Sinh Viên Tu Sĩ 1025
Giới thiệu tác giả
Cô Marie Carré là một nữ y tá người Pháp.
Cô đã trở lại đạo Công Giáo vào năm 1965. Qua đời ở thành phố Marseille, Pháp
vào năm 1984.
Tháng 5-1972, cô cho
xuất bản cuốn ES-1025 – Elève Seminariste 1025
Người phụ trách xuất
bản xác định câu chuyện cô kể đúng sự thật, tuy nhiên cô có sửa đổi bản văn đôi
chút cho dễ đọc.
Độc giả nên nhận xét và
phán đoán về nhân vật mang danh số 1025, những dự án và công tác anh đã thực
hiện trong Giáo Hội Công Giáo.
Đâu là những hậu quả
tai hại anh và tổ chức của anh đã đạt được trong nửa thế kỷ qua ?
——————————————————-
Lời mở đầu
Làm sao một người không
phải là văn sĩ lại bắt đầu viết sách ? Hay là làm sao cắt nghĩa được là một
người cảm thấy có trách nhiệm phải xuất bản tập Ký Ức này ? – một tập ký ức
kinh hoàng !
Hơn nữa, tôi xin nói là
những trang đầu này là một lời kêu gọi người Công Giáo hôm nay qua hình thức
một lời tựa, hay nói đúng hơn là một lời xưng tội. Phải, “một lời xưng tội” thì
đúng, dầu không ai muốn dùng từ này ngày nay.
Tôi chỉ là một nữ y tá
và tôi gặp một người bị chết vì tai nạn xe trong một nhà thương kia – tôi xin
giấu tên. Ông ta là một người không tên, không quốc tịch, tôi muốn nói là không
có giấy tờ gì để biết được lý lịch của ông.
Nhưng ông lại mang một
cái cặp trong chứa nhiều tài liệu và tôi bó buộc phải xem. Một trong các tài
liệu bắt đầu bằng câu: “Tôi là một người không tên, không gia đình, không quê
hương và không gia sản”
Các tài liệu dầy khoảng
một trăm trang đánh máy này đã không giúp tôi tìm ra danh tánh của người bị
thương !
Hơn nữa, tôi xin khai
thật, vì tôi nhắc đến việc xưng tội, nên tôi xin hoàn toàn thành thật về việc
này: tôi đã quyết định đọc các tài liệu riêng tư này. Tôi đã chiều theo cơn cám
dỗ trên. Tôi không ngờ khi để cho cơn tò mò của nữ tính mạnh hơn các quan tâm
nghề nghiệp của một y tá, thì việc đọc tài liệu đã giày vò và đè nặng lên tâm
tư tôi.
Vì tập tài liệu quá
quan trọng nên tôi không thể quăng vào lửa và cũng không dám đưa cho người
khác. Là người Tin Lành trở lại Công Giáo, tôi yêu mến Giáo Hội, tôi phải đặt
việc bênh vực Giáo Hội lên trên các lý do khác.
Tôi đã cố tìm hiểu về
anh; khi hỏi, tôi xin anh nhắm mắt lại nếu anh muốn trả lời là đúng, lúc đó tôi
chưa đọc tập tài liệu này. Nhưng anh đã không trả lời vì không còn sức hay
không muốn. Tôi không bao giờ biết được !
Chỉ sau khi anh qua đời
và sau khi đã đọc tập tài liệu trên, tôi mới nhận ra là anh đã đau khổ gấp ngàn
lần vì đã dại dột viết tập Ký Ức Kinh Hoàng này hơn là vì chính vết thương của
anh.
Nếu tôi biết được sức
mạnh ghê gớm và tầm quan trọng không thể lường được của con người này, giờ đây
không khác gì một khúc cây, tôi đã tìm lời để nói lên những điều anh cần phải
nghe. Tôi cũng đã có thể phá tan cái áo giáp mà anh đã sáng chế để che đậy cái
ý tưởng hắc ám của anh. Cái áo giáp đã được tôi luyện bằng hằng bao năm cực
khổ, cũng có thể bị phá tan trong không đầy một giây. Thiên Chúa và các Thánh
biết điều này.
Nhưng tôi không chỉ
quan tâm đến công việc một người y tá; Phải, điều này hoàn toàn đúng (người ta
không thể tìm được trong sách vở hay các khoá học và ngay cả trong các cuộc
thi), ngoài việc săn sóc bệnh nhân, tôi còn cầu nguyện cho họ. Và tôi cũng cầu
nguyện cho con người này mà người ta cho tôi biết là không mang giấy tờ gì
trong người.
Tôi đặt cho anh ta một
cái tên. Tôi gọi anh là Micae vì Vị Tổng Lãnh Thiên Thần này thường hay giúp đỡ
tôi.
Vì vậy tôi cầu nguyện
cho anh và gọi anh là Micae và chắc chắn anh là một trong những kẻ thù nguy
hiểm nhất của chúng ta. Nếu tôi biết trước điều này, vì bổn phận của một người
Công Giáo, tôi vẫn cầu nguyện cho anh và xin người khác cầu nguyện nhiều hơn nữa.
Bây giờ tôi còn xin lễ
cho anh.
Trong mắt anh Micae có
cái nhìn làm tôi không thể quên được, nhưng tôi không đọc được cái nhìn đó.
Sau khi biết những tâm
tình của anh, tôi cố làm sống dậy trong tôi sức mạnh cái nhìn của anh để biết
anh muốn tôi làm gì với tập Ký Ức này.
Nhưng trước hết tại sao
anh viết ra những điều này ?
Đây có phải là dấu chỉ
của sự yếu đuối, một thứ yếu đuối nguy hiểm duy nhất mà anh đã phạm ? Mục đích
của anh là gì ? Anh muốn tỏ ra mình đang thống trị hay là muốn tìm sự an ủi ?
Chỉ có Chúa mới biết được !
Hôm nay tôi gặp cô bạn
gái, và cô muốn tôi xuất bản tập tài liệu này. Nhưng tôi có quyền làm như vậy
không ?
Cái đau khổ nhất của
tôi là tôi không thể hỏi trong toà giải tội, như tôi đã thường làm cách đây ít
năm.
Xin anh Micae tha thứ
nếu tôi tiết lộ vai trò của anh, tôi hành động chỉ vì lợi ích cho anh và cho cả
chúng ta.
Ad majorem dei Gloriam
– Để cho sáng danh Chúa hơn.
Tôi tự hỏi tại sao tôi
cảm thấy muốn viết lại ký ức của tôi. Thật hơi kỳ lạ ! Tôi nghĩ là tôi nên viết
chúng vì mỗi đêm tôi viết trong chiêm bao, hình như có một sức mạnh vô hình đã
thúc đẩy tôi, tôi còn tưởng tượng là tôi tiếp tục viết cả lúc ban ngày. Nhưng
không quan trọng, tôi nghĩ không bao giờ có ai sẽ được đọc chúng. Đúng lúc, tôi
sẽ thủ tiêu.
—————————————-
Tôi là một người không
tên, không gia đình, không quê hương và không cả dòng tộc. Tôi là một trong số
những người mà kẻ giàu sang quyền thế khinh chê. Vì điều trên và vì những người
đã muốn tốt với tôi, tôi đã ngu đần chấp nhận chịu đau khổ. Tôi mong ước biết
được niềm hạnh phúc nào sẽ phát xuất từ đó ! Nhưng tôi quá trẻ để tiên đoán
được là từ cái bất hạnh có thể phát sinh “bầu trời và ánh sáng”.
Trước hết tôi là một
cậu bé không tên. Hình như là ba tuổi đầu. Tôi khóc và lê la trên một con đường
bên xứ Ba Lan. Đó là vào năm 1920. Như vậy tôi có thể coi mình sinh vào năm
1917. Nhưng xuất xứ từ đâu và ai là cha mẹ ? Hình như là tôi chưa biết nói,
tiếng Ba Lan của tôi rất kém và tiếng Nga còn tệ hơn. Tôi cũng không hiểu tiếng
Đức. Tôi là ai ? Tôi cũng không thể nói được tên tôi. Sau cùng tôi cũng có một
cái tên và trả lời khi người ta gọi tên tôi. Từ này về sau, tôi bằng lòng với
cái tên mà cha mẹ nuôi đã đặt cho tôi.
Ngay hôm nay, sau năm
mươi năm, một làn sóng giận dữ dầu yếu hơn còn xâm chiếm tâm hồn tôi, mỗi khi
tôi nhớ đến ông bà bác sĩ X. Ông bà là người tốt, rộng rãi và cũng đại lượng.
Họ không có con và đã nhận tôi làm con nuôi. Tôi tin là họ thương yêu tôi hơn
cả chính con họ. Họ thương tôi vì tôi đã giúp họ thoát khỏi cái thất vọng mà
bệnh hiếm con đã giáng xuống họ.
Tôi tin là họ coi tôi
như một món quà từ Trời. Vì họ đạo đức đến nỗi mà mọi điều xảy ra cho họ, đều
tin là do Thiên Chúa. Đương nhiên họ cũng dạy tôi nghĩ như vậy. Họ đạo đức đến
nỗi mà tôi chưa bao giờ nghe họ nói xấu người khác.
Khi ông bà tìm thấy tôi
la khóc một mình ngoài đường, lúc đó họ vẫn còn trẻ, khoảng 35 tuổi. Ông bà rất
xinh đẹp và tôi cảm nhận được ngay là một tình yêu mạnh mẽ đã kết hiệp họ. Khi
họ nhìn nhau rồi hôn nhau, một cảm giác tươi đẹp mang lại hạnh phúc cho tôi. Họ
là cha là mẹ của tôi. Tôi muốn nhấn mạnh hết sức hai chữ “của tôi”. Mẹ tôi, đặc
biệt đã yêu thương tôi quá mức đến nỗi nhiều khi tôi cảm thấy khó chịu. Tôi
không biết tại sao như thế. Thường tôi sống bình thản và chăm chỉ học hành. Tôi
không là phiền lòng ông bà. Không phải vì tôi giống con gái. Tôi đánh nhau
không tệ. Không cần phải hung dữ hay có tính tình xấu mới đánh nhau. Cha mẹ
tôi, nhất là mẹ tôi, bà nghĩ là tôi là đứa con ngoan, nhưng họ không nhận thấy
là vì may mắn mà tôi hợp với họ. Tôi nuôi rất nhiều tham vọng và họ chấp nhận
điều đó. Một thằng con trai không còn mong muốn điều gì hơn nữa.
Năm tôi mười bốn tuổi,
gia đình quyết định đi thăm Roma và
Một đêm mắt tôi không
chịu nghe tôi cứ muốn nhắm lại. Tôi nghĩ ba tôi có thuốc chống ngủ. Tôi rón rén
đi ra phòng khách. Ông bà đang ở phòng bên cạnh và nói về tôi. Họ lo lắng về hộ
chiếu của tôi vì tôi không phải con họ.
Đúng là như sét đánh ! Giống như người ta mô tả trong tiểu thuyết. Nhưng
tôi cho là còn tệ hơn nhiều và ngôn ngữ nhân loại không có ngôn từ gì để diễn
đạt sự kinh tởm như thế. Và nỗi đau từ giây phút đó mang một nét đặc thù không
thể lường được, dầu vẫn còn nhỏ như một em bé mới sinh. Như một em bé, nó sẽ
lớn dần và trở nên mạnh mẽ hơn và nạn nhân của nó không thể ngờ được.
Tôi muốn chết phứt đi cho rồi, và tim tôi hình như cũng đập theo hướng này.
Tim tôi đập mạnh biết mấy trong khi toàn thân tôi hình như đã biến thành khối
đá. Tôi lại có thể cựa quậy. Thân xác tôi đau nhừ từ đầu tới chân. Tôi chưa hề
phải nếm mùi đau khổ. Vì thế khi bị lần đầu, thì nó xâm chiếm tôi hoàn toàn và
làm chủ cả cuộc sống tôi một thời gian. Nỗi đau của tôi thúc giục tôi bỏ nhà ra
đi và tôi ra đi tức thì không mang theo một thứ gì hết. Tôi còn muốn ra đi tay
không để không mắc nợ họ gì hết.
Chắc chắn là ông bà đã và đang là “thứ người đó”. Cái hận thù tôi mang đối
với họ cân xứng với tình yêu họ dành cho tôi. Vì họ luôn nói dối với tôi dầu họ
thật sự yêu tôi. Vì vậy tôi sẽ không bao giờ tha thứ họ; trên nguyên tắc tôi
không tha gì hết. Nếu sống hợp tình hợp lý, tôi phải biết ơn họ. Vì nhờ họ mà
hôm nay tôi là một trong những mật vụ nằm vùng lợi hại nhất. Tôi đã trở thành
kẻ thù riêng của Thiên Chúa, kẻ đã quyết định dạy và công bố cho toàn thể thế
giới biết cái chết của Thiên Chúa, Đấng thật sự không bao giờ hiện hữu.
Nỗi đau của tôi thôi thúc tôi chạy xa đến tận Vladivostock – hải cảng thuộc
Nga – tôi bắt đầu đi. Sau ít ngàn phút, dầu tôi là cậu bé lực lưỡng, tôi phải
dựa vào một bức tường để lấy sức. Bức tường trở thành đám mây cho tôi, tôi tụt
xuống đất, kinh hoàng; cùng lúc đó, một tiếng nói hình như vọng lại từ xa: “Tội
nghiệp thằng nhỏ !”
Tôi quay lại với ý muốn bóp cổ người đàn bà đang cố tỏ cho tôi một chút
tình người.
Ý đồ giết người của tôi được hậu thuẫn bằng cả một sự ghê tởm. Tôi sẽ không
bao giờ đụng đến lằn da của người đàn bà xấu xa như thế dầu chỉ bằng đầu ngón
tay. Tôi muốn nói nhưng cổ bị nghẹn. Hai người đàn bà cố ép tôi uống rượu, tôi
nhổ ra, rồi tức thì thấy buốn ngủ.
Ánh sáng ban ngày đánh thức tôi dậy. Một người đàn bà ngồi dưới chân giường
đang nhìn tôi. Vậy là bà đã mang tôi về nhà. Có thể cùng một người đàn bà nhưng
bà không còn trang điểm như trước. Tôi nói với bà: “Bà không xấu như tối hôm
qua”. Bà bình tĩnh trả lời: “Và hơn ngày hôm kia”. Tôi đói quá, tôi xin bà cho
ăn vì đàn bà có bổn phận săn sóc đàn ông. Tôi cũng cho bà biết tức khắc là tôi
sẽ không đòi hỏi gì nữa. Tôi phải công nhận là bà đã mang cho tôi cả tá thức ăn
ngon.
Tôi bắt đầu nhẹ nhàng hơn đối với bà, khi bà nói với tôi: “Em bỏ nhà đi
trốn, em là “thế này thế kia” !”. Tôi không trả lời và chờ xem cái gì sẽ xảy ra
sau đó. Bà nói: “Tôi có thể giúp em trốn qua Nga” – “Làm sao bà biết tôi muốn
đi Nga ?” – “Em nói khi em ngủ” – “Do đó bà biết được tên tôi ?” – “Không, ở
trên báo. Cha mẹ em năn nỉ em trở về. Ông bà hứa sẽ không la mắng em.” – “Tôi
không có cha mẹ”
Bà đã hiểu là tôi quyết định không về nhà vì bà nói: “Tôi có bà con bên
Nga, tôi sẽ giúp em vượt qua biên giới”.
Như một tia sáng loé trong đầu, tôi hỏi bà xem có thể đem một lá thư cho
người bạn thân của tôi không, hắn sẽ đi học về khoảng mười hai giờ trưa. Bà
hình như hãnh diện vì có thể làm một cái gì cho tôi. Tôi chuẩn bị một lá thư
bằng mật mã, may mắn là chúng tôi có thói quen này để nghịch và không ai biết
gì hết. Trong hoàn cảnh khó khăn này, tôi sẽ dùng cái trò chơi bình thường này.
Người bạn tôi là con
nhà giầu, cha mẹ anh chiều con và cho nó tiền nhiều hơn nó cần. Tôi hy vọng hôm
nay nó để dành được khá nhiều tiền vì đang dự tính mua một món gì không cần
thiết. Tôi biết cái tình bạn hắn dành cho tôi – chúng tôi dành cho nhau – quan
trọng trên hết mọi sự và nói sẽ gởi cho tôi tất cả tiền bạc đã để dành được vì
tôi không giấu nó ý định trốn qua Nga, một quốc gia nó thán phục vì các quyết
định táo bạo. Thực sự vì hắn không hợp với bố nó nên nó thích nước Nga, quê
hương của mẹ nó. Tôi cũng biết dầu nó ganh tị với tôi, nhưng nó sẵn sàng chết
chứ không hé môi về việc bỏ nhà đi trốn của tôi. Tôi cũng nhớ là nó có một ông
bác làm công chức tại thành phố
Bà may mắn vì ngày đó
nó đi học về lúc hai giờ trưa.
Thằng bạn tôi nhận ra
bà và đưa cho bà một cái gói. Trong đó có một lá thư dài bằng mật mã cho tôi,
một lá thư bình thường cho ông bác của nó và một bó tiền xinh xắn. Thằng bạn
thật tốt !
Tôi không nói ra vì một
lý do ai cũng đoán được, là làm sao tôi vượt qua biên giới và đến được thành
phố
Bằng khác, cuộc viếng
thăm Bác lần đầu tiên mang một ấn tượng khó quên vì tôi nhớ kỹ trong lòng nên
lấy làm vui mỗi khi sống laị cuộc gặp gỡ này.
Tôi không màng đến vị
trí của Bác trong bộ máy hành chánh Nga, nhưng tôi quyết định thẳng thắn với
ông.
Nếu tôi muốn đạt tới
địa vị đã chọn cho mình, tôi nghĩ tốt nhất là phải ra vẻ thẳng thắn với con
người độc đáo này. Tôi nghĩ là ông hiểu rất rõ ngay khi tôi thăm ông lần đầu và
tôi đã làm ông hài lòng.
Bác bảo tôi trước hết
phải học lý thuyết của Đảng và các ngôn ngữ. Mọi sự đều tuỳ thuộc vào việc học
của tôi. Tôi trả lời là tôi đứng đầu mọi môn và không bao lâu tôi còn giỏi hơn
cả giáo sư.
Chúng tôi đồng ý là tôi
phải có một người mà tôi có thể tin tưởng hoàn toàn. Tôi nói ông là người độc
nhất. Ông khoái chí dầu ông trả lời tôi bằng một nụ cười hơi mỉa mai.
Vào lúc ấy chắc chắn
tôi mạnh mẽ hơn ông và tôi cảm thấy một nỗi vui xâm chiếm tôi, lần đầu tiên tôi
vui từ khi tôi trốn khỏi nhà. Niềm vui không lâu, nhưng với tôi đó là điềm tốt.
Tôi học như điên khùng
trong sáu năm. Hai niềm vui của tôi là mỗi ba tháng đi thăm Bác một lần và thù
ghét Thiên Chúa với niềm xác tín là tôi sẽ trở thành Đại Lãnh Tụ của giới Vô
Thần trên thế giới.
Bác là người bạn độc
nhất của tôi, người độc nhất thật sự biết tôi. Những người khác không quan
trọng. Và tôi đã thành công dễ dàng.
Phụ nữ không hấp dẫn
tôi, tôi còn thù ghét họ là khác và rồi tôi cũng không ưa thích những tên khùng
thích chạy theo đàn bà.
Tôi nhất quyết học tập
tới mức tối đa và tôi được hỗ trợ bằng một trí nhớ vượt bực. Sau khi chăm chỉ
đọc một cuốn sách, tôi có thể thuộc lòng nó, cả khi nó được viết bằng một lối
văn kiểu cách. Nhưng tôi cũng có khả năng chỉ giữ lại những gì có giá trị. Tôi
có thể phê bình cả đến các giáo sư danh tiếng. Tôi thích chủ thuyết vô thần là
nền tảng cho Đảng đến độ tôi hăng hái vô tận.
Sau sáu năm chuyên cần
học tập. Một buổi chiều, Bác gọi tôi lên văn phòng ông. Từ trước đến giờ ông
vẫn thường tiếp tôi tại nhà.
Hôm đó, tôi nhận ra ông
là một sĩ quan công an cao cấp như tôi đã nghi ngờ từ lâu. Ông đưa ra một đề
nghị gay go và ông nghĩ có thể làm phật lòng tôi. Ông bảo tôi: “Bây giờ tôi sẽ
đưa anh đi thực hành một thứ vô thần đấu tranh quốc tế. Anh phải chiến đấu
chống mọi tôn giáo, nhất là Công Giáo, vì Giáo Hội này được tổ chức chu đáo
nhất. Để làm công việc này, anh phải gia nhập vào một chủng viện và trở thành
một linh mục Công Giáo”.
Câu trả lời của tôi chỉ
là im lặng, trong khi đó tôi để cho một niềm vui xâm chiếm tôi, bề ngoài tôi tỏ
ra lạnh lùng. Bác hài lòng và ông không giấu điều đó. Ông bình tĩnh nói tiếp:
“Để có thể vào chủng viện, anh sẽ về lại nước Ba Lan, làm hoà với cha mẹ nuôi
và đi gặp Đức Giám Mục”. Tôi cảm thấy muốn nổi loạn. Từ khi tôi tiếp xúc với
Bác, đây là lần đầu tiên tôi không làm chủ được mình. Ông không những hài lòng
mà còn lấy làm vui về thái độ của tôi. Ông nói: “Anh không phải là con người
được dựng nên bằng đá”. Ý nghĩ này làm tôi nổi khùng và tôi trả lời cụt ngủn:
“Tôi thế đấy, tôi sẽ luôn như thế dầu bất cứ chuyện gì xảy ra”.
Bác có vẻ bình thản,
ông còn lấy làm vui và coi như là sự nghiệp, đường đời và tương lai của tôi (và
cả của Đảng) không tuỳ thuộc vào cái quyết định của ngày hôm nay.
Ông thêm: “Khô khan như
đá là tốt, đức tính quan trọng hàng đầu cho bất cứ ai muốn làm nhân viên tình
báo, nhưng trong hoàn cảnh này anh phải tỏ ra có nhiều tình cảm cho gia đình”.
Tôi cảm thấy mình như một tên hèn nhát và hỏi bằng một giọng buồn thê thảm:
“Còn sáu năm dài trong chủng viện ?”. Ông trả lời tôi bằng một thái độ nghiêm
nghị dành cho kẻ có tội: “Và nếu tôi nói đúng thì anh sẽ trả lời thế nào ?”.
Tôi trả lời dễ dàng là tôi chấp nhận và tôi ngạc nhiên khi thấy mình tinh khôn
hơn ông. Ông tiếp tục cười và nói với tôi: “Phải, anh không thể che dấu là anh
đã nghĩ tôi là một tên ngu đần đã ngây thơ chìa tay ra cho anh”. Tôi đỏ mặt,
điều này chưa bao giờ xảy ra cho tôi.
Ông tiếp: “Một mật vụ
không có máu trong các mạch, không có tim và không yêu ai, không yêu cả đến
chính mình. Người đó thuộc quyền sở hữu của Đảng, Đảng sẽ ăn tươi nuốt sống mà
không báo trước. Nhớ kỹ điều này là bất cứ anh sẽ ở đâu, chúng tôi sẽ theo dõi
anh, và thủ tiêu anh khi anh thiếu khôn ngoan ngay cả vào lần đầu. Anh cũng
phải hiểu là khi anh gặp nguy hiểm, ngay cả khi không phải do lỗi của anh, anh
không thể trông chờ gì nơi chúng tôi. Anh sẽ bị chối bỏ.” Tôi trả lời: “Tôi
biết tất cả những điều đó”, tôi không hề dấu Bác là tôi ghét chúng. Bác trả
lời: “Hận thù, trừ hận thù đối với Thiên Chúa, không có chỗ đứng trong công tác
của chúng ta, theo gương đồng chí Lenin. Tôi cần anh được một Giám Mục thực thụ
tại quê hương Ba Lan chấp nhận anh, nhưng chúng tôi không có ý để anh theo học
đạo tại quốc qia trên. Anh sẽ được gởi đi học tại một quốc gia ở bên kia bờ Đại
Tây Dương, nhưng điều này bí mật, anh sẽ tỏ ngạc nhiên khi nhận được lệnh này.
Phải, chúng tôi sợ chiến tranh sẽ bùng nổ ở Châu Âu vì một thằng điên đang cai
trị tại Đức. Do đó anh nên đi học ở nơi khác, có thể là
Chúng tôi cũng còn có
một lý do khác, các chủng viện ở Âu Châu nghiêm ngặt hơn các chủng viện ở Mỹ
Châu”.
Tôi tỏ dấu phản đối kín
đáo nhưng ông cũng phát giác được. Bác tiếp tục nói: “Tôi biết anh có thể chịu
đựng sáu năm nghiêm ngặt trong chủng viện, không được ra ngoài, nhưng đó không
phải là lý do. Chúng tôi muốn anh học hỏi xem điều gì đang xảy ra trên thế
giới. Ta phải khôn ngoan và có khả năng nói với thế giới để làm cho người ta
mất niềm tin. Chúng ta làm cho người ta hiểu mà không bao giờ bị nghi ngờ.
Chúng tôi không gửi thanh niên vào chủng viện để rồi bị phát giác. Không, anh
sẽ làm linh mục cho đến chết và anh sẽ tỏ ra là một linh mục trung thành và
trinh khiết. Dầu sao tôi cũng biết anh, anh là một nhà trí thức”. Rồi ông cho
tôi ít chi tiết chính xác về hoạt động mà tôi sắp gia nhập và sau cùng thì tôi
sẽ là người chỉ huy.
Khi vào chủng viện, tôi
hiểu là phải cố gắng tìm hiểu và phá đổ tất cả những gì người ta dạy tôi. Nhưng
để làm điều đó, tôi phải chăm chỉ và sáng suốt – nghĩa là không đam mê – học
lịch sử của Giáo Hội. Tôi cũng không được quên là bắt đạo chỉ tạo thêm nhiều
Thánh tử đạo, mà người Công Giáo có lý do để ca tụng Thánh tử đạo là hạt giống
sinh người Ki-tô. Do đó không làm tăng thêm Thánh tử đạo. Tôi không quên là mọi
tôn giáo dựa trên sợ hãi, sợ hãi của tổ tiên; mọi tôn giáo sinh ra từ nỗi sợ
này. Do đó nếu người ta dẹp được sợ hãi là dẹp được tôn giáo. Nhưng điều đó
cũng chưa đủ.
Ông bảo tôi: “Tuỳ, anh phải
tìm ra những phương pháp đúng”. Tôi ngụp lặn trong mừng vui. Ông nói thêm: “Anh
sẽ biên thư cho tôi mỗi tuần, rất ngắn và nói lên những khẩu hiệu mà anh muốn
phổ biến trên thế giới và cũng kèm theo lời cắt nghĩa ngắn là tại sao anh chọn
chúng. Sau một thời gian dài hay ngắn, anh sẽ được liên lạc trực tiếp với mạng
lưới. Nghĩa là anh sẽ có mười người dưới quyền anh, và mỗi người trong mười
người trên lại có mười người thuộc quyền”.
“Mười người trực tiếp
dưới quyền anh sẽ không bao giờ biết anh. Muốn tiếp xúc với anh họ phải qua
tôi. Như vậy không bao giờ anh bị tố cáo. Chúng tôi đã có một số khá đông linh
mục tại các quốc gia theo đạo Công Giáo, nhưng các anh sẽ không bao giờ biết
nhau. Một người đang làm Giám Mục. Có thể anh sẽ tiếp xúc được với Ngài; điều
này tuỳ cấp bậc anh sẽ đạt được. Chúng tôi có gián điệp ở khắp nơi và đặc biệt
có những người lớn tuổi, họ theo dõi báo chí toàn thế giới. Một bản tóm lược
tin tức sẽ được gởi thường xuyên tới anh. Chúng tôi có thể nhận biết dễ dàng
khi nào ý kiến của anh đã lọt được vào đầu óc dân chúng. Này, một ý tưởng thành
hay, khi được một văn sĩ khờ dại trình bày như của chính mình. Không ai tự cao
hơn một văn sĩ. Chúng ta dựa trên các loại văn sĩ này và ta không cần huấn
luyện họ. Họ làm việc cho chúng ta mà không biết hay là đúng hơn không muốn
biết”.
Tôi hỏi ông làm sao tôi
có thể liên lạc với ông khi chiến tranh bùng nổ. Ông đã tiên liệu mọi sự. Khi
cần, tôi sẽ nhận được một lá thư gửi từ một quốc gia tự do ở ngoài vòng thù
nghịch. Tôi sẽ nhận ra đây là lá thư thật vì sẽ mang ám số của tôi “SVTS-1025″
nghĩa là sinh viên tu sĩ số 1025. Điều này đưa tôi tới kết luận là số 1025 là
con số của tổ chức. Tôi ngạc nhiên vì tôi đã đoán đúng. Do đó tôi la to: “1024
linh mục chủng sinh đã gia nhập vào tổ chức trước tôi”. Ông trả lời tôi một
cách lạnh lùng: “Đúng”.
Tôi không ngã lòng
nhưng bị thương tổn và nổi khùng. Tôi muốn bóp cổ chết hết những người này. Tôi
chỉ nói: “Ông thật sự cần nhiều như vậy không ?”. Bác chỉ mỉm cười. Tôi không
nghĩ là tôi có thể giấu ông ý nghĩ của tôi. Tôi nói thêm, hơi bi quan: “Người
ta phải nghĩ là những người này đã không làm tốt các công tác nên mới cần tuyển
thêm nhân viên”.
Nhưng ông đã không thoả
mãn câu hỏi của tôi. Tôi muốn biết ít nhất là có thể liên lạc với vài người
trong họ hay không. Nhưng Bác nhắc lại là không bao giờ tôi biết được ngay cả
chỉ một người thôi. Tôi không hiểu và ngạc nhiên tôi hỏi ông: “Làm sao chúng
tôi công tác tốt nếu bị phân tán thiếu điều hợp và không có thi đua ?”. Ông trả
lời: “Điều hợp thì đừng quan tâm, chúng tôi đã xem xét, chỉ những người có cấp
bậc mới biết đường lối hoạt động của tổ chức. Còn về thi đua chúng tôi dựa vào
tình yêu đối với Đảng”.
Tôi không còn gì phải
trả lời. Tôi không dám nói là Đảng không thể thực hiện được chiến dịch gì đáng
giá cho thuyết vô thần, cho đến khi tôi trở thành lãnh đạo của tổ chức ! Tôi
thật sự xác tín như vậy, vì tôi xếp số 1024 thành viên hoạt động trước tôi vào
loại vô dụng.
Sau buổi chiều đáng ghi
nhớ đó, Bác mời tôi đến để biết thêm về những tài liệu bí mật và thật sự đáng
sợ. Dầu tập ký ức này sẽ không bao giờ được phổ biến, tôi muốn cẩn trọng nên
tôi không nói về các tài liệu này. Tôi biết có người sẽ trả một món tiền lớn
ngay trong lúc này chỉ để chụp lại các tài liệu đó. Ý nghĩa này làm tôi buồn
cười vì chỉ cần chế ra một cái máy có thể đọc được trí nhớ của tôi là đủ rồi.
Cũng trong tuần đó tôi học thuộc một số địa chỉ và số điện thoại có ích tại một
số quốc gia.
Các thận trọng trên cho
thấy là chiến tranh sắp bùng nổ. Tôi cảm thấy nôn nóng trong lòng muốn rời Âu
Châu, vì tương lai của nhân loại sẽ bị nguy hiểm nếu tôi chết hay là sa đoạ vì
tôi phải đi thi hành nghĩa vụ một thời gian dài.
Bác bảo tôi trở lại văn
phòng của ông để bàn luận về tình hình chính trị thế giới nhưng tôi không say
mê môn này. Bác trách tôi và nói rõ vô thần chỉ là một ngành của chính trị.
Trong thâm tâm, tôi cho thuyết vô thần là quan trọng nhất. Bác hình như đoán
được ý tôi nên nói thêm: “Anh có lý khi cho chủ thuyết vô thần vừa là căn bản
vừa là nền tảng, nhưng anh còn học hỏi nhiều về vấn đề này”. Tôi đồng ý nhưng
hoàn toàn không tin. Tôi giữ vẻ bình tĩnh và thêm: “Dầu sao tôi cũng có một ý
tưởng đặc biệt về đường hướng chung cho cuộc đấu tranh mà chúng ta sẽ thực
hiện”.
Một thoáng vui đùa hiện
trên gương mặt của Bác. Tôi tin, vì thật sự ông ta thương tôi. Tôi dán mắt nhìn
ông với vẻ thách thức. Ông bảo tôi: “Nói đi, nhưng ngắn gọn”. Tôi còn muốn gì
nữa ? Vì thế tôi nói nhẹ nhàng: “Thay vì chống tâm tình tôn giáo, chúng ta phải
gài nó vào một hướng đi không tưởng”. Ông im lặng, ông cố hiểu ý của tôi: “Tốt,
hãy cho Bác một ví dụ”, ông bảo tôi.
Tôi đang nắm dao đằng
cán. Thật sự, hình như toàn thể thế giới nằm trong tay tôi lúc đó. Tôi chậm rãi
cắt nghĩa:
- Bác phải nhồi vào đầu
người ta, nhất là hàng giáo phẩm là phải tìm cho được bằng mọi giá một tôn giáo
phổ quát để có thể liên kết mọi giáo hội lại với nhau. Để cho ý tưởng này có
thể thành hình, ta phải gieo vào đầu những người đạo đức, nhất là Công Giáo một
mặc cảm tội lỗi về cái sự thật duy nhất mà họ cho là đang theo.
- Anh có ảo tưởng trong
phần thứ hai của đề nghị của anh không ?
- Không, không, không
chút nào – Tôi hăng hái trả lời – Tôi đã theo đạo Công Giáo và rất công giáo,
nghĩa là rất đạo đức, hăng say cho đến năm tôi 14 tuổi và tôi tin là ta có thể
dễ dàng vạch cho người Công Giáo thấy là có nhiều người thánh thiện trong các
đạo Tin Lành, Hồi Giáo, Do Thái..v.v..
Ông trả lời tôi: “Chúng
ta hãy chấp nhận điều này, nhưng các tôn giáo khác nghĩ sao ?”
Tôi nói: “Tuỳ, nó sẽ
khác nhau. Tôi còn phải tìm hiểu khía cạnh này của vấn đề; nhưng đối với tôi,
điều quan yếu là chúng ta phải đánh mạnh và dứt khoát đạo Công Giáo. Đó là đạo
nguy hiểm nhất”.
- Anh thấy Giáo Hội
Toàn Cầu như thế nào để mọi giáo hội có thể tham gia vào ?
Tôi trả lời: “Tôi thấy
nó phải rất đơn giản, giáo hội này không là gì khác ngoài đặc tính đơn giản.
Mọi người có thể gia nhập. Giáo Hội Toàn Cầu này giữ một ý tưởng mông lung về
Chúa, một thứ Tạo Hoá. Ngài tốt lành nhiều ít tuỳ thời điểm. Hơn nữa vị Thiên
Chúa này chỉ có ích khi người ta gặp hoạn nạn. Mối sợ thiên thu sẽ làm cho các
đền thờ đầy người, nhưng vào thời điểm khác thì lại trống vắng”.
Bác suy nghĩ một lúc
rồi nói với tôi: “Tôi sợ là hàng giáo phẩm Công Giáo sẽ nhận ngay ra mối nguy
hiểm và chống đối chương trình của anh”.
Tôi trả lời: “Đó là các
điều đã xảy ra cho đến hôm nay. Ý kiến của tôi là phát động bởi người không
Công Giáo vì đạo Công Giáo luôn luôn đóng cửa với các chương trình như trên. Đó
cũng là lý do vì sao tôi học hỏi phương cách làm họ thay đổi. Tôi biết là không
dễ, chúng ta phải chịu khó hoạt động bền bĩ trong hai mươi năm hay là cả đến
năm mươi năm. Tôi biết làm sao để sau cùng chúng ta sẽ thành công”.
- Bằng cách nào ?
- Bằng nhiều mánh lới
quỷ quyệt. Tôi nhìn Giáo Hội Công Giáo như một trái cầu. Để phá huỷ nó, anh
phải tấn công bằng vô số điểm nhỏ cho đến khi nó mất hình dạng thuở trước của
nó. Chúng ta cần rất kiên nhẫn. Tôi có nhiều ý kiến thoạt nhìn có vẻ nhỏ mọn và
ấu trĩ nhưng tôi bảo đảm là toàn thể những điều nhỏ nhen ấu trĩ này sẽ thành
một khí giới vô hình và rất công hiệu.
Bác nói với tôi: “Được,
anh hãy chuẩn bị cho tôi một dự án ngắn”. Tôi chậm chạp cầm cái cặp lên, lấy ra
cái bao thư đựng lời giải thích quý giá về các ý kiến của tôi. Tôi đặt tập tài
liệu lên bàn ông với một sự thoả mãn thầm kín. Ông Bác đọc ngay lập tức, điều
tôi không dám mong. Như vậy chứng tỏ là ông đặt nhiều hy vọng nơi tôi. Lý do
nào ông làm như vậy, ông già dễ thương ?
- Sau khi đọc tài liệu
trên, ông đã mất nhiều thời giờ hơn thường lệ, ông nhìn tôi và nói: “Tôi sẽ đưa
tài liệu này cho các cố vấn của tôi xem xét. Tôi sẽ trả lời anh trong vòng tám
ngày cũng vào giờ này. Trong khi chờ đợi hãy chuẩn bị qua Ba Lan”. Ông bảo tôi:
“Cầm lấy cái này”, ông đưa cho tôi một phong bì đầy ắp tiền Nga, số tiền tôi
chưa có bao giờ.
Tôi đi xem khá nhiều vở
kịch, phim và mua khá nhiều sách. Tôi không biết phải gởi làm sao, nhưng tôi
nghĩ là Bác sẽ xếp đặt gởi qua đường ngoại giao.
Tôi sống và phấn khởi
chờ đợi trong tám ngày, tôi còn cảm thấy mình như không còn thể xác và tôi khó
mà chợp mắt ngủ được.
Lần đầu tiên một câu
hỏi nổi lên trong đầu tôi, tôi có cần đi tìm một người đàn bà không ? Trong
tình trạng tinh thần đang bị kích thích như hiện nay, tôi nghĩ là không bõ
công. Tôi cũng sợ là cái thú tính hạ cấp này có thể mang điều không may cho dự
án của tôi, hiện đang được các cán bộ cao cấp trong cơ quan nghiên cứu. Điều
quan trong trước hết là tôi phải được thăng thật nhiều cấp và vượt trên càng
nhiều càng tốt số 1024 người đã tham gia công tác trước tôi, ai xứng đáng hơn
tôi ?
Một tối, tôi uống thật
nhiều rượu để xem bộ não có nẩy sinh thêm sáng kiến nào không. Nhưng không có
kết quả gì, và tôi quả quyết là rượu có hại hơn cả tôn giáo.
Khi tới giờ phải trình
diện tại văn phòng của Bác, tim tôi đập hơi mạnh hơn thường lệ, nhưng tôi không
cảm thấy khó chịu. Điều quan trọng là không ai nhận biết được gì hết.
Bác nhìn tôi một lúc
lâu rồi nói với tôi bằng một cái mỉm cười là cấp cao của Bác muốn gặp tôi. Chắc
là một viên chức cao cấp không bõ công gặp tôi chỉ để tỏ ra khó chịu, tôi không
mấy hứng thú với cuộc hội kiến này. Đằng khác tôi kinh hoàng trước vẻ bề ngoài
của vị “cấp cao” nổi tiếng này.
Kinh hoàng đúng là từ
tôi phải dùng, ba mươi năm sau, tôi chỉ cần nhắm mắt lại là thấy ông và cảm
thấy sự hiện diện của ông. Ông mang một sự hiện diện mà tất cả những người khác
chỉ còn là bù nhìn.
Tôi vẫn còn ghét sự
hiện diện này, tôi phải thêm là sự hiện diện này của ông là của một con quái
vật. Làm sao có thể thu tích trong cùng một con người dã man, cộc cằn, quỷ
quyệt, bạo dâm, thô tục ?Con người này phải vào thăm tù để sung sướng khi thấy
người ta bị hành hạ. Còn tôi, tôi rất ghét sự tàn bạo, vì theo tôi đó là dấu
chỉ của sự yếu đuối. Làm sao tôi có thể chấp nhận Bác khúm núm trước mặt con
thú đang tiếp chúng tôi. Con thú hành xử như các kẻ chỉ huy, ông ta nhìn chăm
chăm vào mắt tôi. Để nhìn cái gì ? Theo tôi, không có gì để nhìn. Tôi khoan
khoái nghĩ: “Đồng chí ơi, sẽ không bao giờ có cái gì để nhìn đâu”.
Rồi ông chỉ huy cao cấp
hỏi tôi quan tâm đến điều gì nhất, tôi trả lời đễ dàng “Chiến thắng của Đảng”.
Trong khi sự thật còn chứa nhiều điều tinh tế. Ông chỉ huy có chút nghi ngờ gì
không ? Thật không thể tưởng được. Rồi ông ta nói thêm bằng một giọng hơi buông
xuôi: “Từ nay anh thuộc danh sách gián điệp đang hoạt động. Anh sẽ đưa ra mệnh
lệnh mỗi tuần. Tôi tin tưởng vào sự hăng say của anh. Tôi sẵn sàng nhìn nhận là
cần một thời gian lâu dài để phá đổ các tôn giáo từ bên trong; các lệnh anh ra
cần phải có tiếng vang trước hết giữa các nhà văn, nhà báo, ngay cả các nhà
thần học. Anh phải biết là chúng tôi có một nhóm chuyên viên theo dõi các bài
viết tôn giáo trên cả thế giới và đưa ra nhận xét về kết quả các chỉ thị mà các
nhân viên đã tung ra. Do đó anh hãy làm hết sức để được khen thưởng. Tôi hy
vọng nhiều nơi anh, vì theo tôi anh đã một mình hiểu được tất cả các điều đó”.
Con thú không phải là
một thằng khờ. Ông sẽ nghe hết về các công việc tôi làm, tôi tin chắc thế.
Tôi biết rõ cái nhược
điểm của người Ki-Tô nên không sợ thất bại. Tôi tin nhược điểm này được gọi là
“Bác ái”.
Khi nhắc đến chữ “thánh
thiện, bác ái”, chúng ta có thể chích vào mọi thứ hối hận. Hối hận luôn tạo ra
thái độ chống đối yếu ớt.
Cùng một lượt hai yếu
tố y khoa và toán học, dầu không tương quan, nhưng tôi lại tổng hợp chúng lại.
Tôi chào cấp chỉ huy
đàng hoàng và lạnh nhạt cảm ơn ông. Tôi đã không mong ông nghĩ là ông đã gây
cảm tình với tôi.
Tôi ở lại một mình với
Bác. Tôi cố bàn thật ít về cấp chỉ huy danh tiếng này. Ngược lại tôi tự khen
mình đã coi nhân vật này đáng gờm, vì tôi đã vượt qua được sự nhút nhát trước
những nhân vật quan trọng trên thế giới. Rồi tôi luôn luôn đi đến cùng một kết
luận, là sau cùng tôi là Nhân Vật Vĩ Đại Nhất !
Tôi về lại Ba Lan và cố
gắng thuyết phục chính mình là qua tài đóng kịch của tôi, tôi thấy mình cũng có
khiếu làm tài tử.
Vào tuổi 21, sau sáu
năm sống trong cô đơn như một học sinh nghèo và đầy tham vọng, tôi phải trở
thành một người thanh niên dễ thương, vâng lời, chịu đựng và đạo đức, còn hơn
cả đạo đức, tôi phải chết đi chính mình để nhập chủng viện. Một hành động tốt
trong bước đầu.
Tôi nghĩ tôi có thể
lường gạt dễ dàng người tôi coi như mẹ, nhưng còn ông bác sĩ thì sao ? Tôi rất
sợ sự chẩn đoán của ông. Ông có lẽ là người duy nhất tôi sợ trên cõi đời. Dẫu
sao bằng mọi giá, bằng bất cứ giá nào tôi phải lừa cả ông nữa. Không phải vì
tôi không thể vào chủng viện nếu không có ông, nhưng để chứng minh nghị lực của
tôi, tôi phải không để cho ai nghi ngờ. Ông bác sĩ là một trắc nghiệm tài năng
của tôi.
Tôi rung chuông ngôi
nhà cũ vào lúc sáu giờ chiều để tôi có chút thời giờ riêng với bà trước khi ông
đi làm về.
Chính bà ra mở cửa cho
tôi.
Bà đã già đi rất nhiều,
không trang điểm. Hình như bà bị bệnh. Bà run rẩy và khóc. Đàn bà sống trong
giang sơn của họ, như ở trong cung cấm nơi đàn ông chỉ tới thăm khi cần đến họ.
Tôi xin lỗi vì đã im
lặng quá lâu và hy vọng vấn đề hối hận được giải quyết nhanh chóng và qua đi
trước khi ông bác sĩ trở về nhà.
Tôi không biết một
người đàn ông phải nói lên sự hối hận trước một ngưòi đàn ông khác như thế nào.
Với bà, tôi biết là chúng tôi sẽ vui vì gặp lại nhau và rồi cùng chuẩn bị cho
tương lai. Vì bà không có một ước muốn nào lớn hơn là mong tôi trở thành một
Linh Mục Công Giáo. Tôi nói ngay với bà về ơn kêu gọi đang thôi thúc trong tôi.
Người đàn bà ngu đần
đáng thương này vui mừng đến nỗi tôi có thể làm cho bà tin hết mọi sự. Bà muốn
biết làm sao ý tưởng làm Linh Mục đã đến với tôi. Tôi mơ hồ nghĩ đến vài kiểu
cắt nghĩa. Nhưng tôi đã từ chối không dàn cảnh trước.
Chung chung thì điều đã
chuẩn bị trước lại không thích hợp bằng điều tôi sáng chế tại chỗ. Tôi dựng nên
một chuyện phép lạ thật thích hợp để thuyết phục bà. Tôi biết là ông bác sĩ sẽ
nghi ngờ những điều này. Còn bà thì dễ tin những điều huyền nhiệm. Như vậy tôi
chắc chắn sẽ chia rẽ họ và kiện toàn lập trường của tôi. Khi họ bàn về tôi, họ
sẽ để tôi yên một mình.
Vì thế, tôi kể một câu
chuyện phép lạ cho bà, tôi cẩn thận ghi kỹ trong trí nhớ mọi chi tiết để không
nói nghịch lại chính mình. Thật là mỉa mai khi tôi làm bộ như đã được Thánh
Antôn thành
Ông thánh này khá nổi
tiếng, người ta có thể gán cho Ngài bất cứ phép lạ nào. Những người đạo đức sẽ
tin ngay. Vì thế Thánh Antôn đã đến thăm tôi và ẵm Chúa Giêsu trên tay Ngài.
Khi tôi chuẩn bị câu
chuyện này, tôi cũng tạo nó thành một bức tranh đạo đức đẹp đẽ. Khi chúng tôi
thả hồn trong tâm tình đạo đức êm ái, thì ông bác sĩ bước vào. Tôi cảm thấy nhẹ
nhõm khi thấy một người có lý trí đi vào, nhưng tôi cũng thấy ngay là ông không
tin tôi. Như vậy trò này có thắng được cũng khá gay go, nhưng cũng khá vui.
Tuỳ, tôi sẽ thuyết phục cha nuôi tôi làm sao ? Tôi cố làm cho ông ít nhất là
phải giả bộ như tin tôi. Buổi chiều đầu tiên có vẻ căng thẳng. Bác sĩ là một
người hiếm có, thật thông minh mà tôi đã gặp. Cái trò lường gạt của tôi càng
trở nên hứng thú hơn.
Ngày hôm sau, tôi xin
cha mẹ tôi đi gặp Đức Giám Mục, mẹ nuôi tôi quen biết Ngài từ khi còn nhỏ. Ngài
tiếp tôi rất lịch sự nhưng không vồn vã. Ngài phải là một trong số những người
Công Giáo chủ trương không nên vồn vã với một ơn gọi mới thì tốt hơn, và ngược
lại còn phải chống đối. Một ơn gọi thật sẽ vượt qua được mọi trở ngại.
May mắn là tôi biết
cách suy nghĩ này nên tôi không thất vọng. Nhưng tôi cũng nhìn nhận thái độ như
vậy có thể làm cho người không có ơn kêu gọi bị bối rối. Phần tôi, tôi biết
phải tỏ ra khiêm nhường theo kiểu người Ki-Tô và thật sự không thể nào Vị Giám
Mục này đã không hài lòng về tôi.
Sau đó Ngài yêu cầu tôi
trình diện với Cha Chánh Xứ họ đạo nơi tôi sống và một Linh Mục Dòng nổi tiếng
vì có khiếu đọc được ý nghĩ của người khác. Điều này có nghĩa là vị Linh Mục
này có khả năng phát hiện được ơn gọi giả của người tưởng tượng cho đến kẻ thật
sự hư hỏng.
Trước hết tôi đến gặp
Cha Xứ, một con người can đảm và đơn sơ. Ngài hy vọng thấy ơn gọi phát triển
trong xứ đạo và Ngài sẵn sàng cho tôi hết mọi thứ của Ngài, nghĩa là mọi sự để
có dịp thông báo tin vui này.
Để lòng hăng say thánh
thiện của tôi gây ảnh hưởng tốt trong đầu của bác sĩ, tôi xin mẹ nuôi tôi mời
vị Linh Mục này tới nhà dùng cơm. Bữa ăn rất vui vì Ngài có tâm hồn đơn sơ như
trẻ em và hiện tượng hiếm có này rất được trọng dụng khi người ta điều tra
phong thánh. Sau bữa ăn đó ông bác sĩ ngã bệnh. Làm sao ngườì Ki-Tô chân chính
có thể chống đối các Thánh ?
Do đó, tôi được nâng đỡ
nhiều khi đi gặp vị tu sĩ mà cái nhìn sâu sắc của ông được nhiều người ca tụng.
Thoạt nhìn, con người
này khó mà tôi chấp nhận được, ông chậm chạp và lại thường thích im lặng.
Dầu sao, tôi cũn đem ra
đủ các mánh khoé để chứng tỏ là tôi có ơn gọi thật. Tôi cười trong lòng vì thật
sự ông ta nghĩ sao khi các ý nghĩ thầm kín trong tôi được tỏ lộ cho ông ? Và
làm sao ông biết được tôi có những ý nghĩ thầm kín ? Cuộc phỏng vấn kéo khá dài
và cuối cùng tôi cũng thấy thích. Tôi ăn nói dễ dàng và thoả mãn với chính mình.
Tôi tỏ ra hết sức khiêm
nhường. Thật sự đó là một nhân đức dễ dàng bắt chước. Nó cũng là một trò chơi
thích thú. Và tôi là một anh hùng khiêm nhượng, và tôi còn diễn nhiều trò khác
nữa.
Tôi không dám nói về
phép lạ thấy Thánh Antôn mà tôi đã bày ra. Như thế nếu mẹ tôi nói với ông
chuyện này thì ông sẽ thán phục khi biết tôi đã không nhắc gì tới.
Ngoài ra, tôi hãnh diện
cho ông biết tôi chưa hề có liên quan gì với đàn bà và tôi hoàn toàn dửng dưng
về sắc dục, nó chỉ tốt để sinh con đẻ cái.
Tôi nghĩ đây là dấu
hiệu khá rõ tôi có ơn gọi.
Tôi nghĩ là tôi có thể
dùng từ ơn gọi để chỉ nghề nghiệp mà tôi chọn theo quy chế của Đảng và thái độ
dửng dưng của tôi đối với đàn bà trở thành như một thứ tiền định. Một Sứ đồ hay
Phản Sứ đồ chỉ kết hôn với sứ vụ của mình.
Vì thế, tôi rất hoạt
bát mỗi lần từ ngữ sứ vụ trở lại trong cuộc đối thoại của chúng tôi.
Càng ngày, tôi càng tỏ
ra là sẽ thành một Linh Mục sốt sắng. Vị Linh Mục Dòng kia đã cố giăng nhiều
bẫy, đặc biệt để tôi nói dối. Trò trẻ con ! Một người thông minh phải biết là
không được nói láo hoặc là chỉ dùng khi thật cần. Cả khi tôi thấy buộc phải nói
láo, vì tôi có trí nhớ rất khá nên không nói nghịch lại chính mình và tiết lộ
sự thật. Không, một lời nói dối giỏi sẽ thành sự thật cho người đã dựng nên và
cho cả mọi người đã nghe.
Vị tu sĩ trên muốn biết
tại sao tôi bỏ cha mẹ nuôi của tôi đến sáu năm mà không có một tin tức nào.
Rồi tôi xúc động. Tôi
nhìn lại dĩ vãng và sống lại nỗi đau đã thúc đẩy tôi trốn qua Nga. Thật đúng,
vị tu sĩ khôn ngoan này hình như đã sợ là tôi thành đảng viên Cộng Sản. Tôi bảo
ông là tôi không quan tâm đến chính trị. Còn về sáu năm im lặng của tôi, tôi
thật không thể cắt nghĩa được.
Tôi nghĩ đôi khi nên tỏ
ra yếu đuối và mỏng manh cũng hay. Những người có quyền sẽ rất sung sướng để
bênh vực ta.
Tôi cũng nhấn mạnh là
cái im lặng này sẽ là một sự hối hận suốt đời tôi, và để cho Ngài hiểu là mẹ
tôi cảm thấy được đền bù bằng ơn gọi làm Linh Mục của tôi.
Như vậy ông già sẽ
không muốn làm tổn thương mẹ tôi vì mất niềm vui độc nhất của bà trong tuổi
già. Hiển nhiên là tôi không dùng những lời lẽ thiếu khôn ngoan trên, nhưng chỉ
thầm hy vọng rồi sẽ xảy ra như vậy.
Trong khi chúng tôi
tiếp tục nói chuyện, thì câu chuyện càng thân tình hơn. Tôi rất hài lòng và
chúng tôi tạm biệt như những người bạn.
Nhiều ngày trôi qua và
tôi không nhận được tin tức gì, hình như Giáo Hội không cần phải hấp tấp để có
thêm một chủng sinh.
Phần tôi, tôi hăng say
làm việc tung ra các chỉ thị mới sẽ được phổ biến trên toàn thế giới qua ngả
nước Nga.
Sau cùng tôi được gọi
lên Toà Giám Mục, cả trái đất như sập đè lên tôi, vì Đức Giám Mục nhẹ nhàng bảo
tôi là vị tu sĩ nghĩ là tôi không có ơn gọi làm Linh Mục.
Mẹ tôi lâm bệnh và phải
đưa vào nhà thương để khám bệnh. Cha tôi vì tội nghiệp tôi, tôi nghĩ vậy, đã tỏ
ra rất tốt với tôi. Tôi đã đáp trả xứng đáng. Ông hỏi tôi muốn làm gì. Tôi nói
là tôi không bỏ cuộc, tôi sẽ học y khoa nếu Giáo Hội thực sự không cần tôi.
Đương nhiên tôi đã gửi
một bức điện văn khẩn cấp cho Bác. Qua một Linh Mục, ông được coi như là hộp
thư của tôi. Bác hồi âm thật mau. Nó ngắn và chỉ làm tôi ngạc nhiên một phần,
lệnh đó là: “Dẹp bỏ chướng ngại”.
Thật sự tôi đã được
theo khoá huấn luyện đặc biệt dành cho các mật vụ. Tôi biết phải tấn công làm
sao cũng như phải tự vệ thế nào. Tôi suy nghĩ một thời gian lâu để biết là tôi
phải giả một tai nạn hay là gây một cơn đau tim. Tóm lại là tôi phải gieo âu lo
hay chỉ cần đưa ra bằng chứng là tôi đã tuân lệnh.
Tôi nghĩ tốt nhất là
thủ tiêu vị tu sĩ ngoài nhà dòng. Do đó tôi xin người liên lạc của tôi mời vị
tu sĩ này đến nhà ông bằng bất cứ lý do gì. May mắn là hai vị này quen nhau.
Tôi đã không nói láo
khi quả quyết là tôi muốn biết điều gì đã khiến vị tu sĩ này từ chối và cho là
tôi không có ơn kêu gọi. Điều này quan trọng vì tôi có thể học để đóng màn kịch
tôn giáo nhỏ của tôi. Hơn nữa tôi cũng khó chịu về sự thụt lùi này. Tôi còn hy
vọng là vị tu sĩ này sẽ thay đổi quyết định của ông.
Trong khi chờ phỏng vấn
lại, tôi chuẩn bị kỹ lưỡng ý đồ của tôi.
Tôi viết những lời sau
đây:
“Thật là quan trọng
người Ki-Tô phải ý thức gương xấu do sự chia rẽ của Giáo Hội gây ra. Vì có ba
loại người Ki-Tô: Công Giáo, một số Chính Thống và chừng 300 hệ phái Tin Lành.”
“Ta cần nhấn mạnh lời
nguyện cuối cùng của Chúa Giêsu Na-gia-rét, lời kinh chưa hề được thực hiện:
“Nên Một, như Cha Ta với Ta là một”, để gieo một niềm ân hận ngày càng lớn về
chuyện chia rẽ này, đặc biệt giữa người Công Giáo.”
“Nhấn mạnh là người
Công Giáo gây chia rẽ giữa những người Ki-Tô, vì họ không chịu nhượng bộ, nên
đã gây ra ly giáo và lạc giáo. Ta phải làm cho mọi người Công Giáo cảm thấy có
lỗi và muốn đền tội bằng bất cứ giá nào. Đề nghị với người Công Giáo phải cố
gắng tìm ra mọi phương cách để đưa họ về gần với người Tin Lành hơn (và với
những người khác) mà không phạm đến Kinh Tin Kính. Chỉ cần giữ lại Kinh Tin
Kính. Và rồi nên lưu ý: Kinh Tin Kính cũng phải thay đổi đôi chút. Người Công
Giáo nói: “Tôi tin Giáo Hội Công Giáo”. Người Tin Lành nói: “Tôi tin Giáo Hội
Toàn Cầu”. Cũng chỉ một điều. Vì chữ Công Giáo nghĩa là “toàn cầu”.”
“Ít nhất đó là ý nghĩa
vào thời đầu Giáo Hội, nhưng qua dòng thời gian, từ ngữ Công Giáo đã mặc một ý
nghĩa sâu xa. Nó đã thành một từ đặc biệt. Tôi nói là phải loại nó ra khỏi Kinh
Tin Kính, vì lợi ích chung, nghĩa là vì hiệp nhất với người Tin Lành.”
“Hơn nữa, mỗi người
Công Giáo cần tìm ra những điều làm vui lòng người Tin Lành, vì đức tin và Kinh
Tin Kính là bất khả xâm phạm và sẽ không bao giờ bị thay đổi.”
“Luôn luôn hãy đưa tâm
hồn người ta hướng về một tấm lòng bác ái cao hơn, một tình huynh đệ rộng lớn
hơn. Đừng bao giờ nói về Chúa nhưng nói về sự cao trọng của con người. hãy từ
từ thay đổi ngôn ngữ và thái độ của tâm trí. Con người phải chiếm chỗ nhất. Hãy
vun trồng sự tin tưởng nơi con người, con người sẽ chứng minh cái vĩ đại của
mình bằng cách dựng nên một Giáo Hội Toàn Cầu trong đó mọi người thiện chí sẽ
cùng hoà đồng”.
“Quảng bá thiện chí của
con người, sự thành thật, nhân phẩm của họ, đáng quý hơn một vị Thiên Chúa luôn
vô hình. Tố cáo sự hào nhoáng và nghệ thuật trong Giáo hội Công Giáo và Chính
Thống và đồng thời cho thấy là người Tin Lành, Do Thái và Hồi Giáo lại ghét
những thứ đó vô cùng. Đề nghị dẹp bỏ những thứ vô dụng này để lấy tiền giúp đỡ
người nghèo. Để quảng bá phong trào chống ảnh tượng, xương thánh, lễ phục của
Linh Mục, đàn, nến, đèn chầu, kính màu, nhà thờ chính toà..v..v..”
“Sẽ có lợi nếu một lời
tiên tri như sau được gửi đi khắp thế giới: “Một ngày kia các bạn sẽ thấy Linh
Mục có gia đình và thánh lễ bằng tiếng địa phương”. Tôi nhớ lại và vui vì tôi
là người đầu tiên nói những điều này vào năm 1938. Vào cùng năm đó, tôi thúc
đẩy đàn bà đòi làm Linh Mục. Tôi cũng biện hộ cho Thánh Lễ, không phải Lễ ở nhà
thờ mà lễ gia đình, làm tại nhà do cha mẹ chủ sự trước khi ăn.”
Đầu tôi đầy ý tưởng, và
mỗi ý tưởng sau đều ý nghĩa hơn ý tưởng trước.
Khi tôi đang chuyển
toàn bộ ý tưởng này thành mật mã, thì bạn tôi cho biết là vị tu sĩ sẽ đến thăm
ông vào ngày hôm sau.
Ông không ngạc nhiên
khi thấy tôi đến. Bạn tôi cố làm cho ông nói về tôi, nhưng không kết quả, rồi
bạn tôi ra dấu mà chúng tôi đã ngầm đồng ý với nhau.
Tôi không ngã lòng, tôi
tấn công cách ôn hoà con người thật sự lương thiện này. Tôi chỉ cho ông thấy là
ông không phạm tội sát nhân khi từ chối không cho tôi vào chủng viện. tôi nhấn
mạnh là tôi biết nguyên nhân thái độ của ông. Ông trả lời là không có lý do nào
ngoài việc Chúa soi sáng cho ông biết về các linh hồn và tôi không xứng đáng
theo đuổi chức linh mục. Tôi nhìn nhận là tôi mất bình tĩnh. Đây không phải là
câu trả lời. Nhưng sau cùng thì tôi cũng tin là ông không nói dối.
Thật sự, ông không có
lý do rõ ràng để từ chối tôi hoàn toàn, trừ một thứ trực giác, như thế thì
không có căn bản khoa học chút nào. Tệ hơn nũa là ông không ý thức được bản
chất không căn bản trong hành động của mình. Ông hình như hành động theo một
thứ ma thuật.
Tôi báo cho ông là tôi
đã quyết định đi xin vào chủng viện ở một nơi khác. Ngài trả lời tôi bằng một
nụ cười thiên thần, và nói là tôi sai lầm khi còn cố theo đuổi ý hướng này.
Tôi nói với ông là tôi
sẵn sàng giết ông nếu làm như thế mà tôi vào được chủng viện. Ông nói là ông
biết ý đó. Lúc đó tôi kinh hoàng. Chúng tôi im lặng một thời gian lâu, nhìn
nhau. Rồi ông nói: “Anh không biết anh đang làm gì”. Tôi nhìn nhận là lúc đó
tôi muốn chạy xa đến tận cùng trái đất. Ông có một quyền lực mà tôi không thể
cắt nghĩa được.
Bạn tôi ra hiệu cho
tôi. Ông nhìn thấy là tôi nao núng. Và tôi biêt đây là ngày tàn của tôi nếu tôi
cãi lệnh của Bác.
Chính tôi phải huỷ bỏ
chướng ngại này. Giá trị của tôi phải được củng cố bằng một hành động can đảm
và vâng lời.
Tôi đứng dậy và ra tay
giết ông mà không để một thương tích nào hết. Những người cỡ tôi đều đã trải
qua những lớp huấn luyện đặc biệt, và những bí mật giá trị này phát xuất từ
Nhật Bản.
Thời điểm đó ít người
bên phương Tây ý thức là họ không biết mấy về những khả năng lạ thường mà thân
xác con người có thể tự vệ cũng như tấn công, ngay cả chuyện giết người chỉ với
hai bàn tay. Dầu là một người Nga, tôi phải nhìn nhận là về chuyện này – và có
lẽ nhiều chuyện khác, người Nhật là chuyên viên. Tôi không tin lúc tôi đang
học, nhiều nước Âu Châu và ngay cả Mỹ Châu đã dạy những phương pháp bảo vệ sức
khoẻ nhưng đồng thời cũng chiến đấu hữu hiệu đến nỗi có thể giết người, nhưng
chỉ với hai bàn tay.
Sau khi giết chết bằng
hai tác động thật mau lẹ (nhưng cần thời gian dài để huấn luyện) mà không để
lại thương tích nào cho con người đã dám chống lại chủ thuyết Mác-Lê (cách khác
là chống lại tương lai), tôi bình thản trở về nhà. Cái chết sẽ được công bố.
Nguyên nhân: bệnh tim.
Ngày hôm sau, thân thể
tôi đầy mụn, tôi tức giận vì đây là dấu chỉ của sự yếu đuối, bằng chứng là gan
tôi không chịu nổi sự căng thẳng đến như vậy. Tôi ngu dại. Nhưng tôi đã tự chúc
mừng mình vì cha tôi nghĩ là tôi đau khổ vì không được nhận vào chủng viện, và
ông đành chịu khó lên năn nỉ Đức Giám Mục cho tôi và ông đã thành công.
Rồi tôi công khai chuẩn
bị nhập chủng viện.
Còn mẹ tôi, bà đã khỏi
bệnh, đi mua sắm ít thứ lẩm cẩm cho tôi thì tin động trời như bom nổ qua một
bức điện tín gọi tôi về Roma. Bức điện viết: “Để nhận công tác mới”. Tôi làm
cho mọi người tin là tôi không hiểu. Mẹ tôi lại khóc, còn tôi thì thở ra nhẹ nhõm
khi tôi được rời bỏ quê hương thời thơ ấu của tôi và mong là sẽ không bao giờ
trở lại.
Ở Roma, tôi có những
cuộc nói chuyện thật hấp dẫn với một vị giáo sư, ông sẽ là giáo sư của tôi sau
khi tôi đã lãnh chức linh mục. Ông là một thành viên trong mạng lưới của chúng
tôi. Ông rất lạc quan. Ông chuyên về Thánh Kinh và đang soạn một bản dịch Thánh
Kinh tiếng Anh mới. Điều ngạc nhiên nhất là ông đã chọn một mục sư phái Lutero
làm người công tác độc nhất của ông. Ngoài ra vị mục sư này không đồng ý với
giáo hội của ông, ông cho là họ lạc hậu.
Việc cộng tác này đương
nhiên được giữ kín. Mục đích của hai người này là giải thoát nhân loại khỏi các
cơ cấu đã phát xuất từ Thánh Kinh, nhất là Tân Ước. Như vậy sự cố Đức Mẹ Đồng
Trinh, sự hiện diện của Chúa trong bí tích Thánh Thể, việc Chúa sống lại, theo
họ phải gạt qua một bên để rồi huỷ bỏ hoàn toàn. Dưới mắt các ông, vì nhân phẩm
của con người hiện đại nên phải trả một giá đắt như vậy.
Vị giáo sư này cũng đã
dạy tôi dâng lễ một cách hợp lý vì trong sáu năm nữa tôi phải làm lễ.
Trong khi chờ một sự
thay đổi sâu rộng toàn thể nghi lễ, ông không bao giờ đọc lời truyền phép.
Nhưng để không bị nghi nghờ , ông đọc những lời tương tự. Ít nhất là những vần
sau cùng. Ông khuyên tôi nên làm y như thế. Tất cả những gì trong nghi lễ như
là một hy tế thì dần dần phải loại bỏ. Toàn nghi lễ phải được trình bày như một
bữa ăn thường như người Tin Lành.
Ông trấn an tôi là
chuyện trên sẽ không bao giờ làm khác hơn được. Ông cũng đang lo soạn thảo một
bộ Lễ Quy mới và ông khuyên tôi cũng nên làm, vì theo ông nên cho dân chúng có
một số Kinh Nguyện khác nhau. Một số thật ngắn cho gia đình và nhóm nhỏ, một số
dài hơn cho các ngày Lễ, dầu sao theo ông Thánh Lễ thật sự cho thợ thuyền là đi
dạo giữa Thiên Nhiên. Ông nghĩ là chúng ta một ngày kia sẽ đồng ý coi Chúa Nhật
là ngày của Thiên Nhiên.
Ông bảo tôi là vì bận
việc, ông không có thì giờ để nghĩ về Do Thái giáo, Hồi giáo, tôn giáo Đông
phương và những tôn giáo khác nhưng công việc này rất quan trọng, có lẽ hơn là
dịch Thánh Kinh. Ông khuyên tôi nên tìm hiểu xem những gì đề cao con người nhất
trong các tôn giáo ngoài Ki-Tô và đem phổ biến chúng.
Tôi cố làm ông nói về
các Linh Mục và chủng sinh khác có liên quan với Đảng như tôi, nhưng ông làm
như không biết gì về chuyện này.
Dầu vậy, ông cho tôi
một địa chi một giáo sư dạy nhạc người Pháp đang ở trong thành phố mà tôi sẽ
phải theo học trong sáu năm những môn thật là gian nan. Ông bảo tôi là có thể
tin ông này hoàn toàn, ông sẽ phục vụ tôi tối đa ví dụ như giữ quần áo đời cho
tôi ở nhà ông, với điều kiện là tôi trả tiền ông ta hậu.
Đương nhiên ông cũng
dẫn tôi đi vòng quanh Roma và dạy tôi về mọi huyền thoại về các Thánh đang được
tôn kính tại thành phố này. Người ta có đủ lý do để xoá tên các vị Thánh này
khỏi niên lịch phụng vụ, đó cũng là một trong các mục đích của chúng tôi. Cả hai
chúng tôi đều biết là loại bỏ các Thánh cần nhiều thời giờ hơn là loại bỏ Chúa.
Một hôm, khi chúng tôi
đang ngồi nghỉ trong một tiệm cà phê, ông bảo tôi: “Hãy tưởng tượng Giáo Đô
Roma không còn một bóng áo Dòng, không một bộ áo nhà tu nam cũng như nữ. Thật
trống vắng làm sao ! Sự trống vắng tuyệt vời !”. Chính tại ở Roma mà tôi hiểu
được tầm quan trọng của cái áo Dòng. Tôi thề là cái áo này sẽ biến mất khỏi các
đường phố ngay cả trong các nhà thờ, vì người ta có thể dâng lễ mà không cần
mặc áo Dòng.
Trò chơi nhỏ này là
tưởng tượng ra đường phố không còn một bóng áo Dòng, trở thành một thứ suy tư
phản xạ cho tôi, từ đó nổi lên trong tôi một thứ thù ghét cái áo Dòng đen ngày
càng nhiều.
Theo tôi cái áo Dòng
nói một thứ ngôn ngữ vừa câm vừa hùng hồn ! Các áo Dòng nói lên cho tín hữu và
những người dửng dưng là con người đang mặc cái áo đó đã hiến dâng cho một Vị
Thiên Chúa vô hình mà ông nhìn nhận như một Đấng Toàn Năng.
Khi tôi phải mặc cái áo
này, tôi hứa hai điều: trước hết phải hiểu tại sao và thế nào mà các cậu bé lại
sẵn sàng đi tu và thứ hai là gieo vào đầu những người đang mặc áo Dòng một ý
muốn thánh thiện: phải cởi bỏ không mặc để dễ ảnh hưởng nhữnng kẻ dửng dưng và
những kẻ chống đối đạo.
Tôi tự hứa theo đuổi
mục đích này bằng một vẻ bề ngoài thật là nhiệt thành. Đối với tôi, chuyện này
tương đối dễ. Tôi thấy khó hiểu hơn việc ơn gọi nảy sinh nơi các cậu bé. Ơn gọi
nảy sinh quá dễ dàng làm tôi khó mà tin được đó là sự thật. Nhưng hình như thật
vậy, khi các em ở lứa tuổi từ 4 đến 10 quen biết một Linh Mục dễ thương, các em
có ý muốn bắt chước ông. Do đó tôi hiểu cái hận thù của tôi đối với chiếc áo
Dòng – vì các em này đã không cảm nhận được quyền lực thật hay tưởng tượng của
vị Linh Mục nếu ông ta đã không nổi bật bằng một cuộc sống khác với những người
khác.
Cái áo Dòng là một
trong nhiều điều khác biệt và chúng ta có thể nói dễ dàng là cái áo Dòng luôn
tuyên xưng mọi cái niềm tin của người đang mặc nó.
Cái áo Dòng đối với tôi
như là một cuộc hôn nhân giữa Thiên Chúa, được mô tả như một Đấng Toàn Năng và
nhưng con người này, mà trong mỗi bước họ đi đều tỏ lộ ơn gọi và sự cách biệt
của họ.
Càng nghĩ về các điều
này, tôi càng căm giận. Nhưng tôi cũng rất mang ơn cuộc sống đã cho tôi trải
qua thời thơ ấu ngay cả thời thiếu niên trong một gia đình rất Công Giáo, vì
tôi tin thành công của việc phá đạo của tôi xuất phát từ sự việc này. Tôi biết
được vậy là nhờ kinh nghiệm trong quá khứ. Tôi sẽ là một mật vụ sáng giá nhất,
rồi sẽ trở thành một Đại Thủ Lãnh của công tác lợi lộc này. Tôi cảm thấy được
quyền vui mừng trước vì khi các em nhỏ gặp một vị Linh Mục sống giống như những
người khác, chúng sẽ không còn ước muốn bắt chước họ nữa. Các em phải nhìn vào
“mọi người” và điều này sẽ đưa các em đi khá xa. Cuộc lựa chọn những người thật
sự đáng bắt chước sẽ thành quá khó khăn.
Ngoài ra, các Linh Mục
kiểu mới này thuộc về một giáo hội rộng mở cho hết mọi người, sẽ không còn
giống nhau nữa. Họ cũng sẽ không còn dạy cùng một điều như nhau. Khi họ không
đồng ý được với nhau. Ít nhất là trên bình diện thần học, mỗi vị sẽ chỉ cómột
số ít người đi theo. Và họ sẽ nể sợ những bạn đồng nghiệp sống ở các vùng lân
cận… thế nên họ chỉ có thể đồng ý trên những vấn đề nhân bản. Và Thiên Chúa sẽ
chết, thế là xong. Cuối cùng, điều này không khó khăn, tôi tự hỏi tại sao chưa
có ai nghĩ ra phương pháp này. Đúng là có những thế kỷ thuận lợi hơn để cho ít
loài bông hoa phát triển mạnh mẽ hơn.
Thời gian đầu của tôi
trong chủng viện là thời kỳ hạnh phúc nhất. Hoàn cảnh của tôi là con một rất
được nuông chiều, thuộc một gia đình giàu có, chấp nhận sống xa gia đình, những
điều này làm tôi trở thành một đề tài hấp dẫn. Mọi người muốn tỏ thiện cảm với
một chàng thanh niên Ba Lan can đảm. Họ có thể nói: “Vinh quang của Thiên Chúa
vượt trên vinh quang của xứ sở tôi. Thật là thánh thiện !”. Tôi khiêm tốn để
cho họ nói.
Tôi tự hứa với chính
mình tôi sẽ đứng nhất hết tất cả mọi môn và đúng như thế; kiến thức sinh ngữ
của tôi thật vẻ vang. Nhất là các ngôn ngữ Đông phương. Tôi học cần cù tiếng
La-tinh và Hy-lạp. Tôi được phép theo các lớp đặc biệt về xướng âm với người
bạn Pháp của tôi. Chủng viện không ngặt lắm. Việc huấn luyện tư cách không có
vẻ Âu châu. Tôi xuất sắc trong các môn thể thao, nhưng tôi không để lộ ra cái
khả năng đặc biệt về lối võ dùng tay của tôi, xuất phát trực tiếp từ Nhật Bản.
Vắn tắt là mọi sự trôi
qua thật tốt đẹp, nên tôi cảm thấy cô đơn và muốn đi tìm một công việc nào có
thể làm cho đời tôi thêm hứng khởi.
Tôi không thấy gì tốt
hơn là đi xưng tội với một trong các giáo sư của tôi, ông là người có vẻ thích
tôi nhất.
Tôi đi xưng tội với một
Linh Mục đáng kính đã khá đứng tuổi, chúng tôi thường gọi Ngài là “Mắt Xanh”.
Đôi khi tôi bị hấp dẫn bời cái đơn sơ như trẻ thơ của Ngài. Đó là lý do tại sao
tôi chọn ông để làm thí nghiệm này.
Phần tôi, tôi muốn biết
ông làm sao để giữ bí mật của Toà Cáo Giải và đồng thời có dùng nó để sa thải
tôi không ? Tôi không nghĩ điều này gây nguy hiểm vì tôi có thể chối hết mọi
sự. Hơn nữa vì tôi đứng thứ nhất hết mọi môn, nên tôi có thể đứng vững. Rõ ràng
là tôi thông minh nhất lớp.
Do đó tôi xin “Mắt
Xanh” cho tôi xưng tội và tôi kể hết mọi chuyện cho ông. Ít nhất là các điểm
chính: Tôi là người Cộng Sản, thuộc tổ mật vụ của chủ thuyết đấu tranh vô thần,
là tôi đã giết một tu sĩ Ba Lan, người đã dám nói là tôi không có ơn gọi Linh
Mục.
Thật lạ, “Mắt Xanh” tin
tôi tức thì, dầu tôi có thể bịa đặt toàn thể câu chuyện. Phản ứng của ông bình
thường, ông nói với tôi về sự cứu rỗi vĩnh hằng của tôi.
Chút nữa thì tôi phá
lên cười. Ông ta có thể tưởng tượng ra là tôi chỉ có đức tin nhỏ như một nguyên
tử !
Tôi buộc phải cắt nghĩa
cho ông là tôi không tin Chúa và cũng không tin ma quỷ. Cuộc xưng tội như thế
có lẽ là điều mới lạ cho ông. Tôi tội nghiệp ông.
Rồi ông nói với tôi:
“Anh muốn được hưởng gì khi nhận các Chức Thánh?”
Tôi thành thật nói lên
ý đồ của tôi: “Phá đổ Giáo Hội từ bên trong”. Ông bảo tôi: “Anh quá tự kiêu”.
Tôi hầu như trở nên tức
giận và hãnh diện cho ông biết là tổ chức đã tuyển mộ được hơn một ngàn chủng
sinh và Linh Mục. Ông nói là ông không tin tôi. “Tuỳ ý Cha, số của tôi là 1025
và dầu có thể một số đã từ trần, nhưng tôi vẫn còn có thể nói là chúng tôi còn
khoảng một ngàn thành viên”.
Một phút im lặng khá
dài rồi ông cụt ngủn hỏi tôi: “Anh muốn tôi làm gì ?”
Khó mà tôi có thể nói
là để cho vui và xem ông giữ bí mật ấn Toà Giải Tội ra sao. Tôi chỉ nói: “Tôi
nghĩ là ông sẽ tìm cách loại tôi”. “Sa thải ! Anh có phải là chủng sinh thông minh
nhất của chúng tôi không và một trong những người nhân đức nhất ?”. Chính tôi
là người không biết trả lời làm sao. Dầu sao, tôi bảo ông: “Cuộc xưng tội của
tôi không cho Cha thấy được con người thật của tôi sao ?”. Ngài bảo tôi: “Chúa
lập bí tích Giải Tội vì lợi ích cho các linh hồn, vì thế cuộc xưng tội của anh
vô ích”.
“Cũng không để biết tôi
rõ hơn ?”. “Cũng không, vì khi anh lìa bỏ nơi này thì tôi đã quên hết rồi”.
“Thật vậy sao ?”. “Anh biết điều đó quá rõ, vì anh đã học với chúng tôi”. “Tôi
biết trên lý thuyết còn làm sao tôi biết được trong thực tế ?”. Cha trả lời:
“Vậy đây là mục đích chính của cuộc xưng tội kỳ cục này ?”. “Có lẽ”. “Nếu anh
có mục đích khác thì tốt hơn nên nói với tôi”. “Không”, tôi lịch sự trả lời
ông, “Tôi chỉ muốn thử Cha thôi”.
Hình như ông đắn đo rồi
nói với tôi: “Anh làm điều vô ích, không có lợi gì hết”. “Thật không lợi gì hết
sao ?”. “Không được gì hết, anh biết mà”. Ông bỏ đi, để tôi lại trong thất vọng.
Hôm sau, một người bạn
cùng lớp, anh tự cho mình là bạn của tôi vì anh thích tôi, anh nói nhỏ với tôi:
“Mắt Xanh đã cầu nguyện suốt đêm qua trong nhà nguyện”. Tôi quan sát vị giáo sư
già, hình như ông đã không mất ngủ tối qua. Nhưng khi Cha giảng bài, tôi nghĩ
là tối hôm đó có thể tương tự như Cuộc Hấp Hối của Chúa trong Vườn Cây Dầu.
“Mắt Xanh đã phải cầu
nguyện cho ông thoát khỏi chén đắng này. Nhưng không ai có quyền loại bỏ cuộc
xưng tội vừa qua”.
Theo tôi hình như không
thể nào ông quên được điều này. Khi Ngài cầu nguyện, chắc là Ngài đã phải xin
cho tôi sám hối hay rời Chủng Viện. Ông có tìm cách làm cho tôi rời Chủng Viện
không ?
Mỗi khi ý tưởng này trở
lại đầu tôi, tôi đã khóc trong lòng: “Không, vì từ đó tôi không biết gì hết”.
Ông sẽ nói gì chống tôi
mà không do cuộc xưng tội này ? Không gì hết; Tôi đã không đi xưng tội nếu tôi
không nổi tiếng là một chủng sinh gương mẫu.
Ông già không hiểu
người Cộng Sản sẵn sàng hy sinh mọi sự sao ? Tất cả những người đó tin là chỉ
người theo Chúa Ki-Tô mới dám hy sinh.
Trong các ngày sau đó,
tôi quan sát “Mắt Xanh” kỹ lưỡng. Tôi luôn thấy ông bình thường. Tôi có thể nói
là ông bình tĩnh, nhẹ nhàng và “mắt còn xanh”.
Hiện giờ tôi thích ông
và chút nữa thì tôi tự tố cáo mình về chuyện này khi biên thư cho Bác. Nhưng
tôi quyết định không nhắc tới chuyện xưng tội vì bên đó họ không hiểu được.
Nhiều tháng sau, tôi
lại bị thúc đầy đi xưng tội với các giáo sư khác. Hiện tại tôi chán đời sống độc
điệu này, vì tôi làm vừa lòng hết mọi người. Chiến đấu một chút có lợi cho tôi
hơn. Sau đó, tôi lần lượt đi xưng tội với hết mọi giáo sư, rồi tôi khoái chí
cho là họ phải nghĩ hoài về cái bí mật ghê tởm này trong trí họ. Tôi không bao
giờ có thể hiểu được làm sao họ có thể chấp nhận sự có mặt của tôi như một gánh
nặng ở giữa họ, và nhìn về những cái sai lạc mà tôi sẽ làm sau này.
Dầu sao có những ngày
tôi khoái chí vì lo lắng. Tôi cần được kích thích. Tôi đoán là họ sẽ tìm cách
ngăn cản tôi lãnh nhận các Chức Thánh. Rồi tôi cố gắng gấp đôi. Các bài giảng
của tôi được coi là bài mẫu, một tuyệt tác nhỏ.
Tôi còn nhiều công
trạng hơn nữa vì thêm vào đó tôi còn phải duy trì công tác chống tôn giáo trên
toàn thế giới.
May mắn Bác không đòi
hỏi tôi phải chuyển ra mật mã công việc của tôi. Tôi chỉ cần cung cấp mỗi tuần
một dự án. Tôi có hàng ngàn tư tưởng và công tác này không làm tôi nhàm chán,
ngược lại nó là niềm vui và khích lệ cho tôi.
Vào thời gian tôi đùa
nghịch với phép Cáo Giải, tôi quan tâm đến một điểm của giáo huấn, tôi muốn nói
đến một nhân đức thánh thiện là đức vâng lời. Nhất là vâng lời Đức Giáo Hoàng.
Tôi nhìn vấn đề này theo nhiều khía cạnh mà không thể hiểu được.
Vì thế, tôi phải xin cơ
quan nghĩ đến việc tìm cơ hội kín đáo chỉ trích niềm tin tưởng vào Đức Giáo
Hoàng của người Công Giáo. Tôi ý thức là tôi xin một điều rất khó. Nhưng cuối
cùng tôi cho việc xúi giục người Công Giáo chỉ trích Đức Giáo Hoàng là một điều
quan trọng.
Một người phụ trách
việc theo dõi kỹ lưỡng các bài viết của Toà Thánh để phát hiện cả đến các chi
tiết nhỏ có thể làm mất lòng tầng lớp này hay nhóm người kia. Giá trị của những
người phê bình Đức Thánh Cha không quan trọng, quan trọng là Ngài bị phê bình.
Lý tưởng đương nhiên là gây cho ngài làm mất lòng mọi người, kẻ phản động cũng
như người cải cách.
Còn đức vâng lời là một
trong những quy luật của Giáo Hội này.
Tôi nghĩ ra cách làm
cho nó yếu bớt đi bằng cách tạo nên lòng hối hận. Ta thử tưởng tượng mọi người
cho mình có trách nhiệm về sự chia rẽ hiện tại trong Ki-Tô giáo. Hãy làm cho
mọi người Công Giáo phải xưng “lỗi tại tôi”, và cố gắng tìm cách xoá bỏ bốn thế
kỷ bài bác các hệ phái Tin Lành.
Tôi có thể giúp nghiên
cứu và nhắc đến tất cả những điều họ đã xúc phạm đến người Tin Lành và đề nghị
họ sống bác ái một chút đối với những người này. Bác ái cho chúng tôi một lợi
điểm là có thể khiến nó làm mọi việc điên khùng.
Vào lúc đó, tôi vẫn còn
sợ phương pháp của tôi bị phát giác và nhiều người có thể cho đây là một chiến
thuật giết chết Thiên Chúa. Các biến cố xảy ra sau này chứng minh tôi đã sai
khi lo sợ như thế. Một câu tục ngữ Pháp nói: “Cái tốt nhất là kẻ thù của cái
tốt”. Trong trường hợp này không ai thấy được là tình yêu huynh đệ của tôi đối
vời người Tin Lành có thể dẫn đến việc phá tan Ki-Tô giáo. Ngoài ra, tôi không
muốn nói là người Tin Lành không có đức tin (hay đức tin khác) và cơ quan của
tôi không quan tâm đến họ.
Nhưng tôi kích động họ
bằng cách cho thấy là họ không phải trở lại đạo Công Giáo, mà đạo Công Giáo
phải quay về với họ. Ngay cả khi công bố trệu tập Công Đồng, tôi gởi đi toàn
thế giới một sứ điệp làm họ ngỡ ngàng; nó gồm một mệnh lệnh và một lời tiên
tri. Trước hết, lời tiên tri: Chính Thiên Chúa bằng một phép lạ, một phép lạ
ngoạn mục (dân chúng thích điều này) sẽ hoàn thành sự hiệp nhất các người
Ki-Tô. Đó là lý do vì sao con người không được can thiệp vào, họ chỉ cần rộng
mở, giàu lòng bác ái. Nói cách khác người Công Giáo phải bỏ đi một mớ hành
trang để cho Thiên Chúa ban phép lạ vĩ đại của Ngài giữa những tâm hồn trong
trắng. Phần người Công Giáo trong giai đoạn này, những người có tâm hồn trong
trắng phải cố gắng bằng mọi phương tiện làm vui lòng người Tin Lành.
Mệnh lệnh cũng rất đơn
sơ: Hoàn toàn cấm người Tin Lành trở lại đạo Công Giáo. Điểm này rất quan trọng
đối với tôi vì các cuộc trở lại đang diễn ra theo một nhịp độ khá nhanh. tôi
nhấn mạnh mọi nơi là phép lạ vĩ đại sẽ không xảy ra được nếu người Công Giáo
tiếp tục nhận người Tin Lành trở lại. Tôi để cho người ta thấy rõ là phải để
cho Thiên Chúa tự do trong các hoạt động của Ngài.
Người ta nghe tôi, đi
theo tôi. Tôi không phải là Thiên Chúa của họ, nhưng tôi đang làm phép lạ.
Tôi run lên vì vui
sướng cho đến cả ngày hôm nay. Điều này theo tôi là một trong những thành công
lớn của tôi.
Sau hai năm trong chủng
viện, tôi tự hỏi là còn tiếp tục được không ?
Một mình ý chí thôi
không đủ và tôi còn rất trẻ, tôi không thể chỉ sống vì hận thù.
Dầu tôi nhận thấy mối
hận thù này tăng thêm, trước hết đối với Thiên Chúa bây giờ cho mọi người quanh
tôi. Ước gì họ đoán được là tôi ghét họ đến mức nào. Ngay cả đến hôm nay, tôi
phục chính mình đã đủ sức chịu đựng họ. Chắc chắn tôi còn và vẫn còn là một
người sống cô độc. Nếu sống chung với người khác không cần thiết đối với tôi,
thì trái lại tôi lại thiếu một chút ấm áp tình người trong thời thanh niên của
tôi.
Thật sự tôi chỉ thân có
một mình vị giáo sư dạy hát mà tôi thăm mỗi thứ bảy. Chúng tôi hiểu nhau trong
nhiều điều mà không cần phải dài dòng, nhưng không bao giờ ông hiểu tường tận
được thực chất cái sứ mệnh của tôi.
Cái kỳ diệu là tôi có
thể nghỉ ngơi ở nhà ông. Không có ông tôi không có nghị lực để chiến đấu.
May là bản văn này sẽ
không bao giờ được phổ biến, vì đây không phải là một gương tốt cho các đồng
chí của tôi.
Tôi cũng nhận được lệnh
phải chấp nhận các lời mời tham dự các sinh hoạt xã hội. Giấy mời đến mà tôi
không biết tại sao và làm sao đã được gởi tới tôi. Do đó tôi buộc phải tuân
theo. Tôi không bao giờ dám hỏi Bác mỗi khi biên thư cho ông về giá trị của những
sinh hoạt nhảm nhí này.
Dầu sao Bác cũng biết
là tôi kinh tởm những thứ này và Bác cũng đã nói với tôi là biết cách sống ở
đời sẽ có lợi cho tôi. Tôi chấp nhận nhưng tôi không bao giờ thấy được các lợi
ích gì từ đó.
Một buổi chiều, tôi đi
dự một buổi tiếp tân sang trọng. Tôi chợt bắt gặp bóng dáng của một cô gái trẻ
và thình lình mọi sự quanh cô tan biến mất, cả đến các giác quan của tôi.
Cô có cái cổ dài,
nghiêng hơn là tháp
Hầu như chỉ một mình
hai chúng tôi, dầu cô không thấy tôi. Tôi gào thét với cô trong nội tâm để cô
quay đầu một chút để tôi có thể nhìn trộm cô, nhưng cô không quay lại, tôi
không biết đã xuất thần bao lâu. Nhưng một người thanh niên không quen biết đã
đem tôi về với thực tại. Anh đã hiểu tất cả, có lẽ hơn cả tôi. Anh chàng tốt
bụng hỏi tôi có muốn anh ta giới thiệu với cô X không ? Anh biết tên tôi nhưng
lầm tưởng tôi chỉ là sinh viên đại học. Trong sinh hoạt xã hội, không ai biết
tôi là một chủng sinh.
Sau đó ít lâu, người
thanh niên này đã giới thiệu tôi với “Tóc Mây” (tôi sẽ không bao giờ gọi cô
bằng một cái tên nào khác).
Tôi đã bình tĩnh trở
lại nhờ cách hô hấp kín đáo.
Dù sao bây giờ tôi là
một con người khác, hoàn toàn khác. Một phần trăm giây đã đủ thay đổi tôi.
Suốt cả buổi chiều tôi
đã không tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra cho mình. Tôi bận rộn tận hưởng cảm
giác mới này.
Tôi nói chuyện vời Tóc
Mây một lúc, trong lúc đó tôi không dám ăn tươi nuốt sống nàng vì tôi thèm muốn
chiếm giữ nàng cho tôi và giấu nàng trong một căn nhà nhỏ xa hết mọi người, một
căn nhà nhỏ bé nơi đó nàng chờ đợi tôi. Nàng có đôi mắt xanh to nhìn người ta
với một sự chân thành khó tả.
Khi nàng được mời nhảy,
tôi phải giấu đôi tay sau lưng để đừng ra tay giết người đã dám đem nàng xa tôi.
Nhảy là một sáng chế
của ma quỷ. Tôi không hiểu làm sao một ông chồng có thể để vợ mình nhảy với một
người đàn ông khác.
Tôi nhìn nàng nhảy, áo
nàng tuyệt dịu, nhưng mắt tôi hầu như bị thôi miên bởi cái cổ nghiêng nghiêng
của nàng như giương giơ ra cho đao phủ thủ.
Không biết sao tôi linh
cảm co gái này có số mệnh phải chết dữ. Cảm giác này tăng thêm cơn phẫn nộ làm
tôi muốn lôi nàng xa khỏi đám những người này.
Nàng đang làm gì giữa
những tên điên khùng này ? Nàng sống bằng nghề gì ?
Tôi phải thành công làm
cho nàng không mong muốn gì hết ngoài việc chờ gặp tôi. Tôi phải thực hiện cho
được bằng bất cứ giá nào. Nàng thuộc về tôi, đó là tất cả.
Nàng ra về với một cặp
vợ chồng giàtôi không quen biết. Làm sao tôi có thể gặp lại nàng nữa ?
Nàng không quan tâm tới
tôi, có lẽ chỉ vào phút chót khi mắt nàng gặp mắt tôi.
Cái nhìn này có nghĩa
gì ? Nàng có biết làm cách nào để gặp lại tôi không? Có lẽ may ra.
Tôi không bận tâm là
nàng sẽ nghĩ gì nữa. Tôi quyết định sẽ ảnh hưởng trên ý tưởng của nàng vì tôi
nghĩ là nàng thuộc về tôi mãi mãi.
Nàng không đồng ý thì
đây là một thách thức thú vị.
Tôi chỉ biết tên nàng
thôi, ngoài ra không biết thêm gì hết. Tôi nhờ vị giáo sư dạy hát của tôi tìm
nàng.
Việc này làm ông vui
nhiều. Ông còn nói với tôi: “Ồ, anh đã trở thành con người hơn !” Tôi không
hiểu là ông có thấy gì không có tính người trong tôi không và điều ông đã nói
giày vò tâm hồn tôi. Ông đã không muốn cắt nghĩa. Ông điều tra một thời gian
khá lâu, tôi phải trấn an mình và làm việc hăng say gấp mười lần.
Trong thời gian này,
tôi ung ra thị trường (tạm gọi như thế) chương trình làm cho người Công Giáo
được người Tin Lành chấp nhận.
Người Công Giáo rất
mong muốn các hệ phái Tin Lành trở về đoàn tụ với Giáo Hội Mẹ. Đây là lúc họ
phải từ bỏ kiêu căng. Đức bác ái biến điều này thành một trách nhiệm cho họ.
Khi có bác ái – tôi làm bộ và cười thầm – thì không thể xảy ra chuyện gì sai
trái.
Tôi tiên báo chắc chắn
người ta sẽ huỷ bỏ tiếng La-tinh, áo dòng, ảnh tượng, đèn nến và ghế quỳ (để
người ta không quỳ gối nữa).
Tôi cũng hăng hái bắt
đầu chiến dịch bãi bỏ không làm Dấu Thánh Giá. Dấu Thánh Giá chỉ thông dụng
trong Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống. Đây là thời điểm phải vạch cho họ thấy
là họ xúc phạm đến những người cũng mang nhiều nhân đức và nếp sống thánh thiện
không thua gì họ. Dấu Thánh Giá và việc bái gối là phong tục phi lý.
Tôi cũng đã tiên đoán
(vào năm 1940) việc dẹp bỏ bàn thờ, thay thế bằng một cái bàn thường, bỏ luôn
cây Thánh Giá, để người ta chỉ coi Chúa Giêsu là con người chứ không phải là
Chúa. Tôi nhấn mạnh Thánh Lễ chỉ là bữa ăn tập thể, mọi người đều được mời tham
dự, cả đến người không có đức tin. Tôi cũng đưa một tiên báo: Phép Rửa Tội trở
thành ma thuật và vô lý cho con người tân tiến. Bằng mọi cách phải bãi bỏ phép
Rửa Tội để cổ võ một nếp sống tôn giáo trưởng thành.
Tôi nghiên cứu tìm cách
huỷ bỏ ngôi Giáo Hoàng, nhưng tôi không tìm được phương cách nào hết.
Bao lâu mà chúng ta
không nói được là những lời của Chúa Giêsu: “Con là Đá, trên Đá này Ta sẽ xây
Giáo Hội của Ta, và cửa Hoả Ngục sẽ không thắng được” là do một người Roma đạo
đức bịa đặt ra (làm sao chứng minh được điều này – không thể chứng minh được),
thì luôn có một Vị Giáo Hoàng cai trị.
Tôi tự an ủi mình hy
vọng là chúng tôi sẽ thành công làm cho ngôi vị Giáo Hoàng trở thành trò cười.
Điều quan trọng là lên
tiếng chống đối mỗi khi Ngài ban hành điều gì mới và ngay cả khi Ngài làm sống
lại những tập tục cũ khó mà tuân theo.
Hơn nữa tất cả những
điều người Tin Lành, ngay cả chỉ một hệ phái được phép làm, thì người Công Giáo
cũng phải được phép, như là tái kết hôn, cho phép ly dị, cưới nhiều vợ, ngừa
thai, chết êm dịu…
Trong Giáo Hội Toàn
Cầu, sau khi chấp nhận các triết gia có đạo cũng như vô thần, thì các Giáo Hội
Kitô cũng phải từ bỏ hết mọi tài sản. Như thế tôi kêu gọi họ làm một cuộc thanh
tẩy toàn bộ.
Bất cứ điều gì khuyến
khích tâm trí con người thờ lạy một Thiên Chúa vô hình thì phải huỷ bỏ một cách
không thương xót.
Người ta không được cho
là tôi không biết – như một số người tôi sẽ không nêu tên nghĩ – sức mạnh của
các cử điệu và của mọi thứ đánh động trên các giác quan của con người.
Một khối óc biết suy
nghĩ đã phải thấy là tôi đã huỷ bỏ mọi thứ đáng mến trong tôn giáo mà trên một
bình diện khác lại có vẻ quá gò bó.
Duy trì sự khắt khe
trong đạo là một trò khá đẹp. Tôi sẽ kín đáo phao tin là vị Thiên Chúa độc ác
này sau cùng cũng có thể chỉ là sáng chế của con người – Thiên Chúa ác đến độ
đã sai con mình xuống thế để chịu đóng đinh ! Nhưng tôi phải cẩn thận là cái
thù ghét của tôi không hiện ra trong các bài viết của tôi.
Trong khi tôi thật là
phấn khởi với các mệnh lệnh và lời tiên đoán trên, thì giáo sư dạy nhạc gọi
điện thoại cho tôi. Ông đã tìm ra nàng và mời tôi chiều đó đi dự buổi hoà nhạc,
và tôi lại có thể thấy nàng.
May là tôi xin phép ra
ngoài dễ dàng. Tôi có một giọng hát hay và các tu sĩ thường tỏ ra dễ dãi với
các nghệ sĩ.
Tôi lại thấy nàng, đẹp
hơn là khi tôi thấy lần đầu – rất đẹp, rất đẹp – làm sao mà tôi không điên lên
được ?
Nàng đã nhận lời tới
uống trà vào thứ bảy sau tại nhà giáo sư dạy hát của tôi.
Tôi giả bộ là sống tại
một trung tâm đại học. Giáo sư dạy hát của tôi tên là Achillê và ông bảo tôi
gọi ông là bác Achillê.
Tôi hiểu ngay là ông
muốn làm cho tôi như có thân nhân. Nhưng tôi không biết ơn ông, vì thái độ của
ông cho tôi thấy là ông thật sự muốn tôi nghĩ đến việc lập gia đình. Làm sao mà
ông lại có ý tưởng kỳ khôi này ? Đó là dấu chỉ ông nghĩ tôi không có ơn gọi làm
linh mục, nhưng tuyệt đối không nghĩ gì đến sức mạnh và sự quyết tâm của tôi đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Nghĩ kỹ thêm, tôi thấy
việc ông ta không hiểu chuyện của tôi thì tạo lợi thế cho kế hoạch của tôi vì
tôi có một cá tính mạnh mẽ và có một khả năng che dấu tài tình.
Để làm một nhân vật
quan trọng thật sự, người ta nhìn nhận là rất có lợi khi biết tỏ ra tầm thường
và cả đến ngu đần. Những ai xuất hiện trước đám đông không phải là người thực
sự quyết định.
“Tóc Mây” của tôi hình
như thích đến nhà bác Achillê. Tôi biểu diễn tất cả những cái hấp dẫn trong cá
tính người Slavo của tôi. Không ai dạy tôi cái trò nhỏ này, nhưng tôi đã phát
giác ra đó là bản năng.
Tôi phải nói là tôi rất
hãnh diện về nó.
Người đàn bà trong mộng
của tôi ngày hôm đó đã mặc một cái áo xanh đơn sơ và đeo ở cổ một món trang
sức, một mẫu ảnh Đức Mẹ Lớn, người ta gọi là Ảnh làm Phép Lạ.
Mắt tôi luôn hướng về
mẫu ảnh đó và cảm thấy thật là khó chịu, tôi muốn giật lấy mẫu ảnh ra khỏi nàng
và quẳng ra ngoài cửa sổ.
Tôi phải đương đầu với
sự thật. Thật sự, tôi đã si tình lần đầu. Si tình như một anh chàng đáng
thương. Khối óc của anh đã không làm chủ được bản năng của anh. Tôi chỉ thấy có
một liều thuốc : phải luôn hăng say bênh vực và thăng tiến giai cấp bần nông. Vào
thời điểm đó, tôi tung ra chiến dịch đối thoại Thánh Kinh. Mục đích là làm nổi
lên trong người Công Giáo việc chuyên cần suy tư và đọc Lời Chúa, nhấn mạnh đến
việc tự do tìm hiểu như người Tin Lành đã làm trong bốn thế kỷ vừa qua. Tôi
minh chứng là sự tự do này đã tạo cho chúng ta nhiều thế hệ thanh thiếu niên
trưởng thành và dám làm chủ cuộc sống của họ. Bằng những phương tiện đạo đức
này, tôi thúc giục người Công Giáo trút bỏ ách của Đức Giáo Hoàng và làm chủ
cuộc sống mình.
Dầu tôi giành cho người
Tin Lành địa vị bá chủ, nhưng tôi cũng làm cho họ suy yếu vì họ tự mãn nên
không nhận ra được. Sự suy yếu này phát xuất tự nhiên từ việc cạnh tranh giữa
các phe phái.
Trong cuộc chạy đua
này, người Công Giáo không thể làm trọng tài được, vì họ đang bận tâm với những
ước vọng cải tổ chính mình.
Thuyết phục người Công
Giáo phải trở về nguồn và đồng thời hiện đại hoá dễ như trò chơi trẻ con. Tôi
đề nghị hăng hái xuất bản ngay một bản dịch Thánh Kinh mới, theo thể văn hiện
đại bằng nhiều thứ tiếng. Tôi cũng cảm thấy người ta sẽ ra sức thi đua làm việc
này. Tôi không nhắc đến khía cạnh tài chánh của vấn đề, nhưng vì con số các bản
dịch cho phép ta lưu ý là các nhà lãnh đạo trong Giáo Hội cũng đã quan tâm đế
các chi phí phải bỏ ra.
Hiện đại hoá Lời Chúa
sẽ làm cho sự ngoan cố trong Giáo Hội giảm bớt. Điều này sẽ được thể hiện một
cách tự nhiên.
Mội khi gặp một lời ít
được dùng và có nguy cơ không ai hiểu được, thì phải thay bằng một lời đơn sơ
hơn – đương nhiên sẽ luôn làm hại cái nghĩa thật. Làm sao tôi có thể than phiền
về điều này ?
Ngoài ra, bản dịch mới
sẽ tạo điều kiện đối thoại Thánh Kinh dễ dàng hơn, do đó chúng ta mang một hy
vọng lớn. Để đối thoại, ta phải gởi các vị lãnh đạo đi chỗ khác, bất cứ chỗ nào
để giáo dân có thể hành động như người trưởng thành. Tôi cũng đề nghị các cuộc
họp về Thánh Kinh giữa các giáo phái. Đây là mục đích chính của tôi, và có thể
tiến xa hơn nữa thêm việc nghiên cứu sách Koran (Thánh Kinh Hồi Giáo) và các
sách Á Đông. Để quên Tóc Mây, tôi tự dọn nhiều buổi hội thoại Thánh Kinh bằng việc
nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau của vài vấn đề then chốt.
Một trong các cuộc đối
thoại tôi thích liên quan đến Đức Thánh Cha, vì nhân vật này thật sự là một
chướng ngại cho tôi. Khi tôi nói “nhân vật” này, tôi nghĩ đến cả những bản văn
làm nền tảng cho tước hiệu của Ngài. Các văn bản này làm tôi khó chịu như đã
làm cho các người Ki-Tô ly khai (như họ nói)
Tôi rất biết ơn người
đã nghĩ ra từ “thắng” trở nên không thể hiểu được cho con người thời đại và đã
thay bằng từ “có thể”.
Thay vì “cửa Hoả Ngục sẽ
không bao giờ thắng Giáo Hội”, ông đã viết “cửa Hoả Ngục không bao giờ có thể
làm gì chống lại Giáo Hội”. Điều này làm cho các cuộc hội thảo Thánh Kinh dễ
dàng hơn, ít nhất là trong các nước nói tiếng Pháp.
Mọi người nhận thấy
ngay là lời tiên tri, nói là Hoả Ngục không thể làm gì chống lại Giáo hội là
hoàn toàn sai, mọi người thở dễ dàng hơn vì như thế sẽ huỷ diệt niềm tin lâu
đời vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài sẽ chỉ bênh vực những cố gắng của
người Công Giáo (và hiểu là không bao giờ hậu thuẫn cho các kẻ lầm lạc !)
Tôi muốn phổ biến các
bài đối thoại của tôi trong cái hoả mù của sách Cựu Ước. Sách Khởi Nguyên tự
mình nó đủ làm cho một người lương thiện thành điên cuồng. Tôi càng già tôi
càng nhận thấy là chỉ có đức tin của một anh nông phu và của một em bé mới có
thể tồn tại trong một thế giới mà trí khôn chiếm ưu tiên trên hết mọi sự.
Tôi cũng có lý do để
đặt câu hỏi này : “Còn anh nông phu hay là còn trẻ em nào nữa không ?”
Hình như ngày nay, tối
thiểu là cho dân da trắng, là tuổi thơ đã chết ngay khi người ta sinh ra và tôi
phải nói là đã được thay thế bằng một con người trưởng thành nho nhỏ và chỉ hay
quấy rầy.
Tôi không biết là phải
vui mừng vì chuyện này không ? Vì thế nếu đức tin mất hết ảnh hưởng cũng được,
nhưng niềm tin của tôi có được lợi gì vì chuyện này không ?
Nhiều câu hỏi được nêu
lên.
Không lâu sau khi tôi
gặp “Tóc Mây” thì nước Pháp – quê hương của nàng bị quân đội của Hitler xâm
chiếm và hình như họ chỉ chống trả lấy lệ.
Vào dịp này tôi đã viết
một bức thư rất hay cho người bạn gái kiêu hãnh của tôi để an ủi nàng.
Nàng chấp nhận lái xe
với tôi về miền quê. Nàng có chiếc xe hơi mà ông chú đã cho mượn. Thật sự nàng
ở nhà người em của cha nàng. Gia đình thật của nàng ở lại Pháp, ngay trong vùng
bị chiếm đóng.
Nàng muốn về lại quê
hương, phản ứng rất người này làm tôi thích thú. Tôi thích cái tự hào và cái
nhu cầu phải vươn lên. Tôi hết sức mong muốn có nàng làm bạn đồng nghiệp !
Dầu sao tôi không dám
nói về đức tin, cả đến vấn đề chính trị. Cái mẫu ảnh nàng đeo hôm nay khi chúng
tôi gặp nhau lần thứ bốn là cả một thế giới ngăn cách chúng tôi.
Khi chúng tôi uống trà
trong một cái quán thơ mộng, hình như dành cho các cặp tình nhân, một cặp ra
dấu kín đáo chào hỏi tôi, làm tôi lo lắng. Anh chàng là anh của một người bạn
cùng lớp. Tôi đã được mời đến gia đình anh và anh biết tôi khá rõ. Làm sao anh
có thể quên được tôi là một chủng sinh ? Tôi không dám hy vọng hơn. Cô gái trẻ
đi với anh ta là bà con của “Tóc Mây”.
Tôi nổi khùng và cô bạn
gái của tôi cũng nhận thấy. Nàng sẵn sàng giới thiệu tôi cho chú thím nàng để
tôi có thể tự do đến thăm nàng tại nhà, và tôi thầm nghĩ phải hỏi nàng “với tư
cách gì ?” “như đã đính hôn ?”… Làm sao tôi có thể nói là tôi muốn nàng cho một
mình tôi, nhưng tôi không bao giờ cưới nàng. Không, tôi giữ luật độc thân Công
Giáo để phục vụ giai cấp cần lao.
Nếu nàng hiểu ước vọng
của tôi thì thật là tuyệt, nhưng tôi không dám đặt vấn đề với nàng. Rồi tôi còn
có thể tới thăm nàng tại nhà. Tạm đủ nếu nàng chấp nhận một vai trò mù mịt.
Nàng nhận thấy là tôi
không hăng hái với ý tưởng được giới thiệu cho gia đình nàng, và nàng ra về cảm
thấy bị xúc phạm. Đây không phải là cuộc cãi vã đầu tiên, nhưng là lần hiểu lầm
nghiêm trọng đầu tiên. Tôi có đủ tiền để mướn nhà, ngay cả đến một phòng. Đảng
sẽ không cho phép tôi phung phí vì đó là lỗi lầm nặng của bọn trưởng giả.
Ngày hôm đó chúng tôi
lạnh nhạt chia tay. Cả hai chúng tôi cảm thấy một sức mạnh vô hình chống lại
chúng tôi và mối tình vừa nảy sinh. Chúng tôi cảm thấy như vậy mà không cần phải
nói ra. Hơn nữa, tôi tự hỏi nếu như các cô gái khác, nàng đã bị thúc đẩy bởi
ước muốn lập gia đình. Đó là một ước muốn chính đáng và đương nhiên tôi không
phiền trách nàng vì chuyện đó, nhưng trong hoàn cảnh này thì là một ước muốn
rất bi thảm. Tôi tạm biệt nàng cách lạnh nhạt tế nhị và không thấy là sẽ có dịp
gặp lại nhau. Nàng nhún vai và chậm rãi bước đi.
Tôi bất động, mắt tôi
nhìn theo cái cổ trắng của nàng, nghiêng dưới sức nặng của mái tóc nàng – và cả
những tư tưởng buồn sầu. Khi tôi đứng bất động, nàng quay lại nhìn tôi. Chúng
tôi cách nhau khoảng mười thước. Rồi tôi thấy một điều kỳ diệu : nàng quay lại,
nàng quay lại phía tôi. Khi nàng rất gần tôi, nàng chậm rãi nâng tay lên, đặt
lên vai tôi. Nàng nhìn tôi chăm chú, tôi không nhúc nhích. Rồi nàng tiếp tục rờ
môi tôi bằng môi nàng. Đây là lần đầu tiên tôi hôn một cô gái.
May mắn là ngay từ đầu
tôi đã thuê một hộp thơ mà bác Achillê giữ chìa khoá. Hộp thơ rất hữu dụng khi
người ta từ chối khéo không muốn cho ai địa chỉ của mình.
Vài ngày sau khi hôn
nàng, cái hôn ban đêm mỗi lần nhớ lại làm tôi tỉnh dậy, tôi nhận được một lá
thơ tuyệt vời của “Tóc Mây”. Nàng viết : “Để em có thể vẽ đàng hoàng, chú em đã
thuê cho em một cửa tiệm nhỏ. Em chờ anh đến và uống trà ngày thứ bảy tới”.
Khi đó, tôi bỏ tập hát
và thứ bảy nào tôi cũng có mặt ở tiệm của nàng. Nàng cũng vẽ cho tôi một bức
chân dung. Thật sự, tôi phải công nhận là nàng có tài và tôi hãnh diện vì nàng
đã diễn tả được cá tính của tôi một cách nghệ thuật. Qua bức chân dung đó tôi
có thể biết rõ mình là ai đối với nàng. Không nói láo, qua mắt nàng tôi còn hơn
là một hoàng tử đẹp trai. Tôi còn là một kẻ chinh phục, một người đầy đàn ông
tính… có lẽ pha một chút tàn bạo kín đáo. Tôi hỏi nàng thấy con người tôi ra
sao và có nghi ngờ là tôi có những thiếu sót được che đậy và đáng ngại không.
Hình như nàng nổi giận
về chuyện đó. Tôi bảo nàng : “Bức chân dung biểu lộ tinh thần chinh phục và cao
ngạo với đôi nét thô bạo”. Nàng sững sờ và bảo tôi giàu tưởng tượng và ngược
lại nàng muốn vẽ tôi như nàng nghĩ, nghĩ là một con người đàn ông lý tưởng… làm
sao người đàn ông lý tưởng lại có những khuyết điểm bí mật ? Rồi tôi hỏi nàng
đâu là những khuyết điểm rõ ràng của tôi, nếu tôi không có những khuyết điểm bí
mật. Nàng trả lời tôi bằng một lời tiên đoán đáng ngại là tôi có chút xu hướng
sống trong “tháp ngà”.
Để nàng tha thứ tôi
trấn an nàng và sự thật là nàng sẽ luôn ở cùng tôi trong “tháp ngà”. Nàng trả
lời là nàng không nghi ngờ gì về điều đó, nhưng đó là một sự hiện diện mà chỉ có
mình tôi biết, còn nàng chỉ thấy sự vắng mặt. Làm sao tôi có thể dung hoà ước
muốn giành được nàng tất cả cho tôi và tôi lại không có thể là hết mọi sự cho
nàng ?
Nàng hỏi tôi chướng
ngại nào đã cản tôi không chịu lắng nghe và cởi mở với nàng. Tôi do dự một lúc
lâu và quyết định liều : tôi chỉ cho nàng cái mẫu ảnh nàng đeo ở cổ. Nàng nhìn
tôi rất ngạc nhiên. Nàng hỏi tôi : “Anh có đức tin không ?”. Tôi nói không và
không nói thêm gì hết.
Nàng xin tôi cắt nghĩa
ảnh hưởng của mẫu ảnh đối với tôi. Tôi trả lời nàng: “Đó là một chướng ngại,
nghĩa là vì nó, chúng ta không bao giờ có thể sống chung được”. Khi nàng đang
suy nghĩ, tôi nhắc lại : “Hơn nữa nó ở giữa chúng ta để chúng ta không bao giờ
thuộc về nhau”. Nàng gỡ mẫu ảnh ra và trao cho tôi. Tôi bỏ vào túi và tự nghĩ
mình phải làm gì đây. Tôi cho là ảnh làm bằng vàng. Tôi muốn đổ lại và khắc cái
gì khác trên đó, nhưng không thể làm được.
Qua cử chỉ này nàng đã
liên kết vận mệnh của hai chúng tôi lại với nhau một cách rất lạ thường. Nàng
đã tế nhị không hỏi là tôi sẽ làm gì với mẫu ảnh. Những ngày sau đó tôi hơi lo
lắng về chuyện này. Tôi bị cám dỗ tìm hiểu thêm mẫu ảnh được gọi là ảnh làm
phép lạ. Những chuyện được kể là phép lạ là do người ta bịa ra hay là sau này
khoa học sẽ chứng minh được. Hơn nữa tôi đọc được là mẫu ảnh này nổi tiếng làm
cho người không tin trở lại đạo. Tôi không tin chuyện này, và không thể xảy ra
nhưng tôi sợ là cô bạn tôi đã mang hy vọng này trong tim nàng. Ý nghĩ làm mất ý
nghĩa việc nàng đã tặng cho tôi, đã hy sinh mẫu ảnh vì tôi.
Ngược lại, theo tia
sáng mới này thì nàng đã không hy sinh. Tôi ngu dốt đến như vậy sao ? Tôi càng
ngu khi bị hành hạ vì nó. Ít tháng sau, khi chúng tôi cùng cúi xuống trên bức
tranh mới nhất của nàng, trước ngọn lửa củi, khung cảnh thật là bình an. Tôi đã
hỏi nàng : “Có phải nàng đã cho tôi mẫu ảnh để mong tôi hoán cải chứ không phải
là một hy sinh phải không ?” Nàng ngả vào tay tôi và trả lời : “Em không bao
giờ nói láo. Đúng ! Em muốn ảnh đó làm cho anh trở lại. Em xin ơn đó mỗi tối và
mỗi sáng và cả nhiều lần trong ngày, có lẽ cứ mỗi 15 phút”. Tôi không biết trả
lời sao.
Tôi không sợ mẫu ảnh và
lời cầu nguyện của nàng một chút nào, đối với tôi đó là chuyện trẻ con, nhưng
tôi đau khổ như một kẻ chiến bại. Phần tôi, tôi rất muốn có nàng như người bạn
đồng nghiệp và không có mẫu ảnh. Nó là gì giữa hai chúng tôi ? Tôi càng nghĩ
thì tôi càng thấy hợp lý là con người phải thắng. Ít nhất là trong mối tình
mạnh mẽ và nóng bỏng của hai chúng tôi. Nhưng tôi không nói gì. Hơn nữa tôi
cũng cho là nàng không hoàn toàn thuộc về tôi cho đến khi nàng cũng suy nghĩ
như tôi.
Không phải là chuyện tự
cao tự đại, nhưng tôi phải cắt nghĩa cho nàng là tại sao tôi không cưới nàng
được. Nếu nàng chia sẻ ý tưởng của tôi và muốn giúp tôi trong sứ mệnh của tôi,
tôi nghĩ nàng sẽ chấp nhận sống chung với tôi bí mật như vợ chồng. Không những
tôi không bao giờ lập gia đình mà tôi còn phải tỏ ra là người đạo đức nữa.
Một buổi chiều mùa
đông, khi tôi đang vẽ những màn cửa còn nàng đang pha trà. Tôi nghĩ một cái kim
bỏ quên trên giá vẽ đã đâm vào tay tôi. Tôi nhìn sát hơn và thấy đây là một mẫu
ảnh rất nhỏ, màu trắng. Tôi cho là một cái vòng bị hư đã đâm tôi. Nhưng đó cũng
là một loại ảnh, chỉ nhỏ hơn nhiều.
Khi tôi quay lại thì
nàng đang nhìn tôi, nàng đã hiểu. Tôi cay cú nói : “Cả bức màn cũng cần phải
trở lại đạo”. Nàng trả lời : “Đừng có vô lý và nhỏ mọn”. “Vì tôi không muốn
mình vô lý nên tôi muốn hiểu cô chờ gì từ cái bùa này ?”. Nàng giận và mặt nàng
đỏ gay : “Đó không phải là cái bùa”. “Vậy thì là cái gì ?” “Một sự tuyên xưng
Đức Tin”. “Tin cái gì ?” “Không phải tin gì, tin ai … tin MẸ LÀ MẸ CHÚA KITÔ”.
(tôi viết chữ hoa vì nàng nhấn mạnh)
Tôi không muốn tiếp tục
cuộc đối thoại vô ích này, nên làm thinh. Nàng tiếp tục nói nhỏ : “Người ta
phải biết là kim loại, gỗ hay giấy không có một chút quan trọng nào. Tôi biết
là khía cạnh này của câu chuyện làm anh ta sợ. Thật sự mẫu ảnh chỉ là cách đơn
sơ biểu lộ niềm tin của người ta, và không phải chỉ biểu lộ mà còn tăng thêm
niềm tin. Việc tôi luôn đeo mẫu ảnh này trên tôi và giữ trong nhà nơi làm việc,
khuyến khích tôi cầu nguyện thường hơn với MẸ – Người đã ban cho tôi CHÚA
GIÊSU”.
Như vậy nàng đã không
hy sinh mẫu ảnh của nàng cho tôi. Nàng có nhiều mẫu ảnh khác. Tôi không biết
điều gì đã ngăn cản tôi không chiếm đoạt nàng khi đó. Nàng đã không bao giờ
biết là nàng đã suýt bị xâm phạm. Im lặng một hồi lâu, tôi run lên vì giận. Tôi
muốn la to lên cái hận của tôi. Nhưng tôi chỉ nói : “Cô thuộc về tôi, tôi không
thể để cho cô yêu bất cứ điều gì hơn tôi”. “Anh thật lạ ! Anh không thể so sánh
hai chuyện này được. Tất cả mọi điều thuộc đạo giáo ở trong một lãnh vực khác.
Không phải vấn đề của trí khôn hay của con tim”. Tôi nóng nảy hỏi nàng : “Vậy
thì là gì ?”. Nàng nhẹ nhàng trả lời : “Lãnh vực bao la của siêu nhiên”. “Tôi
không biết”. “Tôi nghi ngờ điều đó”, nàng vừa nói vừa mỉm cười – một nụ cười
khiến tôi không cưỡng lại được.
Nàng có ý thức rằng
nàng muốn chế ngự tôi tôi chỉ bằng nụ cười của nàng? Theo tôi, đôi lúc không có
gì khác ngoài sự xâm chiếm kỳ lạ của nụ cười ấy. Một nụ cười nhẹ nhàng thanh
thoát mà ta có đủ thì giờ để cảm nhận. Đôi môi từ từ hé mở, với tất cả sự dịu
dàng, mà ta tự hỏi nụ cười ấy có triển nở cho đến cùng. Khi màu trắng sáng của
hai hàm răng xuất hiện, ta cảm thấy hưng phấn, riêng tôi chỉ còn biết phó mặc
tôi cho ân huệ có được từ sự dịu dàng trong sáng ấy.
Đó là điều tôi đã làm
trong khoảnh khắc mà tôi đang cần được sự nâng đỡ làm dịu lòng tôi.
Lúc ấy, nàng hỏi tôi
một câu xem ra kỳ lạ nhất, nàng nói : “Tại sao anh không cưới em ?”
Tôi chưa bao giờ bảo là
tôi không muốn. Nhưng “Tóc Mây” tỏ cho thấy nàng được ơn đoán trước được sự
việc, một ơn mà nhiều khi làm tôi sợ – Nàng đã biết gì về tôi ?
Tôi trả lời nàng : “Anh
không muốn lập gia đình, nhưng anh không thể nói với em tại sao”.
Nàng thở dài và nói :
“Có phải tại vì em tin vào Thiên Chúa không ?”
Đàn bà thật lạ, họ có
thể đi từ trạng thái con trẻ đến trạng thái thần thánh. Mẹ tôi đã là như thế.
Tôi trả lời : “Lứa đôi
nào cũng phải có cùng một tình yêu. Phải, đó là chướng ngại lớn nhất”
Nàng lại mỉm cười với
tôi và nói : “Em chỉ yêu mình anh thôi”.
Vào thời đó, tôi đã
chứng tỏ một năng lực rất lớn để tiêu diệt lòng sùng kính Đức Maria. Tôi nhấn mạnh
đến khía cạnh người Công Giáo và người Chính Thống Giáo làm buồn lòng những
người anh em Tin Lành biết bao khi họ cứ gia tăng lòng sùng kính Đức Mẹ Maria.
Tôi lưu ý họ rằng những
anh em ly khai khôn ngoan hơn họ và hợp lý hơn họ nhiều.
Chúng ta không biết gì
về người nữ thọ tạo ấy, thế mà lại trở nên quyền phép hơn cả Thiên Chúa hay ít
ra cũng dễ thương hơn (vô tình mà tôi lại bênh vực quyền lợi của Thiên Chúa một
cách thích thú).
Nhiều người Tin Lành
tin rằng Chúa Giêsu có nhiều anh em thì làm sao tin được rằng sau khi sinh
người con đầu lòng Giêsu, Đức Maria vẫn còn đồng trinh được sao ? Khó nói lắm !
Dầu sao đi nữa, cũng
khó mà xác định được niềm tin chính xác của những Giáo Hội Kitô ấy. Về việc
này, ai muốn tin thì tin.
Tuy nhiên biết những
điều họ ghét thì tương đối dễ hơn nhiều.
Tôi chủ trương dẹp bỏ
tràng chuỗi Mân Côi cũng như bỏ những ngày Lễ Kính dành riêng cho Đức Maria.
Trong sách Lễ của tôi có đến 25 Lễ, chưa tính đến Lễ riêng của từng địa phương,
cũng như chưa nói đến việc dẹp bỏ các ảnh tượng và ảnh vảy Đức Mẹ và các Thánh.
Nhiều việc dự kiến dự
phóng rất nên thực hiện.
Tuy nhiên, tôi không
biết làm sao huỷ bỏ Linh địa Lộ Đức và
Tôi đã nghiên cứu đặc
biệt về hiện tượng Lộ Đức, nhưng tôi phải thừa nhận công việc dai dẳng này
chẳng đem lại kết quả gì. Tôi chỉ có thể tách ra một khác biệt nghiêm túc trong
những chứng từ nguyên thủy.
Có người bảo rằng
Bernadetta xuất thần trong suốt cuộc thần hiện nơi cối xay, tôi nhớ không lầm
người khác lại phủ nhận việc này. Con bé cũng không nhìn nhận, người ta có thể
nói là em đã quên và không còn nhớ nữa, dầu sao cũng không quan trọng.
Tôi rất ghét lối quảng
bá dựa trên sự giả dối như thế. Tôi cũng biết rõ là Đảng cho phép nói dối, nhưng
về phần tôi thì tôi trọng danh dự hơn, tôi thấy tôi mạnh hơn nhiều. Tôi thấy
tôi hơn hẳn những đồng chí khác trong Đảng hay lợi dụng sự giả dối.
Tôi tin rằng rất dễ
xoay sở, chỉ cần biết đùa với sự thật và với sự truyền đạt khía cạnh hữu ích
của chân lý. Cho nên tôi có nói là sứ vụ của tôi dễ ăn khớp với lệnh truyền của
Đức Kitô là : “Anh em hãy thương yêu nhau”.
Đơn giản là tôi điều
khiển mọi cái nhìn thiện cảm của cả Giáo Hội, trên các cộng đoàn Kitô thệ phản.
Khi họ tin tôi tức là họ bất tuân lệnh các Thánh Tông Đồ một cách không có ý
thức (hoàn toàn không hề hay biết)
Một khó khăn khác nữa
là muốn hạ bệ Đức Maria thì phải bãi bỏ lễ Noel. Mà Noel đã là một lễ hội vui
vẻ có tầm cỡ toàn cầu, kể cả đối với những người không có đức tin, những người
này không biết giải thích tại sao và làm sao nữa.
Tôi phải nhìn nhận rằng
hoà bình và hoan lạc là những gia sản quý giá.
Dầu sao cũng thấy rất
an ủi là vì nếu Giêsu Nazaret không phải là Con Thiên Chúa thì Mẹ Ngài không có
giá trị gì, ta cũng không cần biết đến tên bà ta làm gì. Còn đối với ai còn
muốn tiếp tục ngưỡng mộ giáo huấn của Đức Kitô với lý do chánh đáng (giáo huấn
mà tôi đánh giá là có tính cách mạng) thì việc tôn sùng cậu bé Hài Đồng Giêsu
sẽ là rất lố bịch, vì con trẻ sinh ra ở chuồng bò là gì ? Đâu có gì khác biệt
đâu ?
Nếu những người Tin
Lành không tin Đức Maria sinh Chúa Giêsu mà còn đồng trinh, thì 700 triệu người
Hồi Giáo lại tin vào điều đó qua kinh Coran của họ. Như vậy có khác gì khuyến
khích một nửa nhân loại phải sùng kính người nữ trẻ tuổi ấy… không hiểu nổi.
Tuy nhiên, điều khó
hiểu hơn là những người Hồi Giáo chỉ tin Đức Giêsu như một ngôn sứ, mà còn thấp
kém hơn cả Mahomet. Mà Mahomet thì được sinh ra bình thường như bao trẻ con
khác. Sự lố bịch của con người quả thật không có giới hạn.
Đối với tôi, phủ nhận
việc Đức Maria là Đức Nữ Đồng Trinh là cách tốt nhất để biến những người Kitô
hữu thành đồ đệ của một người phàm mà thôi, chứ không phải là Thiên Chúa gì cả.
Ai mà không thấy rằng
muốn giết chết Thiên Chúa thì phải giết Giêsu Nazaret trước ? Các sách Phúc Âm
và các thư Phaolo… tóm lại là sách Tân Ước trở thành lời của người phàm, ta
muốn hiểu sao thì hiểu, muốn chỉ trích cũng được, muốn phủ nhận những gì là quá
đáng những gì ta không thích cũng được. Đó là điều mà tôi phải cố đạt cho được.
Nếu ở Đông phương, các
ảnh tượng biểu trưng lòng nhiệt tâm sùng kính Đức Maria, thì nay trên đất nước
Nga người ta phải cất giấu ảnh tượng hoặc phải đập bỏ. Còn bên Tây phương,
chuỗi Mân Côi rất được giới bình dân tôn kính yêu mến và rất thông dụng.
Việc tôn kính này, tôn
kính 15 điều được coi là mầu nhiệm, phải bị huỷ bỏ.Việc này tự nó có khả năng
bảo tồn và truyền bá lòng tin vào Chúa Ba Ngôi.
Ngoài ra, cần phải làm
cho những ai còn lần hạt Mân Côi mang mặc cảm tội lỗi.
Đó là bản tóm tắt các
lệnh mà tôi đã truyền đi khắp thế giới, trong khi đó, trong phòng của tôi ở
chủng viện, tôi treo trên hình của người mà tôi không bao giờ có thể cưới, mẫu
ảnh mà người ta nói làm phép lạ. Ai cũng có thể nghĩ là tôi xin phép lạ, trong
khi ngược lại tôi muốn tăng thêm hận thù nơi mình, mối thù này dầu sao cũng
không tầm thường.
Thứ bảy sau đó “Tóc
Mây” không thể tiếp tôi, gia đình đi hành hương. Tôi giận và lấy làm thích thú,
vì chắc chắn để xin ơn trở lại cho tôi mà cô bé đã tốn công như vậy. Tôi đi tập
hát vì tôi đã bỏ những tuần qua. Ông bạn Achillê của tôi vui mừng. Tôi không
thể giữ không kể chuyện về mẫu ảnh. Tôi không nói nên lời khi nghe ông trả lời.
Ông nói : “Cẩn thận ! Những điều người ta nói về mẫu ảnh này đúng đó. Nếu anh
giữ trong phòng anh sẽ gặp nguy hiểm”. Tôi hỏi là ông có bị cảm sốt không. Ông
giả bộ không nghe, nhưng khi thấy mẫu ảnh là ông khó chịu và ông không thấy cái
ảnh mà không điên lên.
Trái tim con người là
vực sâu không thể hiểu được. Ông giáo sư già – một người Cộng Sản nhiệt thành –
có thể nói chuyện như vậy, ông làm cho tôi lo lắng nhiều. Đây là lần đầu tiên
trong đời tôi nghi ngờ sự thành công của sứ mệnh tôi theo đuổi. Tôi lo sợ và
không vui, rồi tôi không cho công tác này là lý do độc nhất để tôi sống, là
tình yêu duy nhất của tôi. Tôi biết vậy trên lý thuyết, nhưng ngày hôm đó tôi
học bằng nỗi đau trong tâm hồn, tôi ghê tởm cái ngu dốt của trái tim con người.
Tôi muốn bàn cãi điều
này với ông, nhưng không được. Ông Achillê trả lời tôi : “Tôi không tin gì hết
– không tin Chúa cũng không tin ma quỷ, càng ít tin đối với Đức Mẹ Đồng Trinh –
nhưng tôi sợ mẫu ảnh đó, chỉ có thế thôi”. “Nhưng ông có tin là mẫu ảnh có thể
hoán cải ông ?” Tôi la lớn và lắc mạnh vai ông. Ông bảo tôi : “Chắc chắn là
không, nhưng tôi sợ, chỉ có thế thôi”. “Ông có thấy cái ngu dại của cái sợ này
không ? Ông không thấy đây là một vinh dự cho ông khi ông vượt qua cái sợ trẻ
con và treo mẫu ảnh này ở chỗ nào đáng kính nhất trong nhà ông ?”. Ông không
trả lời nên tôi nài nỉ, mệt mỏi ông bảo tôi : “Nói chuyện khác đi”. “Không, tôi
sẽ tiếp tục chuyện này cho tới cùng, vì tương lai của nhân loại đang bị ảnh
hưởng do điều ông tin, dầu là chuyện trẻ con. Những người Cộng Sản sẽ ra sao
nếu ai cũng như ông, họ bị ảnh hưởng làm kinh sợ ? Họ sẽ thành gì? Hãy nghĩ coi
?”
Ông không muốn suy
nghĩ. Do đó tuỳ tôi muốn làm gì thay ông thì làm,vì tôi không thể thụ động nhìn
thất bại, khó khăn kích thích tôi.
Trước cái cứng đầu của
ông, tôi bỏ đi, dập mạnh cửa, nhưng tôi biết rõ là tôi sẽ phải làm gì.
Thứ bảy sau, trước khi
đi thăm “Tóc Mây”, tôi đến nhà ông Achillê, tôi mang theo búa đinh, mẫu ảnh và
sợi sây. Không để cho ông bàn cãi gì, tôi đi thẳng vào phòng ngủ, tôi đóng đinh
vào đầu giường nơi người ta thường treo Thánh Giá, tôi treo lên đó mẫu ảnh Đức
Mẹ hay làm phép lạ.
Thứ bảy sau, ông
Achillê đã dọn nhà đi chỗ khác và không bao giờ tôi được tin về ông nữa.
Việc ông dọn đi thật
bất lợi cho tôi, ít nhất là tới khi có người thay thế. Khi đi ông đã trả lại
tôi mẫu ảnh và chìa khoá hòm thư.
Trong năm đó, tôi làm
việc chăm chỉ để soạn một cuốn giáo lý mới thích hợp cho Giáo Hội Toàn Cầu, như
tôi đã muốn thiết lập trên toàn thế giới. Mọi chủ thuyết nếu còn tôn trọng giá
trị của mình thì việc tối cần là lo uốn nắn tâm trí của các em thiếu niên. Dạy
thuyết vô thần từ thời thiếu niên là điều quan trọng vì phần mầu nhiệm trong
giáo lý để lại dấu vết trong tâm trí người ta, trừ những người thật thông minh
mà tôi là một. Nhưng tôi không thành thật nếu tôi không nhận là có nhiều người
vô thần không thành thật với chính họ. Không ai muốn nhận cái yếu của mình, do
đó tại sao người ta phải cố không để cho mình yếu đuối. Hơn nữa, người mạnh
phải hết sức nâng đỡ người yếu – chiếm đa số – để họ không sa ngã. Theo ánh
sáng các giáo lý, nên coi mỗi người như một người khuyết tật, ít nhất là tới
cuối thế kỷ 20.
Như vậy thì thật hợp lý
khi người ta hy vọng có một phương cách chữa trị có sẵn vào năm 2000. Một số từ
ngữ phải loại khỏi từ điển nhân loại và cách tốt nhất là bảo đảm cho trẻ em sẽ
không bao giờ nghe các lời này..
Do đó nếu ta soạn thảo
một cuốn giáo lý mới thì tốt hơn là tìm cách dẹp bỏ công việc dạy giáo lý…
không, chuyện này chỉ có thể xảy ra sau hai hay ba thế hệ.
Lúc này, người ta phải
thoả mãn với hiện tượng là “Giáo Hội” tương đương với “họp mặt thân hữu huynh đệ
toàn thế giới”. Cuốn giáo lý này sẽ là sản phẩm của tình thân hữu trên, sẽ thay
thế cái bác ái Kitô cổ lỗ xưa.
Từ “bác ái” phải hoàn
toàn bị loại bỏ và thay thế bằng từ “Tình yêu”, từ này cho phép người ta đứng
hai chân trên đất và chơi các thứ trò mập mờ mà không ai hay.
Tôi phải nói là tôi
luôn luôn mang một lòng tôn trọng to lớn đối với sức mạnh tiềm ẩn và kín đáo
của những cuộc trao đổi ý kiến mập mờ khi người ta biết tận dụng.
Khi tôi dọn cuốn giáo
lý mới này, tôi ghi lại tất cả những gì phải thay đổi từ từ hay là loại bỏ
không giảng dạy nữa. Tôi cũng mang một ước muốn mạnh mẽ làm cho “Tóc Mây” chia
sẻ cái xác tín của tôi. Chính nàng làm cho ý định của tôi thể hiện dễ dàng, khi
nàng kể lại cuộc hành hương và những chuyện được coi là “phép lạ” của Đức Trinh
Nữ Maria.
Tôi cắt nghĩa cho nàng
là các hiện tượng tôn giáo này, chúng có thể là bất cứ điều gì, trong thực tế
đều là sản phẩm của óc tưởng tượng của chúng ta. Nàng hăng hái phủ nhận điều
này. Tôi bảo nàng : “Tất cả những gì em không thấy hay cảm nhận được là do em
tạo ra, và tôi không biết tại sao em nổi giận”. “Anh không thấy nó vì anh không
biết là tất cả niềm tin của tôi đã được mạc khải và đã đến từ Trời. Tôi không
thể nào bịa đặt ra được”. “Cô không tự bịa ra ; điều đó đúng, nhưng cô bắt
chước cha ông của cô, có thế thôi”. Nàng trả lời : “Không ! Nó còn hơn là chỉ
bắt chước thôi”. Tôi bình tĩnh cắt nghĩa cho nàng là ví dụ vệc nàng tin Chúa
hiện diện thật trong Bí Tích Thánh Thể tạo ra sự hiện diện theo sức mạnh của
đức tin nàng, nhưng cho người không tin gì hết thì không có gì cả”. Nàng không
chấp nhận điều đó và đàng khác đối với tôi thật là quan trọng vì theo gương của
người Tin Lành, nàng phải đi theo hướng này. Mục tiêu chính là tôi cố giấu nàng
là loại bỏ niềm tin, nhưng trước đó tôi phải để cho nàng trải qua những giai
đoạn chuyển tiếp. Tôi dùng Tin Mừng chứng minh cho nàng và đặc biệt mỗi khi
Chúa chữa lành bệnh tật, Chúa đòi người ta phải có đức tin, điều này nói lên là
chính đức tin chữa lành bệnh. Nhưng nàng cứng đầu như đứa bé, cho là Chúa Kitô
muốn khơi dậy niềm tin, điều này là một phúc lành lớn hơn là chính việc được
chữa lành thể xác. Tôi cắt nghĩa cho nàng là không có điều gì trong lãnh vực
tôn giáo ở ngoài sự sáng tạo của đức tin và đó là lý do tại sao rửa tội các em
nhỏ là vô lý, phải chớ tới khi chúng lớn lên và rồi phép rửa có thể được loại
bỏ một ngày gần đây như việc ma thuật của một quá khứ ấu trĩ.
Nàng bắt đầu khóc và
nói là chúng tôi không nên gặp nhau một thời gian. Tôi vui lòng chấp nhận vì
thật sự tôi có nhiều chuyện phải làm, rồi tôi nghĩ là sự xa cách sẽ làm cho
nàng mềm mỏng hơn, vì phụ nữ không chịu đau khổ mạnh mẽ như đàn ông.
Phần tôi, thì tôi đã
quá gắn bó với nàng và tôi hãnh diện chứng minh sức mạnh của con người tôi. Tôi
còn được phép đi học hai khoá ngoài đại học, nhờ vậy tôi có thể hoà mình vào
môi trường này mà không cần phải khai báo tôi là một chủng sinh.
Linh Mục Giám Đốc cho
phép tôi mặc thường phục mỗi khi tôi thấy cần. Hình như ông cũng nhìn nhận là
tấm áo dòng đã trở thành lỗi thời. Chúng tôi hiểu nhau và không cần nói, chúng
tôi biết rõ là các Linh Mục tân tiến sẽ phải khác các vị tiền bối.
Hiển nhiên, phải nhìn
nhận là người ta phải sống hợp thời. Phần tôi, tôi cho là Giáo Hội lạc hậu. Tôi
thấy dễ chứng minh vì từ Công Đồng Trentô, Giáo Hội đã không tiến tới chút nào,
vì thế phải bù lại thời gian đã mất.
Tôi buộc phải tìm người
thay bác Achillê vì tôi không thể đích thân ra ngoài hộp thư ngoài bưu điện và
tôi cũng không ghi mã số vào thư tín của tôi. Tôi không có giờ làm điều này.
Tôi cần một người có thể tin cậy và trong thời kỳ chiến tranh khó mà tìm được ai.
Sau cùng tôi được lệnh tiếp xúc với một giáo sư đại học, lúc đầu đây có vẻ là
một ý kiến thực tế, nhưng khi tôi thấy ông già thì tôi thấy kinh tởm. Tôi tin
khiếu xem người của tôi. Ông này dễ phản bội. Tôi trao cho ông chìa khoá hòm
thư bưu điện và quyết định trình vấn đề lên cấp trên trước khi giao cho ông các
bài cần chuyển mã. Vô phúc là tôi được lệnh phải vâng lời và không được bàn cãi.
Tôi rất lo âu về chuyện
này và tôi quyết định tìm một người giao liên thứ hai mà tôi có thể trao cùng
một tài liệu, như thế dễ dàng hơn ví ít nhất là sau chiến tranh tôi có thể so
sánh lại.
Tôi gần như mong muốn
là những nghi ngờ của tôi là đúng, trước hết để thoả mãn là mình trúng, nhưng
đặc biệt là để so sánh hai thông tín viên mà tôi đã trao cho hai bản văn về
cùng một đề tài có mang chữ ký TS-1025. Nếu vị giáo sư là kẻ phản bội, tôi phải
thận trọng xen vào những thay đổi cần thiết trong các bản văn của tôi, phòng
khi ông có thể lợi dụng chiến tranh phá hỏng công tác của tôi. Thế nào đi nữa
tôi cũng thuê một thông tín viên thứ hai.
Tôi tìm ra anh, giữa
những sinh viên nghèo. Anh hơi nóng nảy, nhưng tôi cần một người hăng say. Tôi
cho biết là anh hy vọng có một tương lai sáng sủa với chúng tôi. Đảng không có
thói quen khơi dậy tính ích kỷ và hà tiện nơi con người ; tôi còn để ý là anh
thanh niên này còn phải tập cho có một chút bình tĩnh. Sau khi ổn định xong
công việc này, tôi bị thúc đẩy phải đi thăm “Tóc Mây” lại. Tôi lo hơi nhiều.
Điều này không phù hợp với một chiến sĩ Cộng Sản, càng không đúng cho một Vị
Lãnh Tụ của Đảng. Tôi đã trải qua ba năm trong chủng viện, chỉ còn ba năm nữa.
Sau đó mọi người đồng ý là tôi phải được gởi đi
Đó là những địa vi then
chốt trong Giáo Hội, nó tạo cơ hội để kiên trì huấn luyện một lớp Linh Mục mới
không còn mang một điều gì chung với các lớp đàn anh trừ mỗi cái tên.
Cuộc đời tôi đã được
hoạch định cho tôi, và tôi không một cái gì khác. Tôi phải nhìn nhận là một hột
cát mạnh mẽ như tảng đá đã xâm nhập vào hộp số xe của tôi. Nếu tôi được trời
phú cho một tâm tính lãng mạn thì tôi đã coi “Tóc Mây” như một thứ giải trí
lành mạnh. Nhưng tôi không phải là người tình của nàng, tôi không muốn bao lâu
mà nàng chưa chia sẻ các niềm xác tín của tôi. Theo tôi cuộc phối hợp giữa một
người nam và nữ phải hoàn toàn hay là không có. Chỉ có sự hợp nhất con tim và
trí não mới cho phép hợp nhất thân xác ; nếu không thì như ngủ với gái làng
chơi.
Tôi thấy mình ở trong
một vị thế vô lý – là người đang cố tận diệt các tôn giáo trên mặt đất mà lại
không thể thuyết phục được một cô gái mới 20 tuổi. Tôi biết phải từ bỏ nàng.
Tôi cũng không quên là Bác đang ở Nga và ở trong tình trạng chiến tranh, Bác sẽ
không vui nếu biết được các chuyện này. Nhưng tôi cũng nghĩ là mình không bị
theo dõi kỹ như trong thời bình.
Tôi thật là đau buồn vì
có chuyện tôi đã không có đủ can đảm để làm.
Trong khi dọn cuốn giáo
lý mới, có thể gọi là sách giáo lý của Đạo của con người, tôi thấy tốt nhất là
nên dọn nhiều tập, mỗi tập đều có những thay đổi và hạn chế để đầu óc con người
làm quen dần. Lần xuất bản đầu tiên chỉ khiêm nhường bãi bỏ hai điều trong Kinh
Tin Kính của các Sứ Đồ.
Trước hết, thay từ
“Công Giáo” bằng từ “Toàn Cầu”, nghĩa cũng như nhau. Nhưng đây là điều rất quan
trọng vì chữ “Công Giáo”, không được làm phật lòng người Tin Lành và làm cho
tín hữu Công Giáo cho mình là người Siêu-Kitô.
Sau đó thẳng tay bãi bỏ
việc tôn kính các Thánh. Các Thánh phải bị loại trừ trước khi loại Thiên Chúa,
dầu dễ giết chết Thiên Chúa hơn là các Thánh. Trong lúc này, tôi sẽ tiến hành
như sau : trước hết loại bỏ các vị Thánh chưa được chính thức chấp thuận và
những vị không thành công mấy. Loại bỏ các vị đã chiến đấu chống phong trào
Canh Tân, vì họ không có gì liên quan tới thời đại của chúng ta, thời đại mà
mỗi con tim đang tìm về Hiệp Nhất.
Sau đó, ta cần phải
thật là khôn khéo và kín đáo bằng nhiều tình cảm và nước mắt cá sấu, đòi hỏi
việc phục hồi rồi phong chân phước và ngay cả việc phong Thánh cho kẻ lạc đạo
nổi tiếng, đặc biệt là những người đã mang một ngọn lửa căm thù đến ăn tươi
nuốt sống Giáo Hội Công Giáo. Trước hết, tốt nhất nên tung quả bóng thăm dò, ví
dụ như với ông Luthero. Nếu người Công Giáo không phản ứng – tôi muốn nói là họ
không khó chịu – thì hoạt động này trước hết là hơi đơn độc, nhưng cần khôn
ngoan và khiêm tốn, khởi đầu một cách đều đặn rồi tăng thêm ngày một nhiều hơn.
Kế đó chúng ta sẽ tiến tới việc bãi bỏ ngày Phán Xét, Thiên Đàng, Luyện Tội và
Hoả Ngục. Chuyện này sẽ dễ dàng hơn.
Nhiều người tin là lòng
tốt của Chúa vượt trên mọi xúc phạm. Chỉ một điều chúng ta phải làm là nhấn
mạnh vào sự tốt lành này. Một Thiên Chúa không ai sợ sẽ trở thành một Thiên
Chúa không ai còn nghĩ tới. Đó là mục đích phải đạt tới.
Sau đó Mười điều răn
của Chúa có thể giữ, nhưng Sáu điều răn Hội Thánh phải bị huỷ bỏ. Chúng thật là
một trò cười.
Để bãi bỏ các giới răn
của Giáo Hội, chúng ta phải khen những người Kitô đã trưởng thành và họ biết
Thiên Chúa bao dung không bận tâm xem ta có ăn thịt này thứ sáu hay không. Việc
xưng tội hàng năm, tốt nhất nên thay thế bằng nghi thức giải tội tập thể trong
đó Linh Mục sẽ nêu lên những tội thường phạm đến những người thấp hèn, vì ta
nên chú ý các tội loại này. Xưng tội riêng chỉ làm mất thì giờ. Ngược lại nghi
thức chung mà tôi mơ tưởng sẽ thay đổi tinh thần và trổ sinh trái tuyệt hảo.
Nhưng chuyện này đòi
môt tầng lớp tu sĩ cần được huấn luyện kỹ. Còn luật buộc xem Lễ ngày Chúa Nhật,
ta nên nhận định là con người hiện đại cần không khí mát mẻ và đồng xanh, nên
để cho họ đi về đồng quê ngày thứ bảy và Chúa Nhật.
Như thế, những ai còn
quan tâm tới việc phụng tự hay là lễ ngày thường có thể được phép dự lễ ngày
thứ sáu thay vào Chúa Nhật. Chiều thứ sáu cũng thích hợp, trừ những người đi về
miền quê chiều hôm đó. Rồi họ có thể chọn ngày thứ năm. Sau cùng ưu tiên một là
mỗi người sẽ làm theo lương tâm của mình.
Người Tin Lành sáng chế
ra phương pháp là để cho mỗi người vâng lời lương tâm của mình. Như vậy không
có ai ra lệnh vì nó sẽ làm phiền lòng số người. Phương pháp này còn cho phép
thay thế các lệnh này bằng nhiều đề nghị khác nhau và để cho người ta sử dụng
quyền tự do.
Đương nhiên là tất cả
những gì liên quan đến đời sống siêu nhiên và ân sủng sẽ bị bãi bỏ. Chúng là
những ý tưởng nguy hiểm.
Kinh nguyện như Kinh
Lạy Cha nên tạm giữ. Ta nên thật khéo léo buộc người Công Giáo dùng ngôn ngữ
thân mật nói với Chúa, dưới chiêu bài bác ái nên chấp nhận trên mọi quốc gia
một bản dịch chung giống với người Tin Lành. Cử chỉ lịch sự là phải xin lỗi
việc tự cao tự đại trong bốn thế kỷ qua.
Nếu các bản dịch mới
làm mất lòng người lớn tuổi, điều này có thể thấy trước được, thì càng hay.
Sau đó tới bảy Phép Bí
Tích, tất cả phải được xét lại, hơn nữa vì người Tin Lành chỉ có hai Bí Tích.
Mọi người Kitô thuộc mọi Giáo Hội đều còn giữ Phép Rửa Tội, theo tôi đó là Bí
Tích mà tôi muốn dẹp bỏ trước hết. Chuyện này là tương đối dễ. Đó là một Bí
Tích trẻ con – cũng trẻ con như Dấu Thánh Giá và Nước Thánh.
Tôi có thể bắt đầu ra
một quyết định là Phép Rửa Tội chỉ ban cho người lớn và cho những người tin là
họ phải lãnh nhận Bí Tích này. Tôi thấy là một người thông minh sẽ theo đường
này. Thú thật tôi không biết các điều tôi chế ra đến từ đâu, nhưng tôi thấy
mình thật là thiên tài. Tôi thấy thiên tài xuất phát qua các lỗ chân lông trên
da thịt tôi. Đương nhiên ý tưởng Phép Rửa Tội tẩy xoá tội Nguyên Tổ phải được
bỏ qua một bên – tội này là con đẻ của một sáng kiến thuần tuý văn chương.
Chuyện ông Adam và bà Eva nên kể lại nhưng để mà cười chơi : phải dạy là Phép
Rửa Tội là dấu chỉ thuộc về Giáo Hội Toàn Cầu, ai cũng có thể ban phép này,
nhưng ai cũng có thể sống mà không cần lãnh Bí Tích này. Ta cũng phải lợi dụng
dịp này ca ngợi các linh hồn thánh thiện sống trong các tôn giáo ngoài đạo
Kitô. Ý kiến này làm cho họ cảm thấy tội lỗi. Tuyệt hảo !
Còn Phép Thêm Sức,
người ta cho là ban Chúa Thánh Thần và chỉ có Đức Giám Mục mới có phép ban,
cũng phải mạnh mẽ thẳng tay dẹp bỏ. Thái độ này cho phép tố cáo tín điều Chúa
Ba Ngôi làm phật lòng người Do Thái và Hồi Giáo và một số phái Tin Lành mới.
Vì thế không cần thiết
phải thánh hiến dầu Thánh vào thứ năm Tuần Thánh. Tất cả đều có vẻ như ma thuật.
Cũng phải nhận xét là
đức tin có thể sống còn mà không cần nghi lễ hay các nghi thức bên ngoài và rồi
như trong trường hợp này lại là một đức tin cao siêu hơn. Chúng ta cũng phải
nhấn mạnh đến các nhân đức trỗi vượt được thấy nơi người ngoại giáo, Do Thái,
Hồi Giáo, Cộng Sản vì tôi thường nhận thấy là một ít người Công Giáo hổ thẹn vì
Giáo Hội của họ có nhiều vị Thánh hơn các giáo hội khác.
Còn về Bí Tích được gọi
là Cáo Giải, phép này phải được thay thế bằng một nghi thức tập thể chỉ cần một
cuộc xét mình do một Linh Mục đã được huấn luyện kỹ, sau đó là việc tha tội
chung như trong một số giáo hội Tin Lành.
Linh Mục hiện đại sẽ
khỏi phải ngồi vô tận trong toà giải tội và thoát được gánh nặng phải giải tội.
Khi tôi viết những điều này, tôi không thể không nghĩ đến các giáo sư bất hạnh
của tôi trong chủng viện, các Ngài đã qua đời khi tôi viết các dòng này. Các
Ngài mang cho đến chết, mỗi người trước mặt Thiên Chúa, cái kiến thức không
được phép sử dụng về mối hiểm nguy mà tôi sẽ gây ra cho tương lai của Giáo Hội.
Xưng tội tập thể có thể
cử hành hai lần một năm vào dịp lễ Phục Sinh và Giáng Sinh. Một số Linh Mục trẻ
sẽ được huấn luyện chắc chắn về xã hội chủ nghĩa và mục đích là khi hướng dẫn
những cuộc xét mình chi về các tội xã hội, thì họ sẽ đưa người ta hướng về chủ
thuyết Mác-xít.
Lý do thống hối sẽ chỉ
là vì thiếu công bằng đối với người khác. Chúng ta phải thuyết phục tất cả
người Kitô đặt niềm tin nơi con người. Một người tự hỏi : “Những người khác có
thể tin tôi không ?”. Thiên Chúa sẽ không được nhắc đến trong nghi thức này, nó
sẽ không còn được gọi là Bí Tích nữa (vì từ này cũng phải bị loại trừ). Đương
nhiên không còn ai sẽ nói về các Ân Xá. Không ai sẽ còn hiểu đúng nghĩa của từ
này. Còn Bí Tích Xức Dầu, chúng ta sẽ tìm một từ khác thay thế. Ta không thể
huỷ bỏ nó trong giai đoạn đầu của việc cải tổ, vì nó dành cho bệnh nhân. Biện
pháp này sẽ không thành công nhưng chúng ta sẽ vạch ra là ý tưởng về cuộc đời
vĩnh hằng, xét đoán, Thiên Đàng, Luyện Tội hay Hoả Ngục phải được thay thế bằng
chỉ một mong ước được chữa lành. Sau một thời gian, người ta sẽ thấy là bác sĩ
sẽ không cần Linh Mục giúp đỡ trong việc chữa trị của ông. Dầu sao tôi muốn
chọn cách nói : “Bí Tích của bệnh nhân” và để tránh ý tưởng về đời sống vĩnh
hằng, phải cho phép ban Bí Tích này cả trong trường hợp bệnh nhẹ.
Đàng khác tôi không lo
lắng gì, mọi Bí Tích sẽ biến mất. Người ta không còn giờ làm các chuyện này.
Còn Phép Truyền Chức
Thánh, ban quyền cho thi hành công tác giáo sĩ, chúng ta buộc phải duy trì.
Trong giáo hội Toàn Cầu, chúng ta cần những Linh Mục cũng sẽ là nhà giáo dạy
chủ nghĩa xã hội.
Các Linh Mục này có thể
thiết lập thêm các ngày lễ, ví dụ như dùng các phong tục trong dân gian vì dân
chúng thích lễ lạt.
Nhưng các ngày lễ này sẽ
hoàn toàn tôn trọng con người, không nhắc gì đến Thiên Chúa.
Hôn nhân không phải là
một Bí Tích vô dụng, với điều kiện đó là một nghi lễ gia đình. Chúng ta phải
quét sạch các phong tục trong một số quốc gia lạc hậu đòi nghi thức tôn giáo,
nghĩa là Công Giáo là hình thức hôn nhân hợp pháp độc nhất. Không, hôn nhân dân
sự là hình thức duy nhất phải theo. Như vậy, Giáo Hội quyền thế này sẽ không có
thể cấm ly dị và tái hôn của người ly dị.
Tôi biết rõ là Chúa
Giêsu sẽ chống đối ý kiến này, như tôi đã nói là chúng ta phải biết lựa chọn
trong giáo huấn của Ngài cái gì thích hợp với người hiện đại.
Việc bất khả phân ly
của hôn nhân là luật chống lại hạnh phúc của con người. Còn ai nói về lợi ích
của con cái không biết là con cái sẽ sung sướng hơn khi chúng thuộc vế quốc gia.
Rồi không được từ chối
hôn nhân cho những Linh Mục muốn lập gia đình cũng như không còn được từ chối
ban chức Thánh cho phụ nữ.
Trước khi tiếp tục cuộc
nghiên cứu sâu rộng về Bí Tích Thánh Thể, tôi gởi bài viết của tôi cho anh sinh
viên làm thông tín viên cho tôi và cho cả “Tóc Mây”.
Anh sinh viên rất là
hứng khởi về bài viết nên một ngày anh tìm tôi tại đại học và trao cho tôi một
loạt các bài anh viết. Anh e lệ xin tôi hậu thuẫn cho phổ biến chúng trong mục
điểm sách của một tập san có giá trị. Theo nguyên tắc, chúng tôi không được nói
chuyện nơi công cộng, nhưng tôi nghĩ vì chiến tranh tôi có thể du di. Nói
chuyện công khai với anh sinh viên, trao đổi tài liệu không có nguy hiểm gì !
Tôi thoải mái đến nỗi khi vừa được phép theo học hai môn trên đại học, tôi liền
mua một chiếc xe gắn máy. Như thế, tôi không phải đi chung với một sinh viên
nào khác.
Các bài anh sinh viên
viết thật là đặc sắc. Tôi muốn ganh tỵ với anh, vì tôi không phải là một văn
sĩ. Tôi thấy ngay các ảnh hưởng vô giá mà các bài này sẽ mang lại.
Chúng tôi đang đi đến
một cuộc hợp tác lý tưởng, tôi đưa ra ý tưởng, trình bày khô khan theo một luận
lý vững chãi, rồi anh sinh viên lựa những tư tưởng sáng giá nhất hay lấy hứng
cho bài viết tài tình của anh. Khi thấy các ý tưởng của tôi phát triển và nở
hoa thành các áng văn chương thì tài năng của tôi được kích thích. Trong cặp
bài trùng này, tôi là thiên tài còn anh thanh niên chỉ là năng khiếu. Tôi tìm
được một tạp chí chấp thuận xuất bản đều đặn các bài viết do tôi gợi ý bằng một
giá khá rẻ. Tôi gởi chúng đi khắp các nước không bị chiến tranh để có thể được
dịch và phổ biến. Nhưng phải nhận là chúng tôi không thành công lắm cho tới sau
chiến tranh. Tôi tin anh sinh viên nhiều hơn là ông giáo sư mà các lãnh tụ đã
giới thiệu, tôi thuê một hộp thư nữa và trao anh chìa khoá. Vì anh được trả
tiền khá hậu, anh coi tôi như một vị thần và sẵn sàng chết cho tôi.
Vì “Tóc Mây” không trả
lời, tôi gởi đều đặn cho nàng các bài viết của anh sinh viên, cắt nghĩa cách
dịu dàng đó là những suy tư của tôi. “Tóc Mây” cảm nhận được tài của anh sinh
viên và viết cho tôi là các bài viết của anh viết hay hơn các bài khô khan của
tôi. Tôi cười vì các bài viết không nói điều gì khác trừ những gì tôi đã mạnh
mẽ công bố.
Điều này xác nhận ý
kiến của tôi là khiếu văn chương có thể giúp người ta chấp nhận những kế hoạch
mới nếu chúng được bọc bằng đường.
Trong những tuần dài
này, “Tóc Mây” không mời tôi trở lại tiệm tranh của nàng. Tôi muốn nổi khùng,
thì một hôm tôi gặp lại người con gái mà tôi coi như thuộc về tôi tại hành lang
đại học. Nàng đã quyết định tham dự môn nghệ thuật cổ. Nàng ngừng lại và cho
tôi biết là nàng đang chuẩn bị câu trả lời cho chương trình cuốn giáo lý mới
của tôi, hy vọng có thể bàn cãi với tôi… Bàn cãi, bàn cãi… tôi không quen gặp
chướng ngại dầu rất nhỏ trên con đường tôi đưa ra ý kiến của tôi. Rồi tôi cho
nàng biết là tôi vui và rất muốn gặp nàng nên tôi không thể từ chối ước muốn
nói chuyện với nàng.
Hơn nữa, tôi muốn nói
cho nàng biết là một người đàn bà khi thật sự đang yêu dầu nàng không biết,
nàng phải chấp nhận mọi ý kiến của người đàn ông mà tim nàng đã chọn.
Hôm đó tôi chỉ cho nàng
biết là tôi đang viết về Bí Tích Thánh Thể để hoàn tất cuốn giáo lý mới mà tôi
đã gởi một phần cho nàng. Nàng thở ra và mắt nàng rướm lệ, sau cùng nàng bỏ đi
không thèm trả lời tôi.
Tôi muốn viết vào giai
đoạn đầu của công việc đáng sợ này một định nghĩa đúng đắn về Bí Tích Thánh
Thể, tôi muốn nói là định nghĩa được người Công Giáo coi là chính xác nhất
(đương nhiên Tin Lành có nhiều định nghĩa khác). Để trả lời câu hỏi “Phép Thánh
Thể là gì ?”, mỗi em bé Công Giáo phải đáp : “Phép Thánh Thể là Bí Tích chứa
thật sự và chính yếu Mình, Máu, Linh Hồn và bản tính Thần Linh của Chúa Giêsu
KiTô dưới hình bánh và rượu”. Chỉ có thế !!! Để giải quyết vấn đề này, người ta
phải làm việc đúng đắn. Không phải vì không thể chống đối niềm tin này được,
nhưng ta phải khôn ngoan và không tấn công trực diện. Điều mà người ta gọi là
“Hiện diện thật của Chúa KiTô dưới hình bánh và rượu”, phải tấn công gián tiếp.
Nếu tấn công trực diện, người Công Giáo sẽ nổi loạn. Không còn gì nguy hiểm hơn
vì rõ ràng là các cuộc bắt bớ chỉ làm cho người ta mạnh tin hơn. Do đó cần nhắc
đến “sự Hiện Diện thật” và chiếu vài tia sáng trên đó, có thể phá tan hay làm
suy yếu niềm xác tín này.
Điều cần thiết nhất là
cải tổ các từ ngữ trong Thánh Lễ, nếu có thể loại bỏ từ Thánh Lễ thì càng hay
và thay vào những từ như “Bữa ăn của Chúa” hoặc bằng “Tiệc Thánh Thể”. Việc
canh tân Thánh Lễ phải hạ giá tầm quan trọng của việc “Truyền Phép” và việc
Rước Lễ là chuyện nhỏ. Đây là chương trình dài hạn và không được bỏ qua các chi
tiết.
Như vậy để khởi đầu,
nên lưu ý là Linh Mục dâng Lễ quay lưng về phía dân chúng như có vẻ nói chuyện
với Thiên Chúa Vô Hình, Thiên Chúa được biểu tượng bằng cây Thập Giá lớn hướng
về Ngài. Như thế, Linh Mục được Chúa chọn và đồng thời đại diện dân chúng đang
nhìn Ngài. Ông tạo ra cảm tưởng của sức mạnh nhưng đồng thời cũng tạo ra phân
cách.
Điều tốt là làm cho bổn
đạo cảm nhận mình là lạc lõng, bị ngăn cách, bỏ rơi và sẽ phấn khởi nếu Linh
Mục đến gần họ hơn nữa.
Khi ý nghĩa này đã phát
triển khá, chúng ta sẽ đề nghị bỏ bàn thờ chính và thay thế bằng một các bàn
nhỏ, trống không và Linh Mục sẽ quay về phía dân chúng.
Hơn nữa phần phụng tự
là phần chính của Phép Thánh Thể, phần này đòi phải được rút ngắn càng nhiều
càng tốt và phần về giảng dạy Lời Chúa nên tăng thêm hơn nữa. Người Công Giáo
nổi tiếng là dốt Thánh Kinh vô cùng, vì thế họ sẽ nhận thấy sự thay đổi này
trong Thánh Lễ là hợp lý. Tôi không nói là họ hăng say nghe những đoạn Kinh
Thánh dài vì thường họ không hiểu gì hết, nhưng họ chưa cần hiểu. Ít nhất cho
tới khi các Linh Mục của Xã Hội Chủ Nghĩa được huấn luyện xong…
Mỗi bản văn trong Phần
Chung của Thánh Lễ sẽ được cẩn thận so sánh với các bản văn người Anh Giáo và
phái Luther đang dùng, nhằm cổ võ một bản văn duy nhất hay nhiều bản đều được
cả ba Giáo Hội này công nhận.
Ai không thấy được cái
lợi lớn trong tiến trình này vì nó cho những ý kiến khác nhau cho dù dùng cùng
một từ. Như thế sự hiệp nhất trong tâm trí được thể hiện trong hàm hồ vì không
thể làm cách nào khác hơn. Không còn phương thế nào khác ; hoán cài hoặc hàm
hồ. Tôi chọn phương thế này để loại bỏ “sự Hiện Diện thật” của Chúa trong Thánh
Thể.
Khi người Công Giáo sẽ
thấy Tin Lành rước Lễ trong nghi thức của họ mà không cần hoán cải, họ sẽ không
còn tin tưởng vào “sự Hiện Diện thật” cổ xưa của họ. Họ sẽ được giải thích là
sự hiện diện này chỉ tồn tại bao lâu người ta còn tin. Như thế họ sẽ nghĩ mình
là người sáng lập ra toàn thể đạo giáo và các người thông minh nhất trong họ sẽ
biết rút ra những kết luận cần thiết.
Để làm cho yếu hơn nữa
ý niệm “Hiện Diện thật” của Chúa KiTô, mọi thái độ tôn kính phải dẹp qua một
bên. Không cần các lễ phục thêu may đắt tiền, không cần nhạc Thánh, đặc biệt là
không dùng bình ca, nhưng dùng loại nhạc giật gân, không làm dấu Thánh Giá,
không bái gối, nhưng chỉ còn giữ những thái độ tôn kính khô khan.
Hơn nữa, giáo dân phải
bỏ thói quen quỳ gối và tuyệt đối cấm quỳ khi rước Lễ.
Không bao lâu sau đó,
Bánh Lễ được đặt vào tay khi rước Lễ để mọi ý niệm Thánh bị xoá bỏ.
Không còn là chuyện xấu
khi cho một số người (chọn trước) rước Lễ dưới hai hình thức như Linh Mục vì
những ai không được rước sẽ ganh tỵ và bị cám dỗ bỏ đạo (điều ta mong muốn)
Ngoài ra, nên khuyến
khích không làm Lễ ngày thường nữa ; con người hiện đại không phí phạm thời
giờ. Một phương pháp tuyệt hảo là làm Lễ tại tư gia trước hay sau bữa ăn chung.
Vì lý do này, các cha mẹ sẽ được phép lãnh nhận các chức Thánh.
Ai mà không thấy cái
lợi của phương pháp này, nó loại bỏ các nơi thờ phương tốn kém.
Để loại bỏ mọi sự Thánh
Thiện trong phụng vụ, Linh Mục sẽ được mời làm toàn thể Thánh Lễ bằng tiếng địa
phương và đặc biệt đọc lời Truyền Phép như kể chuyện – thực tế là như vậy. Trên
hết, Linh Mục không đọc những lời sau đây : “này là Mình Ta, này là Máu Ta” như
là Ngài thay thế Chúa KiTô đọc các lời trên.
Hãy làm cho mọi người
cảm thấy là Linh Mục đang đọc một bài tường thuật. Hơn nữa không còn chuyện Hy
Tế nghĩa là Thánh Lễ lập lại Hy Tế không đổ máu trên Thập Giá. Người Tin Lành
không nhìn nhận câu trên. Thánh Lễ chỉ là bữa ăn chung vì lợi ích cho tình
huynh đệ nhân loại.
Ngoài ra khi Giáo Hội
Toàn Cầu được thiết lập, Thánh Lễ sẽ không còn tồn tại nữa, trừ trong gia đình,
cho những kẻ cuồng tín nhất.
Chúng ta phải chấp nhận
loại người này, nhưng vì ở nhà nên họ sẽ không làm phiền gì ai. Kinh nguyện
trong Phần Chung của Thánh Lễ sẽ được đơn giản hoá tối đa và sau đó sẽ chỉ được
phép đọc ba kinh nguyện, đó là Dâng Lễ, Truyền Phép và Rước Lễ.
Khi chúng ta đã thành
công giới thiệu các kinh nguyện khác nhau, đơn giản và nặng tình người rồi, ta
sẽ cho đây là chuyện tốt và vì lợi ích cho các thế hệ tương lai là nên nhắc lại
là có một số kinh trong Thánh Lễ được gọi là “của Đức Giáo Hoàng Pio V”, các
kinh này sẽ góp sức làm cho đám đông dân chúng sống như trong thời tối tăm
Trung Cổ.
Kinh Dâng Lễ sau đây là
loại đó, kinh đọc : “Lạy Cha Thánh, Toàn Năng và Vĩnh Cửu. Xin nhận Bánh không
tỳ ố mà con là tôi tớ bất xứng dâng lên Chúa Hằng Sống và Chân Thật, cho muôn
vàn tội lỗi, các xúc phạm và trễ nải của con, cho mọi người đang hiện diện nơi
đây và mọi tín hữu KiTô, còn sống cũng như đã qua đời, mong rằng họ và con sẽ
được ơn cứu rỗi trong cuộc sống muôn đời. Amen”.
Ai có thể nói hay hơn ?
Tôi đề nghị là tất cả
các tu viện soạn ít kinh Dâng Lễ và các kinh khác của Thánh Lễ. Và vì Dâng Lễ
là dâng Bánh, theo tôi nên đơn sơ đọc : “Chúng con đem tới đây bánh này làm bởi
tay con người và phải được dọn làm của ăn của con người”.
Như thế, những lời nhằm
trình bày nghi lễ này như là nghi lễ Thánh Thiện phải bãi bỏ.
Tôi sẽ chỉ đưa ra một
ví dụ trong Lễ Cổ, chúng ta thường nói : “Chúa Giêsu cầm bánh trong tay Thánh
Thiện và khả kính của Ngài”… chữ “Thánh Thiện” phải bỏ đi khỏi từ vựng của
chúng ta. Chúng ta sẽ không nhắc đến “tay Thánh Thiện và khả kính”, thay vào
đó, chúng ta sẽ nói : “Ngài cầm bánh, chúc lành…”..v…v..
Đó là thí dụ hay của
tinh thần mà công tác chúng ta đang theo đuổi. Phần tôi, hiện nay tôi không có
giờ nhưng sau này tôi sẽ soạn một hay nhiều Lễ của tôi. Đàng khác, đây là việc
làm của một Thầy dòng. Đương nhiên, khi Thánh Lễ chỉ gồm ba lời nguyện bắt
buộc, ta có thể thêm thánh vịnh : ca vãn, bài đọc, bài giảng… theo thị hiếu của
mỗi người.
Vì Thánh Lễ này chỉ là
bữa ăn tập thể, nên cần một cái bàn rộng cho mười hai người ngồi.
Tôi luôn nghĩ thật là
mỉa mai là đi ăn mà người ta bị gò bó vội vã ra khỏi ghế (ta không chối cãi là
người ta chen lấn lên rước Lễ). Lỗi của họ : Tại sao gọi cái rào ngăn là cái
bàn ?
Do đó tôi muốn thấy mỗi
nhà thờ có nhiều bàn, mỗi bàn có thể ngồi được mười người. Có người tin là bữa
Tiệc Ly có mười ba người, nhưng vì ai cũng sợ con số mười ba, chúng ta chọn ý
kiến là ông Giuda đã đi ra ngoài trước khi bẻ bánh. Điều này đòi phải phong
chức nhiều Linh Mục. Dễ thôi. Chỉ cần có một chút thiện ý, hạnh kiểm khá không
cần học nhiều và đương nhiên không cần độc thân. Ngoài ra ai muốn sống độc thân
sẽ làm Thầy dòng hay tu kín và ai muốn học nhiều thì sẽ làm thần học gia. Có
nhiều loại Linh Mục. Loại bình thường là lập gia đình, sẽ làm lễ tư gia vào mỗi
bữa ăn. Vì Thánh Lễ sẽ chỉ là “bữa Ăn Tối”, sẽ không còn là một cuộc thờ lạy mà
chỉ để xây dựng tình huynh đệ.
Lễ không cám ơn các đặc
ân mơ hồ, sẽ không mang lại ơn tha thứ mà Lễ không thể cho ; sẽ không xin điều
gì mầu nhiệm không biết được, nhưng xin mọi thứ của con người.
Giáo Hội Toàn Cầu sẽ
hoàn toàn tôn vinh con người, sẽ ca tụng cái cao trọng, sức mạnh, hùng tính của
con người. Sẽ dâng hương cho quyền lợi và ca tụng chiến công của con người.
Khi tôi viết xong cuốn
giáo lý đầu tiên này thì tôi nhận được một lá thư dài của “Tóc Mây”. Một lá thư
ý nghĩa, nàng viết :
“Anh yêu,
Cám ơn anh đã tỏ ra tin
tưởng em và làm em dám cởi mở tâm hồn hoàn toàn cho anh. Con tim này nói gì ?
Nó yêu anh… anh biết điều đó… anh biết quá rõ.
Theo em nghĩ thì tim
anh muốn em chia sẻ mọi ý tưởng của anh nhưng em không muốn, em chỉ la lên cho
anh biết : “Coi chừng, có cái bẫy chết!”
Hãy đọc, hãy đọc tiếp.
Xin anh đừng giận trước khi đọc hết các thư của em và suy nghĩ. Chắc anh nghĩ
anh phải cũng mạnh mẽ như em nghĩ, em đúng, nhưng em bảo anh : Hãy đọc lại lịch
sử, Giáo Hội bất tử ; Anh phí phạm thì giờ, sức khoẻ. Anh không thể ban quyền
cho Chúa. Nếu anh chỉ suy nghĩ về điều này : Không phải vì anh không tin Chúa
nên Chúa không có.
Điều này phải dễ hiểu
cho anh vì anh hiểu nó theo nghĩa đối nghịch. Anh tưởng tượng là Thiên Chúa
không có vì em tin là Ngài có. Đúng là tin hay không tin cũng không có quyền
lực gì hết.
Nhưng anh yêu, mọi thứ
sống chung quanh anh, ca ngợi sự hiện diện của Chúa. Anh có chế ra hạt giống,
anh có làm ra các quy luật không ? Có ngọn cỏ nào anh tạo ra rồi nhận là sở hữu
của anh ? Chính con người anh không thuộc về anh… anh đã không xin sự sống và
không thứ gì anh đang có mà anh đã không nhận lãnh.
Dầu anh thành công tạo
ra một Giáo Hội khác thường không Thiên Chúa, anh sẽ không chiến thắng vì không
phải vì thế mà Thiên Chúa sẽ yếu đi. Anh không thể làm gì được Thiên Chúa,
đương nhiên anh không thể giết được Ngài. Em khóc cho anh vì anh đã dấn thân
vào cuộc chiến ngây thơ này. Thiên Chúa mà anh muốn phá huỷ ở khắp nơi. Bá chủ
mọi sự. Anh sống là do Ngài, anh còn sống là chỉ do mình Ngài mà thôi ; Anh có
thể làm lung lay Giáo Hội của Ngài ; Điều này đã xảy ra nhiều lần trong 2000
năm qua, nhưng Giáo Hội đã hồi sinh tốt đẹp hơn và mạnh mẽ hơn. Này anh, Giáo
Hội của Chúa Giêsu đã nhận lời hứa ban Cuộc Sống Muôn Đời. Giáo Hội biết và nói
lớn cho anh nghe qua miệng em là Chúa Ba Ngôi sẽ không bao giờ từ bỏ và mọi
cuộc tấn công chống Giáo Hội chỉ là những cơn thử thách được Chúa cho phép xảy
ra để thanh luyện Đức Tin.
Anh yêu, nhiều người sa
cám dỗ tham gia một Giáo Hội hoàn toàn con người, nó sẽ pha trộn mọi niềm tin
để rồi không ai có thể nhận ra nữa, nhưng Giáo Hội Công Giáo sẽ còn luôn đứng
vững. Nếu anh bắt bớ Giáo Hội, Giáo Hội sẽ lẩn trốn nhưng linh hồn của nó luôn
vững vàng. Vì dấu ấn của Giáo Hội này là vâng lời Mạc Khải ban xuống từ cõi
Trời. Lãnh vực đặc biệt của nó khác với lãnh vực mà anh thường thấy. Lãnh vực
của Giáo Hội là siêu nhiên và Thánh Thiện, do đó thông minh hay không, không
quan trọng. Anh đáng thương, anh thật thông minh quá. Hơn nữa, anh đã bị một
biến cố đau thương trong tuổi thơ. Em không hỏi anh chuyện gì. Anh đã tới tuổi
nhìn về quá khứ bằng một tâm hồn bình thản chưa ? Theo em, hình như từ trong
tiềm thức anh đang tìm cách báo thù. Đó là một hành động cao thượng ? Anh là
một cậu bé đạo đức cho tới khi anh lên 14 tuổi, như anh đã kể cho em; Do đó tất
cả thư của em là xin anh suy nghĩ – anh biết điều đó. Nếu anh sinh ra trong vô
thần, thì em nghĩ là anh không thể nào hiểu được lãnh vực Đức Tin thuộc về một
vương quốc khác.
Em sợ là cái hận thù
đối với Thiên Chúa và Giáo Hội Ngài là bằng chứng anh không chỉ là một tên
chống đối, nhưng là một tên chống đối có niềm tin. Người ta nói loại này ghê
gớm nhất. Em tội nghiệp anh bằng hết con tim, vì anh đã thua cuộc trước rồi. Em
không sợ, không sợ gì hết. Anh may ra chiếm được một số linh hồn theo giáo thuyết
gian tà của anh, có lẽ một phần giáo sĩ (dầu em không tin), nhưng anh không bao
giờ chiếm hết các linh hồn ; Ngược lại anh sẽ làm các Thánh mạnh mẽ thêm. Đúng
rồi, ông bạn đáng thương của tôi ơn, khi anh chống đối Giáo Hội của Chúa, anh
chỉ là một món đồ chơi trong tay Thiên Chúa. Anh cho là anh mạnh, nhưng anh chỉ
mạnh trong mức Chúa cho phép. Hãy sợ ngày Chúa nói là : “Đủ rồi, Cha đã nghe
lời kinh của những người đau khổ và Cha đã quyết định an ủi họ và đập tan kẻ
thù của Cha”. Kẻ thù của Chúa sẽ làm kẻ thù tới muôn đời, có thất vọng thì cũng
quá trễ.
Anh hành xử như là Giáo
Hội Thánh không có quyền hơn là một cơ chế do con người tạo ra, chúng tôi nắm
trong tay mọi thứ cần thiết để lật đổ mọi núi cao trên thế gian. Nhưng giết
chết chúng tôi, anh sẽ không phá tan được sức mạnh đã tạo các đặc ân cho chúng
tôi.
Khi anh gần em, khi anh
xa em, Chúa Kitô ở giữa chúng ta ; em nói với Ngài, Ngài nhìn anh, hãy coi cách
Ngài nhìn anh !
Không làm khác được, vì
em nói với Ngài ngay cả trong giấc mơ. Anh tin là anh tự do, anh mạnh mẽ thế.
Anh lầm. Nếu em phải chết hôm nay, em chắc chắn là em sẽ tiếp tục chiến đấu
chống tự do của anh – ít nhất là cách anh sử dụng nó. Em sẽ gom sức mạnh mà anh
tin là tiêu biểu cho chính sức mạnh của Chúa.
Đừng cười anh yêu ;
Không, đừng cười, hãy nhớ lại tuổi thơ của anh… anh sẽ thấy là anh nhận ra ngay
sức mạnh vô hình nhưng kinh khủng… nhưng cũng nhân từ. Tim và linh hồn em có
quyền sức không hề cạn, không ai phá tan được. Anh hãy bình tĩnh nghĩ kỹ, hãy
loại ra khỏi tâm trí anh mọi sự đam mê có thể lèo lái anh… đừng cố ý điếc, đừng
cố ý mù, đó không phải là thái độ của con người có con tim… nhưng anh đã quay
tim anh về tình yêu đặt nền tảng trên hận thù, hận thù Thiên Chúa.
Anh có biết hận thù là
tiếng la của tình yêu bị lừa không ?
Phần em, em biết là
Chúa yêu thương anh bằng một tình yêu đặc biệt và Ngài đang kiên nhẫn chờ anh
như Ngài thường làm. Vì lúc này, anh không muốn cầu nguyện với vị Thiên Chúa
của lòng nhân hậu. Em thay thế anh, nhân danh anh mà em dâng cả ngàn lần một
ngày lên Thiên Chúa Toàn Năng các công trạng của Con Ngài, của Mẹ Đồng Trinh,
của các Thánh ta biết và không biết… em vui vẻ và vững tin, suốt ngày em dâng
lên Thiên Chúa, cả đến trong giấc ngủ của em.
Anh muốn thay đổi Thánh
Lễ và thu gọn thành bữa ăn tập thể… Thật là một trò cười ! Thánh Lễ – Tại sao mà chúng ta đã dâng hàng bao tỉ
lần từ Thánh Lễ đầu tiên vào Thứ năm Tuần Thánh !
Thánh Lễ – Tại sao bay
lên như làn hương thờ lạy ít nhất là mỗi giây một lễ, và kéo dài suốt cả ngày !
Em kết hợp mình với của Lễ Hy Sinh đáng thờ lạy, qua đó Chúa Con lại dâng chính
mình cứu chuộc nhân loại. Em kết hợp và dâng mình lên Ngài, em nhỏ bé… hình như
của lễ này chả đáng gì, vì em không là gì sánh với Ngài. Rõ ràng em không là
gì… mỗi người chúng ta hiểu rõ điều đó và tội nghiệp những ai không hiểu. Em
tin đây là cái khác biệt to lớn giữa kẻ tin và không tin. Tín hữu dâng tiến
điều họ đã lãnh nhận và điều này thật là bao la ; Những người khác chỉ muốn cai
trị hay ra lệnh hoặc tìm tòi và thống trị – hoặc là phá hoại.
Khi em dâng chính mình
cho Ngài trong Hy Tế Thánh Lễ, thì em dâng tất cả những gì Ngài đã ban cho em,
em dâng Ngài như một món quà, chính các món quà mà Ngài đã ban cho, và các việc
bác ái như lời ca tụng tri ân…
Nếu anh biết được mọi
trao đổi thân thương qua lại giữa Trời và chúng ta… anh sẽ bị sợ hãi đè bẹp, vì
anh có thể đánh giá được những lời chế nhạo của anh. Em chỉ có thể nhỏ lệ cho
anh, các giọt lệ này em dâng như ngọc quý. Anh đã đau khổ và anh đã nổi loạn.
Nếu anh đã nhìn lên Thánh Giá, và nếu anh đã khiêm nhường cầu xin Chúa ban cho
anh sự bình an và sức mạnh để tha thứ, thì anh có thể đã cảm nghiệm được cái
ngọt ngào đến độ anh tự động cám ơn Ngài về nỗi buồn phiền đã được nhẹ nhàng
ban cho anh.
Vì cái đau khổ này là
một món quà có lợi. Thiên Chúa xử với anh như vườn nho dấu yêu của Ngài và tỉa
anh để anh có thể mang thêm hoa trái (không bao giờ cây nho tự tỉa chính mình
phải không ?). Nhưng công việc anh đang thực hiện sẽ mang lại hoa trái gì ?…
trái đắng, cô đơn và tuyệt vọng.
Anh có tin là mình em
có thể đánh bại được anh không ? Không, lời kinh của em đã được nhận và được cả
một cộng đoàn – vô số những người đã được Nước Trời – chuyển lên cho Chúa.
Anh đừng cười, vì linh
hồn bất tử là điều độc nhất trong anh mà anh không bao giờ có thể phá huỷ được.
Linh hồn bất tử… xin anh lưu ý các lời này vì nó chỉ rõ là không có sự chết.
Mỗi nhà phải khắc chữ vàng những lời này trên tường trong phòng khách. Thay vì
sợ chết hoặc là sợ ý niệm này, ta phải biết là không có cái chết và đây là điều
vô cùng quan trọng.
Anh yêu, thà anh không
bao giờ yêu em trên trần gian này còn hơn là biết anh xuống nơi nước mắt không
bao giờ cạn cho đến muôn đời. Vì em yêu anh”.
Tôi trả lời thư “Tóc
Mây” bằng cách càng hăng say chống phá Giáo Hội hơn.
Khi cuộc chiến điên
khùng gần kết thúc, tôi chuẩn bị một số khá nhiều cuộc tấn công, tôi mong sẽ
thành công hoàn toàn trong vòng 30 năm. Tôi mơ mộng về năm 1974, khi tôi nghĩ
sẽ được ăn mừng sự phát sinh một Giáo Hội Toàn Cầu không có Chúa.
Tôi ghét chuyện Siêu
Nhiên đến độ không những nó tạo tôi thành một thiên tài nhưng còn ban cho tôi
một sức mạnh ghê gớm cho công tác nhị trùng của tôi. Xin đừng quên là tôi đang
theo học thần học và rất cần đạt được điểm cao. Thật sự tôi xuất sắc trong mọi
thứ, điều này làm tôi thật buồn cười và tăng thêm niềm tin của tôi là một Thiên
Chúa không ra tay bênh vực người tín hữu chân thành thì thật sự là Ngài không
hiện hữu.
Từ « Siêu Nhiên » che
dấu tất cả những gì con người không hiểu sau những bức màn điều khiển do ảo
vọng và tưởng tượng. Tôi quyết định phá huỷ cái trò hề dơ bẩn này. Tôi giao cho
hai cộng tác viên của tôi trọng trách gột tẩy Tân Ước sạch hết mọi thứ không
hoàn toàn tự nhiên hay không giải thích được. Công việc này hữu dụng vì Chúa
Giêsu tin vào bản tính Thiên Chúa của mình, vì thế tối thiểu là chúng ta chấp
nhận những điều mà một số người cho là do Chúa nói. Nhưng vì hầu như không thể
nào phân biệt giữa những điều chính Chúa nói và những điều các Thánh Sử đã thêm
vào, nên chúng ta từ chối tất cả vì điều này nghịch lại phán đoán thông thường
của con người.
Như tôi đã nói, tác
động mạnh nhất là tấn công trên các vấn đề thuộc tuổi trẻ và gây ảnh hưởng mạnh
trên tâm trí yếu ớt của chúng. Bằng một niềm xác tín sâu xa nhất, tôi đưa ra
các mệnh lậnh về tự do cá nhân, tôn trọng tự do của các em ngay từ khi các em
có thể đi và nói. Thật là xấu hổ, xấu hổ kinh khủng khi mà cha mẹ buộc con cái
đi xem lễ mỗi Chúa Nhật. Cũng đáng trách không kém là cha mẹ đã ghi tên cho các
em đi học giáo lý mà không hỏi ý kiến các em.
Tiếp theo đó là các em
bó buộc phải đi chịu lễ trong khi các em thích ra ngoài chơi. Ta có thể nói
thêm gì về phép Rửa Tội, đã ban cho các em khi vừa mới chào đời !!! Gương xấu
thật sự bắt đầu. Tôi đề nghị một chiến dịch thông tin mạnh mẽ trên giới trẻ.
Mỗi người hãy hăng say
tại nhà thờ, lớp dạy giáo lý, trường học, phát thanh để tuổi thơ trên thế giới
hiểu biết là các em có quyền tuyệt đối nói : « Không » với cha mẹ khi cha mẹ
tạo các em thành những tín hữu quỵ luỵ và giả hình thơ bé.
Ngày hạnh phúc sẽ đến
khi hàng ngàn em bé sẽ vui vẻ phản đối công khai: « Con không là người Kitô,
con không tin Thiên Chúa. Con không thơ ngây như cha mẹ con, các ngài già và
không làm được gì hết.
Đàng khác tôi hết sức
muốn đi thăm « Tóc mây » lại, ước muốn này được thoả mãn mà tôi không cần phải
hạ mình xin nàng.
Tôi nhận được một lời
mời dễ thương bảo tôi là nàng muốn xin tôi một chuyện.
Một thứ bảy khi mặt
trời đang chói chang, tôi phóng hết cỡ đến cửa tiệm nơi « Tóc Mây » đang chờ
tôi. Ai mà hiểu được ý nghĩa của những chữ tầm thường này đối với tôi : « Tóc
Mây đang chờ tôi ».
« Tóc Mây » hoàn toàn
thuộc về tôi nên tôi muốn cắt tóc nàng để không người nào có thể chiêm ngắm
chúng. Cắt bỏ ! Thật đây là một ý tưởng tội lỗi đã xâm chiếm tâm trí tôi.
Nàng ngọt ngào và âu
yếm khi nàng nói nàng muốn xin tôi một điều. Tôi run rẩy. Nhưng điều nàng muốn
là vẽ bàn tay của tôi mà người ta cho là đáng ngắm. Thật sự phụ nữ có những ý
kiến vô lý, dầu chúng hấp dẫn.
Tôi ngồi cả buổi chiều
kiên nhẫn đến độ các thiên thần ganh tỵ nếu họ có thực, và chỉ vì bàn tay của
tôi thôi.
Các bức phác họa được
vẽ lẹ làng, cái này sau các kia, tôi thả người như xuất thần mà phải gọi là
hạnh phúc hoàn toàn. Tôi nghĩ từ lâu rồi tôi không nhớ là mình có cảm giác cao
vời như vậy.
Tôi biết là không ai
tin nhưng sự kết hợp giữa chúng tôi thật là mạnh mẽ, hoàn toàn trong thời gian
trên, đến nỗi tôi nghĩ là làm sao một sự kết hợp thể xác tầm thường có thể gây
nên niềm hạnh phúc bằng như thế được, nó hình như vượt trên thời gian. Khi nàng
vẽ đủ các bức phác hoạ, kẻ thù khả ái của tôi cắt nghĩa cho tôi là các bàn tay
này được dành để làm nhiều điều trọng đại. Tôi bối rối vì tay tôi thích chết
chóc và giết người.
Cũng trong ngày đó,
nàng cho phép tôi gỡ tóc nàng, tôi mân mê. Tôi chải nhiều kiểu tóc khác nhau,
tôi thắt bím, cuộn tròn rồi tôi cẩn thận chải nó y như là không bao giờ tôi sẽ
thấy nó lần nữa, như là tôi chuẩn bị một sự hy sinh đau đớn. Tại sao tôi có cảm
giác lạ lùng trong ngày đó ? Cả ngày đó sao thật kỳ lạ. Ngay đến hôm nay tôi
không thể cắt nghĩa được là cái cảm giác huyền nhiệm đó đã từ đâu đến.
Chúng tôi rời nhau thật
khó khăn. «Sẽ gặp em thứ bảy tới ? » «Thứ bảy tới », cả hai chúng tôi cùng nói,
làm như cái hy vọng này được viết trong trí nhớ, như chúng tôi tìm trong đó cái
nền tảng độc nhất để tạm biệt, như chúng tôi muốn lật đổ trước mọi chướng ngại…
lật đổ mọi chướng ngại !!! Tôi quên bẵng đi là vào thứ bảy tới chúng tôi bắt
đầu tĩnh tâm và chịu chức vài ngày sau đó.
Tôi đã biên thư cho
«Tóc Mây» và bịa đặt ra một lý do láo toét dễ chấp nhận. Tôi muốn đơn sơ thêm
vào là tôi sẽ đi
Nhưng làm sao tôi có
thể nói được là đơn sơ khi mọi sự trong tôi kêu la là tôi đang lao vào tròng nô
lệ, nó còn tệ hơn nhiều cái đau khổ của sáu năm trong chủng viện ?
Ở Rome, tôi sẽ bị đóng
khung trong guồng máy của Kinh Thánh Vĩnh Cửu; Tôi sẽ bị gò bó nhưng tôi tự an
ủi mình là tôi như một hột cát sẽ làm tê liệt toàn bộ hệ thống, tê liệt đến mức
không thể chữa được.
Rồi tôi bắt đầu tĩnh
tâm để dọn mình lãnh chức sau cùng, tôi sẽ thành một linh mục đời đời.
Vì không tin vào đời
đời, tôi không khổ vì viễn tượng này. Đó là giây phút đau khổ tôi phải trải qua
như ở trong phòng nha sĩ khi người ta phải tới đó vì một lý do chánh đáng.
Điều quan trọng là có
niềm tin và niềm tin của tôi xứng đáng trước mặt họ. Tôi đang nói gì ? Niềm tin
của tôi vượt hơn họ vì nó không trẻ con, không mang sợ hãi và kinh hoàng. Ngày
trọng đại cuối cùng đã đến như các nhà báo hay nói. Tôi bình tĩnh. Nhiều người
cố gắng thay thế chỗ trống thiếu vắng gia đình của tôi. Họ giành nhau biểu lộ
tình cảm với tôi. Một chút ganh tỵ dễ thương làm tôi thấy vui vui nhưng khó mà
vừa làm người có nửa phần siêu nhiêu và vừa đồng thời đánh đấm một ít kẻ thù,
dù là kẻ thù tưởng tượng.
Khi tôi vào nhà nguyện,
hoàn toàn từ tốn và khiêm nhu. Các nhân đức này là một trò dễ chơi, khi được
một sự kiêu căng bí mật và một mục tiêu cao hơn hậu thuẫn chúng.
Tôi bước đi nhẹ nhàng,
đôi mắt dòm xuống, thì nghe một tiếng la nghẹn ngào, những tiếng kêu và lộn xộn
xảy ra bên trái tôi. Bình thường tôi không dòm, nhưng tôi bất tuân lương tâm
tôi (tôi muốn nói cái lương tâm người ta huấn luyện cho tôi, tôi dùng nó như để
tiêu khiển giải trí)
Tôi thấy những anh
thanh niên nâng một cô gái lên, áo choàng của cô rơi xuống, mớ tóc đen rối tung
và đang lê bước trên sàn nhà nguyện. Khi tôi quay mặt đi chỗ khác khỏi nhìn
cảnh này, tôi bắt gặp cặp mắt nhìn chăm chú của ông giáo sư, người đã là hộp
thư cho tôi.
Ông ta làm gì ở đây ?
Có phải ông đã mang «Tóc Mây» vào đây không ?
Trong khi trao đổi cái
nhìn ngắn ngủi này, tôi đã đọc được trong người này một thái độ chiến thắng tàn
ác.
Tôi tự hứa với mình là
tôi sẽ tìm ra sự thật và ai phạm tội ác này sẽ phải trả một giá đắt. Phần còn
lại trong ngày qua đi trong mây mù u tối. Mỗi người sẽ đoán và hồ nghi về tôi,
tôi bất cần. Tôi không còn mong muốn giả bộ đạo đức và nghe giọng nhẹ nhàng nói
về cái thánh thiện của tôi trong tương lai.
May thay, anh sinh viên
tới chào tôi. Anh là người bạn độc nhất của tôi. Tôi bảo anh xem cái gì đã xảy
ra và đi điều tra cho tôi. Tôi muốn biết, tôi muốn giết, tôi muốn gào thét,
muốn bênh vực mình, bảo vệ nàng – đặc biệt là bảo vệ nàng – nhưng quá trễ, muôn
đời quá trễ. Nếu tôi có can đảm tự mình nói mọi sự với nàng, nàng sẽ chấp nhận
đau khổ trong thinh lặng và yêu tôi thầm kín.
Những ngày sau đó, tôi
chuẩn bị đi Mỹ vì tôi muốn thăm những phái Tin Lành quan trọng nhất để tìm cách
kiểm soát họ. Tới thời điểm đó tôi buộc phải bỏ qua một bên nhiều yếu tố quan
trọng của đức tin đã được ăn rễ sâu trong giới Tin Lành. Tôi buộc phải biết rõ
khía cạnh mày của vấn đề trước khi tiếp tục đi học ở
Tối nhắc cho họ biết là
kín cổng là cần để giữ những cô gái không muốn ở trong đó khỏi trốn đi, họ buộc
vào vì cha mẹ bắt. Tôi là hết sức để dấu vết của cái gọi là tù đày thần thánh
này bị bãi bỏ. Tôi gợi lên trước hết các ý thức danh dự của các cô đồng trinh
tận hiến để họ chấp nhận ước muốn thánh thiện sống trong những dòng mà nhà dòng
mở cửa tiếp đón mọi người. Sau đó, tôi đi xa hơn là nài xin các nữ tu bỏ về thế
gian, người ta cần sự hiện diện của họ rất nhiều. Tôi cũng thuyết phục là các
nữ tu sẽ làm được nhiều hơn nếu không tỏ mình bằng cái áo dòng đặc biệt của họ.
Có những văn sĩ sẵn
sàng viết sách về vấn đề này, họ sẽ dùng cả một rừng từ ngữ làm người ta phải
kính phục. Tôi cũng chiến đấu chống lại tập tục cạo đầu của những nữ tu sống
trong dòng. Tôi đã phá vì cạo đầu sẽ làm cho họ thành kỳ cục khi phải đi mổ ở
nhà thương. Tôi nhấn mạnh đến các ơn gọi bị mất vì tập tục kỳ cục của những thế
hệ trước. Tôi phản đối cái áo dòng trang trọng cũ, nặng nề trong mùa hè và
không mấy hiệu nghiệm chống lại cái lạnh của mùa đông. Tôi đề nghị là luật lệ và
hiến pháp phải được cẩn thận thay đổi dần, tốt hơn do phái nam soạn thảo (vì
rộng lượng, còn các bà hay có khuynh hướng thái quá)
Nhưng khi tôi chiêm
ngắm tầm ảnh hưởng bao la công việc của tôi, tôi đụng phải một chướng ngại thầm
lặng, dầu rất nhỏ trên mặt vũ trụ… một nhà dòng Cát Minh khiêm nhường và rất
kín đáo mà từ đó tôi không hề nhận được một lá thư nào. Một bên là thế gian,
bên kia là nhà tù. Tôi điều khiển cái trước nhưng là tù nhân của cái sau.
Dầu sao, công tác của
tôi không bị thiệt hại vì điều này – mà còn ngược lại là khác.
Mâu thuẫn làm tôi sôi
lên vì giận. Khi tôi coi việc “Tóc Mây hy sinh là vô dụng, một sự hy sinh thật
hoàn toàn nhưng vô ích.
Công việc của tôi đang
tiến hành cách đơn điệu thì tin đồn về cuộc triệu tập Công Đồng Chung kích
thích sựhăng say của tôi. Tôi nghe là một số sơ đồ đã được soạn thảo do lệnh
của Đức Giáo Hoàng. Tôi thuyết phục cấp lãnh đạo cao cấp trong tổ chức là ta có
thể đóng một vai trò quyết định ở đây. Rồi tôi được bổ nhiệm vào chức vụ cao
nhất. Mọi sự tuỳ tôi và ngân quỹ của tôi thực sự vô giới hạn.
Tôi tài trợ các nguyệt
san khuynh tả và một số đông nhà báo, họ làm những việc thật tài tình sau đó.
Mọi hy vọng của tôi đặt trên các sơ đồ sẽ được thay thế, mà tôi đề nghị qua các
nhà thần học thật tân tiến và cũng táo bạo.
Tôi nghĩ là tham vọng
đã lèo lái các nhà thần học này ; tham vọng là sức đẩy mạnh nhất. Tôi đã thành
công tìm được tất cả các dự thảo chính thức, tôi muốn nói những bản mà Đức Giáo
Hoàng đã ra lệnh soạn. Theo tôi, chúng là đại nạn, hoàn toàn là tai hoạ và tôi
cân nhắc khi nói thế. Ngay cả giờ này, nhiều năm sau khi Công Đồng đã bế mạc,
tôi vẫn còn run lên như bị lạnh.
Ví như các sơ đồ này
được hiệu đính và phổ biến rộng rãi thì mọi công việc của tôi sẽ quay về con số
không (hay là hầu như). Sau cùng nhờ hăng say và đặc biệt nhờ tiền bạc mà tôi
tiêu dùng hầu như không cạn, các sơ đồ tân tiến (tôi phải thú là tân tiến một
cách rất rụt rè) đã được bí mật đem vào Công Đồng và gan dạ trình bày để thay
thế các sơ đồ chính thức mà người ta cho là không được tự do soạn nên, tự do
lành thánh của con cái Thiên Chúa (như họ nói).
Cái mánh lới này đã làm
toàn Đại Hội của Công Đồng kinh hoàng đến độ là các nghị phụ không thể vượt qua
được và sẽ không bao giờ có thể vượt qua – điều này chứng tỏ là gan lỳ luôn đưa
tới thành công. Có phải ông Danton đã nói như thế ?
—————————————-
Rồi tôi không hài lòng.
Không. Công Đồng này không phải là cái tôi mong mỏi. Chúng ta sẽ đợi Công Đồng
Vaticano III. Về Công Đồng Vaticano II, tôi không biết cái gì đã xảy ra. Hình
như một con quỷ vô hình đã chận đứng mọi cố gắng canh tân của chúng tôi, đúng
vào lúc các thay đổi có thể trở nên hữu hiệu. Thật lạ và điên rồ.
—————————————-
May thay, từ đó chúng
tôi tìm ra kế hay, là núp dưới bóng “Tinh Thần của Công Đồng” để phổ biến mọi
thứ thay đổi táo bạo. Câu “Tinh Thần Công Đồng” đã trở thành con bài tẩy cho
tôi. Phần tôi, giống như người chơi bài. Tôi chọn đi chọn lại hay là dùng con
bài tẩy giúp tôi bốc những con cơ nhỏ cuối cùng, con bài chuồn đã bị tước võ
khí. Nhưng chỉ trong Công Đồng Vaticano III sau này thì tôi mới có thể xuất
hiện với búa và đinh, không phải để đóng đinh Chúa trên Thánh Giá, mà đúng ra
là đóng Ngài vào trong cỗ quan tài của Ngài.
Cái cặp không chứa một
sơ đồ nào cho Công Đồng Vaticano III, nhưng cũng có thể là các sơ đồ này đang
được nghiên cứu, so sánh, và làm cho tệ hơn… Trong một cuốn sổ nhỏ, có ít chú
thích bằng tiếng Nga, tôi đã kín đáo cho dịch và tôi thấy đường hướng soạn thảo
các dự án trong tương lai của người bị thương mà tôi đã chăm sóc.
Đối với những người như
anh Micae, Vaticano II chỉ là quả bóng thăm dò mà lịch sử sẽ ít khi nhắc tới.
Nhưng Vaticano III sẽ phê chuẩn sự liên hiệp giữa Kitô giáo và thuyết Mác-xít
và sự thay đổi đáng quan tâm nhất là có thêm nhiều giáo điều mới và tính cách
độc tôn của tín điều mang tính cách xã hội.
Mọi tôn giáo, Kitô hay
không họp thành một Hội Đoàn rộng lớn và sẽ được thu gọn vào một đặc điểm chung
: “ma thuật” và sẽ ban cho tiềm thức (ít nhất là những người lanh khôn hơn) có
một thực quyền thật sự, quyền này được kiểm soát do những người Mác-xít.
Điều ngạc nhiên là
không có ai đến nhận các tài liệu của ông Micae cho đến hôm nay. Ông đã mua xe
bằng tên giả và có lẽ không báo cho ai biết về hành trình của ông.
Tôi không biết “Tóc Mây” ở đâu ? Có lẽ nàng còn ở trong một
nhà Kín Cát Minh mà bà phụ trách còn giữ niềm tin truyền thống xưa. Tôi cũng
mong cuốn sách này sẽ vào tận nhà dòng Kín để “Tóc Mây” biết rằng tôi cũng cầu
nguyện cho anh Micae.