỡ “rào cản” đã phá trật “đường ray” mà chính
nó giúp tiến nhanh trên đường hoàn thiện. Điều đáng chú ý là trái của cây trước
và sau khi Satan cám dỗ chẳng có gì thay đổi; như thế, nỗi đam mê ấy đã khiêu gợi
từ bên trong khiến ông bà nhìn thấy trái ấy “trông thì đẹp, ăn thì ngon”. Chẳng
phải vì dục vọng đôi mắt khiến ông bà tìm thỏa mãn giác quan bằng cách ăn trái
cây ấy, vì ông bà chẳng thiếu sự gì. Nhưng nó biểu hiện một nỗi khát vọng hướng
về Vô biên. Nỗi khát vọng này tự nó thật chính
đáng, song, vì ông bà không ý thức đủ về thân phận loài thọ tạo, đồng thời, nỗi
đam mê ấy không hướng lên Chúa mà chỉ qui về bản thân nên dẫn đến sa ngã. Từ
đó, hệ luỵ là chúng phá vỡ trật tự tự nhiên, con người từ đây xa lạ với bản
thân, với Thiên Chúa và cả vũ trụ; từ đây, con người đổ lỗi cho nhau; tránh
giáp mặt với Thiên Chúa và đất đã trổ sinh gai góc khiến con người phải đổ mồ
hôi trán mới tìm được của ăn.
Một chi tiết khác, chúng ta cần ghi nhận: con
người ở một mình không tốt. Trong ý định Thiên Chúa là muốn tạo nên một trợ tá
tương xứng để sống với Adam nhưng tại sao Ngài không lấy đất nặn nên và thổi
hơi như tạo dựng Adam mà lại cho một cơn mê ập xuống rồi rút lấy từ cạnh sườn
ông mà làm nên người đàn bà ? Thiên Chúa dư sức toàn năng để làm điều đó nhưng
đây lại là một biểu tượng khác.
Khi Thiên Chúa dẫn người đàn bà đến cho Adam,
chẳng biết đầu đuôi thế nào thế mà ông đã reo lên: “Xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Chắc hẳn, có một trực giác
nào đó khiến ông khám phá ra sự đồng điệu giữa mình và kẻ đối diện vừa xuất hiện.
Trước khi Thiên Chúa tạo nên người đàn bà, Adam – con người ấy là một thực thể
độc lập và thống nhất, rồi sau này cũng vậy, nhưng giải thích sao về sự có mặt
của người đàn bà ? Có thể, người đàn bà là hoa quả của mối dây hiệp nhất bên
trong nơi con người đầu tiên được hiển lộ ra ngoài. Điều này giúp chúng ta giải
thích về sự liên đới trong việc cùng ăn trái cấm, đồng phạm tội. Tất nhiên, cả
cha lẫn mẹ sống trong sự tội thì bào thai sau này được sinh ra, cũng là hệ quả
của việc cưu mang trong tội lỗi. Sự liên đới thiêng liêng và vô hình này làm tiền
đề giúp giải thích cho ơn cứu độ phổ quát của Đức Kitô.
Nếu như ngày đó con người phấn khởi reo lên “xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”,
nghĩa là một thể thống nhất mà thôi, thì bây giờ Thiên Chúa tuyên án: “ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi”. Như thế,
sự thèm muốn lẫn nhau giả thiết sự hiệp nhất ấy đã bị phá vỡ. Và rồi sau cùng có hoà hợp đi nữa cũng là nhằm
thoả mãn đam mê nhục dục thân xác. Một cám dỗ khác nảy sinh, con người bị phân
mảnh “và nó sẽ thống trị ngươi” (x.
St 2,16).
“Xương
bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”, câu này gợi lên trong chúng ta cảm thức:
họ thuộc về nhau nhưng một khi sa vào
tội lỗi, nỗi đam mê tiêm nhiễm con người,
giờ đây, họ tìm đến nhau để sống
hoài nỗi đam mê sắc dục. Theo lối giải thích của nhà thần học Xavier Thévenot về
đoạn này, chúng ta hiểu rằng, chỉ sau khi phạm tội, ông bà mới nhận ra hai bên
có sự khác biệt, có thể nói đó là lý chứng cho việc họ thèm muốn lẫn nhau. Điều này nó chỉ được chấp nhận và
trở nên thánh thiêng trong bí tích hôn nhân Kitô giáo, chính trong nhãn giới
này những chương đầu của sách Sáng thế mới được “rửa tội”.
Từ những gì vừa trình bày, chúng ta nhận thấy,
mọi sự phát sinh từ trái cấm ấy, tội cũng từ đấy mà ra. Điều mà thánh Augustino
gọi là tội hồng phúc; như thế, trái cấm ấy phải được gọi là trái hồng phúc.
Chính khi con người không nhận ra hồng phúc lớn lao là được mặc khải về giới hạn
bản thân, sự bao bọc của Thiên Chúa yêu thương, thì con người lại quây quắt
trong đam mê đi tìm danh vọng, nhưng con người không ý thức rằng không có danh
nào đáng được họ ao ước bằng danh Thiên Chúa tình yêu. Đam mê danh vọng như ăn sâu trong bản tính con người “nó sẽ thống trị ngươi” nên không thể loại
trừ mà không hạ thấp nhân phẩm. Điều thiết yếu là chuyển hướng đam mê ấy qui về
Chúa vì con người có thống trị, sử dụng quyền bính cũng là để phục vụ và giúp mọi
người lớn lên trong Chúa.
Và đam mê nhục dục, xét cho cùng, chỉ là mặt
tiêu cực của nỗi đam mê hiệp nhất, thuộc về nhau như tác giả sách Sáng thế đặt
trên miệng Adam: “xương bởi xương tôi, thịt
bởi thịt tôi”, và ở nhắm tới mức cao hơn và bền vững hơn như lời khẳng định
của Chúa Giêsu: “Sự gì Thiên Chúa đã kết
hợp loài người không được phân ly”
Thoạt
tiên, khi tìm hiểu cuộc đời của thánh Phaolô, chúng ta dễ dàng kết luận: Ngài sống
với nỗi đam mê truyền giáo. Nhưng đây chỉ là cách thức diễn đạt nỗi đam mê tôn
giáo nơi ngài. Thật vậy, cha mẹ Ngài là những người thế giá, là công dân Rôma.
Ngài được giáo dục để trở thành một người biệt phái đúng nghĩa dưới chân thầy
Gamalien. Qua cách Ngài bộc bạch trong các thư, ngài rất tự hào vì những gì
mình được thụ huấn. Có thể nói, môi trường Do Thái nơi thánh Phaolô sống, giúp
ngài xác tín về một Thiên Chúa uy quyền mạnh mẽ và riêng biệt của dân tộc Do
Thái. Nỗi đam mê tôn giáo này chẳng có gì quá đáng. Ngài có quyền tự hào, đó có
thể là cách diễn tả nềm tin sống động; đồng thời, thể hiện một con người nhiệt
thành với tôn giáo, với lề luật và những nghi thức tôn giáo. Nếu chỉ dừng lại với
những tác phong và lối hành đạo ở trên, thật đáng trân trọng nỗi đam mê này.
Nhưng
Ngài đã sai lầm khi ảo tưởng tự coi rằng tôn giáo mình là trổi vượt và bắt người
khác phải theo truyền thống cha ông. Tất nhiên, động lực thúc đẩy ngài bắt bớ
các tín hữu là do nhiệt thành sống đam mê tôn giáo của mình. Như sau này chúng
ta thấy ngài thừa nhận là do hành động thiếu hiểu biết. Sự thiếu hiểu biết ở
đây không phải do tình trạng yếu kém về mặt giáo lý của đạo nhưng sai lạc trong
cách hành đạo. Ngài có quyền tuyên xưng niềm tin cách nào tuỳ ý như những người
Pharisiêu công khai khác nhưng ngài không được quyền áp đặt tự do lựa chọn tôn
giáo của người khác. Đây cũng là điều mà Giáo Hội ngày nay vẫn chịu bách hại vì
những ý thức hệ cực đoan…
Tất
cả những gì diễn tả nỗi đam mê tôn giáo của ngài dường như đã tiêu tan sau biến
cố tại Đamat. Phải trải qua kinh nghiệm đau thương mới giúp đương sự ngộ ra những
chặng đường đã qua, để sau này ngài có thể nói: tôi quên những chặng đường đã
qua, lao mình về phía trước hầu mong chiếm đoạt được Đức Kitô (x. Pl 3,13-14).
Tất
nhiên, từ sau biến cố để đời ấy, Phaolô đã thay đổi hoàn toàn, nhưng không có
nghĩa là từ bỏ sống đam mê tôn giáo, ngài khởi đầu niềm đam mê với ý thức và tự
do của một người muốn thuộc về Đức Kitô. Nỗi đam mê tôn giáo giờ đây được hiểu
là nỗi đam mê chính Chúa Kitô phục sinh. Có những lúc ngài tự nhận mình như kẻ
điên vì được Đức Kitô chiếm đoạt.
Các
nhà tâm lý học cổ điển cho rằng đam mê chỉ xuất hiện khi tâm hồn suy yếu, nhàn
rỗi, chán nản và ngay cả ý chí yếu nhược. Có thể nói, đây là một lập trường
không thể áp dụng cho trường hợp thánh Phaolô. Điều mà khoa học tự nhiên xem ra
bất khả thì với Thiên Chúa đều có thể khi Ngài cho ân sủng can dự vào giúp hoàn thiện bản tính tự nhiên. Thiên Chúa
dùng chính lòng nhiệt thành và ý thức tôn giáo sâu xa của thánh nhân mà thực hiện
những công trình vĩ đại.
Qua
đó, chúng ta có thể khẳng định tự thân đam mê chẳng có gì là xấu hay tốt nhưng
đối tượng đam mê sẽ "quyết định”, vì đó là chuẩn mực khả dĩ giúp đánh giá
hành vi con người sống dấn thân. Tất nhiên, khi đề cao đối tượng đam mê chúng
ta không thể bỏ qua cách sống nỗi đam mê của đương sự. Như thánh Phaolô, việc sống
nỗi đam mê Do Thái giáo không có gì sai lầm nhưng trong cách thực hành đam mê ấy
ngài tỏ ra thiếu hiểu biết. Nếu như con người cần hiểu để tin thì đam mê tôn
giáo theo gương của thánh Phaolô đòi buộc mọi sự nhận thức đều qui về Chúa, Đấng
là đối tượng của đam mê này.
O. Wide đã khẳng định: “Mỗi vị Thánh có một quá khứ, mỗi tội nhân có một tương lai”. Câu
nói này được áp dụng triệt để cho cuộc đời của Thánh Augustino, một con người sống
với nhiều nỗi đam mê. Có những đam mê đã kéo theo một đời sống lệch lạc và truỵ
lạc, cũng có những đam mê giúp ngài sống
thật và sống thánh. Tất cả được bộc
bạch trong cuốn Tự Thuật, một trước tác của ngài.
Ở Đông Phương, khi nhắc đến Khổng Tử, người
ta nghĩ ngay thuyết “Chính Danh” của
ông, hay còn gọi “Chính Danh Định Phận”,
nói cách bình dân Danh nào Phận nấy: Vua
sống cho ra Vua, cha sống cho ra cha… nhưng đồng thời phát sinh hai thái cực.
Một đàng, Vua sống không đúng danh nghĩa vua, người ta gọi “Hữu danh vô thực”;
đàng khác, cha sống không đúng danh nghĩa cha; lạm quyền, sống hưởng thụ, người
ta gọi là “Đam mê danh vọng”. Đam mê này được chính thánh Augustino nhìn nhận,
thích trổi vượt hơn người khác, vì vậy vinh dự của ngài là làm đẹp lòng người
khác [75]
. Thật ra, nếu ngài có trí khôn và tài giỏi thì việc trổi vượt hơn người hay được
người khác khen ngợi, đó là điều chính đáng. Nhưng vì ngài lừa dối giáo sư, cha
mẹ vì ham chơi, say mê vở kịch nhảm nhí, điên cuồng; bắt chước các trình diễn
đó rồi sinh ra kiêu hãnh, tìm tiếng khen… Chúng ta nghe chính ngài tự thú: “Về các loại cám dỗ khác, còn có một cách nào
đó dò xét được mình, còn về loại này (đam mê danh vọng), thì hầu như không có
cách nào cả” [76]
. Nói như thế, ngài tỏ ra bất lực
nhưng kỳ thực với ơn Chúa, ngài nỗ lực rất nhiều. Ngài ý thức đam mê này quá
quy về bản thân nên ngài hướng ra tha nhân, ngài viết: “Con thấy rõ là các tiếng khen của người ta đã làm cho con chăm chú đến
lợi ích của con” [77]
. Điều này được chứng thực qua việc ngài dùng tài hùng biện để thuyết phục
người khác tìm đến chân lý.
Quả thật, với vinh dự sinh viên thủ khoa môn
này, ngài nhanh chóng trở thành nhà hùng biện. Đam mê này đã khiến ngài tìm đến
Ciceron là tác giả cuốn Hortensius. Chính tác phẩm này làm thay đổi nguyện vọng
và ước muốn của thánh nhân, muốn quay về sự khôn ngoan bất tử. Bắt đầu ngài tìm
đọc Kinh Thánh nhưng cảm giác vô vị. Có thể nói, đây chỉ là một cảm xúc nhất thời
vụt tắt. Nhưng dù sao, ngài cũng biểu hiện một cảm thức đam mê đi tìm Chân, Thiện,
Mỹ.
Đam
mê chân lý là một điều đáng ước
ao nhưng chân lý là một thực tại không dễ thủ đắc vì lý trí đã ra tối tăm vì “vết
thương tội lỗi”. Một khi lý trí sai lầm, chân lý ấy biến thành một loại nguỵ biện.
Do đam mê hiếu tri đi tìm chân lý, thánh Augustino vương phải bè rối mà ngài ví
như người có cặp mắt mù tối vướng phải cạm bẫy giăng trên đường. Bè rối ấy âm
mưu đẩy khoa học lên đến đỉnh điểm để loại tôn giáo khỏi đời sống con người. Sự
thể càng thêm trầm trọng khi một Giám Mục tên là Faustus cũng theo bè rối này.
Với tài hùng biện và lối nói dí dỏm đã làm say mê thánh nhân khiến ngài càng
xác tín về những “chân lý” sai lầm; dầu là những gì thánh nhân tiếp xúc chỉ là
nguỵ biện. Nhưng điều tệ hại là một khi nhổ hết cỏ mọc hoang, mảnh đất tâm hồn
trở nên trống rỗng vì không có một giáo lý lành mạnh khác trồng vào cho đến khi
ngài gặp được Giám mục Ambrosiô, từ những bài giảng hùng hồn và không kém phần
hùng biện, ngài đã nhận ra được chân lý mình phải tin nhận.
Nhưng cuộc trở về của ngài không phải một sớm
một chiều. Chúng ta nghe ngài tâm sự: “Sự
xấu kinh niên có sức mạnh trên con hơn là sự lành mới mẻ đối với con. Cái giây
phút mà con sẽ được thay đổi càng gần tới, thì làm cho con càng sợ hãi; nó
không làm cho con lùi bước, cũng chẳng đổi chiều, nhưng là lưỡng lự” . Đây
là một cuộc chiến giằng co nội tâm nhưng “giờ Chúa đã đến”. Ngài tỏ ý muốn bằng
chính dấu chỉ bên ngoài. Ngài viết: “Việc
dạy học quá vất vả đã làm cho phổi con yếu đi, con khó thở và sự đau ngực chứng
tỏ có vết thương” [78]. Nỗi đau này đồng nghĩa với việc từ bỏ nỗi
đam mê hùng biện là mối cản trở lớn khiến ngài không thể hợp nhất với Giáo Hội.
Thêm một dấu lạ khác nữa, “Chúa hành hạ
con với cái bệnh đau răng nguỵ kịch đến nỗi làm cho con không nói được nữa.
Trong lòng con nảy ra ý nghĩ là kêu gọi các bạn có mặt tại nhà cầu xin Chúa cho
con… Nhưng chúng con vừa quỳ gối để khẩn khoản cầu xin thì cơn đau biến mất…Và
tự đáy lòng, con cảm thấy một sự khuyến cáo của Chúa và vui vẻ trong đức tin” [79].
Từ những lời tự thuật trên, chúng ta có thể
xác tín rằng đức tin là hồng ân Chúa ban và “giờ Chúa đến” thì không ai có thể
ngăn cản được! Vì ý muốn của Chúa là ý muốn quyền năng, nghĩa là muốn gì thì được
vậy !
Hành trình đi đến đức tin của thánh nhân còn
nếm trải một nỗi đam mê chết người là đam mê sắc dục. Có thể nói, nó chi phối
toàn bộ cuộc sống của ngài. Augustino đã tự thú: “Con không biết phân biệt sự sáng sủa của tình yêu và sự tối tăm của nhục
dục. Cả hai tình yêu đều bốc cháy lẫn lộn trong con, lôi kéo tuổi xuân khờ dại
của con qua những ghềnh dốc đam mê và dìm con xuống vực thẳm các nết xấu… Sự
dâm đãng đã làm con dao động và xiêu té, phung phí và tiêu tan sức lực” [80].
Ngài và các bạn của ngài ganh đua nhau không phải tập tành nhân đức hay nghiên
cứu tri thức mà lại so kè xem ai làm chuyện xấu xa đồi bại hơn. Có lúc, vì muốn
hơn chúng bạn, ngài phải nói dối, ngài tâm sự: “Con sợ bị khinh thị vì vô tội, bị coi hèn hạ hơn vì trong sạch” [81].
Ngài mô tả đam mê nhục dục: “Chúng xuất hiện lờ mờ trước mặt khi con tỉnh
thức, nhưng trong giấc ngủ, chúng gợi lên không những cảm giác thú vui, mà còn
sự ưng thuận và như có cả hành động nữa” [82].
Ở đây, có sự can dự của tiềm thức; những hình ảnh đập vào mắt, chúng ám ảnh
toàn diện con người nên dịp tội và ưng thuận là khoảng cách mong manh. Đến nỗi,
khi nghĩ về những điều này, ngài thốt lên: “Trước
thánh nhan Chúa, con là một bí mật cho con và đó chính là sự yếu đuối của con” [83]. Quả thật, đam mê nào cũng đi kèm với
khoái lạc, mà đam mê nhục dục chi phối toàn bộ sinh hoạt con người nên khi muốn
từ bỏ ngay đối tượng đam mê, khoái lạc lại khuấy động, cảm xúc trào dâng, giác
quan dễ tìm lại cảm giác cũ. Với những nguy hiểm rình chờ, ngài chỉ còn cách
kêu cầu Chúa: “Con đã nói cho Chúa nhân
lành biết hiện trạng yếu đuối của con: con vui mừng mà run sợ về những ơn Chúa
đã ban, con khóc lóc về những thiếu xót
trong con, con hy vọng Chúa sẽ hoàn tất nơi con lòng thương xót của Chúa, cho tới
sự bình an trọn vẹn, mà mọi quan năng bề trong bề ngoài của con được hưởng nơi
Chúa” [84].
Chúng ta vừa lược qua những đam mê của thánh
Augustino, xem ra rất con người xác thịt nhưng nhờ ơn Chúa, ngài đã chuyển hướng
biến nó thành phương tiện mang ơn cứu độ. Chắc hẳn, đây sẽ là sứ điệp về niềm
hy vọng cho mỗi chúng ta, rằng: chúng ta
vẫn sống hoài nỗi đam mê mà không làm nguôi ngoai khát vọng nên thánh. Một
hành trình đến đức tin, một hành trình dài nên thánh đòi buộc ngài phải xét
mình luôn, ngài tâm sự: “Con thường xuyên
kiểm điểm về cái yếu đuối tội lỗi của con dưới những hình thức đam mê” [85].
Và xác tín như thánh Phao lô: chính lúc tôi yếu là lúc tôi mạnh.
Phải chăng chính khi ngài trải qua những đêm
tối lầm lạc, đam mê nhiều phen mà Giáo hội đã có một hướng nhìn đúng đắn và cởi
mở từ học thuyết đam mê của ngài ?
Khi nói đến thánh Phanxicô, chúng ta nghĩ
ngay đến Kinh Hòa Bình và Bài Ca Tạo
Vật. Có thể nói, từ những tư tưởng này, ngài được mệnh danh là Sứ giả hòa bình
bởi vì chúng là điểm qui chiếu cho đời sống an hòa nơi ngài.
Thiên
thời, địa lợi và nhân hòa, cả
ba chiều kích này được thánh nhân sống rất triệt để. Chính thái độ sống hòa đồng
và hòa điệu với mọi chiều kích mà thánh nhân đáng được gọi là Sứ giả hòa bình.
Năm 1979, ĐGH Gioan Phaolô II đã công bố: Thánh Phanxicô là quan thầy của những người
bảo vệ môi sinh. Chắc hẳn, đây không phải là một quyết định dựa trên tình cảm
nhất thời, nhưng dựa vào đời sống của ngài được thể hiện cụ thể trong Bài ca Tạo
Vật. Trong đó, chim trời mây nước và cả vũ trụ này đều có chỗ đứng và giá trị
nào đó trong cuộc đời của ngài; tất cả nên chị nên anh, cả đến cái chết như là
sự dữ tuyệt đối cũng được ngài gọi bằng một tên thân thương: chị chết. Như thế, không một thực tại
nào mang màu sắc u tối, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống thánh nhân. Chính sự
huyền đồng này (hòa điệu một cách huyền nhiệm) đã giúp ngài chinh phục cả những
kẻ thù giết hại. Xin đơn cử giai thoại kể về cuộc gặp gỡ giữa ngài và con chó
sói hung bạo tại Agodio Gubio.
Khi thánh nhân cư ngụ tại Agodio thì có một
con chó sói hung dữ đã xuất hiện, nó quấy nhiễu và gieo rắc tại họa cho mọi người.
Mỗi lần đi ra ngoài, ai ai cũng trang bị khí giới sẵn sàng chuẩn bị giao chiến
với con thú dữ; có người sợ đến nỗi không dám ra khỏi nhà. Thấy vậy, ngày nọ
ngài quyết định đến chạm trán với con thú, ngài làm dấu Thánh giá, đặt tất cả
tin tưởng vào Chúa, rồi tiến thẳng đến trước mặt con vật. Vừa thấy thánh nhân,
con vật nhe răng và chuẩn bị tấn công, nhưng ngài không lùi bước, ngài tiến lại
gần, làm dấu Thánh giá và gọi nó lại. Ngài nói cùng nó với tất cả sự trân trọng
vì nó cũng là một tạo vật của Chúa: “Này
anh sói, anh lại đây, nhân danh Chúa Kitô, tôi truyền cho anh đừng hãm hại ai nữa”.
Như một phép lạ, con chó sói hung dữ giờ đây ngoan ngoãn khép miệng lại và
quấn quýt bên ngài, ngài lại tiếp tục nói như sau: “Này anh sói, anh đã gây không biết bao nhiêu thiệt hại cho vùng này,
anh giết hại những tạo vật của Chúa mà không có phép Ngài. Anh không những sát
hại súc vật mà còn giết hại cả loài người là hình ảnh Thiên Chúa nữa; anh đáng
phạt vì những tội ấy… Nhưng tôi muốn giàn hòa giữa anh và họ để anh không còn
hãm hại ai nữa”.
Thánh nhân vừa nói xong những lời đó thì con
chó sói vặn mình ra điều biết lỗi và chấp nhận đề nghị của ngài. Ngài nói tiếp:
“Này anh sói, hẳn anh thích làm hoà với mọi
người, tôi hứa rằng: bao lâu còn sống, anh sẽ không bị đói khát nữa, anh có hứa
với tôi là sẽ không hãm hại bất cứ người và vật nào nữa không ?”. Con vật
cúi đầu như đoan hứa, thánh nhân đặt tay trên nó và đại diện cho thị dân Agodio
long trọng cam kết những lời ngài vừa hứa với con sói. Giai thoại kể tiếp rằng:
con vật tiếp tục sống hai năm tại đó, ngày ngày ra vào bất cứ nhà nào cũng như
chính nhà của nó. Nó không làm hại ai và cũng không ai hãm hại nó, cuối cùng,
con vật chết đi giữa tiếng khóc của dân làng.
Theo thánh nhân, chúng ta cần tỏ ra bất bạo động
với thiên nhiên, với chim trời núi rừng, với không khí nước non. Chỉ với một
tâm hồn thanh thản và hài hoà như thế, con người mới có thể xây dựng hoà bình
trên thế giới.
Sự hoà giải này không dừng lại với tương quan
thú vật nhưng còn mở ra với người khác. Chính ý hướng ngay lành này góp phần
hoán cải các tâm hồn đối nghịch. Chúng ta thấy nỗi đam mê hoà giải không chỉ được
phát huy lúc thời trai trẻ mà ngay cả lúc trên giường bệnh ngài vẫn dấn thân phục
vụ hoà bình vì ích chung.
Điều này được cha Nguyễn Hồng Giáo [86]
biên soạn khi ghi lại lịch sử cuộc đời thánh nhân: Năm 1226, vào những ngày cuối
đời nằm trên giường bệnh, thánh nhân rất đau lòng khi nghe tin Đức giám mục và
ông trị trưởng ở Assisi kình địch nhau. Vị Giám mục thì ra vạ tuyệt thông cho
ông thị trưởng, còn ông này thì cấm không cho ai được mua bán và ký kết khế ước
gì với Đức Cha.
Thánh nhân nói với anh em trong dòng: “Thật xấu hổ cho chúng ta, những người làm
tôi Chúa, vị Giám mục và ông thị trưởng thù ghét nhau như thế mà chẳng ai đứng
ra hoà giải”.
Chúng ta cũng có thể hỏi: thế bản thân ngài
làm được gì khi mắt đã gần mù và thân xác kiệt quệ phải nằm một chỗ ? Có chứ !
Thánh nhân đã làm một việc quá sức tưởng tượng của mọi người, và có thể nói “rất
Phanxicô”, đó là thêm vào Bài ca tạo vật mà ngài đã sáng tác trước đó ít lâu, một
phiên khúc ca ngợi hoà bình và tha thứ, rồi cử anh em đi mời ông thị trưởng tới
Tòa Giám mục. Khi ông tới nơi và hai người gặp nhau, các môn đệ nhân danh ngài,
cất tiếng hát Bài ca tạo vật cùng với phiên khúc mới. Khi tiếng hát vừa dứt,
hai người nắm tay nhau nói lời hoà giải và ôm hôn tỏ tình thân mật.
Chắc hẳn, thánh nhân không bao giờ tự coi
mình có khả năng hoà giải nhưng luôn là khí cụ bình an của Chúa. Điều này được
chứng thực trong lời Kinh Hoà Bình.
Lạy
Chúa, xin hãy dùng con
Như
khí cụ bình an của Chúa
Để
con đem yêu thương vào nơi oán thù
Đem
thứ tha vào nơi lăng nhục
Đem
tin kính vào nơi nguy nan
Đem
trông cậy vào nơi thất vọng
Dọi
ánh sáng vào nơi tối tăm
Đem
niềm vui đến chốn ưu sầu.
Lạy
Chúa, xin hãy dạy con
Tìm
an ủi người hơn được người ủi an
Tìm
hiểu biết người hơn được người hiểu biết
Tìm
yêu mến người hơn được người mến yêu
Vì
hiến thân chính là nhận lãnh
Tha
thứ cho người chính là được thứ tha
Cam
lòng chịu chết là được sống muôn đời.
Thật ra, nhiều nhà chuyên môn nhìn nhận rằng
kinh này không do thánh nhân trước tác nhưng được gán cho ngài vì tinh thần hoà
bình của tác giả theo chủ trương của thánh nhân vào thời bấy giờ. Nhưng dù sao,
chúng ta cũng có thể rút ra một kết luận tác giả đã khôn khéo khi truyền đạt điểm
giáo lý này với một văn phong hết sức đạo đức trong bầu khí cầu nguyện. Thật vậy,
tác giả ý thức hoà bình không phải là hoa trái của riêng nỗ lực cá nhân người
nào mà có được nhưng phát xuất ơn hoán cải tâm hồn đến từ Thiên Chúa. Như thế,
bầu khí cầu nguyện của lời kinh giúp mọi người ý thức sự yếu đuối của bản thân,
từ đó, trông chờ ơn Chúa giúp. Ở đây chúng ta cảm nhận một thái độ sống đam mê
xây dựng hoà bình, nhờ ơn Chúa và khởi đi từ chính bản thân sẽ mang lại hoa
trái tốt đẹp cho các linh hồn. Khi chúng ta đặt lời kinh này trong bối cảnh thời
ấy, mới nhận ra sự tranh chấp quyền lợi, tranh giành quyền bính… đã huỷ hoại bầu
khí hoà bình; đồng thời, xác định tầm quan trọng về sự hiện diện của thánh nhân
và sự quan phòng tốt đẹp của Chúa nhằm tái lập tinh thần Kitô giáo trong thời
Trung cổ.
Ở đây, chúng ta cần xác tín lại điều đã khẳng
định từ trước, môi trường là một trong những yếu tố làm phát sinh đam mê. Cụ thể
hơn, chính môi trường rối loạn tranh chấp, bất hoà làm phát sinh niềm đam mê
xây dựng hoà bình nơi thánh nhân và những người thiện chí đương thời. Bài ca tạo
vật và Kinh hoà bình là những bằng chứng sống động cho một thời đen tối trong
xã hội và Giáo hội.
Chúng ta vừa bàn qua tương quan giữa thánh
nhân với thiên nhiên và tha nhân, xét cho cùng, hai chiều kích này chỉ là hệ quả
tất yếu, hoa trái của một thực tại cao sâu hơn. Thiết nghĩ, chính tương quan giữa
ngài với Thiên Chúa mới tạo nên nhựa sống trào tràn nuôi dưỡng cây sinh trái là
hoà bình.
ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận kể lại
giai thoại về thánh Phanxicô rằng [87]:
Vào dịp thánh nhân qua Toà thánh để xin phê chuẩn luật dòng anh em hèn mọn, ĐTC
thân mật hỏi ngài:
- Con có bao giờ thấy Chúa chưa?
+ Con vừa thấy đêm qua.
- Người có nói gì với con không?
+ Người và con bên nhau suốt đêm không nói
gì. Tuy nhiên, cứ mỗi lúc con nói “Cha” với Người thì Người trả lời lại với
con: “Con của Ta”. Cứ thế, chẳng có gì hơn cho đến lúc trời sáng.
Qua đó, chúng ta thấy thánh nhân có những khoảnh
khắc nên Một với Chúa; thao thức của Chúa cũng là thao thức của ngài, đam mê của
Chúa cũng là đam mê của ngài. Chúa đã chịu
đóng đinh và chịu chết khả dĩ giao hoà nhân loại với Thiên Chúa. Qua thánh
nhân, Chúa tiếp tục thân hành lên đường tìm kiếm những con chiên lạc để đưa về
ràn. Có thể nói, qua thánh nhân, Chúa tiếp tục chịu đóng đinh và chết cho con
người. Sự chia rẽ của con người cách nào đó in đậm 5 dấu thánh trên thân thể
ngài. 5 dấu thánh là dấu chỉ sống động cụ thể thay cho lời mời gọi nhân loại: Hãy sống và xây dựng hoà bình, hãy sống và
đam mê hoà bình vì bạn sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Cũng như bao bậc vĩ nhân, thánh nữ Têrêsa là
mẫu người thành công vì đã được mọi người biết đến và yêu mến. Với chỉ 24 năm sống
ở trần gian, thánh nữ đã nêu gương mẫu cho biết bao người. Bí quyết nào đã dẫn
ngài đến thành tựu ấy ? Thưa: ĐAM MÊ. Nếu nói như chân phước Giáo hoàng Gioan
Phaolo II: “Thành công lớn nhất là nên
Thánh”, thì nơi thánh nữ, thành công lớn nhất là sống đam mê nên thánh.
Chúng ta nghe ngài tâm sự trong tác phẩm Một Tâm Hồn trong thủ bản gửi mẹ bề
trên Gonzaga năm 1897: “Thưa mẹ, như mẹ
biết, con hằng ước ao được nên thánh”. Chúng ta vẫn ý thức rằng, nên thánh
là lời mời gọi của Chúa Giêsu gởi đến mọi người không trừ một ai: “Anh em hãy nên hoàn thiện”. Nhưng ý thức
thôi chưa đủ, còn phải ra sức tìm kiếm và tận dụng mọi phương thế khả dĩ giúp
mình hoàn thành mục tiêu này. Trong lãnh vực đó, thánh nữ sẽ là người giúp ta sống
đam mê nên thánh trong những việc tầm thường bằng tình yêu phi thường, trong những
gì tự nhiên nhưng hết sức siêu nhiên.
Các bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng, trong hội đồng quyết định việc phong thánh
cho chị Têrêsa Hài đồng Giêsu, có một giáo chức thuộc giáo triều đã nói: “Đời chị Têrêsa không có gì lạ cả, chỉ toàn
là những vệc tầm thường thôi”. Đức
Piô XI trả lời ngay: “Tôi chấp nhận việc
phong thánh cho chị, vì chị đã làm những việc tầm thường”. Qua đó chúng ta
thấy thật sai lầm khi đánh giá công việc qua hiệu năng của chúng mà quên đi ý
hướng và nội dung bên trong. Chính giá trị nội tại này mới giúp chúng ta sống
phong phú và tích cực vượt qua những công việc xem ra nhàm chán, đơn điệu hằng
ngày. Đam mê sẽ luôn là câu trả lời thiết thực nhất cho cuộc đời thánh nữ và những
thành công của chúng ta.
Có thể nói thánh nữ phải trả giá đắt cho nỗi
đam mê nên thánh của mình bằng sự hy sinh âm thầm không ai biết đến. Có lần
thánh nữ kể: ‘“Đó là đang giờ chơi hôm ấy,
chị coi cổng đánh hai tiếng chông, tức là phải mở cổng lớn dành cho công nhân để
chở các cây vào làm hang đá. Giờ chơi buồn tẻ... và con nghĩ bụng sẽ rất vui nếu
người ta kêu con đi phục vụ... Đúng lúc ấy Mẹ phó bảo con hoặc sơ đang ở gần
con đi giúp, thế là con cởi bỏ tạp dề ra, nhưng rất từ từ để sơ bạn có thể cởi
xong trước con, vì con muốn nhường cho sơ ấy niềm vui được phục vụ. Sơ quản lý
nhìn chúng con và thấy con đứng dậy sau, sơ liền bảo: "Ồ! Chị biết mà, em
không thể nào chiếm được viên ngọc cho vương miện của em, em chậm chạp quá”’.[88]
Khi đọc những lời bộc bạch này, bạn mới thấy
sự tinh tế của thánh nhân, ngài khước từ niềm vui của việc phục vụ để nhận lấy
một sự hiểu lầm mà nếu thánh nữ không nói ra chỉ có Chúa biết. Qua đó chúng ta
thấy việc đam mê nên thánh không hệ tại ở điều người ta làm việc lành mà là khước
từ cái tôi của mình, đến nỗi xoá mình đi không để cho người đời biết đến. Bởi
đó, ngài đã ví mình như một loài hoa dại mọc nơi hốc đá chỉ mình Chúa thấy mà
thôi.
Với nỗi khát khao nên thánh nhận được từ truyền
thống gia đình đạo đức, ngay từ bé thánh nữ đã biết lợi dụng những khoảnh khắc
để hy sinh dâng lên Chúa. Truyện kể rằng, vào một ngày nóng bức Têrêsa cùng các
chị chơi đùa ngoài vườn. Một hồi lâu cảm thấy khát nước, hai chị em đua về nhà
xem ai uống nước trước. Đến nơi trước, người chị rót nước đưa cho em và nói: “Lúc này em có dám hy sinh không uống nước để
dâng cho Chúa, cầu nguyện cho các linh hồn
không?”. Têrêsa quyết định không uống, trở lại vườn. Người chị thấy vậy,
lát sau mang nước đến cho Têrêsa và nói: “Chúa
nhận của lễ của em rồi, em uống đi !”. Lúc đó Têrêsa mới vui vẻ nhận lấy nước
và uống.
Qua đó, chúng ta cảm nhận tâm tình của chị
thánh dành cho Chúa và cho các linh hồn lớn lao dường nào ! Hy sinh ấy và những
tâm tình khác nữa làm nên những bước tiến lớn lên trong hành trình tâm linh nơi
thánh nữ. Tâm tình thánh thiện này đạt đến đỉnh cao là việc quyết định dâng
mình cho Chúa trong một đan viện ở tuổi 15. Trong một buổi tiếp kiến chung với
Giáo hoàng Leo XIII, Têrêsa đã xin phép cho mình nhập dòng sớm hơn tuổi quy định
của Giáo hội, nhưng Đức Giáo hoàng lại nói: “Này con, hãy làm theo ý bề trên quyết định”. Ít lâu sau, Giám mục
Bayeux ra quyền cho bề trên dòng nhận Têrêsa. Biến cố này như một động lực mạnh
mẽ thúc đẩy Têrêsa quyết tâm triệt để dùng môi trường đan viện là nơi Chúa muốn
nhằm phát huy khát khao nên thánh trong âm thầm hy sinh.
Cũng như bao bạn trẻ, Têrêsa bước vào đời tu
với một khí thế vững mạnh của một thiếu nữ đi tìm lẽ sống. Theo Têrêsa, lẽ sống
ấy chính là Chúa. Thánh Augustino thật chí lý khi nói: Chúa đã dựng nên con, để
con đi tìm Chúa. Thật vậy, với những người sống ngoài đời, họ tìm kiếm
Chúa cách gián tiếp qua tha nhân mà họ gặp gỡ hay qua chính người bạn phối ngẫu
của mình. Còn những ai sống đời tận hiến trong các dòng hoạt động, họ tìm Chúa
trong đối tượng mình phục vụ và họ chỉ được nên thánh khi biết thánh hoá những
công việc phục vụ của mình cho tha nhân. Riêng ơn gọi chiêm niệm như thánh
Têrêsa thì đó là bước trực tiếp đến với Chúa, nghĩa là nói như thánh Augustino
đi tìm Chúa, Đấng sâu thẳm hơn chỗ sâu thẳm nhất của lòng ta. Tắt một lời, những
người trước tìm Chúa trong mọi người, còn Têrêsa tìm mọi người trong Chúa. Sống
trọn ơn gọi của mình, cả hai đều tìm thấy Chúa và được thông hiệp với mọi người
là chi thể sống động trong Đức Kitô.
Đam mê nên thánh mà chị đã nhận được từ gia
đình, giờ đây nó được cụ thể qua việc sống đam mê tìm Chúa. Thật vậy, ở tuổi
15, chị đã có thể tạo cho mình những hoài bão lớn làm diễn viên, nhà viết kịch...
Nhưng nhờ bầu khí đạo đức truyền thống của gia đình chị trở thành diễn viên bên
cạnh đạo diễn Giêsu, chị thành nhà viết kịch, viết chính cuộc đời mình. Trong
khi còn chưa dứt hơi ấm trong vòng tay người cha, thế mà chị đã can đảm quyết định
dấn thân vào đời tu, khởi đầu cho một cuộc tìm Chúa thực sự, một cuộc đam mê
nên thánh không ngừng. Vào dòng chị bắt đầu đi tìm những mẫu gương đã đạt đến
Chúa là các thánh. Chị viết cho Mẹ bề trên: “Thưa mẹ, như mẹ biết, con hằng ước ao được nên thánh, nhưng than ôi mỗi
lần sánh mình với các thánh, con đều nhận thấy giữa các ngài và con có một khoảng
cách như giữa một ngọn núi cao chót vót và một hạt cát ti tiện dưới chân khách
bộ hành”. Điều này chúng ta dễ nhận ra khi ngài nói về những sai phạm của
mình, như một đứa trẻ vừa bước lên một bậc thang lại vấp ngã, trở lại điểm ban
đầu. Vì thế thánh nữ mới phát minh một loại thang máy trong đời sống thiêng
liêng. Ở đó, ngài chỉ cần đặt mình đúng chỗ là được cất cao lên. Chính Chúa là
tác giả giúp ngài vươn cao lên. Chính cánh tay Chúa sẽ nâng ngài lên vượt mọi
trở ngại. Thật thú vị! Qua đó thánh nữ đã tìm ra một cách thế là lòng phó thác
con thơ trong bàn tay cha nhân từ. Thánh nữ viết: “Con chả cần phải lớn lên,
trái lại, con cần phải cứ bé hoài và càng ngày sẽ càng bé dần mãi”. Chắc hẳn, trẻ thơ ở đây không có nghĩa trở nên ấu
trĩ nhưng là tinh thần thơ ấu phó thác hoàn toàn vào sự quan phòng yêu thương của
Cha trên trời.
Đến đây, dường như cảm thấy bất lực khi sống
đam mê tìm Chúa, chị bắt đầu chân nhận vai trò của ơn sủng trong hành trình tâm
linh. Có thể nói, ơn sủng lớn nhất mà chị nhận được là tìm ra một linh đạo, con
đường thiêng liêng để đến với Chúa.
Chúng ta thử hỏi linh đạo
hay con đường thơ ấu thiêng liêng do động lực nào đã khởi phát nơi thánh nữ ? Câu trả lời dễ dàng tìm được bởi tất cả được manh nha và thực hiện qua chính đời sống của chị trong nội vi đan viện.
Chị kể rằng, một hôm mấy
chị em sang nhà láng giềng chơi, có con ngựa chắn ngay lối vào vườn. Trong khi
các người lớn tìm lối khác mà đi, thì lũ trẻ con nghĩ ra sáng kiến: chui dưới bụng ngựa mà vào. Sau đó, chị
đã kết luận rằng: được vậy vì chúng ta là trẻ nhỏ. Với trẻ em thì không có gì
chướng ngại vật cả, chúng len lỏi khắp nơi. Thiết nghĩ, chính những tâm tình đại
loại như thế đã vực dậy những tư tưởng xem ra bất lực khi ngắm nhìn những vị thánh vĩ đại. Quả thật, đối với trẻ em mọi sự
dường như đều có thể.
Một động lực chúng ta cần
xét đến là tương quan giữa thánh nữ với người cha trần gian. Có thể nói đây là
lợi thế mà Têrêsa được thụ
hưởng ngay từ những ngày đầu đời, đặc biệt sau khi người mẹ qua đời. Chính đời
sống gương mẫu của người cha này mà Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã tôn
phong ông lên bậc chân phước. Xin đơn cử một sự kiện được thánh Têrêsa kể lại để
thấy rõ đời sống thánh thiện của ngài ảnh hưởng khá lớn trên tuổi thơ và trong
đời tu của thánh nữ:
Một chúa nhật trong năm
1888 cha Rohee là tổng quản nhà thờ chánh toà đã tuyên bố trên toà giảng là cần
có một số tiền để có thể sắm một bàn thờ mới. Ông Martin đem tiền dâng ngài
ngay và chỉ xin một điều là giữ kín không cho ai trong xứ biết tên người dâng
cúng. Nhưng có một số người trong gia đình biết sự ấy và tỏ vẻ không bằng lòng,
vì cho là một tặng vật vượt quá sức ông. Còn Têrêsa thì rất hài lòng, chị nói:
“Sau khi cha đã dâng tất cả chúng mình
cho Chúa thì dĩ nhiên cha phải dâng thêm bàn thờ để tế hiến chúng mình và tế hiến
cả cha nữa chứ!”
Từ sự kiện này với bao buổi chiều sánh bước bên cha, đã tạo nơi tâm hồn
thánh nữ những tâm tình tôn kính và mến phục cha. Có thể nói, chính mối tương
quan tốt đẹp này đã giúp chị sống hiệu quả tương quan với vị Thiên Chúa là Cha.
Và từ khi người cha qua đời, mối tương quan ấy cũng
trở nên siêu nhiên và rất giống tương quan với Cha trên trời. Chị viết cho chị Céline: “Cái chết của cha không tạo cho em hiệu quả của một sự chết mà là của một
sự sống thật. Em như gặp lại cha sau sáu năm cách biệt. Em cảm thấy cha đang ở quanh em, nhìn em và che chở
em”. Như thế, sau khi chị vào dòng được sáu năm, cha già mới mất. Cũng trong năm
này, chị mới khám phá ra con đường thơ ấu thiêng liêng. Điều này chứng tỏ biến
cố của người cha trần gian qua đời góp phần gieo ảnh hưởng cách nào đó trong
tâm thức của nữ đan sĩ trẻ tuổi này.
Xem ra mối tương quan với
Cha trên trời chưa phải là điểm nhấn trong linh đạo này khi chị viết: “Chỉ cần nhận ra sự hư vô của mình và phó
thác mình như một đứa trẻ vào
cánh tay Thiên Chúa tốt lành thì cũng đủ rồi” (Thư LT 226). Như thế việc
nhận ra sự hư vô của mình phải là việc trước hết và trên hết. Theo Têrêsa, một
đứa trẻ thật sự không chỉ ở việc phó thác vào tay cha lành nhưng còn phải chấp
nhận sự bất lực của mình mà tự bản thân con trẻ không thể vượt qua. Như thế việc
phó thác vào tay Cha giàu lòng thương xót tất nhiên là điều đến sau trong hành
trình thiêng liêng. Như thế ta mới hiểu lời nguyện của thánh Augustino: Xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa.
Biết con rồi biết Chúa, đây là trật tự không thể đảo ngược. Thật vậy, không
ai có thể biết Chúa trực tiếp nếu không khởi đi từ chính hiện hữu và bản chất mỏng
giòn của mình. Chính khi bản thân ý thức yếu đuối và cần đến Chúa, ta thật sự
hiểu biết Ngài là Đấng giàu lòng thương xót.
Từ việc đam mê nên thánh của người con trong
một gia đình truyền thống đạo đức đến việc đam mê tìm Chúa trong đan viện, chị
đã đạt đến tình trạng ý thức mình là hư vô. Từ đó, chị phó thác cho Chúa trong
hành trình thiêng liêng. Xét cho cùng, niềm đam mê của chị là chính Chúa.
Và sau mỗi biến cố lớn
nhỏ trong đời, Têrêsa đều thốt lên: “Tất
cả là hồng ân”. Thiết tưởng, đó cũng là tâm tình của những người một đời
đam mê đi tìm Chúa, được ân sủng Chúa tắm gội và cảm nghiệm sự hiện diện của
Ngài trong đời. Biết đâu, nhờ đó bạn lại có thể khai sáng một con đường mới đến
với Chúa. Mỗi chúng ta là một con đường.
Con người đương thời đã phong cho ngài tước vị
làm Mẹ người nghèo. Tất nhiên, mẹ không
coi đây là một vinh dự nhưng là dịp mẹ được sống, chia sẻ với người nghèo và
hơn nữa, mẹ trở nên như một người trong họ. Có thể nói, người nghèo là đối tượng
của nỗi đam mê của mẹ khi thực sự đồng hoá với họ. Từ đó, mẹ dễ dàng cảm nhận
những đau khổ, thiếu thốn… đồng thời, nhận ra nơi họ gương mặt của Đức Kitô.
Nhưng trước khi nhận ra ơn gọi độc đáo này, Mẹ
là tu sĩ của tu viện Loreto ở Ái Nhĩ Lan. Song, cuộc sống ổn định của các nữ tu
chuyên lo giáo dục những thanh thiếu nữ bất kể giàu nghèo, không làm mẹ thoả
mãn. Cho đến một đêm, vào năm 1946 trên chuyến xe lửa đi DarJeeling, ngài bộc bạch:
“Trong lúc cầu nguyện, tôi rực sáng ý thức
về lời mời gọi từ trong lòng ơn gọi của tôi. Tôi phải bỏ tu viện hiến mình giúp
người nghèo và sống giữa họ”. Từ đây, trong nội tâm mẹ xảy ra một cuộc chiến
giằng co giữa sự ổn định của ơn gọi hiện giờ và ơn gọi mới là dấn thân cho người
nghèo. Có thể nói, đây là giá phải trả cho nỗi đam mê phục vụ người nghèo.
Chúng ta nghe chính mẹ tâm sự: “Bỏ
Loreto, với tôi, là cuộc từ bỏ còn lớn hơn cả lần đầu bỏ nhà đi tu theo ơn gọi.
Nhưng tôi phải bỏ. Vì đó là ơn gọi Chúa gọi tôi. Tôi biết nơi tôi phải tới,
nhưng biết cách nào đây!”. Sau khi Mẹ quyết định theo tiếng Chúa mời gọi, mẹ
bắt đầu sống hoài nỗi đam mê phục vụ người nghèo. Nhưng phục vụ không chỉ vì được
phục vụ, song là phục vụ chính Chúa trong người nghèo, đó mới là động lực và điểm
đến của nỗi đam mê nơi mẹ.
Chúng ta có thể hiểu phần nào nỗi đam mê này
khi Mẹ nói: “Nếu có người nghèo trên mặt
trăng, chúng ta sẽ đổ bộ trên mặt trăng”. Câu nói này không phải là cảm xúc
nhất thời nhưng khởi đi từ một người ý thức sứ mạng lớn lao. Trong câu nói trên
hàm chứa một sự khiêm tốn, từ “chúng ta” được hiểu rằng tự sức mình không thể
“đổ bộ lên trên mặt trăng” nhưng nhờ ơn Chúa và mọi ngươì; đồng thời, việc phục
vụ người nghèo là vinh dự chung cho mọi người “chúng ta” . Đối với mẹ: không
nên coi việc trao tặng, phục vụ cho người nghèo như bổn phận nhưng như một khát
vọng, đam mê phục vụ. Mẹ hằng xác tín khi phục vụ, Mẹ nhận lãnh nhiều hơn là
ban phát khi Mẹ hay nhắc lời của thánh Vinh Sơn Phaolo “người nghèo là thầy dạy
chúng ta”. Thật vậy người nghèo quảng đại hơn chúng ta tưởng.
Mẹ kể, một hôm, có người tới nhà chúng tôi,
báo cho biết một gia đình Hindu tám đứa con đã nhiều ngày không được ăn gì. Tôi
lấy cơm đủ một bữa ăn, đem tới cho họ. Tôi thấy những khuôn mặt đói khát, thấy
mắt của những đứa con đã sưng húp; tình cảnh quá đáng thương. Người mẹ nhận cơm
trên tay tôi, chia lấy nửa phần cơm rồi bước ra ngoài. Lát sau chị trở về, tôi
hỏi: “Chị đi đâu, làm gì vậy ?”. Chị
trả lời: “Họ cũng đang đói. Họ là một gia
đình trong xóm, theo đạo Hồi cũng có số con tương đương, đang đói và cũng không
có gì ăn”.
Chúng ta thấy, người phụ nữ này tuy đói nhưng
mắt vẫn sáng để có thể nhìn thấy và đồng cảm hầu can đảm chia sẻ phần ăn khiêm
tốn của mình.
Có lẽ những nghĩa cử cao đẹp ấy là chất xúc
tác giúp mẹ sống hoài nỗi đam mê, nỗi đam mê phục vụ Chúa trong những người
nghèo. Chắc hẳn không chờ sự đáp trả của họ nhưng mẹ muốn họ nhận ra, mọi người
luôn trân trọng họ, nghèo khổ không cướp đi nhân phẩm của họ. Những tâm tình của
Mẹ dành cho họ cũng được thông truyền cho một số người. Chẳng hạn, có lần Mẹ kể
một đôi vợ chồng trẻ đến nhà chúng tôi và xin gặp tôi. Họ tặng tôi một số tiền
lớn, tôi hỏi: “Các bạn kiếm được số tiền
lớn này ở đâu ?”. Họ trả lời: “Chúng
con mới cưới nhau hai ngày. Trước khi cưới, chúng con đã quyết định không tổ chức
đám cưới, không sắm áo cưới, không làm tiệc cưới, chẳng hưởng tuần trăng mật.
Chúng con muốn tặng mẹ số tiền chúng con dành dụm được”.
Đây là một nhân chứng trong muôn vàn trường hợp.
Phải chăng qua việc hỗ trợ giúp mẹ sống phục vụ, họ đã chân nhận việc mẹ sống
đam mê phục vụ những người cùng khổ là một việc làm chính đáng. Trái ngược với
những gì tích cực ấy có lần Mẹ cũng nhận định: “Tôi cảm tưởng chúng ta đang vội vã đến mức, không có cả thời gian để
nhìn nhau và cười với nhau”. Thật vậy, người ta nghèo đến nỗi không có một
nụ cười trao nhau. Bởi vậy những người đó nghèo hơn hết mọi người. Làm sao con
người có thể trao cho người khác một nụ cười ngay khi họ không biết “cười” với
chính bản thân? Lắm kẻ phải chết trên đống vàng kếch xù vì tiền bạc không mua
được nụ cười và niềm vui.
Có thể nói, nỗi đam mê phục vụ người nghèo
nơi Mẹ Têrêsa làm cho chúng ta cảm nhận một sự giàu có, phong phú trong nhân loại
ngày nay; đồng thời, chúng ta thừa nhận rằng một nhân loại đang hấp hối trong
tình thương và lòng trắc ẩn. Thiết tưởng, thao thức chia sẻ với người đồng loại
cách riêng những người bất hạnh đòi buộc chúng ta phải vượt qua bổn phận hằng
ngày, và khởi đi từ môi trường chúng ta đang sống. Những chia sẻ của chúng ta
không bao giờ trống rỗng và vô nghĩa, nói như Đức Cha Fulton Sheen, những người chúng ta giúp đỡ sẽ là chứng
nhân cho chúng ta trên trời. Còn nói theo thánh Phanxico Assisi: Khi chết chúng ta chẳng mang theo được gì trừ
những gì ta đã cho đi.
Hy vọng là giá trị đáng mọi người ước ao. Đam
mê là động lực giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Thông thường,
niềm hy vọng nằm sâu trong tâm thức con người. Nó chỉ được vực dậy và khẳng định
trong những giờ phút đen tối của cuộc đời. Mà theo thánh Tôma Aquinô hy vọng là
một trong những hình thức của đam mê. Lược qua cuộc đời của đức Hồng Y Phanxicô
Xaviê, chúng ta sẽ thêm xác tín về niềm đam mê này nơi ngài, đồng thời tìm được
câu trả lời cho những vấn đề liên quan đến đức cậy của Kitô giáo: Hy vọng nơi
Ngài là gì ? Hy vọng là sự sống đời đời và là chính Chúa. Nỗi đam mê của Ngài
là đam mê sự sống đời đời và đam mê chính nguồn Hy vọng.
Trước tiên, đam mê sự sống đời đời nơi Ngài
được vun trồng từ trong gia đình. Trong phần đầu của cuốn Chứng nhân Hy vọng gồm
các bài giảng tĩnh tâm cho Đức Thánh Cha và Giáo Triều Rôma, ngài dành ít lời
kính tặng mẹ Êlisabet, ngài viết: “Người
đã giáo dục con từ khi con còn ở trong lòng mẹ. Mỗi tối mẹ kể cho con lịch sử
các thánh tử đạo Việt Nam… Mẹ là người phụ nữ mạnh mẽ đã chôn xác các anh em mình
bị những kẻ phản bội thảm sát…”. Tất nhiên, hình ảnh ấy ăn sâu trong ký ức
cuả Ngài không chỉ như một nghĩa cử cao đẹp mà còn đọng lại trong ngài một niềm
tin vào sự sống vĩnh cửu. Niềm hy vọng ấy còn được mẹ ngài làm sống động qua
truyện các thánh tử đạo Việt Nam, và việc các Ngài lãnh triều thiên tử đạo trên
trời. Những hình ảnh này đã ăn sâu bám chặt trong tâm thức của ngài ngay từ tuổi
thơ và sau này khi sinh hoạt ở tiểu chủng viện. Có thể nói, những bài hát các
thánh tử đạo mà thầy hát thuộc lòng khơi dậy niềm tự hào và còn làm tăng thêm nỗi
đam mê hy vọng, đam mê đời sống vĩnh cửu.
Rồi sau này trong 8 năm phục vụ Giáo Phận Nha
Trang và gần 4 tháng tại Giáo Phận Sài Gòn với tư cách Phó Tổng Giám Mục, thời
gian ấy có thể coi là tràn đầy mùa xuân Hy Vọng. Vào ngày 15 tháng 8 năm 1975,
lễ Mẹ hồn xác lên trời, “lúc Mẹ lìa bỏ thế
gian mà về với Chúa”, thì ngài sống ơn gọi mới làm chứng nhân Hy Vọng cho
môi trường mới. Ngài tâm sự: “Trong cuộc
hành trình, tôi bắt đầu ý thức rằng mình đang mất tất cả” [89],
cả đến chức linh mục đời đời cũng bị xoá sổ; chưa hết, cả đến tên gọi cũng bị
thay thế bằng một con số xếp dài theo những con người bị tước đoạt nhân phẩm. Họ
được gán một bảng hiệu to tướng “cải tạo”. Chính lúc ngài tưởng chừng như bị tước
đoạt tất cả, khi không còn gì để mất, ngài nhận ra mọi người là đối tượng phục
vụ. Ngài bộc bạch: “Từ đây, nhà tù này đã
là ngôi nhà thờ chính toà đẹp nhất của tôi và những tù nhân này, không loại trừ
ai, đã là dân của Thiên Chúa được tín thác cho việc chăm sóc mục vụ của tôi” [90].
Để đi đến một xác tín như trên, ngài đã phải
trả giá bằng thinh lặng của Thiên Chúa, ngài viết: “Trong đêm đen của lòng tin, trong phục vụ, trong khiêm hạ, ánh sáng của
niềm hy vọng đã thay đổi quan niệm của tôi” [91],
nghĩa là từ đây Chúa muốn ngài phục vụ không phải một giáo phận mà liên
giáo phận từ nam chí bắc; không chỉ những con chiên lạc trong tù mà cả những
người thuộc các tôn giáo bạn, những lính canh tù nữa! Chính lúc ngài chấp nhận
từ bỏ việc Chúa là phục vụ giáo phận, ngài đã chọn chính Chúa và quyết thực hiện ý muốn của Người. Quả thật, ý muốn Thiên
Chúa vượt xa mọi dự phóng con người. Trước đây, “Sự lìa xa giáo dân là một
cú ‘Sốc’ làm tan nát tim tôi” [92]
thì bây giờ, sự chia sẻ nghịch cảnh với những bạn tù là niềm vui trong nỗi
đam mê phục vụ hy vọng và ơn cứu độ phổ quát cho con người. Thiên Chúa còn gợi
hứng lòng quảng đại của ngài đến những người cách nào đó đã bắt bớ mình. Ngài
nói: “Trong thời gian tôi bị bắt giam,
tôi được giao cho năm người canh gác. Họ thay phiên nhau luôn luôn, có hai người
ở với tôi. Các cấp chỉ huy nói với họ: ‘Cứ mỗi hai tuần chúng tôi sẽ thay đổi
các anh bằng một nhóm khác, để các anh không bị ‘tiêm nhiễm’ bởi ông Giám Mục
nguy hiểm này”. Sau một thời gian, chính họ lại đổi quyết định: “Chúng tôi sẽ không thay đổi các anh nữa, bởi
nếu không thì Giám Mục đó sẽ tiêm nhiễm tất cả công an của chúng ta” [93].
Qua đó, chúng ta nhận thấy nỗi đam mê chính
đáng luôn có một hấp lực lôi kéo người khác cả những người không cùng chính kiến.
Như thế, đam mê Hy Vọng của Đức Hồng Y vượt ra ngoài tường luỹ Giáo Hội. Đam mê
ấy đầu tiên chỉ được manh nha trong lòng mẹ và chính gia đình của ngài rồi lan
rộng khắp nước cho đến khi được Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II (nay là thánh
Giáo Hoàng) mời giảng tĩnh tâm cho Giáo Triều Roma. Đây là công việc của Chúa
Thánh Thần. Và từ khi các cán bộ hát thuộc lòng những bài: Veni Creator (xin
Chúa Ngôi Ba…), Ngày vinh phước của Toma Thiện (Thánh chủng sinh tử đạo)… Người
mang danh Chứng Nhân Hy Vọng đã được
mọi người biết đến. Như thế, chúng ta hiểu được câu trả lời của Ngài khi được Đức
Thánh Cha hỏi: “Đức Cha đã chọn đề tài
nào chưa ?”. Ngài trả lời: “…có lẽ
con có thể nói về Niềm Hy Vọng”. Vì mất tất cả, bị tước đoạt hoàn toàn, con
người vẫn sống nhưng mất Hy Vọng, con người sẽ chết cái chết của kẻ không tin
vào sự sống đời sau và không ai khác chính Chúa là Nguồn Hy Vọng.
Nhân kỷ niệm 10 năm, ngày người nghệ sĩ đa
tài họ Trịnh hoàn tất “một cõi đi về”. Tôi cũng xin phần nhỏ trong tập sách này
nói về một thời đam mê của ông. Trịnh Công Sơn là vị thầy, tôi học hỏi từ xa
lúc còn trong Nhạc viện Thành Phố. Mặc dù chỉ cách nhà ông một con đường, nhưng
chúng tôi chưa một lần duyên ngộ. Dù vậy, tư tưởng thâm thuý của người nghệ sĩ
tài năng vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong hành trình tri thức của tôi.
Trên trang mạng có rất nhiều bài nói về con
người và sự nghiệp của nghệ sĩ, với nhiều chủ đề rất phong phú và cũng có nhiều
hướng nhìn khác nhau: tích cực lẫn tiêu cực. Điều này tôi không bàn luận và
đánh giá, tôi chỉ nói một lời, chính những gì bạn tìm được nơi người nghệ sĩ, sẽ
thành một huyền thoại để mọi thời “hát rong”. Đó cũng là điều tâm nguyện của
ông khi còn sống.
Như chúng ta đã khẳng định, đam mê là sinh hoạt
bao trùm cả đời sống con người. Nhưng thực tế, người ta đã đặt nó trong một số
lãnh vực chuyên môn nào đó, đây là một sai lầm đáng tiếc ! Hệ luỵ kéo theo là
dường như con người sống hai mặt: đời sống
thực tế và đời sống đam mê. Tách biệt như thế, vô hình trung, chúng ta tách
sinh hoạt tâm lý: cảm xúc, đam mê trở
thành một thứ gì đó tuỳ phụ; trong khi đó, nó là trạng thái biểu hiện thực tại
bên trong là tâm hồn chúng ta. Nhìn vào con người nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, chúng
ta sẽ tìm lại sự hoà điệu giữa những phân mảnh của đời sống tưởng chừng như vô
vọng, bất hoà hợp.
Nhạc sĩ Thiền, xin được phép gọi ông bằng tên
gọi thân thương ấy, đã có lần nói: “Sống
trên đời cần có một tấm lòng”. Tấm lòng ấy là gì nếu không phải là nỗi đam
mê tình yêu mở ra với hết mọi người. Có người hỏi, tại sao nhạc sĩ ấy sống cô
đơn cho đến lúc ra đi mặc dù rất nhiều cuộc tình đi qua đời ông ? Ta hãy nghe
Nghệ sĩ Trịnh Cung thổ lộ: "Có lần
người họ Trịnh đã công bố kết hôn rồi lại thôi". Phải chăng ngài thiếu
trưởng thành trong việc quyết định những vấn đề sống còn của đời sống ? Sống và
nghiệm những tác phẩm của ông, chúng ta sẽ phần nào tìm được câu trả lời.
Trước tiên, chúng ta khá quen thuộc một khẳng
định của triết gia Gabriel Marcel rằng mỗi
người là một huyền nhiệm. Với người nghệ sĩ, điều này lại càng tinh tế và huyền bí hơn. Tinh tế vì họ có lòng tôn trọng sâu xa
với những thực tại đời sống, cách riêng với tình yêu một con người. Với tài
năng trổi vượt, ông đủ tư cách để chọn một người mình yêu, nhưng có lẽ tình yêu
ấy mang tính chiếm hữu. Có thể nói, chính khi khước từ chiếm hữu thì mọi người
nữ, mọi vẻ đẹp đều thuộc về nhạc sĩ. Một con tim mở rộng là một tấm lòng chất
chứa đầy tình yêu. Bởi đó, khi thưởng thức những đứa con tinh thần của nghệ sĩ,
bạn đừng để cho những tiên kiến chi phối: nào là người đẹp tác giả nói đến là
ai ?... Rồi suy ra, nghĩa này nghĩa nọ. Tất cả chỉ làm bạn đui chột mức cảm thụ
nghệ thuật. Nó làm tâm hồn bạn trở nên nghèo nàn, thiếu sức sống. Thực dụng hoá
đứa con tinh thần họ cưu mang là một phản nghệ thuật. Vì chúng ta biết rằng: một người đam mê tình ái chẳng hạn, họ thấy
cả bầu trời là người yêu. Trong khi đó, người thưởng thức nghệ thuật chỉ phóng
chiếu những tình cảm hạn hẹp, đôi khi lệch lạc của bản thân mình.
Còn khi nói về tính huyền bí của người làm nghệ thuật, cách riêng nhạc sĩ Thiền là một
đáp trả riêng tư trước mọi thực tại đời sống. Chúng ta biết, Đường xa vạn dặm là ca khúc được nhạc sĩ
viết sau biến cố mẹ ông qua đời. Trịnh đã tới mộ của mẹ để cầu siêu và đốt bản
thảo của ca khúc này, nhưng những người bạn của ngài đã dập lửa và kịp thời cứu
lấy đứa con tinh thần này. Có những khoảnh khắc riêng tư mà cả khi chết cũng
không được tiết lộ, thế mà, có kẻ muốn biết và khi thưởng thức lại đánh giá hay
- dở. Hay hoặc dở không phải là phạm trù để dùng khi nói về chiều sâu nội tâm.
Phải xác định rằng, nó là tâm tình rất thật của nghệ sĩ. Nỗi đam mê hoà điệu
nhưng bất ngờ đã bị chia cắt với một người thân thương nhất, đã sinh ra một đứa
con tinh thần. Đó là điều đáng trân trọng. Quả thật, ngôn bất tận ý, nhạc bất tận tâm; ngôn từ không diễn đạt hết được ý
nghĩa và nhạc cũng bất khả khi diễn đạt nội tâm con người.
Sự tinh tế và huyền bí ấy được diễn tả rất
nhiều trong các tác phẩm của ông. Xin đơn cử giai thoại của ông và ca sĩ Hồng
Nhung. Có lần ca sĩ hỏi: “Tại sao anh
sáng tác nhiều bài thể loại “ru” thế ?”. Nhạc sĩ trả lời: “ Cuộc đời vốn đã đẹp và càng đẹp hơn khi
ngủ và mơ, vì người ta vẫn nói: đẹp như mơ. Bởi đó, khi ru thì đời rất đẹp và
còn gì đẹp đẽ khi có người ru ta”. Chúng ta thấy chỉ vỏn vẹn có hai câu mà
nhạc sĩ đã kết nối ba thực tại: ru, đẹp
và người ru. Qua đó, tác giả cho thấy, tình yêu là một bài hát ru, nó đẹp
vì luôn ở bên người ru. Tình yêu ấy thoáng qua như một kỷ niệm mà ông đã giữ lấy
với sự trân trọng của một cuộc tình. Đây chắc hẳn không phải là một tình yêu
qua đường nhưng là một tình yêu cao thượng. Hơn nữa, nghệ sĩ có cách tỏ tình rất
thú vị khi nói về ca khúc Ru tình. Tại
sao lại nói: ru em ngồi đây nhé, tôi tìm
cuộc tình cho…? – Em cứ ngồi đó, tôi
đi tìm tình yêu cho em. Tìm một ngày, hai ngày… mà không thấy, thì chỉ có tôi
quay lại với em. Thật vậy, tác giả như chủ động trong cuộc đi tìm tình yêu
nhưng chỉ để hát ru một cuộc tình quá đẹp. Để đến sau này, tác giả thốt lên: “Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi, đừng xô
tôi ngã dưới chân người…”. Có thể diễn đạt thế này: tôi yêu nhưng không luỵ
phiền một ai, lòng tôi như biển rộng có lúc dậy sóng nhưng đừng làm xô ngã một
ai.
Một tâm hồn tế nhị như thế, chắc hẳn đã trải
qua những kinh nghiệm quý giá. Xin dành phần nhỏ để nói về đời tư của nhạc sĩ
như một phác hoạ chân dung.
Bố mất sớm, gia đình bị phá sản, bỏ cơ hội đi
du học Paris,… ông sinh ra buồn chán, cô đơn. Trịnh Công Sơn đã tập chơi ghita
giải sầu và những ca khúc Ướt mi, Nhìn những
mùa thu đi… lần lượt ra đời. Bởi vậy, có nhà tâm lý quả quyết thật xác
đáng: buồn chán, suy nhược tinh thần sinh
ra đam mê. Nhưng đó chỉ là yếu tố ngoại tại, chính tấm lòng rộng mở với
thiên nhiên mới làm nghệ sĩ vui thoả trong đam mê.
Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, ông phải trốn
ra Huế. Sau khi được đánh tiếng là sẽ bị thủ tiêu; bởi vì, tính chất hai mặt của
ông trong âm nhạc và đời sống. Vì ông là bạn của những nhân vật cao cấp của
chính quyền Sài Gòn. Trịnh Công Sơn đã từng viết Cho một người nằm xuống về cái chết của Lưu Kim Cương và đồng thời
với Hai mươi năm nội chiến từng ngày, thì
điều đó, người cộng sản không chấp nhận. Nỗi đam mê âm nhạc có thể quay lại phản
bội ông nhưng không vì thế ông lại chối bỏ chính mình sống trong sự thật và nói
những gì sự thật.[94]
Đến đây, chúng ta thấy rõ nét cá tính mạnh mẽ
nơi nhạc sĩ. Sống đam mê nghệ thuật
là sống thật với chính mình, đôi khi
phải chấp nhận sự bách hại có thể xảy đến. Đó là sự trưởng thành của một nhân
cách; đó là dấu chỉ của một người làm nghệ thuật chân chính, dám chịu trách nhiệm
mọi hành vi bản thân. Và một khi mọi người bắt phải xin lỗi công khai, ông sẵn
sàng đứng lên phát biểu giữa công chúng như một bài “thu hoạch”, nói theo kiểu người nhà nước. Thật
ra, đây là dịp nhạc sĩ tỏ lộ chính lập trường của mình, một người phục vụ đích thực
cho sự nghiệp nghệ thuật chân chính chứ không phải một tay sáng tác nhạc “phản
động” như có nhạc sĩ khác đánh giá và chi phối cả một cộng động đang hâm mộ nhạc
Trịnh. Nhưng cũng có người trung dung hơn khi cho rằng, đây là dòng nhạc nói về
thân phận con người.
Thật ra, nhạc sĩ này không tham gia cách mạng
và ngay cả việc tham gia quân đội cũng chẳng màng. Thay vào đó, ông thi vào trường
sư phạm Qui Nhơn để tiếp tục sinh hoạt tri thức, cho đến khi tốt nghiệp, ông được
điều về làm việc tại một trường ở Bảo Lộc thuộc tỉnh Lâm Đồng. Từ đó, nhạc sĩ có
dịp rảnh rỗi lên Đà Lạt chơi với những người bạn cùng phục vụ nghệ thuật và có
ý định đi tìm một ca sĩ vô danh khả dĩ hát và diễn tả sống động những ca khúc của
mình. Cuộc gặp gỡ một ca sĩ vô danh, sau này cô được phong là “nữ hoàng chân đất”,
trông rất là nhếch nhác ở Đà Lạt, lại là một định mệnh. Cô bé ở tuổi đôi mươi
đã chấp nhận lời đề nghị về Sài Gòn cùng với nhạc sĩ đam mê, khởi đầu từ môi
trường sinh viên, nghĩa là hát mười năm không thù lao. Nhưng lại là dịp các vị
bộc lộ nỗi đam mê phục vụ mọi người không chờ đền đáp; đối với họ, một tràng
pháo tay quí hơn “khay tiền thưởng”. Có thể nói, Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trở
thành hiện tượng điển hình và nổi bật về lãnh vực âm nhạc thời đó.
Nếu muốn nhiều người biết đến, chắc chắn nhạc
sĩ đã cố chọn một ca sĩ đang nổi tiếng tại Sài Thành để sớm khẳng định bản
thân. Không, ông đi tìm một ca sĩ vô danh nhưng có thể hát và lột tả chân thật
nỗi niềm của tác giả. Đó là thái độ vô cầu, vô vị lợi, một nét đặc trưng nơi nhạc
sĩ cá tính này. Đó cũng là nét đẹp của Đạo, của Thiền mà nó bàn bạc trong các
tác phẩm của ông, phảng phất một màu quê hương rất Á Đông.
Chúng ta dễ hiểu tại sao chất Thiền được nhập
thể trong từng tác phẩm, khi ông nói: “Người
ta Thiền bằng cách gõ mõ tụng kinh, thắp hương khấn vái, tôi đây đến với Thiền
bằng một cách khác bên ly rượu”. Thật vậy, Thiền là đói ăn, khát uống, Thiền là sống trọn vẹn từng Sát-na. Thoạt tiên, tưởng nhạc sĩ hạ giá và
giản lược Thiền nhưng kỳ thực, chúng trở thành bản tính thứ hai nơi ông.
Chúng ta biết rằng, dưới nhãn quan của Thiền
cũng như minh triết của phương Đông: trong
âm có dương, trong hoạ có phúc, trong mùa đông có chồi lộc của mùa xuân…
Như có lần nhạc sĩ Thiền đã viết: “Phải
chăng thở than cũng là niềm bí ẩn của con người… hãy đi đến tận cùng của tuyệt
vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như hoa… tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi
lòng của tên tuyệt vọng” (bài viết “Tin
vào niềm tuyệt vọng”). Có thể
nói, nơi tác giả có một cảm nghiệm tâm linh rất sâu xa khi thấy tuyệt vọng cũng
đẹp như hoa; tại sao tác giả lại ví tuyệt vọng như hoa mà không phải thứ khác ?
- Tuyệt vọng chỉ đẹp vì nó chóng tàn như hoa. Quả thật, đoá hoa vô thường vẫn đẹp
nhưng không tồn tại mãi.
Cũng có lần nhạc sĩ đã tâm sự: “Khi sáng tác, tôi phải lãng quên hiện hữu
này để đi vào một thực tại, một thực tại phiêu bồng, ở đó không có những xung đột
trần tục của chữ nghĩa và những lý luận ngõ cụt không đâu”. Rõ ràng, nhạc
sĩ ý thức sự tạm bợ của cuộc sống, tính tương đối của mọi thực tại. Ngộ ra chân
lý này, ông vẫn an nhiên tự tại khi đứng trước mọi xáo động xung quanh: “Đời cho ta thế, đứng giữa bão tố không buồn
vui” (Đời cho ta thế). Đây chắc hẳn
không phải là một thái độ vô cảm nhưng là một tình trạng siêu nghiệm, một ngộ
nhân đã chứng nghiệm Thiền.
Với trực giác bén nhạy, cảm quan tinh anh, nhạc
sĩ đã thấu cảm từng nỗi đau của phận người. Chính trong cõi tĩnh lặng tuyệt đối,
ông lắng nghe nỗi đau của bia mộ, khi nói: “Làm
sao em biết bia đá không đau, ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”. Thật vậy,
bia đá cũng đau nỗi lòng của người nằm xuống và người còn lại, và nếu sỏi đá
cũng cần có nhau thì ngày sau hai tâm hồn cũng duyên ngộ tương phùng.
Từ những gì vừa trình bày, chúng ta thấy rằng
nỗi đam mê chủ đạo nơi nhạc sĩ họ Trịnh là đam mê sống thực tại tâm linh, còn
âm nhạc chỉ là cách biểu hiện của những chứng nghiệm ấy. Nên tôi thích gọi ông
là nhạc sĩ Thiền. Thiển nghĩ, chính khi thao thức mang triết lý vào âm nhạc mà
những tâm tình của ông dễ đi vào lòng người vì triết lý chính là cuộc sống vậy!
Và như có người đã cảm nghiệm và nói lên rằng: “Khi nghe bài ‘Một cõi đi về’, tôi không còn sợ chết nữa”. Đó là hoa
trái, dấu chỉ tích cực cho một đời sống đam mê, một cuộc sống giá trị và đáng sống.
Em tên là Giuse Đỗ Xuân Tâm, con út của một
gia đình di cư lao động gồm 7 người con: 5 trai 2 gái. Với mẫu người hướng ngoại,
tính khí sôi nổi, bốc đồng, em sống trong sự che chở bao bọc của gia đình giữa
một thành phố với những kỷ lục tệ nạn xã hội. Ý thức những nguy hiểm đang rình
rập tính mê chơi dễ xa lầy của em, bố mẹ đã cho chúng tôi tham gia lớp giáo lý
rất sớm và tiếp xúc gần gũi với bàn thờ qua việc giúp lễ. Những sinh hoạt đạo đức
ấy xem ra chỉ là những rào chắn hữu hình giúp chúng tôi tránh giao du với những
bạn xấu. Nhưng những thứ ấy, trái lại làm lộ rõ tính bốc đồng nơi em. Có thể
nói, không một ngày vui nào của gia đình mà lại không là một ngày bất hạnh nơi
em. Vì những yêu sách của em, một gia đình nghèo không thể đáp ứng nổi. Cứ mỗi
lần bức xúc là tay đấm tường, đầu đập vách, miệng hét to như muốn xé bầu khí ngột
ngạt của gia đình; một cách giải tỏa khác, em lấy xe đạp chạy từ trung tâm
thành phố ra tới ngã ba Vũng Tàu gần 30 km (bây giờ thành ngã tư). chính đây là
những dịp manh nha cho cuộc mạo hiểm, đam mê đua xe đạp của em sau này.
Em sở hữu một thân hình khá lý tưởng: cao
1m73, nặng 77kg. Vào một ngày đẹp trời, có thể nói dưới tác động của Chúa, những
tay đua lão làng về hưu đang tụ tập một chỗ vui chơi đã thấy em và ngỏ lời, muốn
giúp em theo nghiệp đua xe. Cả nhà đang trong tâm trạng lo lắng vì đi tìm em,
em về nhà với điệu bộ khí thế xin gia đình cho 1 triệu để tậu một chiếc xe đua
loại thường nhất. Lo lắng cộng thêm bất lực, gia đình chỉ trông vào Chúa. Trong
lúc, gia đình bó tay vì hoàn cảnh khó khăn kiếm cơm từng ngày. Thế mà em đã nhờ
người thân giúp đỡ, săn đồ ở chợ cũ. Cuối cùng cũng được một chiếc xe tạm ổn để
theo đuổi đam mê này. Nỗ lực của em đã được trả giá, hơn một năm sau có người đỡ
đầu em trong đội tuyển quốc gia. Chính tại đây, những giờ tập thể lực cao độ đã
giúp em giải tỏa tính bốc đồng. Khí chất trở nên thuần tính và em bắt đầu trở lại
tinh thần đạo đức của gia đình. Chính thức là từ biến cố đi tu của người anh
Trong những lúc xa nhà tập huấn ở Hà Nội, nơi
không có nhà thờ, em báo cho gia đình biết vì nhà thờ quá xa không thể tham dự
thánh lễ, em đã tình nguyện lần hạt 3 chuỗi và đọc Kinh Thánh mỗi ngày. Phải
chăng chính lúc điều kiện khắc nghiệt, mầm sống đức tin lại triển nở không ngờ
? Sự khắc nghiệt không chỉ từ yếu tố xa cách nhà thờ nhưng một bầu không khí
“con cha cháu ông” trong đội tuyển: Kiểu sống cha chú rất thịnh trong thời điểm
đó. Tâm bắt đầu tập đứng trên đôi chân của mình. Em đã viết trong nhật kí rằng:
“Tâm, cố lên, mày không cố gắng hơn nữa
thì sẽ bị loại, cố lên, cố lên”. (Mặc dầu em là vận động viên triển vọng nhất
của đợt đua Sea Games 2003). Có lẽ Tâm trực giác được điều đó từ sau mỗi lần
thao luyện và nghiêm huấn.
Sự nghi kị thì nơi nào cũng có, với Tâm sự chấp
nhận và thông cảm xem ra dễ dàng. Tâm kể: có lần cấp trên cho anh bạn một vật
gì đó nhưng anh không nói lời cám ơn hay tỏ dấu khiêm tốn vì mình là kẻ thụ ân,
Tâm thẳng thắn nhắc anh ấy: “Sao anh
không nói lời cám ơn gì cả, đó là điều nhân bản tối thiểu mà!”. Anh trả lời: “Nhân bản của mày có ăn được không ?” Tâm
cũng chẳng vừa, đáp lễ: “Ăn không được
nhưng không có nó anh chết đấy!”. Thế rồi anh ấy bỏ đi. Tỉ số tạm thời dẫn
trước 1 – 0.
Vào ngày cuối tuần anh ấy và chúng bạn có tiền
nên ra phố ăn chơi, còn Tâm ở nhà một mình. Em đã kiếm đủ việc để làm những giờ
rảnh, chẳng hạn rửa xe giúp các bạn; dần dà Tâm đã cảm hóa được anh ta. Tuy
nhiên bầu khí ganh đua trong cả đội không vì thế mà được cải thiện, không khí
càng trở nên khó thở khi Tâm được cử đi nước ngoài thi đấu, ngày đó phần thưởng
Tâm mang về là một cái yên xe. Số là Tâm đang đua trong tốp 10 người đầu tiên,
đến lúc chạy bức phá thì yên xe bị rơi mất, phần thưởng Chúa đã ghi công nhưng
người đời không biết đến. Trong dịp đó tôi chẳng biết an ủi Tâm thế nào, tôi chỉ
bảo: “Chúa sợ Tâm kiêu ngạo nên rút phần
thưởng đi”. Còn Tâm thì rất buồn mặc dù trong vòng gần 3 năm, Tâm đã đạt được
hơn 10 huy chương từ các cuộc thi trong nước.
Có lần đang lúc tập luyện em nghe tin trên Đà
Lạt có cuộc đua xe đạp, vì đam mê chiến thắng em bỏ giờ tập, lên Đà Lạt đăng ký
thi. Thầy biết được cảnh cáo: “Em có thể
chọn 1 trong 2, một là ở lại luyện tập, hai là đi thi đấu và đừng quay lại nữa”.
Thế mà em vẫn quyết định bỏ đi. Em lên Đà Lạt gặp tôi lúc ở sân banh nhà dòng,
em hỏi ý tôi xem thế nào. Tôi biết em là người nóng tính nên hay quyết đoán vội
vã nhưng không có cách nào thuyết phục. Tôi bảo em: “Tâm cứ vào chầu Chúa và làm hai thăm hỏi ý Chúa, cầu nguyện rồi bốc một
trong hai”. Cuối cùng em đã trở về Thành Phố tiếp tục chương trình luyện tập.
Rõ ràng sống đam mê, nhưng em vẫn cảm thức sâu xa về sự hiện diện của một Đấng
trên cao quan phòng yêu thương. Quả thật em được Chúa đáp lời nhưng cách hành động
của Ngài không như con người nghĩ tưởng.
Một ngày định mệnh, sáng ngày 10 tháng 10 năm
2003 trên Bộ thực hiện một cuộc tuyển chọn đợt cuối, cuộc đua tiền Sea Games,
ai chiến thắng sẽ được vào nhóm chính thức thi đấu. Ôi biết bao áp lực đè nặng
trên Tâm, mọi người đều có hậu thuẫn, chỉ một mình em, đơn thương độc mã, đơn thân độc mạng. Cộng thêm mưu đồ của một tên
Giuđa nào đó đã bỏ thuốc vào thức ăn khiến Tâm cả sáng hôm đó chỉ biết “đi
ngoài”. Em rũ cả người, vắt kiệt sức. Trong sự âu lo, em báo tin tức về để gia
đình cầu nguyện thêm. Chỉ có 6 vòng đua vòng đèo Hòa Bình, mỗi vòng 6km, tổng cộng
là 36km, nhưng nỗi đam mê chiến thắng dường như rút ngắn khoảng cách trong Tâm.
Em đã dẫn trước 5 vòng đầu và chỉ còn 600m nữa là về đích. Bánh xe bị ban, em vắt
sức vác bộ nhưng không nổi vì áp lực tâm lý sợ thua cuộc, em đã ngã quỵ và bất
tỉnh. Ban tổ chức biết thế nhưng vẫn để cuộc thi diễn ra đến lúc chung cuộc.
Quay lại chỗ em ngã thì đã quá trễ. Một lần nữa Chúa không cho em cảm nếm niềm
vui chiến thắng của một cuộc thi tầm cỡ quốc tế. Phải chăng Chúa đã tổ chức một
buổi phát thưởng trên trời cho kẻ một đời sống và chết vì nỗi đam mê ! Không đoạn
đường đua nào mà Tâm không nhớ đến Chúa, những bước xuất phát trong các cuộc
thi, em luôn làm dấu Thánh giá. Xin Đấng em tuyên xưng đón nhận em trong tình
yêu vô biên của Ngài.
Sau đó em được đưa đến bệnh viện, tại đây
cũng không có bình oxy. Chuyển sang một bệnh viện khác, một hồi sau em mới được
tiếp oxy. Vài tiếng sau đó, em lên cơn co giật, thả lỏng cơ và trút hơi thở cuối
cùng. Điện não và tim đã ngưng hẳn, chỉ còn lồng ngực vẫn phập phồng, dường như
nỗi đam mê của em vẫn còn thoi thóp, người thầy thấy vậy hốt hoảng chạy báo cho
bác sĩ, bác sĩ cho biết: em đã ra đi.
Em đã ra đi trước sự ngậm ngùi của
bao người yêu mến.
Có rất nhiều cuộc ra đi, nhưng nghiệt ngã nhất
là cuộc ra đi không hẹn ngày về. Nói như linh mục Thiện Cẩm, trong đức tin hẹn
nhau trên Nước trời.
Xác em được quàn tại nhà tang bệnh viện Bạch
Mai, rồi bằng đường bay, xác em đã nối hai miền đất nước. Về tới Sài Gòn, em lại
được quàn tại nhà tang lễ Thành phố với lệnh trên, cử hành tang lễ như một người
của nhà nước. Cuối cùng xác em được hiến cho trường Đại học Y Dược thành phố.
Đó là ước nguyện của em và của gia đình.
Những dòng suy tư cuối cùng trước khi tạm biệt
bạn đọc.
Khi còn sống em đã sống hết mình với nỗi đam
mê, đam mê ấy đã giúp em chinh phục những đường đèo, những bánh xe vô hình đã
san bằng những con người cao vọng, cúi mình xuống để vái và cầu siêu cho một
người bạn đồng nghiệp. Những giọt nước mắt, tiếng nấc của những chàng thanh
niên mạnh mẽ chinh phục mọi con dốc, lại có thể rơi xuống thương tiếc một người
bạn tập huấn chung. Đó là niềm an ủi cho gia đình và tôi. Và nghĩa cử lớn lao
khi em tự hiến thân xác cho trường Y đã là một lời khích lệ cho người tham dự
tang lễ. Sống đã phục vụ hết tình và hết mình, và khi nằm xuống, vẫn còn khả
năng phục vụ. ( Khát vọng của con người thật lớn lao và vượt biên giới, chúng
muốn chinh phục mọi thực tại đời sống, sống vô biên trong cuộc đời hiện tại).
Dường như đam mê này đã làm nên định mệnh đời
em. Sống trọn nỗi đam mê này Tâm ung dung ra trước mặt Chúa như hiên ngang bước
lên lãnh phần thưởng cho kẻ chiến thắng. Phần thưởng của em giờ đây chính là
Chúa, Đấng em tuyên xưng trên các đường đua. Để chuẩn bị tốt nhất cho cuộc hội
ngộ chung cuộc, Chúa đã đặt em trong gia đình nghèo, gieo em vào mảnh đất khô cằn
để em được lớn lên và vươn mạnh như cây tùng cây bách. Ít ra cuộc đời của em
cũng nên bóng mát cho ai đó một lần giải
nhiệt, thêm phấn khởi cho ai đó để sống cuộc đời biết bao cơ hội đang chào đón.
Chính lúc thời thế trở nên khắc nghiệt, em xứng đáng là vị anh hùng tạo nên thời
thế. Nếu như chúng ta khẳng định một người thành công phải đạt ba chiều kích: thiên thời, địa lợi và nhân hòa, chỉ vì em
tin tưởng vào Chúa, Ngài đã làm những việc lớn lao nơi cuộc đời em.
Sau khi em qua đời, cả gia đình ngỡ ngàng vì
câu Lời Chúa năm đó đã nên lời hứa và định mệnh cho cuộc đời em. Câu Lời Chúa ấy
vẫn còn mới nguyên nằm trong ví chưa được Ngài mặc khải:
“ Người kéo tôi ra chỗ
thảnh thơi,
Vì yêu thương tôi nên người giải thoát” (Tv 17,20)
Chỗ thảnh thơi đó là chỗ nào ? Nếu không phải
là nơi không còn ganh ghét, đua chen, không còn khóc lóc than van; chỉ còn niềm
vui trong bó lúa đã gặt trong những lời kinh sốt mến râm ran khi chiều buồn rửa
xe cho đồng bạn. Quả thật, vì yêu thương em nên Người giải thoát. Lời hứa này
đã áp dụng cho cuộc đời em từng chữ một.
Sống trong cảnh nghèo, dần dà em ý thức và
không còn yêu sách. Đôi khi có việc gì cần, em đã âm thầm bán máu, chính sự sống
của mình để tiếp tục sống đam mê. Nhớ lại mỗi buổi phục vụ đám cưới được trả
30.000đ, em muốn đãi cả nhà một món bột chiên đến cả trăm ngàn. Khi đó tôi mới
hiểu dụ ngôn Chúa kể về người phụ nữ tìm được nén bạc mà đã mời cả hàng xóm đến
chung vui, vị chi có thể cả trăm đồng. Bởi đó niềm vui được chia sẻ là niềm vui
đáng trân trọng nhất.
Phải
chăng Tin mừng em đọc được trở nên men muối làm phong phú, gieo rắc niềm vui
nơi nào em đến ? Người bạn ngạo ngược của Tâm (tôi đã nói trên) kể rằng: Nhiều hôm Tâm và bạn ấy đọc Tin mừng và
chia sẻ với nhau kinh nghiệm sống để đọc ra ý Chúa trong phút hiện tại.
Với thao thức cải thiện đời sống gia đình và
muốn mẹ nghỉ bán hàng trong cảnh đua chen, Tâm gọi điện thoại nói với mẹ rằng:
“Mẹ ơi! Mẹ nghỉ bán đi con sẽ mang vàng
Sea Games về cho mẹ”. Em đã nằm xuống không kịp mang vàng Sea Games về. Và
báo chí thời ấy đã đăng lại câu nói này của em khiến các tổ chức cảm thương gởi
hiện kim giúp đỡ gia đình. Cho đến ngày nay, gia đình chúng tôi vẫn tri ân những
người đã giúp đỡ bằng nhiều cách.
Với những dòng hồi ký trên đây, không khoa
trương, không văn vẻ, nhưng như một lời nhắn nhủ với chính bản thân về một tấm
gương sống và chết cho một đam mê định mệnh. Một người không thể sống đam mê nếu không hiểu biết chính mình.
Chúa đã ban cho chúng ta một số nén bạc nhưng cũng có những kẻ chôn giấu vì
nghĩ rằng nó quá ít. Nhưng họ không biết rằng cái bình 1 lít thì đựng đầy một
lít, còn cái bình 5 lít thì phải đong đầy 5 lít. Bạn cần khám phá ra chính nén
bạc của mình và tìm mọi cách làm cho bình nước đầy tràn, đó là việc hoàn thành
định mệnh của mỗi người. Còn chất liệu trong ly ấy thiết nghĩ đó là cách bạn sống
đam mê và tình yêu đặt để trong đó.
Chúng ta đã cùng đồng hành một chặng đường
khá dài với xác tín: Trong mỗi người có một đam
mê chủ đạo dẫn ta đến cùng Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta và ban đam mê ấy
cho ta. Vấn đề còn lại là mỗi người phải cố gắng khám phá ra và đánh thức đam mê. Bước kế tiếp là bạn phải gọi tên và chỉ mặt chúng cách chính xác.
Sau đó mới bước vào cuộc thao luyện.
Cuộc thao luyện nào cũng đòi hỏi gian nan thử thách. Đó là chưa nói đến sự giằng co nội tâm vì chọn lựa những
giá trị; đôi khi ranh giới của chúng rất mong manh. Sự mong manh ấy không do thực
tại tạo nên nhưng do giới hạn sự hiểu biết nơi chúng ta. Bởi đó, chúng ta không
tránh khỏi những lần thất bại, vấp ngã. Những sa sẩy ấy là chuyện bình thường
mà các thánh cũng đã trải qua, chỉ có khác một điều là các ngài khiêm tốn dựa
vào ơn Chúa mà vực dậy sau những bầm dập của cuộc thao luyện này; đồng thời,
các ngài hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn.
Giờ đây, bạn có thể nói về đam mê của mình mà
không sợ dẫn đến sự thác loạn. Đam mê là
phẩm chất hiện hữu của bạn, vì nhờ nó mà bạn được tách ra khỏi đám đông. Điều
này không có nghĩa bạn sống dị biệt và tách biệt với mọi người, nhưng nhờ sống
đam mê, bạn định hình cho mình một cách thức hiện hữu độc đáo mà khi nói về bạn,
họ nghĩ ngay đến đam mê của bạn. Bạn đam mê nên bạn hiện hữu. Bạn đam mê nên bạn
độc đáo và duy nhất, không lẫn lộn và không thay thế.
Ngoài ra, đam mê là một thứ ngôn ngữ không lời,
nói cách khác, nó là tiền ngôn ngữ. Vì nó được diễn tả bằng toàn bộ năng lực bản
thân. Khi ấy, bạn là một nghệ sĩ không phải theo chủ nghĩa lãng mạn, mơ tưởng
nhưng sống sáng tạo và hết mình, ngạc nhiên và thán phục mọi vẻ đẹp quanh bạn.
Điều kỳ diệu là bạn sống cho chính mình nhưng không vì mình. Có thế, đam mê của
bạn mới lành mạnh và chính đáng. Đam mê ấy hướng về một đối tượng duy nhất đồng
thời lại mở ra với mọi chiều kích cuộc sống. Sự mâu thuẫn và giằng co ấy khiến
bạn phải đổ máu, cái giá phải trả cho một cuộc đam mê Tình Yêu. Nếu như Chúa
Giêsu đã đam mê bạn, đổ máu ra chết cho bạn để thể hiện tình yêu lớn nhất đối với
bạn, cảm nghiệm được những điều ấy, chắc hẳn bạn chẳng tiếc sự gì đối với Ngài
! Bạn có thể hướng thẳng về Ngài để hội tụ
cả tạo thành trong mình. Đó là điều các thánh đã làm.
Bạn có thể sống đam mê một cách liều lĩnh và
táo bạo, vì nó đòi hỏi bạn bứng mình ra khỏi sự an toàn cá nhân. Sự đơn điệu
làm bạn chán ngán ư ! Nhưng đam mê sẽ là chất liệu “ướp vào”, “nhập thể” trong
từng hành vi tác phong của bạn; trông có vẻ tự nhiên song hết sức siêu nhiên.
Tưởng cũng cần nhắc lại, “nên hoàn thiện”
không được hiểu theo mẫu người cầu toàn chỉ tìm sự tròn đầy và hoàn hảo trong
thực tại đời sống. Trái lại, hoàn thiện trong đam mê luôn hàm chứa mọi gai góc và bất toàn. Gai góc vì cuộc sống không hoàn toàn như
mình mong muốn và bất toàn vì bạn
luôn chạm trán với những vấn đề mới.
Hoàn thiện
được hiểu ở đây là hôm nay hơn hôm qua. Hôm qua sa sẩy trượt chân, hôm nay kinh
nghiệm vượt qua. Thực tế cuộc sống cho thấy, bước được một bước, có khi lại trượt
lùi hai bước. Đó là chuyện bình thường trong kiếp nhân sinh. Cho dù mất cả chì lẫn chài thì bạn vẫn còn một khối
đam mê đang trào tràn trong hơi thở, huyết mạch và cả con người bạn. Đam mê bất
chấp thất bại, vượt qua mọi trở ngại, quyết tiến. Thông thường, người ta dễ thất
vọng vì nhìn vào những bước tiến của người khác. Bạn cần trở về với lòng mình,
lượng định năng lực bản thân mà tiến. Nếu Chúa gởi đến cho người khác chiếc
môtô để tiến về Nước Trời mà chỉ cho bạn chiếc xe đạp thì cớ gì bạn phải thất vọng.
Chúa đâu đòi bạn phải chạy bằng tốc độ với người khác, song muốn bạn chạy hết
con đường của riêng mình. Chúa sẽ cho bạn đủ thời gian để thực hiện tiến trình
này.
Và cuối cùng, bạn chỉ thực sự sống đam mê để
nên hoàn thiện khi đã xác tín đủ những bậc thang giá trị giúp hình thành đời sống
bạn. Những xác tín ấy không được bạn phát biểu trên diễn đàn đâu ! Nhưng nó thể
hiện rõ ràng trong những chọn lựa cụ thể trong suốt đời bạn. Những giá trị tinh
thần ấy có thể núp né hay nguỵ trang cách nào đi nữa nhưng trong ánh sáng đức
tin mọi sự sẽ được hiển hiện. Điều này người viết đã cố gắng nêu bật phần nào
trong mục Những chứng nhân đam mê. Trong phần trên, tôi chỉ đề cập những người
đã khuất, nghĩa là cách nào đó họ đã đạt đến Đam mê Chung cuộc. Còn xét theo
nghĩa rộng thì mỗi chúng ta là một chứng nhân sống động. Đam mê của chúng ta
còn bấp bênh nhưng hy vọng chắc chắn đến bến bình an; miễn là chúng ta phải bám
vào Chúa. Chắc hẳn, Ngài không hiện ra tỏ tường, nhưng qua tha nhân hay các biến
cố; không những thế, Ngài nói trong chính những khát vọng sâu kín của lòng ta.
Những Danh, Lợi và Thú là những mặt
trận chiến đấu, nơi đó, là cơ hội giúp bạn sống
thật với chính mình. Cuộc chiến nội
tâm luôn cần thiết cho những ai thao thức sống đời tâm linh và lấy Chúa làm niềm
vui thoả.
Lời cuối
cùng xin gởi đến bạn:
Bạn
đam mê nên bạn hiện hữu.
Bạn
đam mê nên bạn hoàn thiện.
Hãy
cho phép bản thân bạn được trở thành một con người đầy đam mê.
Tôi xin mạo muội đưa ra một vài suy tư dựa
trên dụ ngôn Người Cha nhân hậu của
Tin Mừng thánh Luca 15,11-32 theo nhãn quan tâm lý học. Tất nhiên, điều này giả
thiết những quy tắc nền tảng thần học Kinh Thánh phải được tuân thủ. Chẳng hạn,
dụ ngôn này Chúa Giêsu kể nhằm mặc khải tình yêu Chúa Cha và qua nhân vật người
cha, Người muốn phác hoạ chân dung của một vị Thiên Chúa Tình Yêu.
Chúng ta thấy nơi “người Cha”, có một “không
gian” huyền nhiệm. Nhưng xem ra nó lại là bóng tối đối với hai người con. Đó có
thể là lý do tại sao người con thứ muốn ra khỏi nhà và người con cả ở nhà lại
không muốn vào đó. Có một bí ẩn mà người Cha chưa muốn mặc khải, nên sự thân
tình của Cha đôi khi như một sự xúc phạm nặng nề đối với các con. Khi người Cha
biết những nguy hiểm bủa vây con mình, ông đã ra lệnh cấm đoán các con: không
được làm điều này hay phải làm điều kia; nhưng vì thiếu hiểu biết về tình
thương của Cha, họ coi đây là một loại mệnh lệnh áp chế, tạo sức ép nặng nề
trong cuộc sống của họ. Người Cha lại một lần nữa tự huỷ mình đi, để cho con được
lớn lên: hạ mình xuống rửa chân cho con như một kẻ tôi tớ. Điều này lại cướp đi
trong người con hình ảnh lý tưởng về một người Cha mạnh mẽ, uy quyền. Từ những
hình ảnh méo mó về người Cha, nên người con thứ quyết định ra đi, ra khỏi thế
giới của người Cha. Nó nghĩ rằng, tôi chỉ lớn lên và trưởng thành khi thoát khỏi
sự kiềm toả của Cha. Như thế, sự bao bọc yêu thương của người Cha nên cớ vấp phạm
cho những người con. Từ đây, nỗi đam mê đồng nhất hoá nơi người Cha, lý tưởng
“nên một” này, giao ước tình yêu đã bị một bên khước từ.
Người con thứ xin điều gì ? Thánh Luca rất
tinh tế khi cân nhắc sử dụng ngôn từ, ngài viết: xin cho con phần của riêng
mình, nghĩa là thoát ra khỏi thế giới của Cha. Quả thật, người Cha đã cho nó sự
sống, sự hữu và không hề có ý định rút lại. Người Cha thừa biết đây là sai lầm,
ảo tưởng nơi người con. Nhưng ông đã cho nó chính sự tự do ra khỏi thế giới
phong nhiêu của mình. Mặc dù, theo pháp lý, di chúc chỉ có hiệu quả và được thực
hiện khi người viết qua đời, nhưng tình yêu có lý lẽ của nó; người Cha chấp nhận
xoá mình đi, coi mình như đã chết để người con được quyền tự do sở hữu tài sản.
Từ đây, người con quyết định ra đi, thoát khỏi vòng tay bao bọc của Cha. Nó tưởng
rằng mình sẽ được thong dong tự tại, nhưng thật bất hạnh khi nó quyết định ra
khỏi Tình yêu. Chỉ khi sống trong cảnh lạnh lùng người ta mới hối tiếc là đã
đánh mất tình yêu. Bởi vậy, người Cha biết chắc một ngày con mình sẽ quay về.
Điều này giải thích lý do vì sao ông không cho người đi tìm cậu dù đã trải qua
một thời gian dài. Sự chờ đợi của người Cha diễn tả một nỗi đam mê tin chắc một
ngày sẽ được đoàn tụ, một ngày sẽ
“nên một”. Đối nghịch lại tâm tình đó của người Cha, thánh sử ghi: “Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi
trẩy đi phương xa”. Có thể coi đây là một sự dứt khoát triệt để ra khỏi nhà
cha, ra khỏi thế giới Tình Yêu.
Anh ra đi để sống nỗi đam mê của một người mất
định hướng, chỉ biết sống thoả mãn bản thân. Niềm vui và khoái lạc của đam mê
này chỉ được mua bằng tiền, nên hết tiền đồng nghĩa với đau khổ và thất vọng.
Thánh sử ghi nhận: “Ở đó anh ta sống
phóng đãng, phung phí tài sản của mình”. Tiền mất tật mang; lang thang chết
đói; cuốn gói tìm về là thế ! Hậu quả từ một cuộc sống đam mê của kẻ vô
tín. Mất đi sự tin tưởng và tương quan với người Cha, những cuộc gặp gỡ kia chỉ
là lợi dụng và qua đường. Thật vậy, phẩm vị của con người tự tách ra khỏi Thiên
Chúa thì không thực sự hiện hữu với tư cách người con và con người nữa, nó chỉ
như một con vật, một con heo chỉ biết ăn đậu muồng. Thay vì lấy Thiên Chúa là
điểm qui chiếu cho cuộc sống đam mê, anh lại
si mê chính mình hay một tạo vật khác. Anh quên rằng mình là hình ảnh của người
Cha, chính vì điều này mà anh đáng được tôn trọng. Nơi anh đã mất đi lòng tự trọng
nói gì đến cuộc sống xứng với nhân phẩm, vì ngay đậu muồng cho heo anh cũng lấy
ăn cho no bụng mà cũng không được. Một con heo lắm khi nuôi đàng hoàng lại trị
giá hơn anh ? Quả thật, anh đang sống trong một thế giới vật chất bị đảo lộn
các bậc thang giá trị.
Tại sao người cha thừa biết đứa con sẽ sống bất
hạnh khi rời xa thế giới Tình Yêu mà lại không ngăn cản chúng ? Người Cha có một
phần trách nhiệm trong nỗi khốn khổ này. Đây chính là vấn đề trách nhiệm của
Thiên Chúa trong huyền nhiệm sự dữ. Chúa ở đâu khi sự dữ hoành hành trong nhân
loại?
Chúa đã cho con người hiện hữu với sự tự do
chọn sống trong nhà Chúa, thế giới của Tình Yêu. Đi đến đâu họ cũng được Lời
Chúa hướng dẫn như những cử chỉ chăm sóc yêu thương.
“Đi lại
hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét,
Mọi
nẻo đường con đi Ngài quen thuộc cả…
Ngài
bao bọc con cả sau lẫn trước
Bàn
tay của Ngài, Ngài đặt lên con…
Dù
chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện
Đến
ở nơi chân trời góc biển phương tây
Tại
đó cũng tay Ngài đưa dẫn
Cánh
tay hùng mạnh giữ lấy con” (Tv
138, 3.5.9-10)
Nhưng con người vẫn thờ ơ. Tình yêu đã đến
nhà mà người nhà không chịu tiếp đón và cuối cùng giết Chúa và giết chết tình
yêu trong mình. Đó là thảm trạng của một đời sống vắng bóng Thiên Chúa của những
kẻ vô thần.
Có một người mẹ rất yêu thương con: xin gì mẹ
cũng cho, nhưng bảo con thế nào nó cũng không nghe. Biết cho tiền thì con chơi
bời hư hỏng nhưng không còn cách nào khác. Mỗi lúc con đi chơi với chúng bạn ở
đâu, là ở đó có sự hiện diện của người mẹ. Sự hiện diện đó có thể là nỗi tủi nhục
của người con và nên cớ cho bạn bè bêu diếu. Người mẹ ấy chấp nhận cái giá phải
trả, nhất là sự ruồng rẫy của người con. Nhưng thiện chí ấy đã được đền bù, người
con ấy suy nghĩ lại, quyết tâm làm lại bằng cuộc sống mới.
Tại sao người cha không đi tìm đứa con hoang
đàng ?
Một người cha quyền năng và yêu thương lại chọn
tư thế ngồi chờ đợi một cách thụ động. Thế mà người đời nói rằng người cha đi
bước trước trong tình yêu. Đúng ra nỗi đam mê đồng nhất hóa (nên một) phải thúc
đẩy Ngài đi tìm con chiên lạc chứ! Ngài đã ban cho nó sự tự do chọn sống bên
Ngài. Ngài cũng cho nó toàn quyền chọn sống nỗi đam mê riêng. Nhưng nó đã khước
từ Ngài. Đó là sự bất lực của một người cha. Song, Thiên Chúa còn mạnh mẽ hơn sự
mạnh mẽ của con người, nghĩa là Ngài có thể vẽ đường thẳng từ những đường cong.
Chúng ta không thể tìm ra lý lẽ của một con
tim đang yêu và đang đam mê. Chỉ biết rằng người Cha đã chọn phần tốt nhất.
Trong khi kẻ hoang đàng chỉ muốn trở về với 1 lý do đơn giản được thỏa mãn cái
bụng nhưng người cha lại có chương trình riêng. Quả thật, “cậy nhờ thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời”. Khi
thế giới vô thần tẩy chay nó, nó mới ý thức rằng tôi còn một người Cha. Nó đâu
biết rằng người Cha không chỉ giết bê béo để ăn mừng nhưng còn phục hồi nhân phẩm,
tước vị làm con Cha. Áo mới, nhẫn mới... đã sắm sẵn để đấy, không một người làm
công nào được dùng, nó được giành riêng cho những “người con”.
Sau cùng, sự xuất hiện của người anh cả là đại
diện cho những người không chối bỏ Thiên Chúa hoàn toàn nhưng sống theo lề luật
Chúa truyền. Thật vậy, anh sống bên Cha mà không hiểu được Cha. Chúng ta thử hỏi:
có bao giờ anh thực sự xin cha một con dê con hay một đặc ân nào chăng? Anh có
lòng ước ao nhưng chưa bao giờ thổ lộ bằng lời. Mặc dù Thiên Chúa thấu biết mọi
lời ta định nói nhưng Chúa muốn ta cầu nguyện và cầu xin. Một thái độ cởi mở là
tác động đầu tiên của lời nguyện xin, điều này người anh cả không thực hiện: Sống
bên Cha mà không có một tương quan gần gũi. Vì rõ ràng người Cha nói: “Tất cả những gì của Cha đều là của con”.
Thế mà anh tự nghĩ rằng người Cha không cho lấy một con bê con.
Nơi anh có một sự áp đặt tư tưởng. Có nhiều
lý do để giải thích xu hướng này. Trước tiên, có thể là do một thành kiến định
sẵn. Kế đến có thể là sự mặc cảm hay tự tôn
cá nhân. Và yếu tố quan trọng nhất là chủ
trương cá nhân. Dường như nơi anh có một nỗi đam mê tìm về bản thân. Anh lấy
mình là thước đo chuẩn mực tâm tính suy xét người khác, kể cả Cha mình. Trong
thâm tâm anh muốn có một con dê làm đầu câu chuyện và ăn mừng với bạn bè. Nhưng
chưa bao giờ có, vì anh chỉ ước muốn suông. Đây là mẫu người hoang tưởng, thiếu
thực tế. Anh nghĩ rằng việc anh chẳng khi nào trái lệnh cha đã là một sự hoàn hảo.
Anh có thể là một người qui tắc nghiêm nhặt nhưng chưa bao giờ thực sự hiểu người
Cha. Người Cha không muốn anh bó mình lại như một kẻ mất tự do hay nô lệ cho
qui tắc trống rỗng và vô hồn.
Yếu điểm của người lấy mình làm trọng tâm là
không chấp nhận ai hơn mình. Khi anh nói đến một con dê con để đối nghịch với một
con bê béo cha đãi tiệc ăn mừng, thì anh tự đặt mình trong thế đối nghịch với mọi
thực tại xung quanh. Một sự ấu trĩ như thế là dấu hiệu của sự ngưng đọng nhân
cách.
Thánh Luca thật tinh ý khi dùng những lời lẽ
đầu tiên để mô tả người anh cả: đang ở ngoài đồng về. Anh đã tìm vui trong lao
nhọc, đúng hơn đây là một tình trạng chạy trốn thực tại. Với tư cách là con cả,
và người cha thì đã già, anh phải quán xuyến và cáng đáng mọi sinh hoạt trong
gia đình. Làm người ai chẳng mưu tìm quyền lợi, còn anh với ưu thế của người
con ông chủ với biết bao người làm công, lại từ khước. Đó là biểu hiện của một
sự mặc cảm tự ti.
Cũng chính thái độ mặc cảm tự ti đó, khiến
anh lên án người em hoang đàng và xếp em mình đồng hàng với bọn đĩ điếm. Trong
khi người Cha giải thích và muốn anh vào dự tiệc vui với em mình như một cách
tái lập lại tình anh em. Điều đó, anh không những khước từ mà còn quay lại lên
án chính cả Cha mình. Anh coi Cha như một người hà khắc và hình ảnh “con dê
con” là bằng chứng cụ thể.
Anh đã lên án Cha mình. Anh kết án Thiên Chúa
của anh, một Đấng hà khắc “gặt nơi không
gieo, thu nơi không vãi”. Vì thế, căn nhà nơi anh đang ở, Giáo hội nơi anh
đang sống là một không gian ngột ngạt mà anh đã được sinh ra và đang sống cách
miễn cưỡng. Với một tâm thức như thế, anh ra khỏi nhà là một thực tế dễ hiểu.
Anh khước từ quyền làm con để coi sóc những kẻ làm công. Anh khước từ chính niềm
vui của người Cha mở tiệc ăn mừng. Dường như niềm vui của người khác lại là hoả
ngục đối với anh. Nhưng anh đã tự nguyện sống trong tình trạng ấy. Thế chúng ta
mới hiểu một Thiên Chúa đam mê và bất lực. Thiên Chúa đam mê con người song, nó
lại dùng tự do khước từ tình yêu Chúa. Balthasar nói đúng: có người nào trong hoả ngục là dấu chứng về sự thất bại của Thiên Chúa.
Ngài có thể biến những hòn đá thành những con cháu công chính của Tổ phụ
Abraham nhưng không làm, vì Ngài không muốn xúc phạm đến tự do của bạn. Thiên
Chúa đã ban cho bạn tự do khả dĩ yêu mến và sống kết hợp với Ngài. Thiên Chúa
đã ban nghĩa là không bao giờ Ngài rút lại; và nếu Ngài có rút bớt nén bạc của
bạn mà trao cho người khác thì cũng là muốn đặt bạn trong tương quan với tha
nhân. Niềm vui của tha nhân sẽ là niềm vui của bạn. Niềm vui của người em cũng
là niềm vui của người anh. Nếu người em đã mất nay lại tìm thấy thì người anh
cũng phải “chết” để mai này sống lại trong niềm
vui nên một.
Bởi vậy, anh xuất hiện sau cuộc trở về của
người em, nghĩa là anh cũng sẽ ra đi và trở về sau đó. Anh cần thực hiện một cuộc
trở về với cha và với em. Thánh Luca không cho biết sự gì sau đó nữa, nhưng
chúng ta cũng hiểu, việc ngoài đồng của anh cũng đã thấm mệt, anh không cần ăn,
anh cần nghĩ ngơi. Anh sẽ đi cổng sau để về phòng riêng, gặm nhấm với con dê của
mình và chờ một ngày ăn mừng với chúng bạn. Hy vọng lúc anh “trở về”, con dê ấy
đã được vỗ béo.
Còn người cha, sau một ngày chung vui với con
thứ và đồng cảm với con cả, ngài cũng cần một cuộc trở về. Biển đã nhường cho đất
phù sa một thời gian, nay đã chan hòa tạo thành một khối duy nhất. Thế là đam
mê đồng nhất hóa thực sự thành hình, khi tự do của Thiên Chúa và tự do của con
người NÊN MỘT.
MỤC LỤC
2.MỘT VÀI QUAN NIỆM VỀ ĐAM MÊ.
2.1.ĐAM MÊ THEO QUAN ĐIỂM TÂM LÝ HỌC.
2.2. ĐAM MÊ THEO QUAN ĐIỂM LUÂN LÝ VÀ ĐẠO ĐỨC CỦA
KITÔ GIÁO.
III.NHỮNG MÊ LẦM TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
IV. ĐAM MÊ VÀ CÁC BẬC THANG GIÁ TRỊ
1.ĐAM MÊ GIÚP HOÀN THÀNH ĐỊNH MỆNH.
2.ĐAM MÊ và CÁC GIÁ TRỊ CHUNG.
2.5. THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU
2.6. CHÂN PHƯỚC TÊRÊSA CALCUTTA
3.NHỮNG NGƯỜI ĐÃ HOÀN TẤT CUỘC SỐNG ĐAM MÊ
3.1. ĐỨC HỒNG Y PHANXICÔ XAVIÊ NGUYỄN VĂN THUẬN
[1] Lê Thành Trị, Hiện tượng luận về
hiện sinh, tr.128.
[2]X.http://vi.wikipedia.org/wiki.
[3]X.http://www.iqtest.vn/content.
[4]
[5]
5 tầng trong
Tháp nhu cầu của Maslow:
·
Tầng thứ năm: Nhu cầu về tự thể hiện bản thân (self-actualization)
- muốn sáng tạo, được thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, trình diễn mình, có
được và được công nhận là thành đạt; nói
cách khác, hoàn thiện bản thân.
[6] Nếu có, sự sa đoạ chỉ gắn liền với
một giai đoạn nào trong cuộc sống của các thánh mà nhờ lòng sám hối, các ngài
đã được chữa lành. Chẳng hạn, trường hợp của thánh Augustinô, ngài đã tìm thoả
mãn trong đam mê xác thịt, đến nỗi phải lấy vợ sớm để tránh tội dâm dục.
[7] GLHTCG số 1764.
[8] Đức Benedicto XVI, Thông điệp
Thiên Chúa là Tình Yêu, số 10.
[9] Mahatma Gandhi (1869-1948): Anh
hùng dân tộc Ấn, người đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Đế Quốc Anh giành độc
lập cho dân tộc.
[10] Ngô Minh & Nguyễn Thế Minh,
Từ vựng Triết-Thần căn bản Pháp-Việt.
[11] Nhóm Phiên dịch, Từ điển Thần học
Tín lý Anh-Việt.
[12] Trần Bích Lan, Tâm Lý học,
tr.90.
[13] X. Sđd, tr.91.
[14] X. Sđd, tr.91.
[15] X. Sđd, tr.91.
[16] X. Võ Doãn Nhẫn, Tâm lý học 12 A-C, tr. 27.
[17] Trần Bích Lan,
Tâm Lý học, tr.94.
[18] Sđd, tr.94.
[19] Vĩnh Đễ và ctg, Tâm Lý học, tr.
140.
[20][20] X. Võ Doãn Nhẫn, Sđd, tr.28.
[21] Ở đây, chúng ta chỉ xét đến tác
động của tính ngoại tại. Thực tế cho thấy, một số người với ý chí mạnh mẽ đã vượt
qua những yếu tố này để thăng hoa những đam mê như trường hợp của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: Đam mê Cách Mạng.
[22] Khi Kant khẳng định điều này, phải
hiểu là sự khác biệt ở mức độ của đam mê hơn là đối tượng của đam mê.
[23] X. Phan Tấn Thành, Đạo Kười,
tr.146.
[24] X. Trần Bích Lan, Sđd, tr.95.
[25] X.Vĩnh Đễ và ctg, Tâm Lý học,
tr.142.
[26] GLHTCG, số 1763
[27] GLHTCG, số 1764.
[28] GLHTCG, số 1769.
[29] Xem phần CÁC CHỨNG NHÂN CỦA ĐAM
MÊ.
[30] Đức Benedicto XVI, Thông điệp
Thiên Chúa là Tình Yêu, số 10.
[31] Karl H. Peschke, Thần Học Luân
Lý, tr.91.
[32] X. Sđd, tr. 92-93.
[33] http://khatvongtuoitre.com:
Câu chuyện của Chữ Bích Phượng ( cô
nói: “ Không được học ngành mình yêu thích thì khổ cả đời” - Tuổi trẻ 30-07) trở
thành một hiện tượng khi dám từ bỏ hai trường đại học danh giá là Y Hà nội và
Ngoại thương để thi lại và đậu thủ khoa Đại học Nông nghiệp ngành công nghệ
sinh học. Cô dám từ bỏ những gì mình đang có để đi cùng đam mê của mình.
[35] Johann
Wolfgang Von Goethe (1749-1832) đã viết:
Mất
ngày hôm nay lang thang - mọi việc vẫn là câu chuyện cũ
Ngày
mai và ngày sau vẫn chậm chạp;
Mỗi
lần thiếu quả quyết sẽ gây thêm trì hoãn,
Và
tháng ngày lại trôi qua để than vãn về những ngày đã mất.
Bạn
có nghiêm túc không ? Hãy giữ lấy giây phút này –
Sự
can đảm có cảm hứng, sức mạnh và bí ẩn bên trong.
Chỉ
khi tìm tòi và cảm thấy hứng khởi –
Hãy
bắt đầu rồi mọi việc sẽ hoàn thành (Wayne W.Dyer, Minh triết xưa và nay,tr.108)
[36]
Beethoven, nhà soạn nhạc đại tài người
Đức, vào những năm cuối đời, đôi tai của ngài như điếc hẳn và cơ thể ngài bị
nhiễm chì rất nặng. Ngoài ra, nhiều tài liệu nghiên cứu cho rằng ngài bị giang
mai bẩm sinh. Nhưng ngài vẫn sống đam mê soạn nhạc, đã để cho hậu thế nhiều tuyệt
tác là các Bản Giao hưởng.
[37] Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách
thắng.
[38] Vĩnh Đễ và ctg, Tâm Lý học,
tr.144.
[39] Viktor E. Frankl, Đi tìm lẽ sống, tr.7.
[40] R. Tagore, Người làm vườn, số 52.
[41] X. Đức Bênêdictô XVI, Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, số 4.
[42] Thánh Augustinô, Tự Thuật,Q X,
XX, XIV, 51.
[43] Tu luật thánh Augustinô số 8,9.
[44] Gibran, Ngôn sứ, Nguyễn Ước dịch, Nxb Phương Đông, tr.104.
[45] X. Thiện Cẩm, Niềm tin Thao thức,
tr. 187.
[46] X. Philomina Agudo, Ta đã chọn con, tr. 98.
[47] ĐGM Nguyễn Thái Hợp, Chút này làm tin, tr.91-92.
[48] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp về Sự Sống, số 39.
[49] Sđd, số 34.
[50] Karl H. Peschke, Thần Học Luân Lý dưới ánh sáng công đồng
Vatican II, tập 2,tr.230.
[51] Bà Đỗ Thùy Dương, Giám đốc công ty cổ phần Hội tụ nhân tài
(Talent pool) cho rằng: “Có lẽ là do chúng tôi cũng sống dựa nhiều vào tình cảm.
Và nếu được hỏi đánh đổi giữa tạo ra một doanh nghiệp vĩ đại hay tạo ra một văn
hóa tình cảm và nương tựa, tôi và nhiều phụ nữ vẫn xin chọn con đường thứ hai”. Http://news.zing.vn//CEO-nu-Viet-Nam-thanh-cong-nho-tin-vao-truc-giac-post410378.html#redirected
[52] X. Millball Demad, Tâm lý mục vụ thực hành, tr.220-225.
[53] Đức Bênêdictô XVI, Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, Số 8.
[54] X. Sđd, số 9.
[55] Sđd, số 10.
[56] Roberto Assagioli, Sự phát triển siêu cá nhân, tr.383-384.
[57] X. Marc Donzé, Tư tưởng Thần Học của Maurice Zundel, người
dịch Nguyễn Thị Chung, tr.87.
[58] Mặc dù, ý hướng ban đầu của tác
giả muốn nói về tình trạng biến dịch, nhưng người viết mượn tư tưởng này để diễn
tả sự ngạc nhiên khi tiếp xúc với thực tại.
[59] Marc Donzé, Sđd, tr.94.
[60] Marc Donzé, Sđd, tr. 99-100.
[61] “Phải chăng thở than cũng là niềm bí ẩn của con người… hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như hoa… tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi lòng của tên tuyệt vọng” (bài viết “Tin vào niềm tuyệt vọng”).
[62] Phạm Quang Trung, Danh vọng cần hay không cần? http://www.pqtrung.com/ly-luan-van-chuong/ly-luan-van-chuong-hien-dhai/danh-vng-cn-hay-khng-cn.
[63] Đó
là đang giờ chơi hôm ấy, chị coi cổng đánh hai tiếng chông, tức là phải mở cổng
lớn dành cho công nhân để chở các cây vào làm hang đá. Giờ chơi buồn tẻ... và
con nghĩ bụng sẽ rất vui nếu người ta kêu con đi phục vụ... Đúng lúc ấy Mẹ phó
bảo con hoặc sơ đang ở gần con đi giúp, thế là con cởi bỏ tạp dề ra, nhưng rất
từ từ để sơ bạn có thể cởi xong trước con, vì con muốn nhường cho sơ ấy niềm
vui được phục vụ. Sơ quản lý nhìn chúng con và thấy con đứng dậy sau, sơ liền bảo:
"Ồ! Chị biết mà, em không thể nào chiếm được viên ngọc cho vương miện của
em, em chậm chạp quá. Trích lại Truyện Một
tâm hồn, tr.444-445.
[64] Trên chuyến xe lửa từ Paris xuống miền nam nước
Pháp. Hành khách đông nghẹt, ồn ào, kẻ lên người xuống, hàng hóa ngổn ngang. 1
chàng sinh viên khoa học đang cố gắng len lỏi tìm chỗ ngồi. Bất giác chàng thấy
1 Ông cụ già đang ngồi lâm râm lần hạt Mân Côi. Chàng liền đến ngồi bên Cụ, thực
chất là để xem Ông Cụ già lẩm cẩm này làm cái gì, thời buổi văn minh bây giờ mà
còn ngồi đọc mấy cái kinh nhảm nhí.
Chàng mở to tờ bào khoa học có đăng hình nhà bác học Louis
Pasteur, đang nghiên cứu về 1 đề tài bàn luận về vi trùng học. Anh vội chạy lại
vỗ vai Ông Cụ, và nói: Bác có cần sách báo gì để đọc, cho cháu địa chỉ, cháu sẵn
sàng gửi đến cho Bác. Thời nay văn minh rồi, ai còn tụng niệm như Bác nữa. Ông
Cụ gật đầu, đọc hết kinh kính mừng, Cụ mở ví ra, rút 1 tấm danh thiếp đưa cho
chàng sinh viên. Chàng cầm tấm danh thiếp và đọc: “ Bác Học Louis Pasteur, Giám
Đốc Viện nghiên cứu vi trùng học quốc tế, Giáo sư chuyên khoa Đại Học hoá học
và sinh vật học.” Chàng sinh viên bật ngửa, kêu to lên: thì ra đây là 1 vị đại
Giáo sư mà mình đang là học trò của Ông. Chàng liền so sánh hình chụp trong tờ báo khoa học, và hình ông Cụ nhà quê đang ngồi lần chuỗi Mân Côi, thì
giống y chang. Chàng liền quỳ xuống bên cạnh Ông Cụ, xin lỗi, và cúi hôn chuỗi
hạt Mân Côi mà Cụ đang cầm trong tay. Http://giacmongbinhyen.blogspot.com/2013/10/chuoi-hat-man-coi-voi-nha-bac-hoc-louis.html.
[65] Adrian Van Kaam, Nhân cách tôn giáo, Dịch giả Ngô Văn Vững,
tr.8.
[66] Pierre Teilhard de Chardin, Thánh lễ trên địa cầu, chuyển ngữ Đức
TGM Giuse Ngô Quang Kiệt và lm Nguyễn Văn Diễm, Nxb Tôn Giáo, tr 19.
[67] X. GLHTCG số 1703.
[68] ĐTC Bênêdictô XVI, Đức tin Kitô giáo hôm qua và hôm nay,
Nxb Tôn giáo, tr.73.
[69] Sđd, tr. 79.
[70] Sđd, tr. 79.
[71] Sđd, tr. 80.
[72] Phan Tấn Thành, Đời sống tâm linh, cuốn 1, tr.74.
[73] GLHTCG, số 397.
[74] GLHTCG, số 396.
[75] X.Thánh Augustino, Tự Thuật, QI, XIX, 30.
[76] Sđd, QX,
XXXVII, 60.
[77] Sđd, Q X,
XXXVII, 62.
[78] Sđd, Q IX, II,
4.
[79] Sđd, Q IX, IV, 12.
[80] Sđd, Q II,II.
[81] Sđd, Q II,
[82]
Sđd, Q X, XXX, 4.
[83] Sđd, Q X, XXXIV, 50.
[84] Sđd, Q X, XXX, 42.
[85] Sđd, Q X, XLI, 66.
[86] X. Nguyệt san Công giáo và dân tộc,
số 58.
[87] X. ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn
Thuận, Những người lữ hành trên đường Hy
vọng, tr.44.
[88] Truyện Một tâm hồn, tr.444-445.
[89] ĐHY Phanxicô Xaviê, Chứng nhân
Hy vọng, tr.26.
[90] ĐHY Phanxicô Xaviê, Sđd,
tr.93-94.
[91] ĐHY Phanxicô Xaviê, Sđd, tr.93.
[92] ĐHY Phanxicô Xaviê, Sđd, tr.68.
[93] ĐHY Phanxicô Xaviê, Sđd,
tr.84-85.
[94] Trịnh Cung, Bi kịch Trịnh Công Sơn, Http://www.trinh-cong-son/trcung.html.