Cao nguyên chiều Thứ Bảy
“Chuyến xe khách
Sài Gòn- Bảo Lộc đã đưa tôi rời xa Sài Gòn vào một buổi sáng đẹp trời. Con
đường Quốc lộ 1A thay tôi tạm biệt Thành Phố để đến một vùng đất mới. Một vùng
đất tôi chưa một lần biết đến, chưa một lần tưởng tượng tồi một ngày nào đó tôi
sẽ dừng chân. Mơ hồ trong hồi hộp không biết tôi sẽ sống ở đó như thế nào?
Những con người ở đó ra sao và những tháng ngày thực tập dẫn tôi đi về đâu?
Những ưu tư cứ luẩn quẩn trong đầu. Rồi tôi bất chợt nhận ra sao mình lo lắng
nhiều chuyện quá khi tất cả còn là phía trước. Chúa Giêsu đã nhắn nhủ người
Tông đồ ra đi không được mang theo gì, không có sự chuẩn bị nào cả vì họ không
ra đi một mình mà đi trong sứ vụ của Đấng đã tiên liệu mọi sự. Vậy cớ gì tôi cứ
phải băn khoăn. Khép hờ đôi mắt, cố hướng về Thiên Chúa và an định tinh thần.”
***
Có lẽ cảm xúc
của tôi cũng là cảm số chung cho tất cả các bạn tập sinh cùng lớp. Chúng tôi
nuôi trong lòng ước vọng được tận hiến, được bước chân đến những vùng đất xa
xôi, để rao truyền niềm tin Đức Kitô cho cuộc đời, cho mọi người. Chúng tôi gặp
nhau trong lý tưởng và cùng đồng hành với linh đạo của Tu Hội để rồi từ Tu Hội
chúng tôi khởi bước thực hiện ước mơ. Chúng tôi ra đi, những dấu chân non còn
vụng về, vướng víu, bỡ ngỡ trước chân trời thực tế không giống như trang web mà
mình đã thiết kế thật xinh tươi.
Vùng đất tôi và
các bạn cùng lớp đặt chân tới đều là những rừng núi hoang sơ: Đoàn Kết, Lê Văn
Phụng, Lán Tranh hay Suối Mơ … những cái tên sao mà thơ mộng, sao mà thân
thương, sao mà ngọt ngào mời mọc đến lạ. Và đặt chân đến rồi cũng thật lạ biết
bao! Tôi không biết những ngày khởi đầu sứ vụ của các bạn thế nào, còn tôi, Lê
Văn Phụng- một Giáo họ lẻ của Giáo xứ Tân Hoá thuộc Giáo phận Đà Lạt đồng thời
cũng là một cứ điểm truyền giáo của Tu Hội- đã để lại lòng tôi sao xuyến những
nỗi niềm, những nỗi niềm đọng lại thành những dấu chấm cảm còn bỏ ngỏ…
Lê Văn Phụng một
chiều không gió, cái lạnh vẫn cứ se se, đồi núi tĩnh lặng- yên ắng, trời chiều
thật gần. Tôi đứng trên cao nguyên xanh thẳm mà hồn mãi chạy mênh mang, lông
nhông với đất trời, cỏ cây và xóm núi. Tôi thích gọi Lê Văn Phụng là xóm núi vì
quanh quẩn cũng chỉ là những ngọn đồi ôm lấy cao nguyên tình tứ. Bốn tháng ở Lê
Văn Phụng không dài và cũng chẳng ngắn, thời gian vẫn cứ là thời gian, dài hay
ngắn hệ tại ở lòng người. Tỉ như có ngày nắng vẫn chang chang, trời xanh mây
trắng nên thơ một ngày mà lòng người vẫn cứ
dằng dặc thì ngày ấy cũng lê thê; và lắm lúc mưa dầm dề ướt sũng những
lối đi, nằm đắp chăn, mưa buồn héo hắt vậy mà có người bảo “hôm nay trời mau
tối thế nhỉ!”... những tháng ngày ở Lê Văn Phụng trong tôi cũng thế, cũng buồn
cũng vui, cũng dài cũng ngắn song điều còn lại là tôi cảm thấy Lê Văn Phụng
thật đáng yêu từ mảnh đất, vườn cây, đến mái lá, đến con đường và hơn nữa vẫn
là thụ tạo xinh đẹp và cao quý. Vâng! Chính là con người, người Lê Văn Phụng
thật dễ thương quá bạn ạ!
Sao mà họ chất
phát, đơn sơ… có lúc đến quê mùa và ngớ ngẩn. Họ là những người già trẻ lớn bé
và hầu như họ có cùng một điểm chung. Nghèo. Nghèo ăn, nghèo uống, nghèo mặc,
nghèo một con đường làm phương tiện. Thật! Nếu bạn đến Lê Văn Phụng bạn sẽ cảm nếm thế nào là
“dốc lên khúc khuỷ dốc thăm thẳm”, con đường sao mà gồ ghề đến sợ, nhất là những
ngày mưa sình lầy mới kinh khủng làm sao. Lê Văn Phụng là thế đấy bạn ạ, dường
như sự thiếu thốn đã cột chặt cuộc đời họ với núi rừng hoang vu rồi. Trẻ em
không có một ước mơ để ấp ủ, học được vài ba lớp cho biết cái chữ rồi kéo nhau
cầm cuốc lên nương. Thật xót xa làm sao! Cha mẹ chúng chữ A bẻ đôi không biết
đến lượt chúng cũng chẳng hơn kém gì. Tôi tự hỏi truyền giáo là như thế nào? Là
truyền đạo đấy à?! Ôi! Làm sao có thể nghĩ truyền giáo một cách ấu trĩ như thế!
Mà tôi có thể làm gì cho họ! Họ đang đói tôi không thể cho họ bát cơm, họ không
có mái lá để che nắng mưa mà tôi thì không thể cho họ căn nhà. Nhìn đôi mắt trẻ
thơ long lanh tôi cũng không biết làm sao để cho chúng một ước mơ, gieo cho
chúng một mầm xanh hy vọng. Vậy tôi đến với họ để làm gì? Một cái gì đó quặn
thắt cõi lòng. Nhưng rồi bạn biết không! Chính nhờ bí tích Thánh Thể mà tôi
hiểu được giá trị của mình. Đức Kitô đã yêu thương nhân loại nên trước khi về
trời, Ngài hiểu con người cần gì, muốn gì; con người muốn được chia sẻ, cần sự
hiện diện, cần được đồng điệu song hành và Ngài đã lập bí tích Thánh Thể để “ ở
lại với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Vâng! Tôi và các chị trong cộng đoàn đã hiện diện với
họ và có lẽ như thế cũng đủ lắm rồi. Mọi sự còn lại là của Thiên Chúa.
Xuýt nữa tôi
quên! Họ có chung một điểm nghèo thì họ lại đặc biệt có chung một điểm giàu đó
là niềm tin và tình yêu. Những chiều thứ bảy cuối tuần, Cha xứ từ ngoài thị xã
dong xe vào giáo họ lẻ nghèo nàn để hiệp dâng Thánh lễ nơi căn nhà nguyện vách
gỗ cọt kẹt. Người linh mục tận tâm vất vả vật lộn với con dốc dài trơn trợt,
khi nhào bên phải khi nghiêng bên trái, khi thì chạy trên sóng lưng của mỏm đất
nhô chênh vênh khi thì lọt tõm xuống vũng sâu lầy lội. Người Linh mục lấm láp
đất bùn chẳng khác gì giáo dân cũng ống xăn ống rớt, bước thấp bước cao để đến
nhà nguyện và “cả Cha và con” trong thân phận lấm láp cùng nhau thắp lên một
niềm tin. Chỉ khi đó tôi mới thấy khuôn mặt của họ thôi khắc khổ. Họ tìm thấy
một tiếng nói chung trong lời kinh, tiếng hát, tìm thấy một niềm ủi an sâu
thẳm. Nụ cười của họ trong trẻo sáng ngời. Tôi thiết nghĩ con người sống nên có
một tín ngưỡng để khi mọi hư ảo cuộc đời qua đi, họ có một người bạn chìm khuất
chia sẻ những góc riêng của tâm hồn, điều đó cần lắm chứ.
Chiều thứ bảy ở
cao nguyên thật đẹp. Không chỉ đẹp ở núi rừng hoang dã mà còn đẹp ở một niềm
tin đã được tuyên xưng chói lọi, khuất phục mọi đớn đau, nghiệt ngã, thử thách
của số phận. Người Lê Văn Phụng vẫn nghèo lắm một tri thức, vẫn nghèo lắm một
khát vọng, vẫn nghèo lắm một thế giới vật chất tiện nghi mà trào lưu thế giới
đang phát triển vượt bậc. Thế nhưng họ không nghèo tình yêu nhất là tình yêu
Kitô hữu. Họ tha thiết được gặp nhau quanh bàn tiệc Thánh Thể do chính Chúa
Giêsu thết đãi. Họ tha thiết tham gia vào những sinh hoạt hằng ngày của đời
sống Giáo Hội. Cái đói, cái khổ làm cho họ chẳng còn dám mơ ước đến vinh quang
ngày mai được làm ông này bà nọ nhưng chẳng đủ sức hạ gục niềm tin về một trời
mới đất mới. Niềm tin của họ mạnh mẽ lạ lùng đến nỗi khiến tôi cũng phải cúi
mặt e thẹn cho việc sống đức tin của mình.
Khi mọi sự xảy
ra đã trở thành thói quen bạn sẽ chẳng còn nếm được sự ngọt ngào. Những chiều
thứ bảy ở Lê Văn Phụng giúp tôi nhận ra đời sống đức tin mới thiết thực làm
sao. Tôi không thể sống như một thói quen (đi lễ cho có đi, đọc kinh cho có
đọc,…) mà là một sự ý thức, một sự khát
khao, và là một hiện tại.
Bạn thấy đấy,
trên cao nguyên còn hoang sơ nhưng đã có sự hiện diện của Giáo Hội, đã có đời
sống chứng tá Phúc âm, như vậy thì cao
nguyên đó đẹp quá phải không bạn!!!!!!
Vô
Thường, ICM