THÁNH THỂ: ƠN PHÚC VÔ BIÊN
Kinh nghiệm cuộc đời tôi về ơn lành vô biên của bí tích Thánh
Thể ghi đậm vào đúng ngày 8-12-1974, lễ trọng Đức Trinh Nữ MARIA Vô Nhiễm Nguyên
Tội.
Hồi ấy tôi là nữ tu thừa sai làm việc tại một làng tên Dungu
thuộc nước Zaire. Zaire trước đó là Congo thuộc địa của vương quốc Bỉ từ 1960
đến 1971. Hiện tại nước này trở về với tên cũ Congo. Tôi trạc tuổi 30 và là dì phước
Áo Xám của một Hội Dòng ở Montréal, nước Canada. Hội Dòng chấp nhận mở Trường Kỹ
Thuật Thuốc tại Dungu và chỉ định tôi đến làm giáo sư. Trường khai giảng ngày 30-9-1973.
Cộng Đoàn chúng tôi nằm trong địa điểm chung quanh có nhiều
Học Viện, Chủng Viện và dòng tu, vì thế vị Giám Mục sở tại lúc bấy giờ là Đức
Cha Theo William Van den Elzen không muốn chúng tôi có nhà nguyện riêng. Lý do
là ngài không muốn chỉ định Linh Mục đến dâng Thánh Lễ cho chúng tôi ít nhất một
lần trong tuần. Chúng tôi phải tham dự Thánh Lễ nơi các nhà thờ hoặc các nhà nguyện
chung quanh Cộng Đoàn.
Chị Em chúng tôi buồn lắm nhưng tuân phục lệnh truyền của Đức
Giám Mục. Chúng tôi chỉ biết tha thiết xin THIÊN CHÚA ban cho chúng tôi ơn lành
Bí Tích Thánh Thể, qua lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA.
Ròng rã một năm sau, Đức Cha mới quyết định cho phép chúng tôi
tham dự Thánh Lễ hàng ngày nơi nhà nguyện riêng của chúng tôi. Kể từ ngày đáng
ghi nhớ ấy - 8-12-1974 - Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể đến và ngự giữa Cộng Đoàn. Chúng
tôi vui mừng khôn tả xiết. Chúng tôi đặc biệt dâng lời tri ân Hiền Mẫu Thiên Quốc,
vì chúng tôi tin chắc chắn rằng chính Đức Mẹ MARIA cầu bầu cho chúng tôi ơn lành
trọng đại dường ấy.
Thế nhưng vào cùng thời gian này đất nước Zaire phải sống trong
tình trạng nghiêng-ngửa chao-đảo. Tổng thống Mobutu công khai bách hại Giáo Hội
Công Giáo. Ông ra lệnh tháo gỡ ảnh tượng thánh ở các học đường và các nơi công
cộng. Ông xóa bỏ các ngày lễ nghỉ theo niên lịch Công Giáo, ví dụ như lễ Giáng
Sinh và Thứ Sáu Tuần Thánh. Các ngày lễ nghỉ trở thành ngày thường. Cuối năm đó,
ngày 30-12-1974, Linh Mục thừa sai Luc Viane bị ám sát. Cái chết thảm thương của
Cha Luc Viane khiến dân làng Dungu vô cùng xúc động và thương tiếc.
Thấy tình thế không ổn và cực kỳ nguy hiểm, Đức Giám Mục giáo
phận cũng như Bề Trên Tổng Quyền các Dòng Tu, đề nghị các thừa sai đang hoạt động
trong vùng có thể rời bỏ cứ điểm truyền giáo và trở về nguyên quán. Trên tổng số
30 thừa sai tại giáo phận Dungu-Dorema chỉ duy nhất một vị lên đường trở về nước.
Tất cả các vị khác tình nguyện ở lại.
Riêng phần tôi, suốt trong thời gian biến động thử thách này,
đặc biệt kể từ ngày nhà nguyện Cộng Đoàn chúng tôi có sự hiện diện của Đức Chúa
GIÊSU Thánh Thể, tôi không bao giờ cảm thấy cô đơn, lo âu và bất ổn. Niềm an ủi
lớn lao nhất của tôi là dành thời giờ để cầu nguyện trước Nhà Tạm nơi Đức Chúa
GIÊSU đang ẩn mình trong Thánh Thể. Tôi thân thưa với Đức Chúa GIÊSU về mọi khó
khăn trở ngại ngổn ngang trong cuộc đời truyền giáo. Đức Chúa GIÊSU KITÔ luôn đáp
trả bằng ơn an bình Ngài tuôn đổ trong tâm hồn tôi.
Chính trong những giờ phút quỳ chầu trước Đức Chúa GIÊSU Thánh
Thể mà tôi nhận ra tiếng Chúa gọi tôi vào đời sống chiêm niệm. Tháng 9 năm 1978
tôi rời bỏ cứ điểm truyền giáo Dungu và trở về Canada. Sau một thời gian suy tư,
cầu nguyện và bàn hỏi với các vị Bề Trên, ngày 2-8-1979 tôi gia nhập Cộng Đoàn
Kín Clarisse tại đan viện Thánh Nữ Clara ở Mission thuộc bang British Columbia
nước Canada.
Tôi không trở lại miền đất truyền giáo. Từ đó cuộc đời tôi
khép kín trong 4 bức tường đan viện. Thế nhưng cuộc sống chiêm niệm với những
giờ cầu nguyện lâu dài trước Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể khiến tôi trở thành nữ tu
thừa sai không biên giới. Con tim tôi gói trọn các cứ điểm truyền giáo với các
vị thừa sai đang hoạt động trong Giáo Hội Công Giáo ở bất cứ nơi đâu trên toàn
thế giới.
Chứng từ của Dì Phước
Marie-Céline Campeau.
... ”Lượng từ bi
THIÊN CHÚA đâu đã cạn, lòng thương xót của Ngài mãi không vơi. Sáng nào Ngài cũng
ban ân huệ mới. Lòng trung tín của Ngài cao cả biết bao! Tôi tự nhủ: ”THIÊN CHÚA
là phần sản nghiệp của con, vì thế nơi Ngài, con trông cậy”. THIÊN CHÚA xử tốt
với ai tin cậy Ngài, với ai hết lòng tìm kiếm Chúa. Biết thinh lặng đợi chờ, đợi
chờ ơn cứu độ của THIÊN CHÚA, đó là một điều hay. Cũng là một điều hay cho người
nào phải mang ách từ khi còn trẻ” (Sách Ai Ca 3, 22-27).
(Sister Patricia Proctor, OSC, ”201 Inspirational Stories of
The Eucharist”, Franciscan Monastery of Saint Clare, Spokane, Washington, 2004,
trang 302-304)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Radio Vaticana: (http://www.radiovaticana.org/index.html)