HẠNH
PHÚC TRONG TẦM TAY
(Lc
4:1-13)
Cuộc khủng hoảng về căn
tính đang bùng nổ dữ dội trên khắp thế giới.
Khi con người đánh mất chính mình, mọi tương quan đều tan biến. Ðó là nguyên nhân chính gây nên nỗi bất hạnh
lớn lao cho nhân loại. Hình ảnh người ôm bom tự sát có thể dùng làm biểu
tượng cho cuộc khủng hoảng đó. Cuộc
khủng hoảng bắt nguồn từ niềm tin. Con
người như bị xé rách thành trăm mảnh khi niềm tin châm ngòi cho những cuộc xung
đột, căm thù và bạo động giữa các dân tộc.
Khi niềm tin biến thành động lực phá hoại, tôn giáo còn đủ lý do chính
đáng[1]
để tồn tại hay không ? Tôn giáo đã đánh mất tương quan siêu
việt. Con người bị đẩy vào những tranh
chấp bạo lực ngông cuồng. Tôn giáo đã bị
tục hóa và hạ giá quá thấp. Muốn thăng tiến và phát
triển toàn vẹn, con người không thể cắt đứt tương quan với quyền bính siêu
việt. Phong trào tục hóa đang nỗ lực
tách lìa con người khỏi Thiên Chúa và xóa nhòa tương quan siêu việt trong các
sinh hoạt nhân loại. Nếu loại bỏ chiều hướng tới siêu việt ra khỏi
cuộc sống, không thể hiểu được con người.[2]
Thiếu chiều kích siêu việt, chỉ còn
những hình ảnh què cụt về con người.
Không hiện hữu toàn vẹn, làm sao con người hạnh phúc. Làm cách nào tìm lại hình ảnh toàn vẹn của
con người bây giờ ? Cuộc phấn đấu trong
hoang địa hôm nay của Chúa Giêsu nhằm phục hồi hình ảnh toàn vẹn của con
người. Càng theo dõi sát ba cơn cám dỗ
và cuộc chiến thắng lớn lao của Chúa, càng thấy ý nghĩa và hạnh phúc cuộc đời
nằm trong tầm tay. Ba cơn cám dỗ xoay quanh lòng ham mê khoái
lạc, của cải và quyền bính. Cả ba đều do
Chúa dựng nên và rất cần thiết cho cuộc sống.
Vậy tại sao Chúa từ chối ? Từ
chối không phải tự bản chất những điều đó xấu xa tệ hại. Nhưng những thứ đó đã bị tên “quỷ cám dỗ” bóp
méo nhằm phục vụ và thỏa mãn cái tôi nhất thời. Bởi thế, Chúa không thể nào chấp nhận được
! Người không bao giờ rời xa mục tiêu là
Thiên Chúa. Mục tiêu cao cả đó lôi con
người ra khỏi chính mình. Chúa không
muốn sống cho mình. Người càng không
muốn loại hạnh phúc nào vắng bóng Thiên Chúa. Sau khi nhịn đói bốn
mươi ngày, chắc hẳn Chúa Giêsu có đủ lý do chính đáng để biến đá thành bánh để
đáp ứng nhu cầu sinh tồn. Tự bản chất,
việc biến đá thành bánh chẳng có gì xấu xa.
Nhưng giải quyết vấn đề phải hợp thời và hợp lý. Nếu không, Người sẽ phá hỏng chương trình
Thiên Chúa. Giải quyết vấn đề quá cấp
bách để thỏa mãn nhu cầu trước mắt, có thể đánh mất mục tiêu lâu dài. Hơn nữa,
nhu cầu vật chất đó không phải là tất cả khát vọng của con người. Con người toàn vẹn
không thể thiếu niềm tin nơi Chúa. Khi
niềm tin vươn lên, con người sẽ tìm được lối thoát cho mình. Lối thoát đó nằm ngay trong việc vâng phục
Thiên Chúa. Ðối với con người Ðức Giêsu,
sự vâng phục đó cần thiết để hoàn thành sứ mệnh cứu độ muôn dân. Con người toàn
vẹn phải bao gồm cả vật chất lẫn tinh thần.
Chúa cho thấy một bức họa toàn bích về con người : “Người ta sống không
chỉ nhờ cơm bánh, (Lc 4:4) nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt
4:4; Ðnl 8:3) Cơm bánh đáp ứng nhu cầu
vật chất. Lời Chúa nuôi sống niềm tin. Rất may Ðức Giêsu không
thi thố quyền phép để biến đá thành bánh.
Người cũng không chịu khuất phục hay thỏa hiệp với quỷ dữ để thống trị
trần gian. Ðó không phải là con đường
cứu độ. Trong lịch sử, rất nhiều lần
Giáo hội đã thỏa hiệp để cầu an. Có khi
Giáo hội hy sinh cả chân lý hay công lý để tìm một chút lợi lộc hay thỏa mãn chế độ “xin cho.” Nhưng rõ ràng con đường thỏa hiệp đã làm cho
công cuộc truyền giáo thất bại. Thỏa
hiệp là con đường ngắn nhất dẫn đến suy vong.Bài học lịch sử còn đó. Không ai có thể chối cãi được ! Càng thỏa hiệp với quyền lực, càng làm cho
muôn người xa lánh Giáo hội. Thỏa hiệp
với đối phương là phản bội Thiên Chúa. Bổn
phận duy nhất của Giáo hội là thờ phượng Thiên Chúa mà thôi (x. Lc 4:8). Trong hoang địa, Chúa
đã dứt khoát phục vụ một mình Thiên Chúa là nguồn sống đích thực. Niềm tín thác vào tình yêu Thiên Chúa Cha đã
cho Ðức Giêsu một cái nhìn toàn diện về con người. Bởi đấy, Người không hy sinh bất cứ phần nào
trong toàn bộ cuộc sống để đổi lấy quyền lợi cho riêng mình. Trong cả hai cơn cám dỗ
đầu, Ðức Giêsu đã trích dẫn lời Chúa trong sách Ðệ Nhị Luật (8:30 và 6:13). Người dùng Luật để xác quyết sự sống con
người quý trọng hơn phương tiện vật chất. Cả hai cám dỗ đó vẫn chưa chạm đến bản chất
con người Ðức Giêsu. Sau này, khi “buồn
rầu đến nỗi chết” trong Vườn Giệtsimani, Chúa như rơi vào tình trạng rối loạn
tình cảm. Cơ hội đã tới. Quỷ tưởng bở. Nhưng, hắn không ngờ phải nếm mùi thảm bại
! Không có cách nào phá tan tương quan giữa Người với Chúa
Cha. Tương quan tình yêu nổi bật và bền
vững qua lời xin vâng thánh ý Thiên Chúa. |
Cám dỗ thứ ba trong
hoang địa mới làm cho kẻ yếu tin choáng váng.
Choáng váng không phải vì cuộc thử thách diễn ra từ chóp đỉnh đền thờ,
nhưng vì đụng tới phần cao cả nhất trong con người Ðức Giêsu. Người bị thử thách về chính địa vị làm Con
Thiên Chúa. Quỷ dữ đã đánh mạnh vào
tương quan tình yêu thâm sâu nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con : “Nếu ông là Con
Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi !” (Lc 4:9) Một thử thách tương tự đã đến với Chúa vào
lúc cuối đời : “Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào !”
(Mt 27:40) Trong cả hai trường hợp, nếu
nhảy xuống, Ðức Giêsu đã không vâng lời Chúa Cha. Không còn thử thách nào lớn hơn ! Thử thách đụng tới yếu điểm nhưng không phải
là điểm yếu của Chúa ! Người không hề bị lay
chuyển. Trái lại, tên cám dỗ đã vô cùng
choáng váng như lãnh búa tạ khi nghe Chúa tỏ tất cả uy quyền : “Ngươi chớ thử
thách Ðức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” (Ðnl 6:13) Chúa không gieo mình xuống đất theo lời xu nịnh của quỷ dữ. Nhưng Người sẽ gieo mình vào bàn tay nhân
hiền của Chúa Cha từ cây Thánh Giá : “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong
tay Cha.” (Tv 30) Phó thác như một người
con thơ hay tín thác như một người đầy tớ (Is 50:10), dù phải bước đi trong đêm
tối. Cuộc thắng bại đã phân minh ! Chính trong lời vâng
phục, con người có khả năng gặp gỡ Thiên Chúa tình yêu trong thực tại toàn vẹn
của mình. Con người có khả năng yêu như
Thiên Chúa. Trong tình yêu Thiên Chúa,
con người sẽ tìm được bình an và sự toàn vẹn.
Nhờ vâng phục hoàn toàn thánh ý Chúa Cha, Ðức Giêsu đã dùng “Thánh Giá
mạc khải trọn vẹn tình yêu Thiên Chúa.
Sự chết đã biến thành hành vi yêu thương và tự do tột đỉnh của Ađam mới.”[3] Như thế,
“chết là một mối lợi” (Pl 1:21) tuyệt vời cho toàn thể nhân loại. Chúa thà chết để bảo
tồn tương quan siêu việt và sâu đậm với Chúa Cha, còn hơn sống mà phủ nhận uy
quyền Thiên Chúa trên thân phận mình.
Người không chọn con đường thỏa hiệp hay thỏa mãn tham vọng trước mắt. Có chết đi như thế, Ðức
Giêsu mới cho thấy con người có một định mệnh cao cả. Chúng ta không phải là
tác giả hay người sáng tạo chính mình.
“Chúng ta hoàn toàn tùy thuộc Thiên Chúa, Ðấng Tạo Hóa đích thực của
chúng ta.”[4] Sự lệ thuộc này không làm con người mất tự do, vì “Thiên Chúa là tình
yêu và tình yêu là huyền nhiệm làm nên hạnh phúc chúng ta. Tuy thế, chỉ có xả thân và bước vào đường khổ
giá, chúng ta mới có thể đi vào huyền nhiệm tình yêu này.”[5] Phải
đợi đến cơn cám dỗ cuối cùng trên thập giá, tất cả ý nghĩa và giá trị của cuộc
chiến thắng trong hoang địa mới hoàn toàn được mạc khải . Mạc khải đó cho thấy
không ai hạnh phúc hơn Ðức Giêsu ! Hôm nay hạnh phúc đang
chạy trốn con người, vì cuộc sống đang mất đi chiều kích siêu việt. Muốn tìm lại chiều kích siêu việt đó, phải
tìm đến với Ðức Giêsu. Khi vâng lời Chúa
Cha, Người đã sống trong tương quan sung mãn.
Nhờ thế, không những Người không đánh mất chính mình, mà còn làm cho mọi
người tìm thấy căn tính đích thực và chiều kích siêu việt, để có thể tin yêu
Thiên Chúa. Hạnh phúc nằm trong tầm
tay ! Lạy Chúa, Chúa đã thương chia sẻ thân phận làm người, vừa tầm
thường vừa cao cả, với chúng con. Xin
sai Chúa Thánh Thần đến hướng dẫn chúng
con chiến thắng mọi thử thách trên sa mạc trần gian. Xin soi sáng cho chúng con tìm thấy nơi Lời
Chúa thần khí và sự sống cần thiết cho hạnh phúc hôm nay và ngày mai. Amen. đỗ lực 25.02.2007 [1] x. ÐHY Renato Martino, Zenit 19.02.2007. [2] x. Mariano Fazio, Zenit 19.02.2007. [3] ÐGH Bênêđictô XVI, Thông Ðiệp Mùa Chay
2007. [4] ibid. [5] ibid. Mục Lục Phúc Âm Nhật Ký Trở Về Trang Nhà |