Chúa Nhật 2 Mùa Chay Năm C

Chúa Ðến Ðể Biến Ðổi Thân Xác Khốn Hèn Của Loài Người

(Khởi Nguyên 15,5-15; Philíp 3,17-4,1; Luca 9,28-36)

 

Phúc Âm: Lc 9, 28b-36

"Ðang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường".

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng với Người. Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Khi nói thế, Phêrô không rõ mình nói gì. Lúc ông còn đang nói, thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Và khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu. Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.

 

Suy Niệm:

Chúa Nhật trước đã đưa chúng ta vào 40 ngày Chay của Chúa Giêsu và đã cho chúng ta thấy Người lướt thắng các cơn cám dỗ của Satan như thế nào, để chúng ta biết phấn đấu theo gương Người trong Mùa Chay này và trong suốt cả đời sống. Hôm nay phụng vụ nhắc lại chuyện Chúa biến hình trên núi như là hình ảnh báo trước vinh quang Phục sinh đang chờ Người ở bên kia Mầu nhiệm Thập giá. Và như vậy Chúa nhật hôm nay muốn cho chúng ta thấy trước quang cảnh của cuối mùa Chay, đang khi Chúa nhật trước đã khai mạc mùa này và các Chúa nhật sau sẽ nói về quãng giữa của đầu và cuối mùa Chay Thánh. Chúng ta sẽ tìm hiểu việc Chúa biến hình và nhờ đó sẽ suy nghĩ về hai bài đọc Thánh Kinh kia để làm cho ngày hôm nay rực lên ánh quang vinh của Chúa.

 

1. Việc Chúa Biến Hình

Chúng ta sẽ theo sát bản văn của Luca. Người bắt đầu cho một chi tiết đáng kể. Theo Người, câu chuyện Chúa biến hình trên núi xảy ra chừng 8 ngày sau hôm Người báo tin cho môn đệ biết: Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ... bị giết đi và ngày thứ ba sẽ sống lại. Người cũng bảo: Ai muốn đi theo sau Người, thì hãy chối bỏ chính mình và vác lấy khổ giá của mình mỗi ngày mà đi theo Người. Những lời ấy không làm cho môn đệ an tâm, nên Người đã hứa sẽ cho một số môn đệ có mặt hôm đó được thấy vinh quang của Người. Và hôm nay, Người đem ba ông: Phêrô, Gioan, Giacôbê lên núi với Người.

Như vậy, câu chuyện Chúa biến hình hôm nay là để thi hành Lời Người đã hứa. Ba môn đệ sẽ được xem thấy vinh quang của Người để bù lại những lời tiên báo việc Người sẽ bị nộp, bị giết. Phải chăng đây không phải là khía cạnh vinh quang của mầu nhiệm thập giá? Ðó là mầu nhiệm Phục sinh phải đi liền với mầu nhiệm Tử nạn. Các môn đệ được thấy trước ánh sáng Phục sinh để họ khỏi nao núng khi thấy Người chịu đau khổ và chúng ta được phấn khởi đi vào con đường mùa Chay mà hôm nay khai mạc, chúng ta đã thấy là con đường phấn đấu.

Nhưng vì việc biến hình lại xảy ra khoảng 8 ngày sau hôm Chúa Giêsu nói về việc Tử nạn? Chúng ta có được phép nghĩ rằng ngày thứ 8 cũng là ngày thứ nhất trong tuần lễ của người Kitô hữu không? Do đó cả việc Tử nạn cả việc Phục sinh đều được loan báo trong cùng một ngày, ngày Chúa nhật, ngày của Chúa, ngày cử hành các mầu nhiệm cứu thế trọng đại của Chúa chúng ta.

Người chỉ đem theo Phêrô, Gioan, Giacôbê vì ba người này sẽ được thấy Người hấp hối trong vườn Cây Dầu, để làm chứng những ai đã tham dự mầu nhiệm Tử nạn cũng sẽ được chia sẻ vinh quang Phục sinh. Và cũng như ở vườn Cây Dầu sau này, hôm nay ở đây Ðức Giêsu mãi miết trong cầu nguyện đang khi các môn đệ "li bi giấc ngủ". Nhiều việc quan trọng đã hoặc sẽ xảy ra trong hoàn cảnh tương tự. Chính những khi Ðức Giêsu cầu nguyện nhiều là có những việc trọng đại đã đến.

Hôm nay, đang lúc Người cầu nguyện, dung nhan Người đã ra khác. Y phục Người cũng sáng hẳn lên. Luca không chú trọng lắm đến những thay đổi này. Ông không coi việc biến hình là chính, nếu chúng ta được phép nói như vậy. Ông quan tâm đến nội dung hơn là hình thức. Ông tìm hiểu bản chất hơn là hiện tượng. Những nét xa lạ về sắc diện và y phục cho thấy đang có gì khác thường xảy đến cho Người.

Quả thật, có hai nhân vật đến trao đổi với Ðức Giêsu. Ðó là Môsê và Êli, một ông luật pháp và một nhà tiên tri. Ðó là cả Cựu Ước đang tâm sự với Người. Cũng có thể hiểu hai ông đã mang đến một bầu khí cánh chung. Nhiều người nghĩ rằng Êli phải đến trước để đi tiền hô cho Ðấng Thiên Sai. Sự hiện diện của ông ở đây chứng tỏ thời đại Thiên Sai đã đến. Và Môsê nhà luật pháp của đạo cũ, nay đến chào mừng và "bàn giao" với nhà luật pháp mới...

Nếu thế thì sao sự việc không xảy ra trên núi Sion? Ngọn núi đang có sự hiện diện của ba vị chỉ là ngọn núi quen thuộc của Ðức Giêsu. Người hay lui tới đây cầu nguyện. Sion bị truất phế rồi ư? Chúng ta phải hiểu như vậy; vì thời đại thiên sai và cánh chung không còn ưu tiên cho nơi nào và dân nào nữa. Người ta không còn cần phải chọn Giêrusalem hay Garizim làm điện thờ duy nhất nữa. Người ta chỉ cần tìm đến với Ðức Giêsu mà cả Luật pháp (đạo cũ) và Tiên tri (đạo mới) đều đang tuyên chứng.

Môsê và Êli hiện ra trong vinh quang, vì họ đã tham dự vào công cuộc của Chúa và vì họ trở lại trong ánh sáng Phục sinh. Họ nói với Ðức Giêsu về cuộc ra đi sắp tới của Người sẽ xảy ra ở Giêrusalem tức là cuộc tử nạn Phục sinh vượt qua của Người... Chúng ta có thể bảo Môsê đã san sẻ kinh nghiệm cho Người không? Bởi vì khi ông được tiếp xúc với vinh quang của Thiên Chúa lần đầu tiên ở núi Horeb trước bụi gai cháy một cách kỳ diệu, ông đã được sai đi để tổ chức vượt qua cho con cái Israen. Ai trong lịch sử Cựu Ước có kinh nghiệm hơn ông về vấn đề này. Cuộc vượt qua Biển Ðỏ do ông tổ chức đã trở thành tiêu biểu cho mọi lần Chúa muốn cứu dân. Hôm nay ông đến để nói với Ðức Giêsu về cuộc sắp ra đi của Người. Lễ Vượt Qua của đạo mới sẽ bao trùm và kiện toàn lễ vượt qua đạo cũ khi Môsê cũ đã trò chuyện hết với Môsê mới là Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta.

Câu chuyện giữa các Ngài ở ngoài tai các môn đệ; cũng như sau này trong vườn Cây Dầu họ chẳng biết gì về việc Chúa hấp hối. "Phêrô và các bạn li bì giấc ngủ". Xác thịt của họ còn nặng nề, chưa hiểu được mầu nhiệm Tử nạn, khi ánh sáng Phục sinh chưa làm họ tỉnh dậy.

Bấy giờ bừng mắt ra, họ thấy vinh quang của Ðức Giêsu và thấy hai người đang đứng với Người, tức là trước đây họ chưa thấy dung nhan mặt Người đã ra khác và y phục của Người đã trở nên trắng ngời. Họ là những kẻ ngu mê cho đến khi chuyện ra đi tử nạn đã qua.

Nhiệm vụ của Môsê và Êli cũng đã rồi. Họ ra đi, để lại Ðức Giêsu đứng với môn đệ của Người. Luật pháp và tiên tri đã tuyên chứng cho công cuộc cứu thế của Người, thì đến sinh hoạt của Hội Thánh Phêrô lên tiếng xin làm ba lều cho Chúa Giêsu, cho Môsê và cho Êli. Luca bảo rằng: Phêrô không biết mình nói gì. Mà quả thật, ông không thấy Môsê và Êli đã ra đi rồi sao? Ðàng khác sao lại có chuyện tất cả lịch sử dừng lại ở đây? Chỉ có mấy người được ở trên núi hạnh phúc này sao? Còn muôn muôn, ứu ức, triệu triệu con người của các dân tộc phải được tề tựu về đây nữa chứ? Không, câu nói của Phêrô chưa để ý đến mọi khía cạnh. Nó chỉ có giá trị nói lên một sự thật, sự thật ở đây là hạnh phúc...

Thiên Chúa không phủ nhận một tấm lòng thành như vậy. Người cho một đám mây rợp xuống trên tất cả mọi người. Người hứa và bảo đảm sẽ cho mọi người được hạnh phúc và chia sẻ vinh quang. Người muốn nói, mọi người sẽ được đưa vào sự sống của Chúa Giêsu tử nạn phục sinh, miễn là người ta hãy nghe lời Ngài.

Là vì có tiếng phán ra từ trong đám mây, y như hôm nào ở bờ sông Giođan. Chỉ thêm một điều hôm nay Thiên Chua bảo mọi người hãy nghe lời Con của Người. Và như vậy cuộc hiển linh hôm nay không nhằm tấn phong Ðức Giêsu làm Tôi Tớ Thiên Chúa đến để thi hành sứ mạng cứu thế, cho bằng đặt Người đứng trên mọi loài sau khi Người đã tử nạn phục sinh. Người sẽ là Chúa của Hội Thánh sau khi ơn cứu độ đã được ban cho mọi người.

Thế nên, sau khi lời tuyên bố, các môn đệ chỉ còn nhìn thấy một mình Chúa Giêsu. Họ đã nín thinh, chờ ngày các mạc khải hôm nay trở thành sự thật. Và sau khi Ðức Giêsu đã chịu chết, sống lại và lên trời, họ đã ra đi khắp nơi công bố Người là Chúa để thâu nạp mọi dân tộc đến nghe Lời Người mà được chia sẻ vinh quang phục sinh.

Câu chuyện Chúa biến hình vì thế, không còn cho chúng ta thấy một Ðức Giêsu phấn đấu để lướt thắng các cơn cám dỗ như trong Chúa nhật trước nữa. Chúa nhật hôm nay báo trước vinh quang của Người sau Mầu nhiệm Thánh giá, để chúng ta cũng như ba môn đệ ngày xưa được vững lòng đi vào con đường khổ nạn của Người. Chúng ta được hạnh phúc hơn Abraham trong bài Cựu Ước hôm nay biết bao! Ðọc lại câu chuyện này, chúng ta sẽ thêm phấn khởi tin vào ơn cứu độ đang được dành cho chúng ta.

 

2. Abraham Tin Vào Chúa

Câu chuyện sẽ thêm nhiều ý nghĩa, nếu chúng ta nhớ rằng nó đã không được viết vào thời Abraham (vì thời đó làm gì Do Thái đã có chữ viết) nhưng mãi về sau này. Chúng ta có thể nghĩ đây là tác phẩm của một thần học gia rất đạo đức, sống ở đất Do Thái vào khoảng trước hoặc sau lưu đày. Ông thấy hoàn cảnh thật đen tối. Ðất nước này không còn là của con cái Israen nữa. Sản nghiệp Lời Hứa đã hoàn toàn tiêu tan. Cứ như thế này mãi sao? Hay là sẽ có lúc Thiên Chúa ngoảnh mặt lại? Phần đa số trong dân không còn hy vọng nữa vì sự thật quá phủ phàng. Nhưng niềm tin, niềm tin của các tổ phụ dân vẫn còn ăn sâu trong tâm hồn nhiều người, trong đó có tác giả của đoạn văn hôm nay. Niềm tin ấy tìm cách lóe lên trong đêm tối, vươn lên khi sắp bị giập xuống. Nó mượn đời sống của chính tổ phụ Abraham để chỗi dậy. Nó viết lại một câu chuyện trong cuộc đời của vị tổ phụ để lấy lại nghị lực.

Tình cảnh của tổ phụ Abraham bấy giờ không bi đát sao? Thân ông càng ngày càng già yếu. Bạn ông, bà Sara, cũng đã hết thời sinh sản. Thế mà hai người vẫn chưa có lấy một mụn con! Ðang khi ấy Chúa vẫn phán: Dòng dõi của Abraham sẽ đông đúc nhiều hơn sao trên trời và cát ngoài biển. Abraham tin Chúa, nhưng quả là tin trong đêm tối.

Rồi Chúa còn hứa cho ông một Ðất Nước làm quê hương. Ðiều hứa này được tác giả bài sách hôm nay để ý. Nó động đến điều ông đang thắc mắc. Vị tổ phụ ngày xưa được hứa ban Ðất Nước này khi người không có quyền trên một tấc đất ở đây. Ngày nay con cái Israen có còn nên hy vọng làm chủ được Ðất Nước này khi nó đang nằm trong tay quân xâm lược hay không? Tác giả nhìn vào niềm tin của vị Tổ Phụ mà thêm phấn chấn. Ông viết lại niềm tin này để phấn khởi đồng bào của ông. Do đó chúng ta được bản văn hôm nay.

Nó cho chúng ta thấy Abraham như đã ép được Chúa phải cho ông một bảo đảm về Lời Hứa. Khi Người hứa ban Ðất Nước này cho ông, ông đã bạo dạn thưa: "Lạy Chúa Giavê, làm sao tôi biết là tôi sẽ được nó làm cơ nghiệp?" Và Chúa đã phải ban cho ông một bằng chứng. Ðó là Giáo Ước. Người bảo ông lấy một con bê, một con dê, một con cừu, một con chim gáy và một con bồ câu. Abraham đem hết các vật ấy lại, rồi bổ đôi ba con vật lớn, đặt mỗi phần đối chiếu với phần kia. Theo tục lệ thời ấy, hai bên ký kết giao ước sẽ đi qua những phần thịt này để cam kết số phận mình sẽ bị phanh thây ra như thế nếu mình không giữ lời giao ước. Vậy, Abraham cũng chờ Chúa đến để đi qua... Và khi mặt trời đã lặn, thì này một lò lửa nghi ngút khói và một đuốc cháy đã ngang qua giữa những mảnh thịt. Abraham biết rằng Chúa đã đến và đã cam kết. Lửa khói và đuốc sáng là dấu hiệu hiện diện của Người. Người cam kết một mình để tỏ ra ưu vị và sự quyết tâm của Người, khiến Abraham chỉ còn biết sấp mình thờ lạy và đặt hết tin tưởng vào Chúa.

Con cái Israen thời của tác giả bản văn này, làm sao không phấn khởi khi nghe nói như vậy? Tổ phụ của họ vì tin mà được Ðất Nước này. Họ cũng sẽ giữ và lấy lại được Ðất Nước nếu có niềm tin như thế. Và cơ sở của niềm tin chính là Giáo Ước. Thiên Chúa đã hứa, hứa một cách long trọng và có khế ước nghiêm chỉnh. Chính Người sẽ thực hiện điều ấy.

Chúng ta cảm phục tác giả. Nhưng sánh với ông hạnh phúc của chúng ta thật to lớn biết bao! Chúng ta được hứa ban sản nghiệp Nước Trời là sự sống đời đời. Nhưng chúng ta không phải chỉ có Lời Hứa và giao ước, mà còn có bảo chứng cụ thể là việc Ðức Giêsu sống lại từ cõi chết và đã ban Thánh Thần của Ngài cho chúng ta. Sự kiện Ngài sống lại, ai chối được nữa? Bài Tin Mừng hôm nay đã báo trước. Môsê và Êli đã tuyên chứng. Các Tông đồ đã được nếm thử. Phêrô đã mãn nguyện rõ ràng... Chúng ta hãy tin vào mầu nhiệm Phục sinh để đi con đường mùa Chay, con đường của đời sống. Chúng ta hãy nghe thánh Phaolô đoán chắc về hạnh phúc phục sinh của chúng ta mai ngày.

 

3. Chúa Sẽ Biến Ðổi Thân Xác Khốn Hèn Của Chúng Ta

Thánh Tông đồ khuyên hết mọi người bắt chước Người và bắt chước những kẻ sống theo gương mẫu của Người, vì Người tin tưởng và hoàn toàn sống theo mầu nhiệm Thánh Giá. Ðang khi ấy có lắm kẻ sống như thù địch với thập giá của Ðức Kitô. Họ lấy bụng làm Chúa và chỉ nghĩ đến những sự dưới đất. Họ đặt vinh quang nơi những điều đáng phải xấu hổ, ngay cả nơi phép cắt bì của người Do Thái. Họ là những người chỉ cậy vào sức mình và chỉ lấy những mối lợi trước mắt làm hạnh phúc, Họ sẽ đi tới diệt vong. Con đường của họ, không nên đi vào.

Trái lại, quê hương của chúng ta là trời cao, tự đó sẽ đến vị Cứu Chúa là Ðức Giêsu Kitô. Người sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của chúng ta nên giống như thân xác vinh quang của Người. Chính vì vậy mà chúng ta phải đi vào con đường thập giá, là con đường đã dẫn Chúa chúng ta đạt tới vinh quang.

Hôm nay bài Tin Mừng đã cho chúng ta thấy rõ điều ấy. Tác giả bài sách Khởi Nguyên đã khuyên con cái Israen đặt niềm tin vào quê hương họ. Chúng ta còn phấn khởi biết bao khi theo lời thánh Phaolô mà nghĩ đến quê hương trên trời, nơi Ðức Giêsu sẽ ngự đến trong vinh quang để lấy sự vinh quang của Người bọc lấy và đưa chúng ta về hạnh phúc đời sau, như các môn đệ của Người hôm nay đã được nếm thử trên núi Biến hình. Vậy chúng ta hãy tin vào mầu nhiệm thập giá. Hãy sống cuộc đời không lấy bụng làm Chúa, nhưng biết nhìn xa hơn những điều dưới đất...

Giờ đây, trong Thánh Lễ chúng ta đang làm như thế. Chúng ta nhìn xa hơn bánh rượu để thấy Mình Máu Thánh Chúa. Chúng ta nhìn xa hơn thánh giá để thấy hy vọng phục sinh. Ðồng thời chúng ta cũng nhìn nhau xa hơn những nét bên ngoài để thấy anh em là chi thể của nhau trong Ðức Giêsu Kitô. Như thế không còn cho phép ta sống theo xác thịt nữa, nhưng như đã lột xác, đợi ngày biến hình thật sự với ngày Chúa trở lại trong vinh quang mà lễ Chúa Biến hình hôm nay đã báo trước.

 

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa

của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

 

 


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm C