ĐỨC GIÊSU VÀO THÀNH GIÊRUSALEM

(Mátthêu 21,1-11 – CN Lễ Lá - A)

 

1.- Ngữ cảnh

         Theo bố cục của Tin Mừng Mt, sự cố được tường thuật lại đây là mở đầu cho tuần lễ cuối cùng của cuộc sống Đức Giêsu trên trần thế. Kể từ biến cố Đức Giêsu vào Giêrusalem cho đến bữa tối cuối cùng rồi Người bị bắt, bị xử, bị đóng đinh, và sống lại, Mt theo chính xác thứ tự của TM Mc, ngoại trừ truyện cây vả được sắp xếp lại một chút (x. 21,18-22 = Mc 11,22-26). Trong Mt, cuộc tiến vào “khải hoàn” và việc “thanh tẩy” Đền Thờ xảy ra trong cùng một ngày, đó là ngày thứ nhất Đức Giêsu ở lại Giêrusalem; trong Mc, các sự việc ấy được tách ra đặt vào hai ngày khác nhau. Mt giữ lại tất cả chất liệu của Mc ngoại trừ bài học từ câu truyện đồng xu của bà goá (x. Mc 12,41-44).   

         Cuộc tiến vào Giêrusalem trong bầu khí khải hoàn trên một con lừa là hình ảnh đối lại với cuộc tiến lên Núi Sọ, dưới khối nặng của thập giá. Hội Thánh đang nhớ lại cuộc Thương Khó của Chúa, nhưng cũng báo trước vinh quang (hôsanna) Phục Sinh. Đây là cuộc tỏ mình công khai của Đức Giêsu cho quốc gia nên hẳn cũng là một đề nghị mà Hội Thánh sơ khai một lần nữa ngỏ với các thành viên Hội đường để họ chấp nhận Đấng Mêsia thuộc dòng dõi vua Đavít (x. 23,37-39).

 

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Đức Giêsu tổ chức cuộc rước (21,1-7);

2) Đức Giêsu tỏ mình (21,8-11).

 

3.- Vài điểm chú giải

- Giêrusalem (1): Đây là kinh đô của miền Giuđê, cũng là Sion, trung tâm tôn giáo của dân Do Thái, vì có Đền Thờ.

- Chúa (3): Sự hiểu biết và quyền chúa tể của Đức Giêsu được Mt nhấn mạnh đặc biệt ở đây.

- Đức Giêsu cưỡi lên (7): dịch sát là “cưỡi lên chúng (= hai con lừa)”; đây là một hình ảnh khó mà hình dung được. Người ta có thể tránh khó khăn này bằng cách coi “chúng” đây là các “áo choàng”. Bản dịch CGKPV Bốn sách Tin Mừng (tr. 95) cho một lời giải thích hợp lý: “Đơn giản nhất có lẽ là Mát-thêu muốn đưa lời Da-ca-ri-a (thật sự chỉ nhấn mạnh tới con lừa con mà thôi) cho hợp với trường hợp của Chúa Giê-su (thật sự có hai con lừa), mà không quan tâm tới chuyện trục trặc”. 

- hôsanna (9): Từ ngữ Híp-ri hôsî‘ah-nna’, hay hôsha‘-na có nghĩa là “Xin trợ giúp (hay Xin cứu độ), con cầu nguyện”. Đây là một phần trích từ câu Tv 118,25.26, sau này thành một lời tung hô.

- náo động (10): Động từ eseisthê (động từ seiô được dùng 3 lần trong Mt) diễn tả những hiện tượng đi theo việc khai mở thời đại cánh chung. Ở Mt 27,51, động từ này loan báo hiện tượng động đất đi theo cái chết của Đức Giêsu. Ở 28,4, động từ này diễn tả nỗi kinh hoàng đến nỗi ra như chết của những người lính canh vào lúc Đức Giêsu sống lại (x. 2,3-7).

 

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Đức Giêsu tổ chức cuộc rước (1-7)

         Tác giả ghi nhận rằng chính Đức Giêsu muốn có cuộc diễu hành này, và Người đã lên kế hoạch thực hiện. Điều này cho hiểu là Đức Giêsu ý thức Người là Đấng Mêsia, Người làm chủ tình hình; Người có uy thế hơn các đối thủ của Người. Quả thế, Mt nêu bật rằng các môn đệ làm theo “lời Đức Giêsu đã truyền” (c. 6). Ngoài ra, vâng phục Đức Giêsu là nét tiêu biểu của người môn đệ. Lời tự xưng Đức Giêsu nói với hai môn đệ khi gửi họ đi (“Chúa”, c. 3) nhắc nhớ tới đức tin của Hội Thánh vào Đức Kitô Phục Sinh. Trong khi cộng đoàn nhắc lại một sự cố đầy ý nghĩa thuộc về Đức Kitô lịch sử, cộng đoàn lại loan báo sự hiệp thông của mình với Đức Kitô Phục Sinh (“Chúa”). Quang cảnh sắp được kể tự nó đã khá rõ, nhưng tác giả theo thói quen thấy cần minh họa bắng hai câu trích Kinh Thánh (Is 62,11: “Hãy bảo thiếu nữ Sion” và Dcr 9,9 nói về đức vua hòa bình). “Thiếu nữ  Sion”trong  truyền thống ngôn sứ là Israel cánh chung được nhân cách hóa, ở đây là dân cư Giêrusalem. Ở Dcr 9,9, vị ngôn sứ nói “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ”, Mt tránh lời mở đầu này bằng cách dùng công thức của Is 62,11. Ông không cảm thấy sẵn sàng mời thành thánh vui lên khi mà chẳng bao lâu nữa ông sẽ phải lên án thành này. Bản văn Is có giọng kiên quyết “Hãy bảo” nhằm nhắc nhở dân Thiên Chúa. Bản văn của Dcr thì chi tiết hơn, nhưng Mt chỉ nhắc đến những chi tiết nào phù hợp với đề tài ông đang bàn. Ông chủ ý bỏ những tên gọi “Đấng Công Chính và Đấng Toàn Thắng” để tránh làm cho người ta nghĩ đến một chiến binh hay một nhà chinh phục. Giêrusalem là thành vua Đavít, nhưng từ lâu đã phải quy phục Dân Ngoại; nay thành thấy tái xuất hiện bên trong vòng tường thành vị vua của chính mình, đã được Thiên Chúa hứa ban từ thời xa xưa (x. 2 Sm 7,14). Tuy nhiên, để dân chúng đừng hiểu lầm Đức Giêsu đến trong tình trạng khiêm nhu hiền hậu, chịu suy phục. Người là đức vua của các anawîm (những người nghèo), hơn là vua của những ghibborîm (những người mạnh) vẫn chầu quanh vua Đavít (x. 2 Sm 1,19.21).

 

* Đức Giêsu tỏ mình tỏ mình  (7-11)

Ý nghĩa thiên sai của cuộc biểu dương lại còn được nêu bật bởi con số đông đảo dân chúng tham gia (chỉ Mt ghi nhận điểm này), bởi những cử chỉ họ làm (trải áo và vẫy các cành lá) và bởi các lời tung hô. Khi trải áo của mình trên con lừa và trên đường, các môn đệ và đám đông chỉ làm một điều là xác nhận phẩm cách của Người (x. 2 V 9,13). Khi ghi nhận rằng người ta “chặt nhành chặt lá mà rải lên lối đi” (khác với Lc 19,17 và Mc 11,8), Mt muốn nhắc lại Tv 118,25-26 trong đó gợi tới những nghi thức người ta làm trong dịp Lễ Lều: dân chúng đi rước lên Đền thờ, tay vừa phất các cành lá linh thánh (lubab) vừa hát các câu tung hô rút từ Tv 118 (x. thêm 2 Mcb 1,9; 10,6). Lễ Lều nhắc lại thời gian sống trong sa mạc, nên cũng gợi đến cuộc xuất hành và giải phóng khỏi Ai-cập; do đó, cuộc cử hành Lễ Lều làm thức tỉnh lại những nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia cả nơi dân chúng lẫn cấp lãnh đạo. Trong khung cảnh này, bài tường thuật việc Đức Giêsu vào Thành thánh là một sứ điệp rất khéo bố trí mà Mt gửi đến cho cộng đồng Israel.

Các lời tung hô xác nhận ý nghĩa của cuộc diễu hành đang diễn tiến. Tiếng hò la là một thể văn thuộc về nghi thức các cuộc tôn vương (x. 1 V 1,39). Lời cầu chúc của đám đông được diễn tả lặp đi lặp lại bằng từ ngữ Híp-ri hôsî‘ah-nna’, hay hôsha‘-na (Hy Lạp hôsanna) cũng rút từ Tv 118,25, ghép với danh xưng “con vua Đavít” không có trong Tv. Lúc đầu “hôsanna” là một tiếng kêu khẩn cầu và nài van (“xin ban ơn cứu độ”), nhưng với thời gian đã trở thành một lời diễn tả niềm vui và sự chờ đợi Đấng Mêsia. Tên gọi “con vua Đavít” được làm giảm nhẹ và được sửa chữa bởi câu diễn giải của Tv 118,21: “Nguyện xin Chúa tuôn đổ phúc lành cho người tiến vào đây nhân danh Chúa”. Để tránh mọi hiểu lầm, Mt đã bỏ bản văn Mc 11,10 (“Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đavít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời”). Đức Giêsu là con vua Đavít, nhưng triều đại Người không thuộc về thế gian này (x. Ga 18,36). Câu cuối cùng “Hoan hô trên cõi trời cao” xác nhận mối bận tâm này. Cuộc diễu hành rất có thể trở thành một cuộc duyệt binh thật ra là một cuộc rước mang tính phụng vụ trong đó người ta khẩn khoản thỉnh cầu Thiên Chúa thực hiện những lời hứa ban ơn cứu độ. Đấng Mêsia là một sứ giả của Thiên Chúa, sẽ mang đến cho loài người không phải là các của cải trần gian nhưng là các phúc lành của trời cao.

Đám đông tham dự vào cuộc rước dường như là đoàn người đã đi lên với Đức Giêsu từ Giêrikhô (20,29.34). Mt phân biệt họ với dân cư Giêrusalem đang lãnh đạm chứng kiến sự cố. Phản ứng của dân chúng Giêrusalem (“cả thành” là một lời phóng đại, nhưng nói lên ý muốn kéo toàn thể khối đông dân chúng vào việc loại trừ Đấng Mêsia) được diễn tả bằng những từ ngữ đầy kịch tính (“náo động”). Sự rúng động này không phải là về thiên nhiên nhưng về tinh thần. Tất cả Giêrusalem biết rằng họ đang ở vào khoảnh khắc cuối cùng của lịch sử và đang ở trước một biến cố lạ lùng: gặp gỡ với Đấng Cứu độ hoặc Đấng Thẩm phán của họ. Câu hỏi họ đặt ra cho đoàn người đang tiến đi chứng tỏ điều này. Đám đông đang đi rước đã làm chứng, nhưng chứng từ của họ quá nghèo nàn: “Ngôn sứ Giêsu, người Nadarét, miền Galilê đấy”. Danh xưng “ngôn sứ” thì không rõ ràng gì mấy, bởi vì Gioan Tẩy Giả cũng được gọi như thế (11,9; 14,5; 21,26; x. 16,14; 21,11; 21,46), và lại còn là một ngôn sứ cao cả (11,9). Lời nhắc đến Nadarét và Galilê chỉ càng khiến cho người ta bớt tín nhiệm Đức Giêsu (13,57; x. 23,37; Ga 1,46). Ngoại trừ ở 2,23 (để dùng Kinh Thánh mà biện minh cho xuất xứ của Đức Giêsu) vẫn tránh gọi Đức Giêsu là người Nadarét hoặc Galilê; nếu tên ấy có trở lại, là trên môi miệng các đối thủ Đức Giêsu (26,69). Tuy nhiên, ở đây Mt vẫn để cho đám đông nhắc đến: “Vị ngôn sứ Nadarét”, đối tượng khiến người Giêrusalem phải ngạc nhiên hay gai chướng, cũng chính là con cháu vua Đavít vừa mới được hoan hô.

 

+ Kết luận

Cuộc biểu dương này ngay tại trụ sở của Do Thái giáo chính thức là bằng chứng tối hậu Đức Giêsu cung cấp cho quốc gia Do Thái. Tại toà án Rôma, chính Philatô đã giới thiệu Đức Kitô-vua cho người Do Thái Giêrusalem (x. Ga 19,14). Còn ở đây lại chính là những người Do Thái bán ngoại giáo của miền Galilê làm công việc đó. Cả hai lần giới thiệu đó đều được kết thúc bằng một sự phủ nhận, nhưng lịch sử dân Do Thái không thể xoá bỏ quang cảnh này đi được nữa. Chỉ khi Israel cũng tham gia vào cuộc khải hoàn của Đấng Mêsia Nadarét, họ mới có thể được thừa hưởng ơn cứu độ (x. Mt 23,39).

 

5.- Gợi ý suy niệm

1. Đức Giêsu đã đứng ra tổ chức cuộc tiến vào Giêrusalem. Như thế, không phải là Người đã “hớ hênh” để rồi bị bắt và đưa đi xử tử. Chính cách thức Người chọn (ngồi trên lưng lừa, không có quân lính tiền hô hậu ủng) cho hiểu là Người là Đấng Mêsia thuộc nhà Đavít, nhưng không như Đấng Mêsia dân Israel hằng mong đợi.

2. Vũ khí của Người là sự hiền hậu; với vũ khí này, Người sẽ đánh bại sự ngạo mạn của những kẻ tội lỗi và nhất là ban sự tin tưởng lại cho những người yếu thế (x. 18,1-6), cho những người nghèo (x. 5,3-4; 11,28-30), những người bị áp bức. Con vật Người cưỡi phù hợp với sứ mạng này. Đấng Mêsia đã đi vào Giêrusalem, không phải như một nhà giải phóng quốc gia, nhưng như một đưa vua hòa bình. Đức Giêsu là đức vua thiên sai được ngôn sứ loan báo, nhưng ngược lại với các nỗi niềm chờ mong, Người không đến ban tặng cho dân cư Giêrusalem chiến thắng trên quân thù, nhưng ban tặng ơn cứu độ và tình bằng hữu của Thiên Chúa.

3. Hôm nay, chúng ta thấy mình ở trong đám đông nào? Đoàn người đi theo Đức Giêsu từ Giêrikhô hay dân cư Giêrusalem? Chúng ta thấy mình được tượng trưng bởi đoàn người vẫn đang đi theo Đức Giêsu: đây là Hội Thánh lữ hành đang tiến đi mà loan báo cho cả người Do Thái (cc. 10-11) lẫn Dân ngoại (x. 28,19) biết Đức Giêsu là “con cháu vua Đavít”, là Đấng Cứu độ loài người. Chúng ta mời gọi mọi người đón tiếp một Đấng Mêsia nghèo hèn và khiêm nhường.

 

 


Suy Niệm Lời Chúa Năm A