bà Thánh Đê - Bà Thánh mẶc áo hoa hỒng
Sư Huynh Trần Trọng An-Phong - Dòng La San
Nhân ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo
Việt Nam, xin gởi đến anh chị em một vở kịch ngắn về vị thánh nữ duy nhất của
Giáo Hội tại Việt Nam. Không phải vì đàn bà Việt Nam thiếu người thánh thiện,
nhưng vì tục lệ của dân Việt không cho phép vua quan giết đàn bà trẻ con.
Người giới thiệu: Bà thánh Đê không
phải là một nữ tu, cũng phải là một chức sắc nào cả trong giáo xứ, bà chỉ là
một bà mẹ Việt Nam bình thường, thế nhưng cuộc đời của bà đã trở nên phi thường
vì bà đã được diễm phúc sống những Lời sau đây của Chúa Giê-su:
- Họ sẽ
lôi các con ra tòa.
- Họ sẽ đánh đập các con giữa hội đường.
- Họ sẽ điệu các con ra trước vua quan vì Danh Thầy.
- Vì Danh Thầy, các con sẽ bị người ta ghét bỏ, nhưng ai bền vững tới cùng sẽ
được ơn cứu độ (Mat-thêu 10: 17-22).
Trong ngày lễ các Thánh Tử
Đạo Việt Nam, không phải chúng ta mừng kính bà Thánh Đê hay các vị khác, nhưng
trước hết là cử mừng cuộc tử nạn và sống lại của Đức Giê-su Ki-tô, nguồn mạch
mọi ơn chết vì đạo và sống đạo. Ngài là gương mẫu của mọi cuộc tử đạo. Kế đến
là tôn vinh Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh, một ô nhục cho người Do Thái, một
cử chỉ điên rồ đối với lương dân. Nhưng cái điên rồ của Thiên Chúa còn khôn
ngoan hơn cả khôn ngoan người đời, vì sự yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái
mạnh mẽ của loài người (1Cô-rin-tô 1: 25). Chính sức mạnh ấy của Thiên Chúa mà
chúng ta ca mừng trong cái chết của một người đàn bà Việt Nam chân yếu tay mềm.
Sau cùng, chính qua cuộc tử đạo của bà Thánh Đê, chúng ta suy tôn và rao truyền
Đức Ki-tô tử nạn trên thánh giá, hy tế tuyệt vời của nhân loại dâng lên Thiên
Chúa, nguồn mạch ơn cứu độ.
(Ngừng đọc và để nhạc nhẹ
dẫn dần đến một bài thánh ca suy tôn cuộc tử nạn của Chúa do ca đoàn và toàn
dân cùng hát, hay thay bài thánh ca bằng một vũ khúc suy tôn Thánh Giá).
Người giới thiệu: Bà Thánh Đê, nhủ danh
là I-nê Lê Thị Thành, sinh tại làng Bái Điền, địa phận Thanh Hóa, vào khoảng
năm 1781; nhưng sau này theo mẹ về quê sống tại làng Phúc Nhạc, địa phận Phát
Diệm. Năm lên 17 tuổi bà kết duyên cùng ông Nhất và sinh được 2 trai, 4 gái. Vì
con trai đầu lòng tên Đê, nên theo tục lệ thời ấy, dân chúng gọi hai người là
ông bà Đê. Suốt 60 năm trời, cuộc đời của bà êm đềm trôi qua trong nghĩa vụ làm
người vợ thảo, mẹ hiền.
Thế rồi, vào lối tháng 3 năm
1841, 4 linh mục thừa sai về đến làng Phúc Nhạc. Họ chia nhau ẩn trú mỗi người
tại một nhà giáo dân. Bà Đê được vinh dự che dấu cha Thành trong nhà mình.
Nhưng một ngày kia, ông Đễ, một giáo dân thường hay theo giúp cha Thành, đã
thay lòng đổi dạ, ham tiền thưởng nên đi mật báo với quan tổng đốc Trịnh Quang
Khanh. Thế là quan tổng đốc bất thần đem 500 quân về vây làng Phúc Nhạc vào
rạng sáng Phục Sinh, 14-4-1841. Cha Thành và cha Ngân nhanh chân trốn kịp. Cha
Nhân trốn trên gác bếp vô tình để gấu áo lò ra ngoài kẽ ván nên bị bắt. Cha Lý,
đang ẩn bên nhà ông trùm Cơ, lúng túng không tìm được đường tẩu thoát, nên chạy
sang nhà bà Đê ẩn núp. Bà dẫn cha ra vườn sau, dấu cha dưới đường mương, rồi mẹ
con bà lấy rơm rác phủ dấu che cha. Nhưng quan quân đã thấy cha Lý chạy sang
nhà bà Đê, nên kéo đến vây kín, lục soát thật kỹ, cuối cùng họ đã bắt được cha
Lý, bắt luôn bà Đê áp giải về Nam Định. Với tuổi cao sức yếu, lại phải mang
gông cùm nặng nề, đoạn đường từ Phúc Nhạc về đến Nam Định đã trở thành cho bà
chặng đàng thánh giá thiệt thọ, con đường dẫn đến Núi Sọ.
Tại Nam Định, bà đã bị lôi ra
tòa, bị đánh đập nhiều lần nơi công đường, khi thì bằng roi, khi thì bằng cây
củi lớn, nhưng bà vẫn một mực trung kiên tuyên xưng đức tin.
Cảnh I : Cảnh công đường. Quan ngồi xử án. Lính lôi bà
ra.
Quan: Này bà kia, bà có
biết tại sao bà đã bị đánh nhừ đòn như thế không?
Bà: Bẩm quan lớn, chỉ vì
tôi trung thành với Hội Thánh Chúa.
Quan: Trung thành với cái
gì? Nhà ngươi đã che dấu tụi Da-tô đạo trưởng, trái nghịch lệnh triều đình,
nuôi tụi giáo sĩ tây phương, phản bội dân tộc, thế mà ngươi dám bảo là trung
thành ư? Hừ... Ở tù như thế mà ngươi vẫn còn chưa chừa, cứ lâm râm khấn vái với
cái tên Giê-su cả ngày. Ngươi có chịu bỏ cái tên đó đi không chứ?
Bà: Bẩm quan lớn, tôi
chỉ biết thờ Đức Chúa Giê-su, tôi không bao giờ chối bỏ Đức Chúa tôi đâu.
Quan: Gớm! Được rồi, để ta
cho ngươi trung thành với cái tên chết bầm trên thập tự đó. Quân bây đâu, lôi
nó qua cái thập tự đó cho ta.
Lính: Dạ.
(Lính
vừa đánh vừa lôi bà dẫm lên thánh giá. Bà vùng ra rồi nằm sụp xuống ôm lấy
thánh giá)
Bà: Chúa con ơi, xin
thương con, con không bao giờ bỏ Chúa đâu. Họ cậy con là đàn bà yếu đuối mà ép
lôi con dẫm lên thánh giá. Con không bỏ Chúa đâu, con không bỏ Chúa đâu. Xin
thương giúp con.
Quan: Con mụ già này to gan
thật. Được, để ta xem ngươi to gan đến đâu. Quân bây đâu.
Lính: Dạ
Quan: Đem rắn độc ra cho
ta.
Lính: Dạ
(Một
người lính đem rỗ rắn ra)
Quan: Túm áo túm quần nó
lại. Thả rắn độc vào mình nó, để xem nó to gan đến đâu, xem Chúa nó có cứu nó
được không?
(Lính
thi hành. Nhưng bà vẫn bình tĩnh đứng yên. Quan đi từ khoái chí đến kinh ngạc,
rồi giận dữ.)
Quan: Lôi nó vào ngục, đánh
cho nó thêm một trận nhừ đòn. Đánh cho toát máu, cho áo quần nó phải đẫm máu
mới thôi.
Lính: Dạ
(Lính
lôi bà đi ra. Quan bỏ đi).
Cảnh II: (Cảnh ngục tù. Tiếng
roi quất, tiếng bà kêu: Chúa ơi, cứu con...Cô Nụ, con bà Đê đến xin thăm nuôi
mẹ. Một người lính lôi bà Đê ra. Vừa thấy mẹ, cô Lu-ci-a Nụ òa lên khóc vì thấy
mẹ quá tiều tụy, áo quần rách nát, đẫm máu. Nhưng bà vẫn vui vẻ an ủi con.)
Nụ: Mẹ, sao áo quần mẹ tả
tơi, đẫm máu thế này.
Mẹ: Con ơi, con đừng có
khóc. Con hãy vui mừng với mẹ, vì mẹ đang mặc áo hoa hồng đây. Áo này là áo đau
khổ vì Chúa mà. Con phải vui mừng với mẹ mới đúng.
Con: Mẹ, sao mẹ khổ thế
này!
Mẹ: Con ơi, con đừng khóc
nữa. Mẹ đang sung sướng kia mà. Mẹ sắp được chết cho Chúa đây, còn gì phúc hơn.
Con phải mừng với mẹ, cám ơn Chúa với mẹ mới đúng chứ. Con hãy về đi, về đi và
cho mẹ gởi lời thăm hỏi mọi người. Các con hãy cố gắng giữ đạo cho sốt sắng,
rồi một mai mẹ con ta sẽ lại đoàn tụ trên thiên đàng.
(Nhạc
dịu trổi lên)
Người giới
thiệu: Bên cạnh những cực hình của ngục tù, đòn vọt,
bà Đê lại mắc thêm bệnh kiết lỵ. Chính trong cảnh tù đày, đòn vọt, bệnh tật
này, bà đã nhìn lên Đức Giê-su tử nạn, để tìm thấy lẽ sống cho đời mình, để múc
lấy sức mạnh vác thánh giá cho đến hơi thở cuối cùng.
(Vũ
khúc: Con Đường Nào Chúa Đã Đi Qua)
Người giới
thiệu: Và cũng như Đức Giê-su trên thánh giá, bà đã
cầu nguyện cùng Chúa trong cơn hấp hối.
Mẹ (thì thào trong cơn hấp
hối): Lạy Chúa... xưa Chúa đã chết cho con,. .. thì
nay con xin hết lòng vâng theo Ý Chúa. ..Xin Chúa tha thứ cho họ... cũng như
tha hết. .. mọi tội của con.
(Rồi
gục đầu tắt thở trong tay cô Nụ)
Nụ: Mẹ (ôm xác mẹ khóc
nức nở).
Người giới
thiệu:
Bà Đê đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 12-7-1841, sau ba tháng bị giam
cầm, thọ 60 tuổi. Lính đã đến đốt ngón chân bà để biết chắc bà đã chết. Sau đó
thi hài bà được đem chôn tại Năm Mẫu, sau lại được cải táng đưa về Phúc Nhạc.
(Nhạc
hùng vang lên, rước xác bà đi vào giữa lòng dân trong tiếng nhạc.)
Người giới
thiệu: Ngày 2-5-1909, Đức Thánh Cha Pi-ô X đã phong
chân phước cho bà. Vào ngày 19-6-1988, Đức Thánh Cha Gioan Phao-lô II đã phong
hiển thánh cho bà Đê, vị thánh nữ đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam●
(trích Maranatha số 65 ngày
19-11-2005)