Suy Tư Về HỘI NHẬP VĂN HÓA


Giáo Sư NGUYỄN KHẮC DƯƠNG,
cựu quyền Khoa trưởng Văn Khoa ÐH DALAT

*"Và Thiên Chúa đã đẹp lòng mà chấp nhận Abel và của lễ của ông ta"(St 4,4b) *"Và Thiên Chúa nói vời Noe:"Ðây là dấu hiệu Giao Ước mà Ta thiết lập giữa Ta và Tất Cả mọi sinh linh trên mặt đất" (St 4,17)

1. Tòng giáo năm 1949 (tức là trước công đồng Vatican II), tôi phải ÐOẠN TUYỆT với truyền thống THỪA KẾ từ một nền VĂN HÓA xây dựng trên nền tảng Khổng Giáo,vốn lấy Ðạo Hiếu làm gốc,mà việc thờ cúng TIỀN NHÂN là một điều quan trọng vào bậc nhất -cụ thể là tôi không được :

·  1.Thờ cúng tổ tiên.

·  2.Thờ cúng các vị Phúc Thần,Hiển Thánh, tức là các Tiền Nhân có công đức lớn lao đối với địa phương,với Ðất Nước,với nhân dân là lòng sùng bái của hậu thế đã đặt lên bàn thờ(và phần lớn được Nhà Vua,tức vị Thiên Tử,thay mặt Trời ban tặng sắc phong) -Vì việc thờ phụng ấy bị xem như là thờ ngẫu tượng (Idolatrie). 2.Thực ra việc thờ phượng ấy bao hàm một số niềm tin (croyances) về ý nghĩa nhân sinh sau đây:

·  1.Người chết vẫn tồn tại và vẫn có sự tương ứng với người còn sốntg một cách nhiệm mầu.

·  2.Nếu những người quá cố ấy là những kẻ có công đức to lớn thì được TRỜI cho siêu thăng và ban cho dự phần vào việc hóa dục muôn vật tựa như Thánh Têrêsa Hài Ðồng được Thiên Chúa giao cho việc rắc xuống trần gian những đoá hoa hồng.Và như vậy là TRỜI tỏ cái đạo lý công bằng tái hồi cho những người công chính trước mặt Ngài.

Thờ cúng tiền nhân có công đức là tuân ÐẠO TRỜI,là thờ TRỜI một các gián tiếp.Vì chỉ có Nhà Vua mới được trực tiếp thờ Ngài:3 năm một lần tế-giao rất trọng thể,tôn nghiêm với bá quan văn võ.Rồi đến quan chức mới được thờ thần thánh,còn thường dân thì chỉ thờ tổ tiên.

Niềm tin ấy và việc thờ phượng ấy xét ra không có gì trái với Ðức Tin Kitô giáo.Vì trong văn cảnh là một nhân sinh quan lấy đạo lý làm nền tảng và đạo lý ấy là Cửa Trời.Không phải không thờ Trời,mà có lòng khiêm cung sâu thẳm,không dám phạm thượng làm cái việc thiêng liêng chỉ dành riêng cho Nhà Vua (tương tự như giáo dân không làm lễ,đó là việc thiêng liêng chỉ dành cho các linh mục).Bắt người tòng Ðạo giáo đoạn tuyệt với một truyền thống tốt đẹp như vậy là không hợp lý hợp tình.

3.Sau Vatican II người Công giáo được phép thờ cúng tổ tiên và tham dự việc thờ cúng Phúc Thần và Hiển Thánh.Nhưng hình như chỉ với ý nghĩa bày tỏ lòng tôn kính tri ân chớ không nêu rõ ý nghĩa:

·  1.Những người công chính dù chưa được đón nhận tin vui,cũng được siêu thăng vinh hiển(dĩ nhiên là quy về sự siêu thăng vinh hiển tột đỉnh của Ðức Giêsu Kitô Phục Sinh).

·  2.Và như vậy thì được Thiên Chúa trao cho nhiệm vụ làm trung gian ban các ơn phúc của Ngài cho người dương thế,như Ngài đã giao nhiệm vụ ấy cho các thánh Kitô hữu theo tín điều "các Thánh thông công" trong kinh Tin Kính.

·  3.Vậy có thể lấy tín điều "Các Thánh thông công" làm nhịp cầu nối lại (không đoạn tuyệt nữa) Ðức tin Kitô giáo với cái truyền thống thờ cúng tiền nhân của dân tộc VN mà không có gì là lạc giáo (he're'tique).Ðồng thời cũng là mở một cánh cửa để người VN ngoài CG nhìn vào Giáo Hội với ít nhiều thiện cảm và thấy gần gũi,bớt xa lạ.

·  1/Dòng ở giữa gồm các thánh Tân Ước. Hai bên tả hữu :

·  2/Một bên là dòng gồm các thánh Cựu ước

·  3/Một bên là dòng gồm các thánh Tiền Cựu ước(hay Nguyên ước).

Dòng thứ ba khởi đầu là người công chính Abel và kế tiếp là các vị tiền nhân công chính của mọi gia đình,mọi dân tộc,tuy là không thuộc về giao ước Abraham nhưng cũng được siêu thăng vinh hiển.

KẾT LUẬN

Như vậy ắt hẳn là phù hợp với niềm tin vào tính phổ cập của ƠN CƯU ÐỘ trong Ðức Giêsu Kitô hơn. Và để kết luận: Trong bài kinh năm thánh 2000(phần 4) khi nhờ các thánh chuyển cầu,ÐGH Gioan Phaolô II có "Nhờ lời cầu xin của NHỮNG NGƯỜI CÔNG CHÍNH THUỘC MỌI DÂN,MỌI THỜI". Có phải chăng Ngài đã mặc nhiên công nhận rằng :những người công chính thuộc mọi Dân,mọi Thời, cũng đã được siêu thăng vinh hiển và có khả năng chuyển cầu cho nhân thế trước mặt Thiên Chúa là vị ChaChung; chẳng khác gì các người công chính đã được Giáo Hội minh nhiên phong hiển thánh.

(trích Nguyệt San Công Giáo và Dân Tộc số 66 tháng 6/2000 trang38-40)


Mục Lục
Trở Về Trang Nhà