Tương Quan Đức Tin và Nhân Cách
Chưa ai có kinh nghiệm
chết là thế nào, nhưng ai ai cũng đã nhiều lần chứng kiến cảnh chết, hoặc chính
mình cũng đã đương đầu với cái chết. Chưa chết tức là còn sống. Sống thì còn
hoạt động, còn suy tư, còn yêu thương, còn vương vấn. Người cận kề cái chết
nhất cũng còn nhịp tim thoi thóp. Chết là ngừng hẳn mọi hoạt động thể lý. Có
còn yêu thương nữa không, chẳng ai biết. Có còn thăng tiến nữa không, chẳng ai
hay. Chỉ chắc chắn là thân xác xinh đẹp kia sẽ bốc mùi, thối rữa và người ta sẽ
phải nhanh chóng chôn vùi đi…
Nhân cách mà chết cũng
vậy.
Là con người, xuất hiện
và sinh hoạt trên hành tinh này, ai trong chúng ta cũng muốn phát triển nhân
cách hướng tới Chân Thiện Mỹ. Tận đáy tâm hồn, ai cũng có nhu cầu thúc bách cần
có một đời sống tinh thần. Trừ những người cố tình bóp chết linh tính, chối bỏ
nhân cách, còn lại thì ai cũng muốn trang bị cho mình một Niềm Tin Tôn Giáo. Đó
là điều kiện cần thiết để thể hiện nhân cách đến thành toàn. Sở dĩ con người
không thể chối bỏ nhân tính của mình, vì con người được Thượng Đế tạo dựng
giống hình ảnh Ngài. Đàng khác con người không phải chỉ sống bằng cơm bánh,
nhưng còn cần những gì cao thượng hơn cơm bánh. Đó là đời sống Tinh Thần của
Niềm Tin Tôn Giáo.
Nhân cách biểu hiện qua
hành động hướng thiện, vươn tới chân thiện mỹ từ trong tư tưởng, ra ngôn ngữ,
tới hành động. Khởi đầu là từ niềm tin – Tin vào một Nguyên Nhân Tối Thượng,
siệu việt và toàn hảo.
Mục đích tối thượng của
các tôn giáo là hướng thượng con người đến Chân Thiện Mỹ. Qua không gian và
thời gian, trải qua bể dâu lịch sử, với những thao thức băn khoăn của kiếp
người, con người luôn tìm đến Niềm Tin Tôn Giáo. Dù bao người và bao chế độ vô
thần luôn tìm mọi cách bách hại tôn giáo, nhưng tự thâm tâm con người vẫn tìm
kiếm Thượng Đế là nguyên nhân và cứu cánh của cuộc sống. Đó là lý do giải thích
tại sao, sau những bách hại đẫm máu của giới cầm quyền, sau biết bao nhục nhằn
khổ ải trong lao tù hay bắt bớ xâm phạm quyền lợi con người, niềm Tin Tôn Giáo
vẫn không bị mai một mà trái lại, phát triển mạnh mẽ hơn trước. Vả lại, ngay cả
những kẻ bi bô rằng mình không tin vào Thượng Đế, thì một lúc nào đó trong cuộc
đời, hắn đã nhận ra mình sai lầm.
Ngày nay, người ta nói
nhiều đến ‘sức mạnh của niềm tin’. Cả những người vô thần cũng thích nói đến
ngôn ngữ linh thánh này như trong các bài bình luận về trận đá bóng của Việt
Nam hôm rồi. Thế nhưng cái ý nghĩa của mệnh đề đó thì khác xa nhau lắm.
Niềm tin chiến thắng
của các cầu thủ và của các cổ động viên là bốc đồng, nồng nhiệt lắm. Nếu kết
quả như ý muốn thì hân hoan la hét rồi khao nhau nhậu nhoẹt. Giá như thất bại
thì u sầu buồn bã, thậm chí tự vẫn vì thua cá độ. Còn niềm tin của nhân cách và
tôn giáo thì dù thành công hay thất bại, đều mang dấu tích của tình yêu, vì đó
là sự tự nguyện, là hy sinh, là vô vị lợi.
Trong ngôn ngữ Việt Nam có ba động từ kép rất đẹp và ý nghĩa : Tin Tưởng,
Tín Thác, Tin Cậy.
TIN TƯỞNG có nghĩa là TIN - NGHĨ về. Tôi ghi nhớ lời khuyên của thánh
Phao-lô : hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm
vào những gì thuộc hạ giới (Cl 3,2). Khi NGHĨ về Thiên Quốc một cách thường
xuyên như vậy có lợi vô cùng bởi vì tất cả mọi hành động và suy nghĩ của ta đều
quy hướng về Chân Thiện Mỹ. Và như thế, niềm tin của bạn và của tôi sẽ càng
ngày càng thêm vững mạnh và son sắt.
TÍN THÁC có nghĩa là tôi và bạn TIN - PHÓ THÁC mọi thứ vui buồn, sướng khổ,
thành công thất bại, may mắn, rủi ro … của ta vào trong bàn tay quan phòng của
Chúa. Đừng đi coi bói, tin dị đoan hay thờ cúng ngẫu tượng, tà thần … chỉ khi
nào bạn và tôi trông cậy vào một mình Thiên Chúa là cứu cánh duy nhất, thì khi
ấy đức tin của ta mới triển nở và phong phú dồi dào.
TIN CẬY có nghĩa là TIN - CẬY NHỜ vào sức mạnh và quyền năng của Thiên
Chúa, Đấng toàn năng có quyền trên mọi sự. “Không điều gì mà Thiên Chúa không
làm được”. Khi bạn và tôi vui vẻ chấp nhận mọi gian khổ, thử thách và những khổ
cực và đắng cay trong cuộc đời này là giá cứu độ rồi, thì niềm tin của ta vào
Chúa Kitô sẽ sâu đậm và phát triển không ngừng. Khi niềm tin đã có được chỗ
đứng trong cuộc sống, mọi sinh hoạt nhân linh sẽ được soi sáng bằng chính đức
tin ấy, và những phẩm cách công bình, yêu thương, kiên nhẫn, khiêm tốn, vị tha,
chân thực…là hiệu quả tất nhiên.
Trong xã hội hôm nay, sự chân thành, trung thực đã trở thành ‘hàng hiếm’!
Nếu dùng từ nặng hơn tí nữa thì ‘nhân cách đang là thứ ngớ ngẩn, thọc gậy bánh
xe’. Cũng phải thôi, bài học nhân cách, bài học của lương tâm tôn giáo luôn cản
trở khuynh hướng thụ lợi, tham quyền cố vị, lừa lọc, tham nhũng gian xảo…Tôi
không dám ‘vơ đũa cả nắm’, nhưng chỉ có ý nói đến một thực trạng trong xã hội.
Người có chức quyền thì tìm cách hợp thức hoá của công thành tư lợi. Người công
nhân khai man công việc để được tăng lương. Kẻ kinh doanh thì ‘hàng gian, hàng
giả’ là chỉ tiêu cho doanh thu. Học sinh thì mua điểm, thầy giáo gạ tình hay
chỉ đóng vai nhà mô phạm mà không biết nhân cách. Sách giáo khoa thì sửa đi sửa
lại vẫn cứ sai. Sách ‘học làm người’ thì ít mà sách ‘học làm bậy’ thì nhan
nhản. Ngay cả bằng cấp, học vị cũng không có nguồn gốc thật thì lấy đâu ra
những cống hiến thật cho ích quốc lợi dân. Các tụ điểm vui chơi, quán nhạc tấp
nập hơn nhà trường hay nhà thờ. Bữa nào guẩng chút, đạp xe dạo phố xem hoa, hoa
dại mọc chen chúc dọc đường. Chú công an đứng dẫn đường cũng ra dáng ‘anh chị’
lắm, không có cái tư thế nhà binh mà ngày nào mình được học. Kìa nữa, dăm ba
bông hoa biết nói không sợ cảm nắng nên bày ngay ra phố nhiều loại thịt hiếm
thấy ghê! Coi chừng đấy, mấy chàng choai choai cũng khoác áo trắng trinh nguyên
nhưng đang lạng lách như hung thần giữa phố thị, miệng xổ ra những thứ tiếng mà
…từ điển không có!
Ái chà, kể sao hết được những phi giáo dục, phi luân lý, phi đạo đức…khi
nhân cách không còn được là ‘mối quan tâm hàng đầu’ để giáo dục nhân bản, khi
niềm tin tôn giáo bị coi là đối thủ để loại trừ hay đàn áp.
Tôi đã từng được chứng kiến những nghĩa cử của chữ tín thật sống động và
sâu sa. Anh xích lô oằn lưng đạp cuốc xe thấm mồ hôi để kiếm miếng ăn hằng
ngày. Vậy mà khi nhặt được cái bóp để quên, trong đó có số tiền đủ cho anh sống
sung túc, anh đã cất công tìm tới địa chỉ của người mất mà trao tận tay, không
‘si xiển’ một đồng. Anh đã dám sống lành cho sạch, rách cho thơm. Anh có thể bị
thiệt thòi, nhưng anh đã chiến thắng vẻ vang trong nhân cách làm người. Anh
chẳng cần ai ca tụng. Chẳng tờ báo nào đăng tên anh để khen ngợi. Chỉ tâm hồn
anh trải rộng một niềm hạnh phúc. Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch. Đối với
anh chỉ nghĩ có một điều: “Mỗi lần các ngươi làm bất cứ việc gì
cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho
chính Ta” (Mt 25,40).
Tôi ghi nhận lòng hy sinh tận tuỵ của các giáo viên Giáo lý, của các ca
viên ca đoàn, các bà dòng Ba quét rác sân nhà thờ…Tôi thán phục thái độ dám
‘châu chấu đá xe’ của những anh giáo viên nọ trước những bất công của trường
học. Họ có thể dành những thời gian ‘làm công khống’ ấy để vui chơi giải trí,
để đi làm kiếm thêm, nhưng họ đã làm khác. Cái khác của nhân cách, của niềm
tin.
Thánh Gia-cô-bê khẳng định rằng: “Một thân xác không hơi thở là một xác
chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết!” (2,26). Nếu bạn
muốn đức tin của bạn được mạnh mẽ và sống động thì bạn phải cho đức tin của bạn
hoạt động … nhiều một chút, ít là qua việc huấn luyện nhân cách, qua cách sống
làm người ‘có giáo dục’ . Nếu không chịu động thì còn lâu đức tin của bạn mới
mạnh mẽ, phát triển và trưởng thành được, còn lâu nhân phẩm mới được tôn trọng
và tôn vinh! Đức tin đó sẽ chết dần chết mòn mà thôi!
Đức tin có sống thì nhân cách cũng sống. Nhân cách hoạt động thì sự trung
thực được dãi bày. Nhân cách dãi bày thì tính hiếu thuận tô son, lòng nhân hậu
tươi sắc, công bình nở hoa.
Bình an chỉ thực sự
hiện hữu trong lòng người thiện tâm.
Bs. Trần Minh Trinh