Chúa Nhật 31 mùa Thường niên, B

 

          Đề tài mến Chúa yêu người được lập đi lập lại nhiều lần trong năm phụng vụ.  Không hẳn chỉ vì tầm quan trọng của nó, mà cũng là điều ta cần được nhắc nhở thường xuyên vì ta nghe là một chuyện, nhưng thực hành thì lại hay quên.  Cuối năm phụng vụ cũng là lúc Lời Chúa đưa ta tới gần cuộc phán xét sau cùng.  Điều chắc chắn Chúa sẽ hỏi ta là về lối sống yêu thương Người đã dạy.  Do đó, ta hãy xin Chúa soi sáng giúp ta suy niệm đề tài này trong ánh sáng mới của Người, để ta xác tín lẽ sống của ta không thể đi ra ngoài đường lối yêu thương.

 

1.  Lời mời gọi yêu thương dành cho Ít-ra-en dân Chúa  (bài đọc Cựu Ước – Đệ nhị luật 6:2-6)

 

          Ta có thể nói toàn bộ sách Đệ nhị luật đều nhắm khai triển một đề tài duy nhất là mến Chúa yêu người, tóm kết của Mười giới răn Chúa ban cho dân Người tại Xi-nai.  Sau khi đã ra khỏi vòng nô lệ của Ai-cập, dân Chúa bắt đầu cuộc hành trình của những người tự do.  Tự do là điều tốt, nhưng cũng không phải là không có nguy hiểm.  Qua cơn khốn khổ, người ta có thể lại quên Chúa, đối xử không tốt với anh chị em, không còn sống như những người con cái Chúa nữa.  Bản chất con người là vậy.  Do đó ta nhận ra được tầm quan trọng của những lời ông Mô-sê dặn dò dân chúng.  Lời lẽ của ông hết sức trân trọng nghiêm túc như một mệnh lệnh.  Chính dân Ít-ra-en đã nhận ra tầm quan trọng của mệnh lệnh, nên đã làm mọi cách để ghi nhớ:  họ viết nó lên trán, lên cửa nhà hoặc bất cứ nơi nào để đập vào mắt họ, một ngày ba lần họ phải cung kính niệm lại những lời ấy.  Vậy mệnh lệnh đó là gì và ông Mô-sê đã truyền lại cho dân chúng như thế nào?

          Trước khi nói ra mệnh lệnh, ông Mô-sê muốn dân chúng hiểu rõ tầm quan trọng của việc thi hành mệnh lệnh.  Thi hành mệnh lệnh sẽ quyết định cho số phận và tương lai của Ít-ra-en.  Nếu thực hành, dân Ít-ra-en “sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật như Thiên Chúa đã hứa” (Đnl 6:3).  Đó, tương lai của cả một dân tộc hoàn toàn tùy thuộc vào việc thi hành mệnh lệnh.  Sữa và mật là biểu tượng cho sự giàu có, phong phú của đất nước.  Ít-ra-en sẽ trở thành một quốc gia hùng mạnh, chẳng những sánh vai với những nước láng giềng, mà còn vượt trên cả họ nữa.  Dân số đông đảo, tài nguyên phong phú.  Họ sẽ xây dựng những thành quách vững vàng to lớn.  Nếu quả như vậy thì chắc mệnh lệnh phải là khó thi hành lắm.  Nhưng trái lại, ông Mô-sê chỉ truyền cho dân chúng Ít-ra-en một mệnh lệnh đơn giản, ở trong tầm tay của dân Ít-ra-en.  Đó là:

          “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en!  Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất.  Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6:4-5).

          Thì ra đó không phải là mệnh lệnh phải lấp biển rời non vượt quá khả năng con người, mà là mệnh lệnh yêu mến.  Thiên Chúa là Đức Chúa duy nhất của Ít-ra-en.  Thiên Chúa đã yêu thương Ít-ra-en “hết lòng hết dạ, hết sức” khi Người làm mọi sự cho họ, nhất là giải thoát họ khỏi xiềng xích Ai-cập và nhận họ làm dân riêng của Người.  Cho nên nếu Ít-ra-en có phải yêu mến Đức Chúa “hết lòng hết dạ, hết sức” thì cũng là bổn phận và có gì là quá đáng đâu.  Tuy là lời Thiên Chúa truyền dạy qua ông Mô-sê, nhưng Người không thể ép buộc Ít-ra-en yêu mến Người, nên tựu chung vẫn chỉ là lời Người mời gọi họ đáp trả tình yêu thương của Người.

          Truyền dạy dân chúng mệnh lệnh này, ông Mô-sê hiểu họ hơn ai hết.  Ông biết lòng dạ của họ.  Sự tráo trở hoặc chóng quên của họ đã làm ông đau khổ nhiều lần.  Vì thế, ông nghiêm nghị bảo cho họ biết:  “Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi lòng tạc dạ” (Đnl 6:6).  Lịch sử dân Chúa sau này đã chứng minh cho nỗi lo âu của ông Mô-sê rồi!  Đây không chỉ là lệnh truyền cho Ít-ra-en, nhưng còn là lệnh truyền cho toàn thể nhân loại nữa.  Nhân loại có đáp lại tình yêu của Thiên Chúa hay không?  Tội lỗi vẫn tràn đầy, tình yêu của Thiên Chúa vẫn bị chối từ.  Người ta chỉ yêu mến Thiên Chúa bằng môi miệng và “hết lòng hết dạ, hết sức” chạy theo lối sống đi ngược lại đường lối của Thiên Chúa.

 

2.  Chúa Giê-su là Người Con đã nên thập toàn nhờ hết lòng yêu mến Thiên Chúa (bài đọc Tân Ước – Do-thái 7:23-28)

 

          Đoạn thư gửi tín hữu Do-thái tiếp tục so sánh Chúa Giê-su với các vị thượng tế khác trong dân Ít-ra-en và gọi Người là vị Thượng Tế thập toàn được Thiên Chúa đặt lên cho đến muôn đời để đem ơn cứu độ cho nhân loại.  Vậy thế nào là vị Thượng Tế thập toàn?  Đó là “một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (Dt 7:26).  Để đạt tới mức thập toàn, “Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ” (Dt 7:27).

          Đúng vậy, Chúa Giê-su đã dâng chính mình trên thập giá.  Người là vị Thượng Tế, làm trung gian giữa nhân loại và Thiên Chúa, đồng thời Người cũng chính là hiến lễ được dâng lên Thiên Chúa.  Tuy nhiên Người là vị Thượng Tế vẹn toàn, khác với mọi vị thượng tế của Ít-ra-en, bởi vì Người đã hy sinh làm lễ dâng Thiên Chúa và động lực khiến Người hy sinh mạng sống là do lòng yêu mến.  Nói khác đi, Người đã hiến thân mình là vì Người đã yêu mến Thiên Chúa “hết lòng hết dạ, hết sức” và Người cũng yêu thương anh chị em đồng loại của Người y như vậy.  Nếu thế, ta có thể quả quyết rằng Chúa Giê-su là người gương mẫu đã “yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của Người và của nhân loại hết lòng hết dạ, hết sức lực Người”.  Chu toàn mệnh lệnh yêu mến Thiên Chúa như vậy, Chúa Giê-su mang một danh hiệu và chức phận vô cùng cao quý:  Người Con thập toàn của Thiên Chúa.  Người không chỉ dành cho mình độc quyền chức phận làm Con Thiên Chúa, nhưng đã chia sẻ với anh chị em nhân loại của Người, để tất cả đều được gọi là con cái Thiên Chúa.  Mà “phẩm vị tư tế” của Chúa Giê-su tồn tại muôn đời thì chức phận “Người Con thập toàn” của Người cũng tồn tại muôn đời y như vậy.  Liệu ta có thực sự hãnh diện được chia sẻ với Người chức phận làm con Thiên Chúa và sống chức phận ấy một cách xứng đáng hay không?  Tình yêu “hết lòng hết dạ và hết sức” ràng buộc gắn bó Thiên Chúa với Đức Giê-su cũng ràng buộc gắn bó ta với các Ngài.  Nếu vậy, ta sẽ sống mối quan hệ mật thiết – Thiên Chúa-Đức Kitô-anh chị em – như thế nào cho phải đạo làm con Thiên Chúa và anh em với Đức Ki-tô?  Đoạn thư Do-thái hôm nay không chỉ nói về Chúa Ki-tô như Người Con thập toàn, nhưng còn mời gọi ta hãy cung kính nghe lại mệnh lệnh yêu mến Thiên Chúa đã phán với Ít-ra-en ngày xưa và với ta hôm nay rằng:  Nghe đây, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất.  Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ, hết sức anh em.

 

3.  Mến Chúa yêu người là “điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (bài Tin Mừng – Mác-cô 12:28b-34)

 

          Chúa Giê-su đã nói với vị kinh sư về tầm quan trọng ngang hàng giữa hai giới răn mến Chúa và yêu người.  Đáp lại, vị kinh sư cũng nêu lên một điều hết sức ngạc nhiên về hai giới răn ấy, đó là:  “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12:33).

          Trong sinh hoạt thờ phượng, việc dâng lễ toàn thiêu và hy lễ là điều hết sức quan trọng, quan hệ không những tới đời sống cá nhân mà còn cả cộng đồng nữa.  Đó là nhiệm vụ của những tư tế, thay mặt dân chúng để tỏ lòng tôn kính và thờ phượng Thiên Chúa.  Lễ toàn thiêu và hy lễ được dâng lên Thiên Chúa để ta nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và Chúa cả trời đất, cảm tạ Người về những ơn lành Người ban, xin Người ban ơn trợ giúp và nhất là để xin Người tha thứ mọi tội lỗi ta xúc phạm đến Chúa và tha nhân.  Vậy mà giờ đây vị kinh sư đã thấy giá trị và tầm quan trọng của chúng còn được xếp hạng sau việc mến Chúa yêu người.  Đây không chỉ là ý kiến của cá nhân vị kinh sư, nhưng chính Chúa Giê-su cũng biểu đồng tình với ông và thực lòng khen ngợi ông:  “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12:34). Như vậy, rõ ràng điều quan trọng nhất trong Nước Thiên Chúa phải là mến Chúa yêu người, một nguyên lý đơn giản nhưng cũng vô cùng súc tích.  Việc dâng lễ toàn thiêu và hy lễ là những dấu chỉ bề ngoài để diễn tả một cách tương đối mối quan hệ giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau.  Còn mến Chúa và yêu người thì không những diễn tả mà còn sống, sống một cách chân thực chính mối quan hệ trên.  Khi ta sống mối quan hệ ấy là ta không còn ở xa, nhưng ở ngay giữa Nước Thiên Chúa rồi vậy.  Chẳng biết những ông kinh sư và dân chúng đứng chung quanh lúc ấy có hiểu ra được cuộc đối thoại ngắn ngủi nhưng đầy ý nghĩa giữa Chúa Giê-su và vị kinh sư đến hỏi Người hay không.  Nhưng cứ nhìn vào phản ứng của các ông là ta hiểu được!  Thánh Mác-cô viết:  “Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa” (Mc 12:34).  Nghĩa là họ hiểu trăm phần trăm.  Nhưng không biết họ có can đảm để đặt việc dâng lễ toàn thiêu và hy lễ ở dưới việc thực thi mệnh lệnh mến Chúa yêu người hết lòng hết dạ và hết sức hay không.  Không phải chỉ có các ông kinh sư ngày xưa, mà ngày nay cũng thiếu gì những “kinh sư” của thời đại!  Có cả những vị làm giám mục, linh mục, bề trên, thầy giáo, cha mẹ đã xếp việc mến Chúa yêu người dưới cả những mớ luật lệ cứng ngắc và đối xử không theo đức bác ái Ki-tô.  Cả cá nhân ta nữa, đừng sợ trốn tránh không dám nhìn vào sự thật, là chính ta cũng ở trong số những kinh sư ấy nữa.

 

4.  Sống Lời Chúa

 

          Đặt lại vấn đề mến Chúa yêu người dưới ánh sáng Lời Chúa luôn luôn giúp ta nhận ra những khía cạnh khác biệt và phong phú của tình yêu.  Ta đón nhận giới răn yêu thương Chúa ban qua tay ông Mô-sê.  Nhưng tốt hơn nữa, ta chiêm ngưỡng Chúa Giê-su như gương mẫu tuyệt đối thực hành giới răn ấy trong suốt cuộc sống cho đến khi nhắm mắt trên thập giá.  Trên thập giá, lễ toàn thiêu và hy lễ Người dâng lên Chúa Cha không chỉ là mạng sống và những giọt máu để đền bù tội lỗi nhân loại, mà còn là tất cả tình yêu của Người, yêu hết lòng, yêu hết dạ và yêu hết sức lực mình, để muôn đời Người luôn là Người Con thập toàn của Thiên Chúa và “người yêu lý tưởng” của toàn thể nhân loại.

 

Suy nghĩ:  Chúa Giê-su nói với vị kinh sư đến gặp Người:  “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!”  Lời này có ý nghĩa gì với tôi?  Nếu quả thực tôi còn xa Nước Thiên Chúa thì tôi phải làm sao bây giờ?

 

Cầu nguyện:  Lạy Chúa, Chúa đã thu gọn toàn thể lề luật thánh vào giới răn độc nhất là mến Chúa yêu người;  xin giúp chúng con hằng vâng giữ điều Chúa truyền dạy, đẩ sau này đạt tới phúc trường sinh.  Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.  A-men.  (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 25 mùa Thường niên).

 

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

 

           

         


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm B