CHÚA NHẬT LỄ LÁ

 

Thánh ca và lời nguyện mở đầu

 

Kinh Thánh:  Phi-líp-phê 2: 6-11

          Trong Tuần Thánh, từ Chúa Nhật Lễ Lá cho đến Chúa Nhật Phục Sinh, chúng ta chìm đắm trong những suy niệm về cuộc Thương khó và Sống lại của Chúa Giê-su được ghi lại trong những bài Tin Mừng.  Nhưng có lẽ ít khi nào chúng ta chú ý tới một bài đọc tuy ngắn, nhưng lại vô cùng quan trọng và tóm tắt những mầu nhiệm của Thiên Chúa mà chúng ta cử hành trong tuần này.  Hơn thế nữa, bài đọc ấy còn là kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta nhận ra “Đức Ki-tô là Đấng nào?”  Bài đọc ấy chính là bài Tân Ước, thư Phi-líp-phê 2:6-11.  Người ta coi đoạn thư này như một tổng luận Ki-tô học được thánh Phao-lô trình bày và quảng diễn trong hầu hết các thư của ngài.  Nội dung của đoạn thư không chỉ mang đặc tính thần học, ca ngợi Đức Ki-tô và mầu nhiệm Đức Ki-tô, mà còn là đề tài suy niệm và cầu nguyện vô cùng phong phú, giúp cho tất cả chúng ta tìm thấy nơi Chúa Ki-tô một lối sống gương mẫu.

 

a)  Đức Ki-tô là đường Thiên Chúa đến với nhân loại

          Bình thường chúng ta hiểu Đức Ki-tô là đường đưa chúng ta tới Thiên Chúa, dựa vào lời Người quả quyết:  “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.  Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6).  Nhưng trước khi Đức Ki-tô là đường để chúng ta đến với Thiên Chúa, thì Người đã là đường để Thiên Chúa đến với chúng ta.  Con đường ấy là con đường khởi đầu từ vô hạn đến với hữu hạn, từ không lệ thuộc vào không gian và thời gian đến lệ thuộc vào địa lý và niên kỷ, từ đứng ngoài lịch sử đến đóng khung trong lịch sử nhân loại, từ bất tử trường sinh đến tình trạng yếu đuối và cái chết...  Tóm lại, con đường Ki-tô mà Thiên Chúa dùng để đến với nhân loại được mô tả bằng một từ vô cùng thực tế:  hoàn toàn trút bỏ vinh quang (self-emptying; kenosis).

          Mầu nhiệm của con đường là ở điểm Thiên Chúa đã chọn lựa con đường như thế thay vì chọn con đường khác.  Cái lô-gích của chúng ta luôn cho là khi Thiên Chúa đến với chúng ta thì Người sẽ đến theo cách thức của một vị Thiên Chúa.  Mà thực như vậy, trong Cựu Ước, những cuộc hiển linh của Thiên Chúa được mô tả bằng những hình ảnh long trọng, uy nghi.  Có lửa, mây, sấm sét, cuồng phong... (Xh 19).  Có sợ hãi, run rẩy, van xin “Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi kẻo chúng tôi chết mất” (Xh 20).  Con người chỉ có thể hiểu cách thức Thiên Chúa đến với họ như vậy thôi.  Họ không thể hiểu được cái lý lẽ của tình yêu Thiên Chúa đã khiến Người chọn con đường trút bỏ vinh quang Thiên Chúa và trở thành con người như chúng ta.  Con đường Ki-tô là con đường của tình yêu Thiên Chúa, cho nên nó đã trở thành một mầu nhiệm đối với lô-gích của con người.

 

b)  Mức độ trút bỏ vinh quang Thiên Chúa

          Đó là mức độ hoàn toàn, không còn giữ lại chút nào cho mình.  Qua lối diễn tả của Phao-lô (hoặc của cộng đồng Ki-tô hữu sơ khai), chúng ta nhận ra “những bước thoái hóa” hoặc những bậc thang đi xuống, bắt đầu từ địa vị Thiên Chúa xuống tới thân phận một tội phạm chết nhục nhã trên thập giá.

          Vậy những bước đi xuống của Thiên Chúa làm người tuần tự như sau:  a) Từ địa vị Thiên Chúa, Đức Ki-tô từ bỏ sự ngang hàng với Thiên Chúa và vinh quang Thiên Chúa;  b) Chọn làm một con người;  c) Trong loài người, chọn thân phận nô lệ;  d)  Trong giới nô lệ, chọn làm tên nô lệ chết do khổ hình thập giá ô nhục.  Từ bước trên xuống bước dưới, không phải chỉ là “đôi hia bảy dặm” nhưng là những khoảng cách không khi nào có thể thực hiện được.  Khước từ vinh quang Thiên Chúa để làm người, Đức Ki-tô muốn chia sẻ tất cả những gì yếu đuối của con người, như đói khát, nghèo hèn, mệt nhọc, đau khổ và cả cái chết, chỉ trừ tội lỗi thôi.  Làm một người bình thường chưa đủ, Đức Ki-tô còn muốn trút bỏ thêm, đó là bỏ đi chính ý riêng của mình để hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa.  Vâng phục là đặc điểm của người nô lệ.  Tuy nhiên có tên nô lệ nào vâng phục đến độ bảo chết là tự thâm tâm muốn chết liền đâu?  Giả như có muốn chết đi nữa thì cũng chẳng ai muốn chọn một cái chết ô nhục, nhưng ít ra cũng muốn chết như một người có nhân phẩm.  Vậy mà Đức Ki-tô đã vâng phục đến nỗi vui lòng đón nhận cái chết và cả cái chết ô nhục trên thập giá nữa.  Nhìn sự vâng phục thập toàn (Dt 5:9) của Đức Ki-tô, chúng ta mới hiểu lỗi lầm bất tuân phục của A-đam lớn lao như thế nào vì nó phạm đến Thiên Chúa.

 

c)  Đức Ki-tô là đường nhân loại đến với Thiên Chúa

          Qua những bước trút bỏ vinh quang Thiên Chúa, Đức Ki-tô đã thực sự đến với nhân loại.  Tuy nhiên con đường Thiên Chúa đến với nhân loại không phải là ngõ cụt.  Nếu Đức Ki-tô không sống lại thì đúng Người sẽ là ngõ cụt.   Nhưng qua sự Phục Sinh, Đức Ki-tô được Thiên Chúa tôn vinh và trở về với Thiên Chúa.  Con đường Ki-tô trở về với Thiên Chúa giờ đây lại trở thành con đường để cho toàn thể nhân loại đến với Nguồn Cội của mình.

          Không phải là con đường rộng rãi đưa tới sự hư mất, nhưng là con đường nhỏ hẹp đòi hỏi hy sinh, chịu đựng gian khổ và dẫn tới vinh quang.  Không phải là con đường cứng ngắc với luật lệ vô bổ, nhưng là con đường của luật bác ái, yêu thương, tha thứ và nâng đỡ nhau.  Con đường ấy là một con người sống động, một lối sống gương mẫu, một mời gọi khách lữ hành phải kết hợp mật thiết với chính con đường thì mới tới được quê hương đích thực của mình.

 

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

          Tại sao Phụng vụ Tuần Thánh đề cao hình ảnh Đức Ki-tô hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa?  Do-thái 5:9 giúp tôi trả lời câu hỏi này như thế nào?

          “Chúa Ki-tô đã chết để chuộc tội cho nhân loại” có còn là một ý niệm mơ hồ đối với tôi nữa không?  Tôi có cảm nghiệm “Mầu nhiệm Đức Ki-tô” một cách tích cực và sống động không?  Hoặc nói khác đi, tôi có thực sự nhận ra Đức Ki-tô đã sống, chết và sống lại cho nhân loại và nhất là cho cá nhân tôi không?  Tại sao?

          Tôi đã nhiều lần nghe câu Tin Mừng Ga 14:6 (“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”).  Giờ đây, tôi hiểu thêm được những gì qua những lời ấy?  Quan trọng hơn nữa, tôi đã lên đường đến với Thiên Chúa như thế nào?

 

Cầu nguyện kết thúc

          Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc lời nguyện kết thúc sau đây:

          “Lạy Chúa Giê-su, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau.  A-men.”

(Trích lời nguyện 14, RABBOUNI)

Lm. Ðaminh Trần Ðình Nhi


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm B | Về Trang Nhà