Chúa Nhật I mùa Vọng,

Năm B, (2008)

 

          Sau trận bão Katrina, nhiều gia đình di tản dã trở về và không cầm được nước mắt nhìn cảnh hoang tàn do nước lụt tàn phá.  Nhà cửa hư hại nặng nề, đồ đạc bị hủy hoại…  Người ta không biết bao giờ mới có thể sửa chữa lại được như trước.  Cũng thế, nhân loại đã bị tội lỗi làm băng hoại, mất đi vẻ đẹp và thánh thiện lúc ban đầu.  Người ta hướng về Thiên Chúa và trông đợi Người đến cứu độ và tái tạo con người.  Các bài đọc hôm nay trình bày khát vọng của con người và giới thiệu sứ mệnh của Chúa Ki-tô, Đấng cứu độ, đồng thời nhấn mạnh thái độ sẵn sàng tỉnh thức của những ai muốn đón nhận Người.

1.  Lời cầu xin ơn cứu độ của nhân loại (bài đọc Cựu Ước – Is 63:16b-17.19b; 64:2b-7)  

          Trước hết ta cảm nhận được tâm tình thống thiết và khiêm tốn của con người nhận biết tình trạng khốn khổ của họ.  Có bao lần con người biết khiêm hạ nhìn vào bản thân mình để nhận thức mình là ai?  Giờ đây, ngôn sứ I-sai-a đã nói lên điều ấy.  “Tất cả chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng con khác nào chiếc áo dơ.  Tất cả chúng con héo tàn như lá úa, và tội ác chúng con đã phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi” (Is 64:5).

          Ngôn sứ I-sai-a cho ta một cái nhìn rất sống động về thân phận con người sống trong vòng kiềm tỏa của tội lỗi, nhận biết mình sống xa lạc đường lối của Thiên Chúa, nhưng lại thấy bất lực tuy muốn trở lại với Người.  Vì thế, họ chỉ còn biết hoàn toàn phó thác số phận trong tay Chúa, như đất sét trong tay thợ gốm.  Để diễn tả khát vọng cứu độ này, ngôn sứ đã sử dụng hoàn cảnh lịch sử dân Chúa thời lưu đày.  Cũng như lòng mong ước được cứu thoát khỏi ách nô lệ ngoại bang, khát vọng được cứu độ không thể đặt nền tảng vào bất cứ quyền lực nào ngoài Thiên Chúa.  Lời cầu xin của dân Chúa xin Người mau đến giải phóng họ phản ảnh lời khẩn cầu của toàn thể nhân loại xin Chúa đến cứu họ khỏi quyền lực tội lỗi.  Chỉ có “Đức Chúa là Cha, là Đấng cứu chuộc” (Is 63:16b) mới có thể xóa bỏ “tội ác chúng con đã phạm mặc sức hành hạ chúng con” (Is 64:6).

          Lời kêu xin Thiên Chúa đến cứu độ của con người đã khẩn trương tới mức độ họ mong ước “phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan” (Is 63:19b).  Hình ảnh “xé trời ngự xuống” đưa ta trở về với khung cảnh long trọng Chúa Giê-su chịu phép rửa được mô tả trong Tin Mừng Mác-cô:  “Vừa lên khỏi nước, Đức Giê-su liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình” (Mc 1:10).  Đúng như lời cầu khẩn trong sách ngôn sứ I-sai-a, việc “xé trời ngự xuống” giờ đây được thể hiện.  Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần đã “xé trời” đến với nhân loại.  Thiên Chúa Cha đã thực hiện kế hoạch cứu độ, sai Con Một đến chịu chết để chuộc tội nhân loại và sai Thánh Thần xuống đem sự sống mới cho nhân loại.  Quả thực Thiên Chúa đã ngự xuống, điều làm cho dân Chúa vô cùng sửng sốt đến nỗi họ phải kêu lên:  “Người ta chưa nghe nói đến bao giờ, tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy có vị thần nào, ngoài Chúa ra, đã hành động như thế đối với ai tin cậy nơi mình” (Is 64:3).  Cảm nghiệm này cũng được thánh Gio-an tóm kết trong sách Tin Mừng của ngài:  “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).

2.  Để giúp ta được cứu độ, Thiên Chúa kêu gọi ta đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô (bài đọc Tân Ước – 1 Cr 1:3-9)

Theo kế hoạch cứu độ, Thiên Chúa đã “xé trời mà đến” với nhân loại.  Tuy nhiên cứu độ không phải là công việc độc diễn của Thiên Chúa, mà Người muốn chính ta phải tích cực đáp trả và đón nhận.  Với thánh Phao-lô, đây là đề tài phong phú và bất tận để ta cảm tạ hồng ân Thiên Chúa ban cho ta nơi Đức Ki-tô.  Vậy hồng ân ấy là gì?  Trước tiên, hồng ân đó là Chúa làm cho ta được “trở nên phong phú về mọi phương diện”, nhưng cao cả hơn hết vẫn là “được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người” (1 Cr 1:5).  Thực vậy, trước khi Chúa Ki-tô đến, con người quá nghèo nàn.  Họ đã bị tước đoạt hết tất cả sau khi phạm tội không vâng phục Thiên Chúa.  Cả đến nơi ở là “vườn địa đàng” cũng không còn là chỗ dung thân.  Tuy nhiên cái nghèo to lớn nhất, đó là họ không có Thiên Chúa là phần gia nghiệp nữa.  Họ không còn được “nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày” và “giáp mặt Đức Chúa là Thiên Chúa” nữa (St 3:8), nhưng đã bị đuổi ra khỏi vườn Ê-đen (St 3:23).  Sự phong phú nguyên thủy đã bị tội lỗi tước đoạt của con người, tức là được nghe lời Thiên Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người, nay lại được hoàn phục nơi Chúa Ki-tô.  Sự thật toàn vẹn của Thiên Chúa thể hiện nơi con người Chúa Ki-tô.  Người nói với ta tất cả những gì Thiên Chúa muốn nói và cho ta biết tất cả những gì Thiên Chúa muốn cho ta biết về Thiên Chúa.  Chỉ nơi Chúa Ki-tô, ta mới tìm thấy “sự thật toàn vẹn” (Ga 16:13) và “ân sủng tràn đầy” (Ga 1:14) của Thiên Chúa.  Vì thế, Thiên Chúa mới kêu gọi ta đến hiệp thông với Con của Người.  Hiệp thông để ta cũng được tham dự vào sự phong phú về mọi phương diện, nhất là phong phú vì được nghe và biết Thiên Chúa.

Sự hiệp thông với Chúa Ki-tô mang tính chất tích cực và năng động, có khả năng biến đổi con người của ta và cuối cùng là biến đổi hoàn toàn thân phận của ta.  Hiệp thông với Chúa Ki-tô là để lắng nghe và hiểu biết:  lắng nghe Thiên Chúa nói với ta qua Chúa Ki-tô và hiểu biết mầu nhiệm Thiên Chúa là mầu nhiệm tình yêu; lắng nghe lời Chúa để đem ra thực hành và hiểu biết mầu nhiệm lòng Chúa yêu ta để ta đáp trả.  Sự hiệp thông này còn giúp ta “nên vững chắc đến cùng”.  Đúng vậy, nếu không hiệp thông với Chúa Ki-tô, ta sẽ thấy tương lai mù mờ bất định và không biết phải đi về đâu.  Sức tấn công của ma quỷ tội lỗi làm cho ta chao đảo và thường bỏ cuộc làm môn đệ Chúa Ki-tô.  Trái lại, nếu kết hiệp với Chúa Ki-tô, ta sẽ “nên vững chắc đến cùng”, nghĩa là tiếp tục được biến đổi theo khuôn mẫu Chúa Ki-tô cho đến khi Người lại đến với ta, nói khác đi, cho đến lúc ta hoàn tất cuộc lữ hành đức tin trên trần gian này.  Tóm lại, Chúa Ki-tô đã “xé trời” mà đến với ta là để giúp ta cùng với Người làm một cuộc hành trình lấy lại sự phong phú nguyên thủy của ta và được cùng Người tiến vào quê hương vĩnh cửu.

3.  Ki-tô hữu phải canh thức, vì không biết khi nào Chúa đến với họ (bài Tin Mừng – Mc 13:33-37)

          Kết luận bài giảng về ngày Giê-ru-sa-lem bị tàn phá và về ngày tận thế, tức là về cuộc quang lâm của Người, Chúa Giê-su nói:  Anh em phải canh thức.  Như người chủ nhà trẩy phương xa và sẽ trở về không biết vào ngày giờ nào, Chúa cũng sẽ đến bất chợt để phán xét ta khi ta chết và để phán xét mọi người trong ngày tận thế.  Do đó, thái độ canh thức chờ đợi là thái độ phải có.  Để nói lên việc canh thức này, Chúa Giê-su dùng hình ảnh cụ thể người đầy tớ có bổn phận giữ cửa nhà trong khi chủ đi vắng cho đến lúc ông trở về.  Dĩ nhiên canh thức không thể hiểu theo nghĩa đen, nhưng là thái độ chờ đợi Chúa đến của Ki-tô hữu.  Làm sao ta giữ được tư thái tỉnh thức và không sống trong tình trạng ngủ mê, đó là sứ điệp của đoạn Tin Mừng hôm nay.  Nỗi nguy hiểm đối với Ki-tô hữu, những người đang chờ đợi Chúa đến, là ngủ mê, là quên bổn phận của họ, là để cho những quyến rũ thế gian đưa họ vào con đường dẫn tới hư mất. 

          Chúa Giê-su dường như nhấn mạnh đến nhân tố đưa ta đến tình trạng ngủ mê của người đầy tớ giữ cửa.  Mặc dù chủ nhà trước khi đi đã “ra lệnh” cho người giữ của phải canh thức, nhưng lý do khiến anh ta lơ là việc canh thức là tính ỷ lại.  Vì không biết lúc nào chủ nhà đến nên anh ta lý luận theo lợi ích của riêng mình:  lúc ban tối thì anh ta cho rằng đến nửa đêm chủ mới về, tới nửa đêm anh ta lại nghĩ là ba bốn giờ sáng, rồi tới ba bốn giờ sáng thì anh ta lại tin là tảng sáng.  Đáng lẽ việc không biết lúc nào chủ về phải là động lực giúp anh đầy tớ thức tỉnh thì lại trở thành cớ để anh sao lãng bổn phận và lao mình vào những gì lợi ích riêng cho mình.  Chủ nhà chẳng những ra lệnh cho anh tỉnh thức, mà còn cố ý không cho anh biết lúc nào ông về, cốt là để anh chu toàn bổn phận canh thức.

          Người đầy tớ canh thức chỉ là một thí dụ nói chung.  Canh thức đón Chúa đến không phải là việc của một số người, nhưng là mọi người không trừ ai và trong mọi thời.  “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là:  phải canh thức” (Mc 13:37).  Canh thức chờ Chúa đến là việc mọi Ki-tô hữu phải thi hành, từ Giáo hoàng cho tới giáo dân, vì ai cũng cần được cứu độ và phải chịu phán xét khi Chúa đến.  Canh thức bằng cách chu toàn bổn phận giống như các đầy tớ được chủ nhà “chỉ định cho mỗi người một việc”.  Giáo dân có việc của giáo dân, linh mục tu sĩ có việc của linh mục tu sĩ.  Chúa không bắt giáo dân phải làm công việc của linh mục, và ngược lại.  Điều quan trọng là Chúa đến vào lúc nào cũng có thể thấy ta canh thức hoặc bắt gặp ta đang ngủ trong những quyến rũ của thế gian.

4.  Sống Lời Chúa

Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị đón Chúa giáng sinh trong niên lịch phụng vụ, nhưng cũng là cả cuộc đời còn lại của ta để đón chờ Chúa đến phán xét cho tương lai vĩnh cửu của ta.  Nếu ta thực tâm cầu xin Chúa đến cứu độ ta và phó thác trong bàn tay Chúa thì ta hãy đón nhận Đấng cứu độ là Chúa Giê-su Ki-tô.  Ta được kêu gọi hãy hiệp thông với Người, để Người đồng hành với ta, dẫn dắt ta đi theo đường lối Thiên Chúa và kiên trì sống sự phong phú Người chia sẻ với ta về Đấng mà Người dạy ta gọi bằng Cha.

Suy nghĩ:  Thánh Phao-lô nói đến sự phong phú ân huệ Chúa ban cho anh chị em tín hữu Cô-rin-tô, là được nghe lời Chúa và được hiểu biết mầu nhiệm của Người.  Sự phong phú ấy có ở nơi tôi không?  Tôi có coi việc nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Chúa là ân huệ tôi phải luôn cảm tạ Chúa không?  Quan trọng hơn hết, tôi có lãnh nhận ân huệ ấy cho xứng đáng không?

Cầu nguyện:          Lạy Mục Tử nhà Ít-ra-en,

                   Ngài là Đấng ngự trên các thần hộ giá,

                   xin khơi dậy uy dũng của Ngài,

                   đến cùng chúng con và thương xứu độ.

                   Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại,

                   tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem,

                   xin Ngài thăm nom vườn nho cũ,

                   bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng,

                   và chồi non được Ngài ban sức mạnh.

                             (Đáp ca CN I mùa Vọng – Thánh Vịnh 79:2ac.3b.15-16)

 

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm B