Một quyển tiểu thuyết Công Giáo cho Năm Đức Tin
Lm Trăng Thập Tự
MỘT
QUYỂN TIỂU THUYẾT CÔNG GIÁO CHO NĂM ĐỨC TIN:
NGƯỢC MẶT TRỜI
của NGUYỄN MỘT
Cuối năm, một bạn trẻ ngoài Công giáo ghé thăm, tặng tôi
quyển Ngược Mặt Trời của Nguyễn Một, 214 trang, do
Nxb Hội nhà văn và Công ty sách Liên Việt ấn hành tháng 7-2012. Tôi đọc một
mạch trên chuyến xe đi Quảng Ngãi. Một quyển tiểu thuyết Công giáo đích đáng!
Tới nhà xứ Quảng Ngãi, tôi khoe cha Trương Đình Hiền và tặng nó cho cha. Sau đó
tôi tìm khắp các nhà sách không thấy, nhờ một chuyên viên sách ở Sài Gòn tìm
giúp cũng không thấy đâu. Tôi tìm trên Google mới biết người ta nói nhiều về
quyển sách và có thể tìm mua bản điện tử tại: http://www.sachbaovn.vn/ (với 140 trang dung lượng 931,9 KB,
những trích dẫn trong bài này theo bản sách điện tử).
Tôi cũng tìm thấy trên Bách khoa toàn thư mở http://vi.wikipedia.org/wiki về tác giả như sau:
Nguyễn Một (sinh 1964) là một nhà văn Việt Nam. Ông là tác giả của một số truyện
có tiếng, trong đó có tiểu thuyết Đất trời vần vũ được giải C của cuộc thi Hội Nhà văn
năm 2010. Ông còn có bút danh là Dạ Thảo Linh khi viết truyện dành cho truyện thiếu
nhi.
Thân thế và sự nghiệp
Ông sinh ngày 14 tháng 12 năm 1964 tại thôn A Đông,
xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Cha mẹ mất sớm trong chiến
tranh, ông lưu lạc vào tỉnh Đồng Nai từ năm 1975 và sinh sống đến nay.
Ông làm giáo viên tiểu học từ năm 1983 đến năm 1997, làm
phóng viên báo Tiền Phong từ năm 1998 đến năm 2007 sau đó về làm truyền thông
cho Công ty cổ phần ô tô Trường Hải. Được kết nạp vào Hội Nhà Văn Việt
Tôi cũng tìm thấy địa chỉ của anh trên nguyenmot.vnweblogs.com và gọi
điện hỏi thăm thì biết anh được ơn tin Chúa và lãnh bí thích thánh tẩy năm
1988. Hiện nay quyển truyện trở nên khan hiếm vì chưa kịp tái bản.
Ban đọc có thể tiếp cận với quyển tiểu thuyết nhiều góc độ
khác nhau, nhưng riêng với giới độc giả Công giáo, thiếu một lời giới thiệu có
thể cũng khó thấy được chiều sâu của nó.
*
Đọc kỹ, quyển truyện ngỏ lời với Giáo hội Công giáo nhiều
hơn là với xã hội dân sự. Ấn hành nhiều tháng trước khi Đức Giáo Hoàng
Bênêđíctô khai mạc năm đức tin, quyển truyện gởi đến cộng đồng Công giáo người
Việt thông điệp của Thánh Mátthêu Lê Văn Gẫm: “Dòng họ ta tồn tại đến
nay đã mấy trăm năm, nhưng đức tin của con cháu ta bị lung lay cả rồi, họ bị
cám dỗ bởi quyền lực và vật chất, ta đau lòng vô cùng. Người cuối cùng của dòng
họ ta là Lê Hoàng Thạch, ta đã chết vì đức tin, còn con cháu ta sẽ chết vì phản
bội đức tin” (trang 75).
Những người ngại đối diện với sự thật sẽ khó chịu khi tác
giả nhắc tới Nguyễn Phúc Ánh, Bá Đa Lộc, Hoàng Tử Cảnh, Lê Văn Khôi, Marchand
Du, hoặc kể lại những trang sử máu viết nên bởi Trịnh Quang Khanh (mà tác giả
hư cấu là Trần Hiệp), bởi pháp trường Bảy Mẫu. Tuy nhiên đọc kỹ sẽ thấy tác giả
không hề xỏ xiên lịch sử. Ông nói rất thẳng và rất thật. Ông đặt vào môi miệng
mẹ Têrêxa: “Đất nước mình nó vậy
con ạ! Từ xưa đến giờ lịch sử Công giáo của chúng ta chịu nhiều đau thương chỉ
vì những xung đột như thế » (trang 95). Lời ấy chẳng kết án ai
nhưng chỉ để an ủi một tâm hồn sầu muộn vì sự mất đức tin của ông Lê Hoàng
Thạch chồng bà Dung: “Niềm tin vào tiền bạc
của ông mãnh liệt hơn niềm tin vào Thiên Chúa, ông đã từng khẳng định với mẹ
Têrêxa như thế” (trang 121).
Cũng như nơi xã hội dân sự, những nan đề nội bộ của giới
Công giáo làm sao vượt qua được nếu ngại đối diện với sự thật (x. Ga 8,32)?
Cuộc khủng hoảng đức tin nặng nề làm sao dứt được nếu mỗi kẻ đang ý thức nguy
cơ sụp đổ không tự tấn công thẳng vào mình?
Ngược Mặt Trờikhông lớn tiếng chỉ trích những phô trương lòe loẹt, những công
trình xây cất nguy nga, những rình rang đình đám đang có nguy cơ biến nhà Chúa
thành những tụ điểm lễ hội văn hóa và du lịch. Nó trực tiếp chỉ rõ ra nguyên
nhân sẽ gây sụp đổ cho Giáo hội Công giáo là sự biến chất của đời tu, cái giá
quá đắt để có được những thứ bề ngoài màu mè ấy: “Đan viện khánh thành trong niềm hân hoan của xứ và
những người còn lại. Tất nhiên, ngày đó mẹ cũng giấu nỗi buồn mà đón nhận “cơ
ngơi” cầu nguyện khang trang. Ở đời, Chúa không cho ai tất cả, mà cũng không
lấy đi của ai tất cả. Để có đan viện đầy đủ tiện nghi, mẹ đã đánh mất bốn nữ
đan sĩ xinh đẹp, họ đã ra đi cùng với các chàng sĩ quan công binh khỏe mạnh với
sức lực cường tráng và làn da rám nắng” (trang 28).
Có một Hội Thánh bị thoái hóa nơi hậu duệ của Thánh Lê Văn
Gẫm, là Lê Hoàng Thạch, không còn tin vào Thiên Chúa mà chỉ còn tin vào phép
mầu của tiền bạc. Và rồi, cũng như đám người bên hoang tháp, ông đã chết thê thảm
khi chạm được tới bạc vàng (trang 128). Lại có một Hội Thánh thỏa hiệp với Trần
gian nơi con gái ông là nữ tu Hoàng Lan, nhảy rào chạy theo Trần Danh, tưởng
rất hạnh phúc với cuộc hôn phối tùy tiện ấy nhưng rồi đã cùng với anh ta hứng
chịu một cái chết thảm khốc mà không ai biết nguyên nhân, tức là một cái chết
không rõ ý nghĩa (trang 115). May thay, đức tin chẳng phải là bệnh di truyền.
Vẫn còn một Hội Thánh hiện thân nơi con gái út của Lê Hoàng Thạch là Ngân Hà,
đã luôn bám chặt vào thập giá Chúa và mãi mãi là một thiên thần cho đến khi mọc
cánh bay vào ánh sáng (trang 135).
Ba hậu duệ của tổ phụ Matthêu Lê Văn Gẫm đều đã đón được đức
tin huy hoàng do ngài truyền lại nhưng đã ứng xử theo ba cách khác nhau. Năm
đức tin của Giáo hội toàn cầu trùng vào kỷ niệm 25 năm vị tổ phụ và các bạn
ngài được phong hiển thánh. Với lớp con cháu của các vị tử đạo, cả trong nước
lẫn ngoài nước, quyển truyện đề ra ba khả năng để chọn lựa, và không ai có thể
chọn lựa thay ai.
Chỉ với sức người chọn cho đúng thật không dễ chút nào. Thế
nhưng ơn Chúa dạt dào vẫn luôn sẵn đó cho bất cứ ai đến với Ngài, dù bị đè bẹp
dưới những lao nhọc và gánh nặng. Chúa đã ưu ái ban tặng đức tin, Ngài cũng
thiết tha bảo tồn nó. Thế nên, ngoài ba hậu duệ của Thánh Gẫm được nêu bật như
tiêu biểu còn có đám đông thầm lặng của xứ đạo Hòa Bình bên tượng đài Đức Mẹ
(trang 93), tâm hồn sầu muộn của bà Dung (trang 94), vị ngôn sứ ẩn nhẫn chèo đò
phục vụ dân chúng (trang 109, 120). Hơn nữa, còn có cả bà mẹ mục tử, tiên tri
và hy tế (trang 129), oằn vai dưới gánh nặng của thời gian và trách vụ, mà sự
hiện diện không gì khác hơn là một dấu chỉ của sự trung thành, chỉ biết an ủi,
nguyện cầu và “hiệp thông với nỗi đau của Thiên Chúa” (trang 32, 91). Qua
vị Thánh họ Lê, Chúa an ủi họ bằng chính nỗi đau của Ngài: “Ta là người Công giáo đầu tiên tử đạo ở miền
trong, ta muốn người biết để cùng các đan sĩ giữ vững niềm tin trên đời sống
đức tin đầy sóng gió như lịch sử đất nước” (trang 72).
*
Ngược Mặt Trờingỏ lời trước hết với các Kitô hữu vì chỉ những ai biết Kinh Thánh
mới có thể hiểu nó cặn kẽ. Cái khó cho Nguyễn Một là phải trình bày sự thật
giữa một hoàn cảnh dễ bị ngộ nhận, trong đó độc giả đồng đạo chỉ chiếm một số
nhỏ giữa cộng đồng người Việt. Anh phải viết thế nào để những người khác niềm
tin vẫn đọc được và hiểu được thông điệp của anh một phần nào.
Với những người chưa biết Kinh Thánh, quyển truyện là một sự
đan xen cuộc sống của một ngôi làng đã bị biến mất, đầy những kỷ niệm của yêu
thương và chân thật, đối nghịch với một cuộc sống giằng xéo bởi hận thù và giả
dối. Người kết nối câu chuyện là Nguyễn Chạc, một nhà nhiếp ảnh trẻ. Anh rời
làng Chạc Chìu hồi mười bảy tuổi rồi sau quay lại kiếm tìm mãi mà không bao giờ
tìm được. Câu chuyện còn đan xen giữa hiện tại và quá khứ, để vạch rõ ra nguy
cơ biến chất của sĩ phu khi có được quyền hành. Kha Ly đã báo trước cho Trần
Hiệp: “Cha em nói chốn quan trường nhiều người
rất tham lam, họ không từ bất kỳ thủ đoạn nào để chiếm đoạt tài sản và quyền
lực” (trang 53). Và rồi đúng thế, con người hào hiệp ấy khi
công thành danh toại đã quên nghĩa cũ tình xưa. Bên cạnh đó là bài học Nguyễn
Chạc rút được từ sự suy tàn của vương quốc Hoa Sứ Trắng:“Sự suy yếu của
vương quốc này là quy luật tất yếu, bởi sự gây hấn của họ trong và ngoài đất
nước mình, dẫn đến tình trạng chiến tranh liên miên, cũng như xung đột nội bộ,
từ đó vùng đất này không còn chính quyền và mất nước vào tay các quốc gia láng
giềng chứ chẳng ai xâm lăng họ” (Trang
71). Nhân vật A Hóa người Hoa, bị ám ảnh vì máu con ông vừa đổ trên quảng
trường. “Ông ta gạt phắt và
trừng mắt hét vào mặt Hoàng Thạch, như thể chính Hoàng Thạch là kẻ thù: “Láo
toét, tàn ác, mọi thứ trên đời này chẳng có ý nghĩa gì khi mà quyền sống của
con người không được bảo vệ!?” (trang 42). Đó là thông điệp chân
thành tác giả gởi đến những tâm hồn thiện chí đang dấn thân xây dựng xã hội dân
sự.
Nguyễn Một còn giúp người đọc để ý tới sự gần gũi và giao
tiếp giữa cõi hữu hình và cõi linh thiêng. Anh vẽ cho người đọc một thế giới
khác (trang 33, 36) tồn tại bằng dạng siêu vật chất (trang 34). Nơi cuộc giành
giật tại hoang tháp, tất cả bị lòng tham hủy diệt: Trần Hiệp, Đa Ra, thầy địa
lý Hảo đều mất mạng trước sự chứng kiến của những vị thần giữ của, những vị
thần trong thực chất là tay sai và nô lệ cho một kẻ cao tay hơn: Vàng Hời hay
là Tiền Của. Thế thì tiền của vật chất từ đâu mà có, dùng để làm gì? Tại sao nó
có thể từ địa vị nô lệ nhảy lên thống trị con người? Ai giải cứu được con người
thoát khỏi lòng tham? Sau khi đã chiến thắng ngoài trận tiền và cuộc sống giành
giật, làm sao thắng được chính mình? Nguyễn Một trình bày những câu hỏi về tâm
linh qua lịch sử các dân tộc với nhãn quan của văn hóa và niềm tin của họ… để
gợi ý suy tư cho nhiều điểm quen thuộc, nỗi băn khoăn tìm kiếm trước những câu
hỏi muôn thuở: Ai sinh ra ta? Sống để làm gì? Chết rồi đi đâu? Quả báo hay luân
hồi? Cuộc sống đời sau như thế nào? Nguyễn Một vận dụng chính ngôn ngữ của
những người chưa biết Kinh Thánh để đặt nổi lên cho họ những dấu hỏi ấy. Và anh
cũng hé mở cho độc giả thấy chìa khóa mở vào câu trả lời: Đôi mắt. Đôi mắt thể
chất nhìn rừng chỉ thấy tiền như Hoàng Thạch. Đôi mắt ấy có biết nhắm lại, có
bị mù đi như Chín Toàn mới thấy được sự thật trần trụi của con người và những
tín hiệu rực sáng của cõi tâm linh. Ngược mặt trời không phải là chạy trốn mặt
trời nhưng là nhìn thẳng vào đó, quay ống kính về mặt trời, lao mình về đó, dù
nó có đốt cháy âm bản của ta, có khiến ta bị mù lòa không còn thấy được tiền
tài, danh vọng và quyền lực.
*
Tất cả những điều đã nói với những người thiện chí như thế
cũng được nói cả với những người đồng đạo. “Ta đã nói với ngươi, ta
là nhà tiên tri, ta biết tất cả, đã nhiều người mất mạng tại đây vì không nghe
lời cảnh báo của ta” (trang 58). Điều
quan trọng là người ta có dám nghe lời cảnh báo chăng. Lời cảnh báo của các vị tử
đạo, của mẹ Têrêxa.
Không chỉ có thế, với những người biết Kinh Thánh, quyển
sách còn là một dẫn nhập vào lịch sử thánh.
Nỗi nhớ làng Chạc Chìu tựa mối hoài niệm muôn thuở của con
người, mãi nhớ vườn Êđen đã mất. “Anh nhớ câu chuyện làng
quê nơi anh sinh ra và lớn lên. Thật kỳ lạ! Làng Chạc Chìu của anh cách xứ đạo
Hòa Bình này chỉ có một ngọn núi, nhưng mọi người ở đây không ai biết và không
ai tin là có một làng quê với cái tên kỳ lạ như thế tồn tại bên kia dãy núi…
Hơn hai mươi năm sau, khi trở thành một nghệ sĩ nhiếp ảnh và quá chán thành phố
chật hẹp, đông đúc, anh quyết định trở lại làng quê của mình, nhưng anh đã
không tìm thấy.” (trang 9)
Eđen Chạc Chìu không chỉ có hai nguyên tổ nhưng đã phát
triển thành một xã hội, một xã hội yêu thương và chân thật nhưng rồi đã rơi vào
hỗn loạn và biến mất. Tội nguyên tổ của nó không phải là ăn quả cây tự định lấy
tốt xấu nhưng là lòng hận thù: “Làng quê mình nghèo,
nhưng thanh bình, chúng ta đã có những tháng ngày hạnh phúc biết bao. Ngày đó
có ai nói với chúng ta về lòng hận thù đâu em!? Lòng hận thù chỉ xuất hiện khi
bom đạn trút xuống làng quê này, lòng hận thù chỉ xuất hiện khi những con người
xa lạ đến và dạy cho những người dân của làng quê mình về lòng hận thù. Ngày
trước cha em hiền lành là thế, vậy mà chỉ một thời gian ngắn, người ta đã khơi
dậy trong ông lòng hận thù ngùn ngụt về câu chuyện xa xưa nào đó của hai dân
tộc, mà chính ông cũng mù mờ” (trang 24).
Nguyễn Chạc rời
Êđen đã mất nhưng nhờ thập giá Chúa Kitô nay lại còn đó, với
vẻ trinh nguyên “vẻ đẹp thuần khiết”
(trang 9 và 120) thuở
Ađam - Evà chưa phạm tội, trần truồng trước mặt nhau mà không một chút xấu hổ,
không một chút thèm muốn vẩn đục.
Êđen Chạc Chìu bị biến mất vì hận thù. Êđen của Hội Thánh
Chúa giờ đây đang ngày đêm đối diện với một tội nguyên tổ mới là lòng ham mê
tiền bạc và hư danh, chẳng khác gì câu chuyện ở hoang tháp. Nguyễn Chạc lội
ngược dòng. “Bánh mì chan nước, món
ăn thân thương ấy cứ theo anh suốt. Sau này làm có tiền, anh vẫn thích ăn bánh
mì chan nước, nhiều người không hiểu, nhìn anh khinh bỉ như nhìn gã keo kiệt”
(trang 133).Chính tâm hồn thanh thoát, cái tinh thần nghèo đã giúp
anh mang được Êđen vào trong cuộc sống.
Thông điệp của quyển truyện nằm trong bối cảnh Kinh Thánh
của nó, từ Sáng Thế đến Khải Huyền. Ở chương “Cuốn sách bị cuộn lại” (trang
109), sách Khải Huyền (6,12-14) được trích nguyên văn: “Tôi thấy khi Con Chiên mở ấn thứ sáu, có động đất
mạnh, mặt trời tối đen như vải thợ dệt bằng lông, mặt trăng hoàn toàn đỏ như
máu. Sao trên trời sa xuống đất, tựa những trái vả xanh rụng xuống từ cây vả bị
gió lớn lay mạnh. Trời bị cuốn đi như một cuốn sách cuộn lại, mọi núi non và
hải đảo bị dời đi nơi khác.”
*
Lịch sử từ Sáng Thế đến Khải Huyền được thu nhỏ nơi cuộc đời
mỗi người, từ sinh ra tới chết đi. Mỗi người có một cuốn sách riêng và nó cũng
bị cuộn lại. Mẹ Têrêxa xuất thân từ trại mồ côi, thuở bé được các sơ dẫn lên
đường di tản, lê chân trên cát nóng với cái bao tải nhỏ trên vai.“Trong cái gia tài nhỏ
bé đó có bịch gạo, một bình toong nước và những cuốn sách bị cuộn lại. Mỗi đứa
có một cuốn sách khác nhau, cuốn sách của mẹ là cuốn nhật ký viết về cha mẹ
mình bằng lời văn ngô nghê và ý tưởng non nớt. Trong cuốn sách ấy, cả những
cuộc đời đau buồn bị cuộn lại, xốc xếch như số phận quê hương » (trang
109-110).
Mẹ Têrêxa vừa có một cuốn sách riêng của mẹ vừa có ơn đọc
được quyển sách chung của nhân loại để nói lên sự thật về những chuyện đã xảy
ra. “Đời sống tu hành đạm bạc và sự hiệp thông
cùng Thiên Chúa, giúp mẹ trụ lại trần gian để làm chứng nhân cho Người” (trang
94). “Bằng cầu nguyện và được mặc khải, mẹ Têrêxa hiểu được sự oan khuất của
giáo hội Việt
“Mẹ đau đớn khi biết được trong lịch sử
Việt
Ngược đãi và thử thách là con đường bình thường của các môn
đệ. Còn lịch sử là còn thử thách, vì họ luôn đi trên “con thuyền ngược gió” (trang 104).
Lịch sử đời mỗi người cũng thế, xen lẫn hạnh phúc với khổ đau. Mẹ Têrêxa nhắc
mọi người đón nhận ý Thiên Chúa, để rồi cuối cùng, khi cuốn sách đời được cuộn
lại, họ sẽ chia sẻ hồng phúc của em Ngân Hà, “đến bờ sông, mặt trời
trở nên đỏ rực, tạo những viền sáng lấp lánh quanh người em, tấm voan trên
người biến thành đôi cánh. Và em bay thẳng vào vùng sáng của mặt trời...”
(trang 135).
*
Trở lại với lịch sử lớn, Mẹ Têrêxa không ở
Đoạn cuối, khi những âm bản được khai mở, ta thấy giữa thế
giới bên này và bên kia có một điểm chung là cơn lốc. Giữa quá khứ và hiện tại
cũng thế. Giữa Hoa Sứ Trắng và Đại Việt cũng thế. Cơn lốc thần linh. Cơn lốc
sáng tạo, hủy diệt và tái tạo. Cơn lốc thanh tẩy, gạn lọc và xét xử. Cơn lốc đã
làm nên tất cả và cũng sẽ cuốn đi tất cả, cuộn lại tất cả. Những đế quốc, những
triều đại, những con người đều qua đi, nhưng Mẹ Têrêxa, Hội Thánh Công Giáo,
trải qua đau thương và lỗi lầm, vẫn còn đó, như chứng nhân và là người giải
thích ý nghĩa thật của lịch sử, phục vụ cho Đấng là Chủ của lịch sử, cho tới
khi cuốn sách được cuộn lại.
*
Tới đây, Ngược Mặt Trời đem lại cho những độc giả nào
có biết Kinh Thánh đủ yếu tố để tìm ra đáp án cho những câu hỏi nó đã gợi lên.
Chính Đấng đứng ở hai đầu lịch sử, dựng nên cả cõi hữu hình lẫn vô hình, có một
chương trình tuyệt diệu trên mỗi con cái Ngài và trên toàn bộ lịch sử. Tất cả
đã từ ánh sáng mà đến. Những ai tìm ánh sáng sẽ gặp được ánh sáng. Những ai
sống theo ánh sáng sẽ được đón nhận vào ánh sáng.
Phải đặt mọi vật trong ánh sáng mặt trời, mắt ta mới thấy
rõ. Tuy nhiên, người ta có thể chỉ chú ý tới ngón tay Phật tổ mà quên mất mặt
trăng ngón tay ấy đang chỉ. Chụp hình thôi chưa đủ, còn phải chụpngược mặt trời để nhớ rằng mặt trời có thật và cần
thiết. Như phát biểu của một mẹ Têrêxa khác, gọi là Têrêxa Avila, ta chỉ thật
sự biết mình khi biết mình trong Thiên Chúa. Một tác giả khác, đồng hương và
đồng thời với bà, và là Thánh bổn mạng của các nhà thơ Tây Ban Nha, Thánh Gioan
Thánh giá, lại nói tới ngược mặt trời theo một ý khác: Cuối đêm dày là bình
minh, ta hướng mắt nhìn mặt trời và rồi những tia mặt trời chói chang vượt sức
chịu đựng của mắt ta khiến mắt ta như bị mù lòa. Thiên Chúa và những tia mạc
khải của Ngài đối với đôi mắt linh hồn ta cũng thế.
Phần nào, có thể nói Ngược Mặt Trời là một dẫn nhập gây tò mò để người ta
tìm đọc toàn bộ Kinh Thánh và lịch sử Giáo hội Công giáo. Có những kiệt tác văn
chương lấy cảm hứng từ Kinh Thánh nhưng khi chỉ đọc nó mà không biết Kinh
Thánh, người ta thường hiểu một cách què cụt. Tôi chợt nhớ một nhận định của
giáo sư Hoàng Ngọc Hiến (1930-2011). Khi đảm nhận chức vụ hiệu trưởng Trường
Viết văn Nguyễn Du ở Hà Nội, ông quả quyết: Văn học Việt
Quy Nhơn, 27-12-2012
Lm TRĂNG
THẬP TỰ