CANH THỨC GIÁNG SINH 2006

“SỐNG YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ”

 

 

DẪN VÀO GIỜ CANH THỨC :

Anh chị em rất thân yêu,

Trong giờ phút linh thiêng của đêm cực thánh này, chúng ta hãy thả hồn hướng về hang đá Belem để nghe và suy niệm TIN MỪNG CỨU ĐỘ : “Vinh danh Thiên Chúa trên trời và bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Sứ điệp đến từ trời cao là sứ điệp của TÌNH YÊU đầy nhiệm lạ, và Sứ Điệp từ hang súc vật Belem ấy là sứ điệp của NGƯỜI TÔI TỚ PHỤC VỤ.

Vì thế chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện :

Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, vì yêu thương loài người chúng con, Cha đã sai Con Cha là Đức Giêsu Kitô sinh ra trong thân phận NGƯỜI TÔI TỚ ĐAU KHỔ của Cha, để phục vụ chương trình CỨU ĐỘ chúng con. Xin vì công nghiệp Yêu Thương và Phục Vụ của Con Cha, cho chúng con biết cũng biết nhiệt thành cộng tác với Người để xây dựng một thế giới bình an như lòng Cha mong đợi. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.

Đ/. Amen.

 

PHẦN 1 :

(Mùa Vọng cho tới 2000 năm trước)

Hát : Nguyện trời đổ sương mai (Tc MV&MGS 15)

NHD : Trở về nguồn, tới nguyên tổ Ađam và Evà, sau thời trăng mật vắn vỏi, các ngài đã bị chìm vào bóng đêm tội lỗi, trần trụi và tủi hổ, chúng ta nghe được một lời làm đảo lộn tất cả vũ trụ và nhân loại :

“Đất đai bị nguyển rủa vì ngươi : Ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất…” (St 3,17-18).

Từ đó cho đến hôm nay, cho dù với biết bao nỗ lực cay đắng, con người vẫn ở trong nỗi kinh hoàng của thiên tai, của nắng hạn… và bị ám ảnh bởi đói, bởi rét. Là tiên tri, đại diện cho tiếng nói mọi thời đại, Giêrêmia đã phải thốt lên :

“Này tiếng kêu cứu của dân tôi từ miền đất xa xăm vọng về. Mùa gặt đã hết rồi, mùa hè cũng đã qua thế mà chúng tôi vẫn chưa được cứu”. (8,19…)

Đói khổ sinh đạo tặc là lẽ đương nhiên trên bình diện cá biệt từng con người, và cả trên bình diện toàn cầu, phần lớn các cuộc chiến tranh cũng vì một tham vọng quân phân tài nguyên cho những tộc người ưu đẳng, những giai cấp thượng lưu… máu đã đổ tràn mặt đất ngay từ những thời tiền sử. Kinh Thánh viết :

“Trên mặt đất sự gian ác của con người quả là nhiều, và suốt ngày lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu… Đất đã ra hư hỏng trước nhan Thiên Chúa và đầy bạo lực…” (St 5,5…11)

Sự gian ác của con người không chỉ nhân lên sự đói nghèo, chiến tranh mà còn gieo rắc bao thứ bệnh tật gây ác mộng cho nhân loại : hằng trăm triệu con người bị đẩy ra ngoài lề xã hội, lặp lại tai họa giáng trên dân Ai Cập cổ xưa :

“Các phù thủy không đứng nổi trước mặt ông Môsê được, vì ung nhọt mọc đầy mình các phù thủy cũng như mọi người” (Xh 9,11)

Hay như thời của Gióp :

“Xatan hành hạ ông Gióp, khiến ông mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho tới đỉnh đầu…” (Gióp 2,7)

Lịch sử Dân được tuyển chọn đã mang lấy đặc tính tiên tri cho lịch sử toàn nhân loại. Lịch sử nhân loại là lịch sử bi thảm :

Thương núi đồi, tôi nức nở khóc than, tiếc đồng cỏ sa mạc, tôi ngậm ngùi ai oán, vì chúng bị thiêu hủy, không bóng người qua lại, chẳng còn nghe thấy tiếng súc vật ngoài đồng. Từ chim trời cho đến thú vật, tất cả đều trốn chạy, bỏ đi. Giêrusalem thành đống hoang tàn, thành sào huyệt cho loài lang sói, cho thành thị Giuđa ra quạnh hiu, không một ai cư trú. (Gr 9,9…)

Nhưng cũng là lịch sử vọng lên niềm trông đợi sự xót thương của Thiên Chúa, niềm tin vào lời hứa cứu độ mà ngay từ khởi nguyên Thiên Chúa đã công bố cùng án phạt rằng :

Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy ; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.

Những cảnh huống xã hội đau thương ấy như một điệp khúc bi ai lặp đi lặp lại thì những lời rên xiết chờ mong đã làm nên mùa vọng bất tận.

Trời cao hỡi,

xin thương cho vị Công Chính mau giáng trần.

Tựa sương mát tỏa lan trên toàn dân.

Từ ngàn mây hỡi,

xin Ngài hãy đến như mưa nhuần

Và đất hỡi,

hãy mở ra cho xuất hiện Đấng Cứu Tinh.

 

PHẦN 2 :

(Chúa đến)

Hát : “Hát cho mọi người”

NHD : Và đêm nay của hơn 2000 năm về trước, Thiên Chúa đã sai con của Người sinh ra bởi người phụ nữ. Ngài muốn gánh trên cuộc đời mình tất cả những cay đắng xót xa : không tìm được quán trọ, chấp nhận sinh ra trong hang lừa máng cỏ, giữa những người bạn sống bên rìa xã hội… Tất cả không chỉ là hoàn cảnh bất khả kháng, nhưng rõ ràng là sự chọn lựa yêu thương của Thiên Chúa với sự đồng tình của muôn thần thánh trên thiên quốc.

Cái nghèo của xóm làng Nazareth chỉ là cái khởi điểm cho một hành trình tới tận cùng căn nguyên gây nên những đói khổ, bệnh tật và chém giết… : đó là tội lỗi nơi đáy thẩm lòng dạ con người. Gioan tiền hô đã sững sờ khi thấy Ngài ở giữa đám người ô hợp bước xuống giòng sông Giođan để cũng lãnh nhận phép rửa bởi tay ông. Ông ngần ngại… ông còn chưa biết con đường của Tình Yêu, con đường Thiên Chúa Cha luôn đồng hành với Con mình Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha ; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con.

Người Con của Tình Yêu ấy còn chạy theo các tội nhân “đang đói, khát, rách rưới, bị đủ thứ bệnh kể cả sự chết hành hạ…”. Chạy theo họ, để cúi xuống rửa chân cho họ, bênh vực, chở che và dạy dỗ và tha thứ : chỉ cho họ con đường đến sự sống an bình : CON ĐƯỜNG YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ.

“Này một Hài Nhi đã sinh ra đời

Mang theo tình thương soi sáng nhân trần”

Đó là một cái nhìn xuyên suốt về Đức Giêsu : Ngài đến để chia sẻ tình yêu của Cha cho nhân thế, tình yêu dành lấy cho mình quyền và trách nhiệm Phục Vụ.

 

PHẦN 3 :

(Giáo Hội tiếp tục con đường yêu thương phục vụ)

Hát : “Giờ đây Chúa sai tôi”

NHD : Từ 2000 năm qua, trên con đường sống yêu thương và phục vụ ấy, hàng lớp lớp các thế hệ tông đồ đã lên đường, thi hành sứ vụ như chính Chúa Kitô : Con đường Tình Yêu và Phục Vụ không dễ mấy ai sẵn lòng bước vào. Nhưng Đức Giêsu vẫn luôn có những người bạn đường ở mọi thời và mọi nơi. Chúng ta có thể quay trở lại Calcutta cuối thế kỷ trước, và gặp lại người nữ tu nhỏ bé Têrêxa. Từ miền đất Nam Tư, Mẹ đã đến Calcutta Ấn Độ. Mẹ đã gặp những bà già neo đơn chờ chết trong đói rách bên đường. Mẹ đã dìu họ tìm vào một túp lều, để giúp họ an bình ra đi trong vòng tay yêu thương. Có quá nhiều những số phận hẩm hiu… và Mẹ đã đi tìm những trái tim cùng chí hướng : đó là bước phôi thai “Nữ Thừa Sai Bác Ái” để phục vụ người nữ neo đơn bị đẩy ra lề xã hội.

Những “nhà lâm chung” và “trung tâm trẻ mồ côi” dần dần đã mọc lên trên nhiều miền đất nước. Mẹ và con cái Mẹ nhìn thấy nơi những thân hình tàn tạ, những mảnh đời bạc phước ấy hình ảnh của Đức Giêsu : Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn ; Ta khát, các ngươi đã không cho uống ; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước ; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc ; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng. Điều ấy trở nên sức thúc bách mãnh liệt trong trái tim của Mẹ và chị em để nỗ lực không ngừng vượt qua mọi ranh giới để giảm đi cơn khát tình của Chúa.

Lịch sử hình thành và phát triển Giáo phận Đàlạt thân yêu này cũng đã được tô đậm hình ảnh của một vị Tông Đồ : Đức Cha Gioan Baotixita Cassaigne,  ông tổ truyền giáo cho người dân Kơho ở vùng đất cao nguyên này. Một hình ảnh rực sáng lửa yêu thương và phục vụ.

Khi được sai đến thí điểm truyền giáo Di Linh, người mục tử này đã đi vào rừng sâu, tìm đến với người bản địa, Ngài đã chọn như là một phương thế để có thể tiếp cận : chăm sóc 6 bệnh nhân phong, mà buôn làng đã đuổi khỏi buôn làng…, cho họ thực phẩm, lau chùi vết thương, cấp thuốc…. Ngài đã chọn con đường yêu thương và phục vụ của Đức Kitô. Nhận ra tình thương của Cha trên trời qua người môn đệ, người đàn bà cùi có tên là Ka Trut đã tin và muốn lãnh nhận Bí tích Rửa Tội trước khi lìa thế : đó là ngày lịch sử 07.12.1927. Vị Tông Đồ nhận ra đó là sự tán dương của Thiên Chúa, nên quyết tâm mở rộng con đường yêu thương phục vụ ấy khi thành lập làng cùi, đưa các bệnh nhân về sống tập trung để việc chăm sóc có hiệu quả hơn.

         

KẾT THÚC :

Con đường yêu thương và phục vụ còn trải dài cho đến ngày cánh chung. Đó là con đường mà Đức Giêsu đề nghị cho Giáo Hội, cho mỗi người tín hữu hôm nay. Con đường mà Đức Giêsu đã chọn và đã đi, Ngài vẫn tiếp tục đi vì Ngài còn Yêu Thương cho đến cùng. Con đường đã được Ngài thiết kế, xây dựng và bảo trì với Tình Yêu của Cha và của Thánh Thần. Đêm nay chúng ta được Hài Nhi Giêsu mời gọi hãy về Belem để nhìn ngắm điểm xuất phát của Tình Yêu và Phục Vụ.

Anh chị em thân mến,

Chúng ta hãy khẩn nài Tình yêu Chúa đến, để đưa chúng ta vào con đường phục vụ cho tình yêu :

(Đọc KINH NĂM THÁNH)

Lạy Cha nhân ái – Cha đã yêu thương đón nhận chúng con – trong Con Yêu Dấu của Cha là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con – Cha đã ban Thánh Thần thánh hóa và ban sự sống – cho chúng con được xưng tụng Thiên Chúa Ba Ngôi.

Chúng con xin dâng lời chúc tụng và tôn vinh – như Chúa Giêsu đã dạy chúng con – vì Cha đã đặc biệt yêu thương những người phận nhỏ – ban ơn đức tin cho anh chị em nghèo khó chúng con – và tuôn đổ niềm vui – để Gia đình Giáo Phận thân yêu này – được hân hoan cử hành Năm Thánh –  mừng kỷ niệm tám mươi năm truyền giáo.

Xin Cha thương ban cho mọi thành phần dân Chúa – nhờ năm hồng ân đặc biệt này –  được lớn lên trong niềm tin vững mạnh –  kiên trì cậy trông – và hăng say thực hành đức ái – để hạt giống Tin Mừng trổ sinh hoa trái dồi dào – trên mảnh đất thân yêu này – làm vinh danh Cha – và đem lại lợi ích thiêng liêng cho muôn người. Amen.

 


Muc Luc