ANH CÒN NỢ EM …

(Lc 15:1-32)

 

Tuần qua, trước khi từ giã cõi đời, danh ca Luciano Pavarotti đã thoải mái nói : Thượng đế và tôi không còn mắc nợ gì nhau.  Ông đã mắc nợ gì, nếu không phải là món nợ tình yêu, yêu đời yêu Trời.  Nhưng món nợ tình yêu ai có thể trả xong ?

          Càng suy nghĩ, càng không thể hiểu nổi bản chất vô cùng sâu xa của tình yêu.  Rất may, qua Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải phần nào bản chất tình yêu cao cả đó.

 

 

TỪ VỰC THẲM

 

Các dụ ngôn trong chương Lc 15 thường được gọi là “Tin Mừng trong Tin Mừng.”  Chương 15 tóm tắt sứ điệp Luca về sự tha thứ và thống hối.  Những chủ đề này thường hay xuất hiện trong Luca hơn các Tin Mừng khác :  ông Dacaria tiên báo Chúa sẽ đem lại ơn tha tội (1:77), và lúc bắt đầu sứ vụ cả ông Gioan lẫn Chúa Giêsu đều loan báo ơn tha thứ và sám hối.  Lần cuối cùng Chúa sai các môn đệ đi rao giảng sự thống hối và ơn tha thứ cho mọi dân tộc (24:47).  Chủ đề sám hối sẽ trở lại trong các bài giảng ở Công vụ Tông đồ và xác định rõ phương hướng hoạt động trong cuộc đời thánh Phaolô (Cv 26:17-19). 

Trong Kinh thánh, sám hối có một ý nghĩa rất phong phú.  Tiếng Do thái teshubah nhắc đến việc sám hối cá nhân vì nghiệm thấy Thiên Chúa là Ðấng từ nhân và  đầy cảm thông.” (Tv 51)    Tiếng Hy lạp, metanoia gợi nhớ “việc tưởng niệm và canh tân.”  Việc “sám hối” ấy dẫn tới việc tha thứ tội lỗi, giải thoát khỏi tù đầy và bãi bỏ hình phạt.  Sám hối không phải là leo lên tới Thiên Chúa qua những nấc thang sầu đau và hối hận, nhưng là khám phá niềm vui qua việc tìm kiếm Thiên Chúa.  Ðức Giêsu tìm cách hiệp thông và kết bạn, rồi mới tới sám hối, kinh nghiệm về một Thiên Chúa tình yêu.

Chỉ có Thiên Chúa mới có thể mở rộng con tim, đem lại niềm vui lớn lao cho con người.  Ðức Giêsu đã diễn tả niềm vui đó qua những chia sẻ rộn ràng của người chăn chiên sau khi tìm thấy con chiên lạc, của người phụ nữ sau khi kiếm lại được đồng bạc.  Bữa tiệc sau đó phản ánh tiệc lớn trên thiên quốc, bữa tiệc đem lại “niềm vui lớn lao trên thiên quốc vì một người tội lỗi ăn năn trở lại thì hơn chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn.” (Lc 15:7) 

Theo dõi bước chân người con thứ trở về nhà cha, chúng ta có  thể hiểu phần nào ý nghĩa đích thực của việc sám hối.  Người con thứ ra đi mang theo phần gia sản : “Những gì của cha là của con.”  Khi anh ta trở về, người cha sẽ nói cùng một câu như thế với người anh cả, nhưng không theo cách chiếm hữu, mà theo nghĩa chia sẻ và tặng dữ.  Người con thứ muốn sống tách biệt để có của riêng.  Khi lìa bỏ nhà cha ra đi, anh ta muốn tự mình làm chủ chính mình và của cải mình.  “Của cải mà người con thứ phung phí có nghĩa là ‘bản tính’ trong ngữ vựng triết học Hy lạp.   Chính người con hoang đàng đã tiêu tán hết “bản tính của mình’”[1]   Với thời gian, anh nhận thấy những gì anh tưởng là của riêng, đã bị cuộc đời “vét sạch.” Chẳng mấy chốc, anh nhẵn túi, mất cả tư cách làm người.  Anh đã đánh mất tất cả phẩm giá của mình.  Từ phẩm giá làm con với đầy đủ quyền tự do, anh mơ ước làm thân nô lệ. 

Từ đáy vực khốn cùng, từ chỗ yếu đuối sâu thẳm nhất, anh đã hướng nhìn về người cha.  Ai cho tôi một chút vinh dự, một chút tình yêu ?  Những vết thương lòng rỉ máu.  Tôi đang sa lầy giữa cảnh lạnh lùng.  Tôi sẽ đưa  tay về hướng đâu ?  Chung quanh bầu bạn chỉ là sự trống vắng.  Tôi xao xuyến lo âu.  Phải chăng chưa bao giờ tôi hiểu nổi tình yêu ? 

Sau khi đã phá tán hết tài sản, người con thứ quyết định trở về.  Nhưng anh sợ không biết còn mặt mũi nào gặp lại người cũ cảnh xưa không.  Có thể mình còn là mình như trước khi ra đi chăng ?  Anh rất muốn nhưng vẫn “lưỡng lự,”  dù “nhà cha” anh đã từng cư ngụ xưa kia.  Thế nhưng, từ tận cùng bằng số, trái tim anh nhớ lại niềm hy vọng tràn đầy tình yêu: “Tại nhà cha tôi …” (Lc 15:17)   Chỉ còn lại một mình cha tôi mà thôi !

          Anh mơ tưởng “cảnh tượng” lúc trở về, nhẩm đi nhắc lại điều anh có thể nói trong hoàn cảnh mình.  Anh không dám mường tượng lúc trở về lại được sống trong tình yêu anh đã phá vỡ bằng chính tính sở hữu ích kỷ của mình.  Anh chỉ còn hy vọng trở về để kiếm miếng ăn chỗ ở lây lất qua ngày giữa những người làm công … Anh không còn đáng được nhận làm con nữa.  Khi người con đi kiếm thức ăn, thì người cha đưa cho anh một thức ăn khác để anh sống mà vẫn còn là con, ngay cả khi người con chỉ có thể tưởng tượng cha vẫn hoàn toàn là cha.  Khi người con đi kiếm một chỗ ở, người cha ban lại cho anh một chỗ khác, chỗ vẫn là của anh, ngay cả khi anh vắng nhà.  Anh vẫn là trung tâm điểm của tình yêu gia đình.  Tình yêu là phần tài sản thừa kế không biến mất.   Những thứ thừa kế khác anh xài tan hoang rồi.

          Cha anh đã không nói gì.  Thay vì trả lời, ông đưa vòng tay ôm cứng lấy anh.  Vòng tay đã ngăn không cho anh thực hiện điều anh yêu cầu.  Người cha đã cắt ngang, ngay khi mới nghe lời con nói.  Ông làm cho anh khám phá thấy điều quý giá nhất anh đã bỏ quên lúc ra đi.  Niềm vui đột nhiên bùng vỡ : “Con ta đã sống lại.”  Tất cả đã biến tan nơi phương xa : sự giàu có, ảo tưởng, phẩm giá … Giấc mơ cuối cùng chỉ còn là “đậu muồng heo ăn.”  Nhưng tình yêu không bao giờ tan biến (1Cr 13.8).   

Tình yêu muôn đời vẫn là một mầu nhiệm khôn dò.  Qua một vài dụ ngôn Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu giúp chúng ta khám phá phần nào mầu nhiệm đó.  Dụ ngôn dài nhất thường được gọi là “người con phung phá.”  Nhưng dưới cái nhìn tích cực hơn, đó là “dụ ngôn người cha nhân hậu.” 

ÐGH Bênêđictô XVI lại thấy đó là dụ ngôn về hai anh em.  Cái nhìn khá sát thực, vì rõ ràng hai anh em tượng trưng hai nhóm người.  Nhóm thứ nhất gồm những thu thuế và tội lỗi.  Nhóm thứ hai gồm Pharisêu và các ký lục.[2] 

Tình yêu thân phụ đã trả lại tất cả những gì người con thứ đã đánh mất.  Món nợ tình yêu người anh cả muôn đời còn mắc nợ người em thứ, vì đã không đủ bao dung để thông cảm và chia sẻ với em.   Mãi tới bây giờ, nhìn lại quãng đời đã qua, người anh cả đã than thở : “Anh còn nợ em …”   Ðúng như thánh Phaolô quả quyết : “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tình yêu.” (Rm 13:8)

Tình yêu là sức mạnh lôi kéo người con hoang đàng.  Nhưng tình yêu lại trở thành  cung đàn lạc điệu đối với những ai đang mải mê tìm kiếm chính mình.

Tuy không bỏ nhà ra đi như em, người anh cả đã tự tách lìa cha quá xa.  Anh còn ở lại nhà.  Thế thôi.  Anh tự cho mình là một người đầy tớ, chứ không phải là một người thân thuộc trong gia đình.  Ðàng khác, anh đã trách móc người cha về người em thứ : “Còn thằng con của cha đó !”   Nhưng người cha mời anh vào để gặp gỡ và nối lại tình yêu trong gia đình : “Con, con cha … em con … tất cả những gì của cha là của con.”   Ðứa con cha đã mất là em con và là con cha.  Nó phải được con yêu mến, chia sẻ niềm vui, và chấp nhận.  Cả con nữa, hãy mở rộng vòng tay.  Cha là cha của hai đứa chúng con.

 

TÌNH YÊU VÀ NHÂN PHẨM

 

Chính tình yêu phục hồi nhân phẩm.  Người cha là một chứng từ điển hình.  Người cha đã phục hồi phẩm giá hoàn toàn cho người con thứ.  Ngược lại, phản chứng chính là người anh cả.  Muôn đời anh không thể trả món nợ tình yêu cho em !   Chẳng bao giờ anh có thể phục hồi phẩm giá người em.  Từ đó tình anh em tan biến.  Con người sống bên nhau như gỗ đá, đồ vật hay máy móc mà thôi.  Tội lỗi từ đó phát sinh.  Con người đánh mất khả năng sáng tạo và tái tạo như Thiên Chúa.

Trái lại, Thiên Chúa trung tín không ngừng tái tạo những gì Người thương mến.  Chúng ta đang tìm kiếm sự tuyệt đối trong cuộc đời.  Nhưng chúng ta đã đi vào ngõ cụt.  Thật khó lùi về đường xưa để tìm lại sự sống đã đánh mất !  Con người từ chối yêu thương chân thành.   Tội lỗi khép kín tâm hồn và dẫn đến bế tắc trong tương quan với tha nhân.  Bởi đó, không thể chấp nhận nổi thái độ của người anh cả.

Phẩm giá người anh cả trở thành một vấn đề, vì tương quan xã hội đã tan biến sau thái độ cứng cỏi của anh.  Quả thực, “tất cả mọi giá trị xã hội vốn gắn liền với nhân phẩm và làm cho nhân phẩm phát triển đích thực.  Chủ yếu những giá trị này là : chân lý, tự do, công lý, tình yêu.  Ðem ra thực hành những giá trị ấy là con đường chắc chắn và cần thiết để làm cho con người hoàn hảo và ngày càng hiện hữu như một con người có tính xã hội hơn.”[3]  Người anh cả đã không thấy được tất cả giá trị lớn lao đó nơi em mình, nên đã không thể hành động như thân phụ.  Anh tưởng khi không trả lại phẩm giá cho em, mình sẽ được hưởng trọn vẹn gia tài và tăng thêm phẩm giá của mình.  Ai dè, chính phẩm giá anh cũng bị sút giảm hẳn trước mặt thân phụ.

Sự thật người anh cả theo đuổi chính là lề luật và truyền thống gia đình.  Nhưng anh quên mất một sự thật vô cùng to lớn đó là tình yêu.  “Sống trong sự thật có một ý nghĩa đặc biệt trong tương quan xã hội. Thực vậy, khi con người sống chung với nhau trong một cộng đồng, xây dựng trên sự thật, thì cộng đồng sẽ có trật tự và hiệu quả, và tương xứng với phẩm giá con người.”[4]   Nếu người anh cả chỉ muốn xử lý với người em, chắc chắn sẽ có một khoảng cách rất lớn trong gia đình.  Anh em không thể nhìn mặt nhau, dù sống trong cùng một hoàn cảnh.  Tự bản chất, gia đình là một cộng đồng tình yêu.  Nếu không có sự tha thứ, làm sao tình yêu có thể hiện hữu như một nền tảng và lẽ sống cho gia đình ?

Nếu người anh cả đã tha thứ cho người em, chắc chắn cảnh gia đình sẽ vui tươi đầm ấm.  Ai cũng tự do đi lại và sinh hoạt trong gia đình mà không một chút mặc cảm.  Công cuộc xây dựng gia đình sẽ đạt hiệu quả tối đa.  Một khi tìm lại phẩm giá, người em sẽ thấy mình được mọi người tôn trọng, vì “tự do là là dấu chỉ phẩm vị tối cao của mỗi người.”[5]  Phản ứng của người anh đã là một trở ngại lớn nhất cho người em trên đường tìm về phẩm vị tối cao đó.  Ngược lại, người cha đã làm tất cả những gì cần thiết cho con thứ trở lại địa vị ban đầu.

Giả sử người cha cũng không tha thứ cho người con hoang đàng, người con cả cũng không vì thế mà hưởng được tự do đích thực.  Tuy lúc đó, một mình một cõi, nhưng anh cũng không thể được thân phụ và mọi người kính trọng.  Thực vậy, “giá trị của tự do được quý trọng khi mỗi phần tử xã hội được phép chu toàn ơn gọi riêng của mình.  Ðàng khác, tự do cũng là khả năng tự tránh xa tất cả những gì có thể làm cản trở sự phát triển    nhân, gia đình hay  xã hội.  Tự do trọn vẹn là khả năng tự chiếm hữu điều lợi ích đích thực, trong khung cảnh công ích của mọi người.”[6]  Như thế, rõ ràng càng cố gắng ngăn cản người em chung hưởng gia sản thân phụ, người anh cả càng tỏ ra ích kỷ và làm cho gia đình, nhất là thân phụ, mất đi niềm vui lớn giữa cảnh gia đình phát triển và mọi người thăng tiến trong ơn gọi cá nhân.

Khi chối bỏ nhân cách của người em, người anh cả đã vượt quá quyền hạn của mình và đối xử bất công với em.  Thực vậy, “công lý là hành vi dựa trên ý muốn công nhận tha nhân như một nhân vị.”[7]   Khi không còn công lý, làm sao gia đình trên thuận dưới hòa ?  Bởi đó, khi không chấp nhận người em, không những người anh cả không có tấm lòng bao dung như thân phụ, nhưng còn thiếu hẳn ý chí để sống theo công lý.  Sống trong tình trạng bất công, tất nhiên con người sẽ không tránh được cuộc tranh đấu để giành dựt quyền lợi.

 

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn ý thức mình đang đóng vai trò người anh cả hay em thứ trong đại gia đình dân tộc Việt nam.  Xin cho chúng con biết bao dung và tha thứ để tình yêu ngày càng trở thành sức mạnh giải thoát và nền tảng xây dựng dân tộc Việt nam chúng con.  Amen.

 

đỗ lực  16.09.2007

 

 

 

 



[1] ibid.

[2] ÐGH Bênêđictô XVI, Ðức Giêsu Nadarét 2007:204.

[3] Tóm lược Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 197.

[4] Ibid., số 198.

[5] Ibid., số 199.

[7] Ibid., số 202.


Mục Lục Phúc Âm Nhật Ký
Trở Về Trang Nhà