Ai chẳng một lần “sợ ma”?

 

Ma là hình ảnh cõi âm, bạn bè cuả người chết nên khi ai đó qua đời thì nhà liền có ‘đám ma’, người chết gọi là thây ma! Ma chắc có họ với quỷ nên nói đến ma thì có nhắc đến quỷ thành ra ma quỷ.

Ma có hình dáng ra sao, chẳng ai biết, nhưng người ta đã hình dung nó là một bộ xương khô, xoã mái tóc dài ‘ma quái’, di động nơi này nơi kia mà chẳng cần bước đi. Phim hoạt hình thì vẽ ma có cái đầu trọc, tay chân không rõ nhưng trùm trong chiếc mền trắng, bay lượn đó đây mà chẳng cửa nào cản bước được nó…

Tội nghiệp thân phận con người. Sống thì đẹp tốt xinh xắn vậy, mà vừa chết là đã hoá ra ma! Sống còn chưa làm gì được ai, chết rồi ‘ra ma’ chắc cũng chẳng làm được gì hơn!

1.           “SỢ MA”

Là một phần trong cảm thức thần thiêng cuả con người. Hình như đã có lần tôi đề cập đến  yếu tố này trong bài nói về tôn giáo. Khi đương đầu với những sức mạnh mà xem ra sức người bất lực đối chọi, người ta đã bộc phát ra một cảm thức, thần thánh hoá cho những sức mạnh cuả thiên nhiên. Gió, lửa, nước, sấm sét, cây cối, núi đồi…đã một thời ngự trị như những vị thần cao cả và quyền uy trong tâm não loài người. Có cái gì đó làm người ta sợ. Sợ nhưng không biết sợ cái gì. Sợ ma chẳng hạn, những hình ảnh ma quái từ óc tưởng tượng phong phú đã hình thành một định kiến khi phải đi trong bóng đêm rợn rùng. Có ai đó cũng bước theo mình và những tiếng lá rơi xào xạc nghe thấy hằng ngày, tiếng gió lao xao thơ mộng bỗng biến thành thứ âm thanh cõi âm lạnh lùng. Ma như những âm hồn ẩn khuất đâu đây vì ‘chưa siêu thoát’, vì còn nặng nợ thế trần nên cứ lẩn vẩn ám ảnh cuộc sống người ‘cõi dương’…và cứ thế, chuyện ma vẫn luôn là đề tài hấp dẫn về đêm khiến nổi da gà ốc cục mà khối kẻ thích chui vào mền để hồi hộp lắng nghe. Càng sợ càng thích nghe. Cả một trời tưởng tượng về cảnh hoạt động trong đêm của những con người ở bên kia thế giới. Ma cũng có ma lành, ma ác thì phải. Ma ác thường quậy phá cuộc sống bình an cuả người ta, nên các cuộc cúng vái, đốt hương vàng mã…để ‘hối lộ’ ma lành tìm cách cứu giúp thoát khỏi âm binh chọc ghẹo. Người có thể trừ tà ma ác là thầy cúng thầy ngải! Thầy vẽ buà dán nơi cưả để ma sợ không dám tới gần nhà của người nhờ thầy ra tay độ. Có khi âm binh nhập vào người nào, lá buà thầy vẽ ra nghệch ngoạc những hình không đọc được và cũng chẳng hiểu gì, đốt cháy hoà nước cho người bị ‘ma ám’ uống để chữa bệnh hay trục ma tà từ trong …bụng! Ma sợ thầy nhưng chắc chắn thầy cũng sợ ma… Những tâm tưởng sợ những thế lực cõi âm đó đã ăn sâu vào cuộc sống trong các bộ lạc và cách nào đó, còn ảnh hưởng rộng rãi ngay trong thời đại cuả ‘kỹ thuật số’, cuả thời kỳ khám phá sao Kim sao Hỏa hôm nay. Cách thức có văn minh hơn một chút là không lệ thuộc vào chuyện ma quái, mà chuyển sang việc cầu may cầu phúc. Chẳng hạn việc nại vào phong thuỷ, tướng số để coi bói, coi ngày khởi công làm nhà, khai trương cửa tiệm, chọn ngày cưới hỏi…sao cho hợp với tuổi tác, phương hướng, ngày lành tháng tốt. Những lá số tử vi được quý chiêm tinh gia thu gom đâu đó, ghép vào vận hạn theo cung - tuổi – chi – can và các thiện nam tín nữ tới cầu mệnh liền được ‘thầy’ tặng cho để tiên báo vận hạn làm ăn hên xui may rủi. Đối tượng tới cầu tài đầu năm hay các dịp lễ hội, thường là các doanh nhân hay thua lỗ, các thành phần có tình duyên trắc trở, giới thượng lưu có máu mặt muốn dò xem bước đường tương lai cho xuôi chèo mát máy…Cũng có những mệnh phụ vô công rỗi nghề, ưa tám chuyện đời nên vặn vẹo muốn biết sửa mắt sửa mũi ra sao cho ‘tiền không vơi túi, tình nặng vai gầy’, nốt ruồi nào là ‘hãm tài’, sát phu để được các chuyên gia a-xít chấm cho vài giọt làm cuộc đời bớt oan khiên! (Tôi không có ý nói tới lĩnh vực thẩm mỹ). Hiếm thấy trong số khách vãn thầy bói là dân xe ôm, bán vé số hay anh thợ hồ bữa mai chưa biết tính ra sao! Giá như có thành công thì cho rằng đó là do chọn đúng ngày giờ, thần thánh phù trợ; lỡ thất bại thì đổ tội ngay cho quỷ ma quấy phá, âm binh nổi giận làm lỡ dở công việc.

2.           MÊ TÍN :

Giữa thời đại tàu vũ trụ bay lên không gian như đi chợ, con người đã chuyển ghép gen, tiến hành sinh sản vô tính mà nói chuyện mê tín thì cũng… hơi kỳ! Thật ra, đời sống tâm linh của con người đương đại vẫn có những góc khuất dành cho những điều không thể lý giải được bằng thực nghiệm hay khoa học. Mê tín là những niềm tin “truyền tử lưu tôn” từ hàng trăm, thậm chí hàng ngàn năm trước. Không có cơ sở khoa học nào hết, nhưng chúng vẫn luôn chi phối sinh hoạt của con người một cách vô thức hay ý thức. Mê tín vẫn ảnh hưởng không nhỏ tới hạnh phúc con người. Hầu như ai cũng vấn vương chút mê tín dị đoan. Tôi không ủng hộ những thói tục mê tín, nhưng vì chạm tới nó thì cũng chạm vào ngưỡng cưả tự ái cá nhân. Do vậy, tìm hiểu chúng để tránh cho mọi người giao tiếp không bị “hiểu nhầm” nhất là trong thời buổi hội nhập Đông - Tây này, xem ra cũng không thừa. Hơn nưã, ta phải xác định đâu là những tập tục mê tín (tin một cách mù quáng) để chuẩn định cho niềm tin cuả mình.

Trước hết, minh định rằng : tôi không phủ nhận những giá trị khoa học của Bốc dịch, Phong thuỷ, môn học định hình cho những phương hướng thích hợp trong thiên nhiên, và hướng dẫn phương cách đem lại sức khỏe cũng như ích lợi, bình an cho con người, điều mà Kinh Dịch đã dày công thu góp bao đời mới thu tích được. Dù không có ý bàn sâu về Kinh Dịch nơi đây, nhưng tôi cũng khẳng định một điều : học Kinh Dịch để trang bị cho mình những kiến thức và kinh nghiệm sống là điều tốt. Các thánh hiền đã làm ra Dịch là để “xu cát tỵ hung”. Dịch giúp cho con người biết nhận diện điều gì tốt thì nên làm, việc gì có nên làm hay không, việc gì không được làm. Một phần nhỏ cuả Dịch là Bốc Dịch, khoa thuật số hàng đầu cuả những thuật tử vi, tướng số, hà lạc, kỳ môn, độn giáp, lục nhâm đại độn…Như thế, nếu chỉ lần mò trong mấy chữ mấy quẻ cuả thầy bói, thầy tướng số mà không tìm vào những triết lý thâm sâu cuả kinh Dịch thì sao giải thích được khi nào thì xu cát, lúc nào là tỵ hung để chỉ ra một lối đi thuận với thiên điạ nhân? Trong thực tế, người biết Dịch, hiếm lắm; hiểu Dịch càng hiếm hơn. Kẻ bập bẹ Dịch thì mới dùng những kiến thức nhỏ nhoi cuả bốc phệ, độn giáp, hà lạc hay vài môn khác để kiếm ăn nhờ tài ‘bói ra ma’ cuả mình. Ngoài ra, từ sự mê tín của nhiều người, chẳng kể là vô học hay trí thức, bần hàn hay giàu có, kể cả một số ít con nhà có đạo…là cơ hội cho những ‘lốc cốc mù tiên sinh’ giở quẻ, vẽ bùa phát ngải làm thần chú sai khiến âm binh y như chuyện phim trinh thám nhiều tập, mà kết thúc câu chuyện thường là…không có hậu!

Những bậc anh minh từ cổ chí kim, đã tin dùng tài liệu quý từ Kinh Dịch, lý giải những tượng quẻ thích hợp để vạch ra những hướng đi cho một quốc gia, một định hướng cho đà phát triển, một nguyên tắc cho cách sống làm người, làm nghề, làm kim chỉ nam cho kế hoạch phát triển. Những cách để vận đoán thời vận chỉ là suy tư từ những sự kiện và đưa vào thuyết nhân quả để dự phóng tương lai. Ứng dụng chỉ nhằm truy tìm sự cân bằng, hợp lý trong thiên nhiên. Thuận với nó thì thành công, nghịch với nó thì tai ương phải chiụ là lẽ thường. Thời vận khi nào là thuận thì dựng xây phát triển, khi nào không thuận, hạn vận thì lưạ hướng đi sao cho đừng ‘tỵ hung’. Tất cả những điều đó nằm trong quy luật cuả tự nhiên. Người biết dụng nó và áp dụng vào cuộc sống thì sự bình an, thành công là hoa quả mỹ mãn, không biết ứng dụng hay làm ngược lại thì dĩ nhiên là chuốc lấy tai hoạ. Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên là vậy, nhưng đôi khi nhân định thắng thiên đấy. Chính cái tâm ý ngay chính (lương lâm) cũng đã giúp ích phần nào cho những thành quả cuả cuộc sống.

 Vì không biết nhiều về nó, người ta đã hạ giá những tinh hoa tuyệt vời của kinh Dịch, đến độ cứ nhìn thấy biểu tượng bát quái, âm dương hay những tượng quẻ, liền nghĩ ngay đến những hình thức bói toán, cầu cơ, tướng số …để moi tiền cuả những kẻ nhẹ dạ cả tin.

Nói đến mê tín, dị doan thì còn nhiều điều cần phải thảo luận. Nó không có quy chế nào, chẳng có quy ước nào ràng buộc, nhưng hình như ai cũng ngấm ngầm tuân theo cách ngoan ngoãn đến độ khờ khạo. Chính từ những bất ổn trong cuộc sống, dần dà người ta tạo ra những điều tin kiêng, dù rằng biết nó chẳng liên quan gì tới giữa nhân và quả cuả những lý luận thuần lý. 

Nếu có giờ ghi lược lại những thói tục tin kiêng, những chuyện ‘hên xui’ của thiên hạ, chắc cũng tiêu hao khá nhiều thời gian và giấy bút. Mỗi dân tộc có tập tục tin kiêng khác nhau, nơi này thì như thế sẽ là không may, nhưng nơi khác lại là dấu hiệu trời thương! Cũng có bộ tộc tin rằng khi có bà bầu tìm đến tá túc là điềm trời may lành, nhưng cũng có nơi ra đường gặp bà bầu thì chỉ có nước quay về do ‘kỳ đà cản mũi’!

3.           THÓI TỤC TIN KIÊNG :

 Chuyện tưởng xưa nhưng cứ mới. Không hiểu sao con người cứ thích bày ra các điều xem như cấm kỵ trong cuộc sống rồi tin vào đó như một...định luật. Cầu may thì cũng chẳng chết chóc gì, nhưng làm những việc ‘không may’ thì cầu nhiều cũng cứ hoạn tai. Rồi cứ thế làm cho những tay bói ra ma có cơ hội lên nước và tung ra lắm cái thất đức hơn. Vậy mà cứ có người nhẹ dạ cả tin, kể cả những kẻ xem ra có tí chữ nghĩa, học vấn cũng nơm nớp lo sợ khi đi coi bói rồi ‘thầy bảo vậy’ phải theo!

Cứ như cái chuyện sau đây thì thế gian này còn lắm điều mê tín thật :

Có lẽ không ai dám bảo rằng con số 13 là không xui xẻo. Ở Mỹ, ta dễ dàng bắt gặp những khách sạn sang trọng, hoành tráng, nhưng không hề có phòng số 13 hay tầng số 13, ngay cả bàn số 13 trong nhà hàng ăn cũng không có. Trên một số con đường, người ta đi từ số 12 sang 12bis rồi nhảy sang số 14, làm như con số 13 chưa hề có mặt trên đời này. Không riêng gì Mỹ, ở Pháp và nhiều nước phương Tây khác cũng thế, đặc biệt là thứ Sáu, ngày 13 lại càng tối kỵ. Ở các nước Anglo-saxon, hầu như không ai đi du lịch vào thứ Sáu, ngày 13 cả. Tuy vậy, chúng ta đã trải qua bao nhiêu lần thứ Sáu ngày 13 rồi, có thấy tai hoạ gìkhông hay vẫn ‘ăn no ngủ kỹ’?

Sự mê tín này được phần đông giải thích căn cứ vào ngày mất của Chúa Giêsu (thứ Sáu), cũng là ngày ông Adam và bà Eva bị trục xuất khỏi Thiên đàng sau khi ăn một trái cấm quá ngon, là ngày Cain giết anh là Abel, ngày thánh Gioan Tẩy Giả bị xử tử… Ở Anh, truyền thống xử giảo (treo cổ) tội nhân vào ngày thứ Sáu quen thuộc đến nỗi thứ Sáu còn được nhiều người gọi là "ngày của những kẻ bị treo cổ". Con số là còn liên hệ đến một sự kiện khác được ghi trong Kinh Thánh, đó là bữa tiệc cuối cùng của Chúa Giêsu với 12 vị thánh tông đồ, cộng lại thành 13 người. Ngày nay, khi gia đình tổ chức tiệc, nếu có chủ lẫn khách chỉ có 13 người thì chủ nhà phải tìm cho được vị khách thứ 14.

Ngày thứ Sáu và con số 13 cũng có một cách giải thích khác bắt nguồn từ một số ý tưởng tồn tại trước ngày Chúa giáng sinh : người ta tin rằng cứ mỗi ngày thứ Sáu, có 12 tảo phù thủy cùng một con quỷ tụ họp lại với nhau để bàn bạc việc gieo rắc chuyện kinh hoàng cho con người. Có bộ phim nhan đề ‘Friday of 13th’ gợi tả những trái ngang do sự xếp đặt để làm khổ người ta!

Tuy nhiên, xin chớ tưởng con số 13 là con số độc quyền của sự mê tín. Ở Ý, nhiều người rất kỹ con số 17, bởi vì con số này viết theo kiểu tra số La Mã là XVII, theo phép đảo chữ (anagramme), có thể viết thành VIXI, mà trong tiếng Latin, VIXI có nghĩa là “Tôi đã từng sống”, tức là “Tôi đã chết”. Trong giới trẻ sành điệu hiện nay, có điện thoại mang bốn con số 4 (4444) là một niềm tự hào lớn lao, không dễ gì có được, nhưng với người Nhật Bản thì không có gì đáng sợ bằng bốn con số này. Trong tiếng Nhật, con số 4 đọc là “shi”, mà âm “shi” cũng có nghĩa là “chết”. Có đến bốn con số 4 thì không còn có hy vọng gì… thoát chết!

Hồi thế chiến thứ nhất (1914 - 1918), có một điều mê tín rất...dễ thương và cảm động. Tại mặt trận Verdun ở Pháp, trước khi tham dự một trận đánh, nhiều người lính soát xét lại trong túi mình có còn chiếc vé khứ hồi tuyến xe điện ngầm hay không. Họ mua vé khứ hồi để luôn sống với niềm tin rằng một ngày nào đó sẽ trở về đoàn tụ với gia đình. Họ tin chiếc vé đó có đủ uy lực giúp cho sự thực diễn ra đúng như mơ ước. Câu chuyện này được thi hào Pháp Guillaume Apollinaire nhắc lại như một trong những điều mê tín của con người khi đối mặt trước hiểm nguy, một cách giải stress và xua đuổi phần nào nỗi lo trước cái chết đang cận kề.

Ngày trước, các thủy thủ đi biển lâu ngày, cuộc sống may rủi khôn lường nên họ có nhiều kiêng kỵ khó hiểu so với người bình thường, chẳng hạn như không ai được chúc họ “thượng lộ bình an”, vì chúc như thế là bảo họ lên cõi trời luôn đi! Họ cũng không bao giờ mang lên tàu vật dụng có hình con thỏ. Chuyện kể rằng : ban đầu, các thủy thủ đoàn thường mang những con thỏ lên tàu cho vui, ai ngờ có những con trốn khỏi tay chủ và gặm nhấm gỗ thành tàu và tàu bị chìm. Từ đó, con vật hiền lành này trở thành biểu tượng đáng sợ của người đi biển. Ngày nay, điều mê tín này đã không còn, nhưng những thủy thủ thường sờ vào chiếc mũ có túp len màu đỏ làm bằng lông thỏ đề… cầu may.

Câu chuyện mê tín về chiếc gương soi cũng bắt nguồn từ một giai thoại thú vị. Vào thế kỷ XV, những chiếc gương soi đầu tiên sản xuất tại Venice (Ý) rất đắt tiền và dễ vỡ nên các bà chủ nhà thường xuyên căn dặn, răn đe đám hầu cận trong nhà hết sức thận trọng để không làm vỡ gương. Không lâu sau, ngoại trừ trường hợp có ý “đập cố kính ra tìm lấy bóng” như vua Tự Đức, những ai vô ý làm vỡ gương soi đều lo sợ điều đó sẽ mang lại xui xẻo cho khổ chủ.

Trường hợp chiếc dù (ô) cũng tương tự. Chúng được ra đời trước tiên ở London (Anh) vào thế kỷ XVIII, có những chiếc gọng bằng kim khí cứng và khó giương, có thể gây nguy hiểm cho người và vật chung quanh. Ngày nay vẫn còn nhiều người không dám giương dù trong nhà do tin là làm việc này sẽ gây xui xẻo cho người có dù. Dù sao mê tín này cũng có lợi của nó: giương dù trong nhà chật chội thì coi chừng nó có thể làm mù mắt như chơi.

Gần với chúng ta hơn, ngày 12/7/1998, đội tuyển bóng đá Pháp đoạt chức vô địch bóng đá thế giới. Trước mỗi trận đấu, trung vệ Laurent Blanc lại tiến đến ôm hôn thắm thiết cái đầu bóng láng của thủ môn Fabien Barthez, vì tin rằng hành động này sẽ mang lại may mắn cho đội bóng. Hai năm sau (2000), đội tuyển Pháp lại đoạt chức vô địch châu Âu và cái đầu hói của Barthez lại một lần nữa được tuyên dương. Ngày nay, nhiều đội bóng Châu Âu cũng có những chuyện mê tín tương tự. Họ có nhiều màu áo khác nhau, khi họ thắng trận trước trong màu áo nào thì trận sau cũng sẽ đá trong màu áo đó và sẽ có tranh đấu giữ cho được màu áo này trong trường hợp đối thủ có cùng màu áo.

Chuyện ở tây đã vậy, chuyện ở ta cũng không thiếu những thói tục tin kiêng xem ra thành những gánh nặng cho cuộc sống tự do cuả xã hội. Những kiêng kỵ trong ngày cưới hỏi, ma chay lắm khi khiến thân nhân dở khóc dở cười.

Đó là những chuyện mê tín còn có thể giải thích bằng cách này hay cách khác, hoặc truy nguyên nguồn gốc của chúng. Trong sinh hoạt của con người hôm nay, còn lắm điều mê tín khác, trong đó nhiều điều không biết giải thích cách nào hay tìm xuất xứ từ đâu.

Xin nêu một số trường hợp để mỗi chúng ta có thể tham khảo hầu tránh đụng chạm đến chúng, giúp cho những giao tiếp hàng ngày, nhất là trên lãnh vực giao tế với người không cùng quốc gia, để công việc được trôi chảy thuận lợi, dù biết rằng đó là những thói tục mê tín :

- Nếu một phụ nữ đặt hai chiếc thìa lên cùng một cái đĩa thì điều đó có nghĩa là bà sẽ sinh đôi, hai đứa bé có tóc vàng (Anh). Nếu trẻ con xếp cuống bắp cải quanh cửa chính và cửa sổ của một ngôi nhà trong ngày lễ Halloween thì các bà tiên sẽ mang đến cho chúng một đứa em trai hay em gái (Scotland).

- Đứa trẻ sẽ sinh ra với cái đầu cá, nếu bà mẹ không chịu từ bỏ sự đam mê ăn cá (quan niệm của người Canada nói tiếng Pháp).

- Nếu bà mẹ mang giày cao gót khi mang thai, đứa con sinh ra sẽ bị lác (lé) mắt (Guyana).

-  Trước ngày cưới không nên mua một chiếc đồng hồ khác, vì điều này tiên báo là mối quan hệ nam nữ đang đi đến kết thúc.

- Nếu chỉ thổi trong một hơi mà tắt hết tất cả các cây nến trên chiếc bánh sinh nhật thì những gì đang cầu mong sẽ trở thành hiện thực.

- Đối với người phương Tây, con mèo đen tượng trưng cho những điều xui xẻo nhất.

-  Đặt một chiếc nón trên giường là điềm không may (Nam Carolina, Mỹ).

- Đặt chìa khóa trên bàn cũng là điềm không may (Thụy Điển).

- Ở Argentina, nhiều người tin là từ menem đồng nghĩa với xui xẻo nên dân chúng thường dùng chữ Mendez thay vì Menem để gọi tên họ của cựu Tổng thống Cailos Menem.

- Khi bạn đang nói về một điều may mắn, hãy dùng tay gõ vào gỗ.

- Chim hoang dã bay vào nhà là điềm chẳng lành.

- Cắm cây đũa thẳng đứng trong một chén cơm là dấu hiệu của cái chết.

- Nhìn thấy một con cú vào ban ngày là điềm chẳng lành.

- Làm rơi một cây dù trên sàn nhà nghĩa là sẽ có một án mạng trong nhà.

- Treo chiếc móng ngựa ở cửa ra vào sẽ có được nhiều vận may.

-  Không bao giờ nên đi qua dưới một chiếc thang.

- Tiếng chuông gióng lên là để xua đuổi ma quỷ.

- Rơi cái nĩa là sắp có khách đến chơi!

Chắc những chuyện mê tín na ná như vậy ở Việt Nam cũng đầy dẫy và nực cười cho những người ‘cứng lòng tin’. Chẳng phải chỉ có những người ‘ngoại’ mê tín đâu, cả những người Công giáo cũng mê tín ra trò đấy!

4.           RANH GIỚI NIỀM TIN

Từ chuyện ma đến chuyện mê tín cũng quanh quẩn, lòng vòng trong cái cảm thức bất an của con người. Cả khi những giáo huấn tôn giáo đã vạch ra những tiêu chí cuả niềm tin và đối tượng để tin, con người vẫn chưa thoát khỏi tâm trạng lững lờ cuả cảm giác sợ ma, chuyện hên xui may rủi. Các môn đệ Đức Giêsu cũng hoa mắt trên biển đêm để chỉ nhìn thấy Thầy như bóng ma : “ma kià”. Chỉ một người có cảm tình nhiều hơn với Thầy và có nhận xét khôn ngoan hơn mới xác định “Thầy đó”.

Có đạo là một chuyện. Tin đạo và sống đạo lại là chuyện khác, ngay cả những chuyện mê tín trong giới “amen” cũng không hiếm đâu. Tôi không vơ đũa cả nắm, nhưng cũng mạnh miệng nói rằng ranh giới giữa lòng thành cuả giáo dân với ngưỡng cửa mê tín cũng mong manh lắm! Nước phép được tin dùng như một lá buà trừ ma, để chưã bệnh…đau mắt, theo kiểu thể lý chứ không mang yếu tố tín lý. Ảnh tượng Chuá, các thánh…cũng mang tính phù phép, thương mại hơn là sự suy tôn yêu mến. Đức mẹ chỗ này “thiêng” hơn Đức Mẹ chỗ kia, cha này trừ quỷ ‘giỏi’ hơn cha khác, thánh này linh hơn thánh nọ! Cha này, sơ nọ khấn linh lắm, cầu cho cả người vô sinh thành có thai…mà chẳng theo ‘lẽ thường’ chút nào! Làm như là các bậc thần thánh cũng được đưa lên bàn cân để ước lượng mức ‘thần lực’, hầu được cầu khấn nhiều hơn. Hễ được cầu khấn nhiều hơn thì ‘bổng lộc’ cao hơn chăng? Đó đây vẫn còn âm vang chuyện lạ Đức mẹ khóc chỗ này hay hiển linh nơi khác, dân chúng túa đến để cầu nguyện cũng có, để thỏa óc hiếu kỳ cũng có…và cũng là cơ hội cho những kẻ thời cơ làm tiền như giao thông, hàng quán, bán buôn hình ảnh lạ. Tính linh thánh bị xóa mờ bởi tính kinh tế và thời vụ!

Là con người sống trong ân sủng, là Kitô hữu, nếu không cẩn thận và không sống đức tin trưởng thành, chúng ta cũng uà vào xu hướng cuả đám đông mà không phân biệt đâu là giáo lý đức tin, đâu là những ranh giới sẽ đi ra ngoài lý tưởng Kitô hữu. Việc giáo dục đức tin đang là nhu cầu cấp thiết mà những bậc hữu trách cần chú trọng và phát triển thật rộng, thật sâu trong lòng người. Cứ cứng tin như Tôma đôi khi cũng có ích, cho dù đức tin không phải là đồ để cân đo, đong đếm, nhưng ít ra ra đó phải là một cảm nghiệm cuả chính bản thân. Toma đã cảm nhận ‘Thiên Chuá cuả tôi’ khi đã có cơ hội kiểm chứng. Cái phúc cuả kẻ không thấy mà tin nó hình thành trong sự tín thác chứ không lòng vòng trong cái hàm hồ của những lời tiên đoán, gieo quẻ.

Thiên Chuá là Chuá của kẻ sống. Cái chết thể lý cuả cuộc sống con người không phải là đoạn cuối tình yêu mà là khởi đầu cho một tình yêu hoàn hảo. Chẳng có thây ma trước mặt Thiên Chúa, vì tất cả đều đã sống trong sự phục sinh cuả Đức Kitô Giêsu, và những bước chân tương lai cũng nằm gọn trong tình thương quan phòng cuả lòng thương xót vô biên. Thế thì việc gì phải vấn nạn với qúy tiên sinh bói toán để giải hạn cuộc đời?

Đức Giêsu cũng đã chạm vào những trăn trở về tương lai nơi cuộc sống con người, nên câu chuyện con chim sẻ chẳng đáng một xu, sợi tóc trên đầu rụng xuống… được đưa làm ví dụ dẫn chứng cho tình thương quan phòng cuả Cha trên trời. Đừng lo chi ngày mai, ngày nào có sự khốn khó đủ cho ngày ấy. Phần chúng ta, hãy tín thác đường đời cho Chuá, Ngài lo cho chúng ta. Chúng ta có bon chen cầu tài…thì giàu có thêm hay sống lâu thêm được vài phút không? Những lý luận này hầu như người tín hữu nào cũng hiểu được, nhưng sự tín thác thì chưa hẳn.

Sự giáo dục đức tin trong mỗi gia đình, xứ đạo về chiều kích phó thác cũng cần được chú tâm. Và tôi cũng chỉ xin thêm một câu nữa : Hãy đọc thật tin tưởng ‘kinh Lạy Cha’ với từng ý nghiã, với tất cả lòng thành, lòng cậy trông và yêu mến. Chỉ bấy nhiêu thôi, cuộc đời con người đã quá vững dạ an lòng.

 

Bs. Trần Minh Trinh


Mục Lục Sống Lời Chúa