Cuộc đổi đời của một
phụ nữ bất an
“Sáng mùa xuân năm 1978 hôm đó, tôi dậy
sớm, vì không ngủ được nữa. Đang khi chồng và hai đứa con gái còn ngủ, tôi làm
một vài việc trong nhà bếp, bị dằn vặt bởi một nỗi lo âu, tôi vịn tay vào cửa sổ
nhìn ra ngoài, trời xám xịt cũng như tâm hồn tôi lúc đó. Trí óc tôi đưa về qúa
khứ. Như trong một cuốn phim, tôi sống lại những chặng đời mình, bắt đầu từ thời
niên thiếu bất an tại một ngôi làng nhỏ trên vùng núi.
“Không chịu được những luật lệ và ngăn cấm
của một thế giới nhỏ bé, lúc 15 tuổi tôi đi làm tại một lò gốm với những đứa
con gái khác. Lúc đó chúng tôi là những công nhân đầu tiên trong vùng. Bị bóc lột.
Dĩ nhiên là với tính tình nóng nảy tôi cảm thấy máu xôi xục trước những bất công
xã hội. Vì thế cùng với ba đứa bạn khác chúng tôi đi vào qũy đạo công đoàn. Và
khi được tin là ở nhà thờ cha xứ cho chúng tôi vào hạng người xấu, chúng tôi đến
phản đối: sao cha lại được phép phán đoán chúng tôi mà không đích thân xem xét điều
kiện làm việc của chúng tôi?
“Rồi vào tuổi 17 bi kịch xảy đến trong đời
tôi: mọi sự xụp đổ với cái chết bệnh của người cha mà tôi rất thương mến. Nếu
thực sự có một Thiên Chúa, thì đó là một Chúa bất công, tôi không muốn dính dáng
gì đến Chúa ấy nữa. Và trong thâm tâm một tiếng kêu gào: tại sao người ta sống?
Tôi sống làm gì? Chính vì thế mà vì bất mãn với cách sống ít phù hợp tôi nhìn
thấy giữa lời nói và việc làm, nên tôi dần dần bỏ niềm tin đã nhận được từ hồi nhỏ.
“Tôi và chồng, chúng tôi quen biết nhau
từ khi còn rất trẻ. Tôi thích anh ngay, vì chúng tôi có cùng những lý tưởng công
bằng xã hội, và vì nhiều đứa con gái khác bu quanh, nên tôi làm mọi cách để
chinh phục anh. Chúng tôi yêu nhau một cách điên cuồng, và sau khi kết hôn năm
1968, tôi theo anh đến một thành phố lớn. Anh làm ở ngân hàng, tôi làm nghề
may: mọi sự xem ra xuôi chảy. Nhưng sau thời gian hứng khởi, những khuyết điểm
của cả hai lộ rõ, dần dần chúng trở thành những mâu thuẫn. Hơn nữa, vì xa nhà tôi
cảm thấy rất cô đơn.
“Cho dù thuyên chuyển đến thành phố vùng
biển này, sau một năm, sự việc thay đổi. Chồng không còn màng gì đến tôi, vì việc
làm và vì chơi bài, bắt tôi phải một mình lo lắng và giáo dục hai đứa con. Trước
đó tôi tin là hôn nhân đổ đầy những thiếu thốn tình cảm của mình, cũng như, khi
tranh đấu trong công đoàn cộng sản, tôi tìm cách lấy hoạt động khắc phục sự trống
rỗng nội tâm, trái lại bây giờ tôi thấy mình còn trống rỗng và cô đơn hơn trước.
Không có bạn bè để tôi bàn hỏi hay chia sẻ. Chiếc điện thoại chỉ làm đồ trang
trí mà không bao giờ reo.
“Tình trạng nên tồi tệ; chúng tôi đi đến
giai đoạn không hiểu nhau nữa, đến thái độ im lặng kéo dài, chỉ ngắt quãng bằng
những cuộc cãi cọ và chửi bới. Chúng tôi còn tìm dịp cãi nhau, tôi thì để hả cơn
giận, còn chồng thì để có cớ đi chơi bài với bạn bè, sau khi đóng xập cánh cửa.
“Sáng mùa xuân hôm đó, đứng bên cửa sổ,
tôi đang nghĩ về tất cả những chuyện này. Cả cuộc đời tôi xem ra không có mục đích
gì: hoàn toàn thất bại như người vợ và người mẹ. Sống làm sao trong những điều
kiện này?
“Đang khi nước mắt dàn dụa trên khuôn mặt,
tôi nhận ra cái mái nhà thờ ở giữa những vườn nho. Thật lạ, đã từ sáu năm nay sống
tại ngoại ô thành phố này, nhưng chưa baáco giờ tôi nhận ra ngôi nhà thờ đó. Cái
nhìn ấy gợi lại trong trí nhớ tôi một thế giới bị quên lãng. Từ biết bao lâu tôi
đã không đặt chân đến nhà thờ! Tôi lau nước mắt, thay áo đi ra ngoài. Tôi đến
nhà thờ đang khi có buổi lễ chủ nhật. Đến lúc đọc Tin mừng, vị linh mục đọc đoạn
ông La-da-rô sống lại mà tôi tuyệt đối chưa hề nghe. Chăm chú lắng nghe, tôi cảm
thấy giật nẩy mình, khi Chúa Giêsu bật lên khóc trước mồ người bạn. Tôi cảm thấy
Người ở bên cạnh, khóc với tôi, không còn phải là những giọt nước mắt cay đắng
lúc trước, mà là những giọt nước mắt an ủi: tôi đã tìm được người bạn đích thực!
“Tôi xúc động trở về nhà. Chồng và hai đứa
con đã đi chơi. Trước khi xếp đặt lại phòng ngủ, tôi nhớ lại là hồi cưới, người
ta đã tặng cho chúng tôi một cuốn Tin mừng mà tôi chưa bao giờ mở ra. Sau khi tìm
được, tôi mở sách: tôi muốn tìm đoạn nói về cuộc sống lại của La-da-rô nghe ở
nhà thờ. Tôi đọc đi đọc lại, uống lấy những lời ấy như người đi qua sa mạc và bất
ngờ tìm được nguồn nước. Những cái trống rỗng chồng chất trong suốt thời gian đó
nay xem ra nhờ ơn Chúa được đổ đầy.
“Chủ nhật sau tôi trở lại nhà thờ, điều đó
cũng lặp lại. Trước đó tôi ghét các linh mục thì nay tôi phải nhận ra là cha xứ
trẻ có mái tóc quăn đó khác với các linh mục khác: trong bài giảng cha thêm vào
những lời giải thích bằng những kinh nghiệm bản thân lôi kéo nhiều người. Sau một
cuộc xưng tội với cha tôi xác nhận sự mới mé đó.
“Tiếp theo cha xứ giới thiệu với tôi một
số giáo dân, họ tìm cách đem thực hành những giáo huấn của Tin mừng. Việc đó rất
đòi hỏi, vì những giới hạn của tôi; nhưng tôi không còn cô đơn nữa, và từ những
cuộc gặp gỡ định kỳ tại một trong những nhà của họ để trao đổi với nhau những
kinh nghiệm đã sống, mỗi lần ra về tôi đều cảm thấy được khích lệ trở nên món
quà cho người khác. Với sự quyết liệt lúc trước, tôi tìm cách sống những gì tôi
học được. Tất cả biến thành niềm vui.
“Sau một cuộc đi thăm một giáo xứ khác,
tôi trở về ngẫm nghĩ một câu nghe hôm đó: “Bất kỳ điều gì anh em làm cho một
trong những người anh em bé nhỏ của ta, là làm cho chính ta”. Bao giờ tôi cũng
trọng người yếu đuối, nghèo hèn, người sống bên lề, bất kỳ người nào thiếu thốn.
Nhưng lúc này những người bên cạnh đầu tiên của tôi là chồng và các con tôi.
“Lúc đầu, khi thấy tôi thay đổi, chồng tôi
cho là tôi điên: tôi không còn cãi cọ với anh nữa, tôi bỏ qua những lời khiêu
khích, tôi đến gặp những linh mục mà anh cho là những “người ăn bám”, tôi đọc sách
Tin mừng, tôi hỏi ý kiến anh cả về những điều nhỏ nhặt, vì cho là cùng nhau quyết
định thì vẫn tốt hơn… Tiếp đó sự tò mò đã thắng cuộc, một hôm anh muốn cùng tôi
đến nhà thờ, nghe cha sứ giải thích Thánh kinh một cách dễ hiểu. Từ đó anh không
bao giờ bỏ cái hẹn đó và mỗi lần đều tìm ra điều mới mé…”
Sau đó hai vợ chồng trở nên những người
chủ động trong giáo xứ. Người chồng đã qua đời năm 1987, nhưng chị tiếp tục
sinh hoạt. (Città Nuova, n.2, 25/1/2013).