GẦN NHÀ XA NGÕ
(Mt
2:1-12)
Sau kỳ Đại Hội Truyền Giáo Châu Á lần I tại Chiang Mai, Thái Lan,
tháng 10, 2006, có lẽ các Giáo Hội Á Châu đang
gia tăng những cuộc tiếp xúc với các tôn giáo và văn hóa địa phương để
tìm cách đối thoại và học hỏi. Tương lai
sẽ rộ lên một phong trào nhập thể văn hóa. Ánh sáng sẽ lóe lên trong đêm trường
Á châu chăng ? Những cuộc trao đổi rất
hữu ích, vì trong các tôn giáo đó cũng có những hoạt động của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, theo Công đồng Vatican II, “Giáo hội
Công giáo không hề phủ nhận nhũng gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn
giáo. Những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo
thuyết đó cũng thường đem lại ánh sáng của Chân lý, Chân Lý chiếu soi cho hết
mọi người”(NA 2).
Phải chăng đó là một
cuộc tìm kiếm ngược chiều với các đạo sĩ hôm xưa ? Ngày xưa, các đạo sĩ đã từ nơi xa đến tìm Vua
vũ trụ mới sinh tại Bêlem. Nhờ ánh sáng
thiên nhiên, các ông đã tìm đến tận đỉnh cao của mọi ước vọng, đó là Ðấng Cứu
Ðộ muôn dân. Các ông xuất hiện như những con người thiện chí và ngay thẳng. Ðó là những con người sẵn sàng lên đường tìm
kiếm.
Khi không còn tìm thấy
sự trợ giúp nơi thiên nhiên, họ đã tìm đến gõ cửa nhà vua. Cánh cửa đã mở ra. Những trang sách vội vàng xác định phương
hướng. Nhưng lòng người vẫn khép kín
trước những tin tức bổ ích từ những pho sách.
Khi không có thiện chí, dù gần nhà nhưng vẫn xa ngõ. Ngay cả khi đầy đủ phương tiện nhất, người ta
vẫn ngần ngại lên đường. Óc phán đoán bị
tê liệt. Những sai lầm, ngu đần, cố
chấp, tàn bạo từ đó mọc lên. Theo thánh
Thomas, khi muốn phạt một xã hội nào, Thiên Chúa để bọn người ngu dốt cai trị
xã hội đó. Có lẽ điều đó đúng cả ngoài
đời lẫn trong đạo.
Các chiêm tinh gia là
những nhà lãnh đạo tài ba, những tư tế được kính trọng, các nhà thiên văn và
bói toán đại tài. Dưới quyền lãnh đạo của
họ, có lẽ dân chúng sống rất hạnh phúc. Nhưng khi bỏ lại tất cả để đi tìm Ấu
Chúa nơi một chân trời vô định, họ còn khôn ngoan không ? Theo
tiêu chuẩn tự nhiên, ai cũng đánh giá họ là những người dại dột khi lên đường
phiêu lưu như thế. Nhưng cũng như ông
Abraham, họ không biết mình đi đâu, nhưng biết rõ mình đang đi theo tiếng gọi lương
tâm.
Bước chân họ khua vang
như nói lên chiều kích phổ quát của ơn cứu độ.
Chúa có thể tìm thấy thân hữu nơi những con người bất ngờ. Sau này, ai ngờ Chúa tuyển mộ các môn đệ từ những
ngư dân thất học ? Tin Mừng dành cho
người nghèo ? Người ngoại trở thành
những tấm gương bác ái ? Như thế, phải
chăng Chúa đã tự đồng hóa với những người kém may mắn cả về của cải vật chất
lẫn tinh thần ? Phải chăng có thể tìm
thấy Chúa nơi cả người nghèo và ngoại giáo ?
Nhiều khi không biết chúng ta đem Chúa đến cho dân ngoại hay ngược lại ?
Thật khó biết được sự thật !
Sự thật hôm nay được
phơi bày qua những lễ vật các nhà chiêm tinh kính dâng Ấu Chúa. Trong xã hội Do thái, nhất là trong hoàng
cung, thiếu gì những thứ như vàng, nhũ hương và mộc dược ? Nhưng những đó vẫn nằm bất động trong một xó
góc vắng tanh trong các chiếc hòm cồng kềnh.
Khi được trưng bày, các báu vật
đó cũng chỉ để khoe khoang hay tăng thêm vẻ kiêu hãnh của con người. Trái lại, những thứ báu vật đó đã mang một ý
nghĩa rất lớn trong tay các chiêm tinh gia khi họ cung kính “dâng tiến” mà “thờ
lạy”(Mt 2:11) Thiên Chúa làm người. Họ thật khiêm tốn, hy sinh, và khôn ngoan.
Dù có cả một đoàn cố
vấn khôn ngoan và tài giỏi vây quanh, vua Hêrôđê cũng không thể có một thái độ
khôn ngoan như thế. Dù cả lực lượng quân
sự hùng hậu, ông cũng không thể biểu dương được sức mạnh. Bằng chứng, ông không tìm nổi các chiêm tinh
gia và không giết được Ấu Chúa để thực thi ý đồ tàn bạo và thâm độc. Ðúng là, “mưu sự tại nhân, thành sự tại
Thiên.” Kinh thánh cũng dạy : “Chúa đối
xử tốt lành với những người thiện hảo.
Nhưng với kẻ gian hùng, Chúa lại dùng mưu.” Chỉ cần một ánh sao và một chút mộng báo,
Chúa đã vô hiệu hóa những mưu đồ thâm độc và sức mạnh thế quyền.
Sự hiện diện và cung
cách của các nhà chiêm tinh cho thấy ơn cứu độ dành cho muôn dân. Ngay từ thời thơ ấu, Chúa Giêsu đã mạc khải
Nước Trời là gia nghiệp chung cho mọi người.
Lời hứa cứu độ không dành riêng cho dân tộc nào. Như vậy, không có biên giới nào trong Nước
Chúa. Không có nam nữ, giàu nghèo, giỏi
dốt, sang hèn. Không chỉ thấy người tốt
trong hàng ngũ những người có đạo hay địa vị. Bất cứ đâu cũng có thể kiếm thấy các thân hữu
của Chúa.
Từ lúc còn ẵm ngửa,
Chúa đã trở thành điểm quy tụ muôn dân. Chúa
mời gọi những người từ xa đến. Xa cả về
không gian lẫn văn hóa, tôn giáo. Các
nhà chiêm tinh là những tâm hồn chân thực và sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa mời
gọi tận thâm tâm. Các ông đi tìm Ấu Chúa
để thờ lạy, chứ không đi tìm người tài vào làm việc trong cung. Họ đã xác định
rõ được địa vị cao cả của Ấu Chúa, vượt xa mọi bậc thánh hiền trên đời. Bởi thế, họ đã đích thân đi tìm. Họ đi tìm sự thật, chứ không tìm địa vị hay
thế lực như vua Hêrôđê. Tìm tình thương,
hòa bình, nên họ đã thấy an bình thư thái nơi Chúa. Thiên Chúa đến nơi đây để chạm tới mút cùng
trái đất và mọi biên giới vũ trụ.
Chúa Giêsu là Mặt Trời
Công Chính. Mặt Trời chiếu sáng khắp vũ
trụ và tới mọi người. Dĩ nhiên, vẫn còn
những nơi ẩn khuất và những con người chạy trốn Mặt Trời. Nhưng không phải vì thế mà có thể nói Mặt
Trời chỉ chiếu soi cho nhiều người, chứ không cho mọi người. Cũng thế, để cho mọi người được hưởng ơn cứu độ,
Chúa đã chết đi. Máu Chúa đổ ra cho mọi
người, chứ không phải cho một số hay nhiều người. Nói ngược lại là vô tình phủ nhận sức mạnh
của ơn cứu độ và giới hạn tính phổ quát của hồng ân cứu rỗi.
Lạy Chúa, xin giúp con dõi bước theo ánh sáng ngôi sao là
lương tâm để con tìm ra Chúa mà thờ lạy như các nhà chiêm tinh. Xin làm cho ánh sáng ấy bừng lên trong tâm
hồn các nhà lãnh đạo trong Giáo hội và xã hội Việt nam hôm nay. Amen.
đỗ lực
07.01.2007