NHU CẦU TÔN GIÁO
(Mt
2:1-12)
Tới nay, mọi người đều
kinh ngạc trước thông tin sau đây về tình trạng tôn giáo tại Việt Nam. “Cuối
năm 2005, các cộng đoàn công giáo tại Sơn La đã chính thức đệ đơn lên các cấp
chính quyền, đăng ký được phép sinh hoạt công khai theo như Pháp lệnh đã qui
định. Cũng trong giai đoạn này, nhiều lần Toà Giám mục Hưng Hoá đã gửi công văn
tới Chính quyền Sơn La “đề nghị cho các linh mục lên làm việc mục vụ tại Sơn
La” , nhưng đều bị Chính quyền Sơn La từ chối với một lý do lãng nhách: “Sơn La
không có nhu cầu tôn giáo.”[1]
Nếu chỉ là mảnh đất vô
tri trên miền thượng du Bắc Việt, Sơn La không có nhu cầu tôn giáo, đúng như
chính quyền quả quyết. Nhưng chính quyền có phải là tập hợp những cục đất vô
tri không? Nếu là những cục đất vô tri, làm sao chính quyền có thể đại diện
những con người trên mảnh đất ấy để quả quyết : “Sơn La không có nhu cầu tôn
giáo’? Chẳng lẽ tôn giáo là một sản phẩm
địa phương nào đó dân chúng Sơn La không quen tiêu thụ? Còn nếu tôn giáo là một
đặc tính xác định bản chất con người, chính quyền Sơn La có gồm những con người
không? Ngay từ thời xa xưa, từ
những miền đất rất xa lạ, các nhà chiêm tinh cũng thấy có nhu cầu tôn giáo. Nếu
không, họ đã không đến thờ lạy Chúa Hài Nhi. Có lẽ Hêrôđê cũng không thấy nhu
cầu tôn giáo, nên dù ở rất gần, ông cũng không đến làm một nghi lễ như họ. Trái
lại, ông còn tìm cách giết Hài Nhi, để đề phòng hậu họa. Chỉ mới nghe các nhà
chiêm tinh nhắc đến “Ðức Vua dân Do thái,” ông đã bất an và có những mưu đồ đen
tối. Trong khi đó, các nhà chiêm tinh phải bỏ nhà cửa và phong tục, vượt qua
bao nhiêu hiểm nguy, dõi ánh sao lên đường tìm kiếm để tỏ một thái độ tôn giáo
trước Hài Nhi. Tại sao có tình cảnh trái ngược đó? Như thế mới rõ nhu cầu tôn
giáo vượt qua mọi biên giới và trở thành của toàn thể nhân loại. Nhu cầu này
còn vượt qua những án lệnh của nhà vua. Nhà vua bảo các nhà chiêm tinh quay lại
để báo cáo tình hình, họ đi về quê nhà luôn. LÊN ÐƯỜNG Từ những miền xa lạ, vì
nhu cầu tôn giáo thúc đẩy, ba nhà chiêm tinh đã lên đường theo ánh sao lạ. Họ
đi tìm thờ lạy Hài Nhi Giêsu. Họ chỉ tin tưởng vào thiên nhiên. Không Kinh
thánh. Không truyền thống đạo đức như Do thái. Nhưng chính Thiên Chúa đã mạc
khải cho họ qua những phương tiện thích hợp trong tôn giáo của họ. Nhờ ngôi sao
thiên mệnh, họ có thể học biết về ngày sinh của Chúa Giêsu và tìm đường đến với
Người. Nhưng khi họ gần tới
nơi, đã lọt vào lãnh địa của người Do thái, ngôi sao biến mất. Một sự kiện nhỏ
nhoi, nhưng lại làm xáo trộn chương trình của họ. Bao nhiêu mộng ước tan tành
trong giây phút. Gần tới mục tiêu thì mọi sự đều xoay chiều. Thế là họ ghé vào
cung điện nhà vua tìm câu giải đáp. Dĩ nhiên khi thấy các nhà chiêm tinh, tức
những người trí thức đến với mình, vua Hêrôđê rất vui mừng. Khi nghe báo tin về
“Vua dân Do Thái” mới sinh, tuy trong bụng xốn xang, nhà vua vẫn lịch sự mở
tiệc khoản đãi họ để có thời giờ tra cứu và lên kế hoạch. Vua ra lệnh các nhà
trí thức Do thái tra cứu Kinh Thánh Họ chỉ xác định được địa điểm Ấu Chúa sinh
ra, chứ không biết gì về thời gian. Thế là, nhà vua phải
khéo léo hỏi các nhà chiêm tinh về “ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện.”(Mt 2:7)
Như thế cũng chưa nắm chắc. Chẳng lẽ bây giờ lại sai quân lính đi theo họ? Làm
thế, sợ họ sẽ cho mình là bất lịch sự. Nghĩ thế, nên nhà vua lại tìm cách dặn
dò để mong đón nhận được thông tin đầy đủ và chính xác. Ông đã khéo léo che dấu
ý đồ hiểm độc bằng một câu nói đạo đức : “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về
Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy
Người."(Mt 2:8) Bái lạy Người hay giết Người để củng cố ngai vàng? Lịch sử
đã phơi bày tất cả sự thật. Nhà vua đã không ngăn
cản hành vi tôn giáo của các nhà chiêm tinh. Nhưng ông hiểm độc hơn nhiều. Ông
diệt tận gốc, chứ không trừ ngọn. Giết Thiên Chúa hay hủy diệt lòng tin của các
tín hữu vẫn là giấc mơ ngàn đời của các bạo chúa. Nhưng làm sao hủy diệt
lòng tin? Dù sống ở một nơi xa xăm và phải vượt qua nhiều nguy hiểm, các nhà
chiêm tinh vẫn không ngại lên đường. Họ đến như những người dân ngoại. Họ thờ
phượng Chúa Giêsu như những người dân ngoại. Họ trở về quê nhà vẫn như những
dân ngoại. Họ không cải đạo thành các tín hữu Do thái hay Kitô giáo. Thiên Chúa chấp nhận lòng tin và việc
thờ phượng của họ. Thiên Chúa hướng dẫn họ trền đường về quê nhà qua giấc mơ.
Ðiều này chứng tỏ Thiên Chúa có liên hệ với dân chúng trong các tôn giáo khác,
ngoài Do thái và Kitô giáo. Bởi đó, khi lên đường
cũng như lúc về quê nhà, họ luôn được bình an trên những nẻo đường Chúa hướng
dẫn. Dù có trải qua đêm đen hay lang thang qua những miền đất lạ, tâm hồn họ
vẫn không bối rối như vua Hêrôđê và hay
xôn xao như dân thành Giêrusalem (Mt 2:3). Ông và dân thành chỉ nghĩ đến những
quyền lợi vật chất. Các nhà chiêm tinh cũng chỉ thấy một sao lạ báo hiệu về
“Ðức Vua dân Do thái,” chứ không có Kinh Thánh để thấy sâu xa hơn. Nếu có Kinh
Thánh, hẳn các ông đã đọc sách Dân Số chương 24 để hiểu sâu xa hơn ý nghĩa lời
Thiên Chúa qua lời sấm Balaam: “Sấm ngôn của người
nghe các lời Thiên Chúa, Như
thế, ngôi sao biểu thị Vị Vua, Ðấng nắm vương trượng. Dĩ nhiên, đối với chúng
ta, lời sấm đó có một ý nghĩa lớn hơn điều đã nói trong Cựu ước về vương triều
Ðavít và việc chiến thắng những kẻ thù quốc gia của người Do thái. Vua Do Thái
hôm nay các nhà chiêm tinh đến tôn thờ là Vua các Vua, Vua mọi dân mọi nước,
Vua đem Tin Mừng chinh phục cả thế giới. Hơn nữa, “một vương
trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en” không phải để chinh phục mọi dân tộc cho Israel
thống trị, nhưng chịu nộp mạng vào tay vương quốc hùng mạnh nhất. Ðó là vương triều
đã nổi lên để giải thoát tất cả chúng ta khỏi ách thống trị của bất cứ vua chúa
trần gian nào. Sau cùng, những ý
nghĩa sâu xa hơn của ngôi sao phương
đông còn thấy trong biểu tượng truyền thống do các món quà của các nhà chiêm
tinh mang tới : vàng tuyên dương Ðức Kitô là Vua. Nhũ hương tượng trưng Chúa
Kitô là Thương Tế. Mộc dược nói lên Chúa Kitô là Hy Lễ. Hài Nhi đã “sinh ra để
làm Vua,” Vua sẽ cai trị cả thế giới từ cây thập giá. Như thế, “các dân ngoại
được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và
cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.”(Ep 3:6) Chúa Giêsu Kitô đã đem một chân lý
phổ quát và tối cao vào lịch sử nhân loại. Người đã làm cho trái tim con người
không bao giờ nghỉ yên. Từ đó họ luôn sống trong tinh thần liên kết với con cái
Abraham, làm thành một dân Israel duy nhất của Thiên Chúa. Nhờ truyền thống đó,
mới thấy các nòi giống, dân tộc và ngôn ngữ quy tụ quanh một Cứu Chúa duy nhất.
Quả thật, Thiên Chúa “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.”(1
Tm 2:4) Khi các nhà chiêm tinh
đến thờ lạy Chúa là thời đại cuối cùng đã bắt đầu. Cũng như họ, mỗi người chúng
ta được kêu gọi nhận biết Chúa là “tận điểm của lịch sử nhân loại, điểm quy tụ
những ước vọng của lịch sử và các nền văn minh, trung tâm điểm của nhân loại,
niềm vui của mọi con tim và sự hoàn thành mọi ước vọng. Quả quyết như thế,
không phải là đặt dấu chấm hết cho các cá nhân
và các dân tộc, nhưng là loan truyền cho họ Tin Mừng : bên kia những giới hạn
hữu hình của Giáo hội, Chúa Kitô không ngừng tác động đến tận con tim mỗi người
bằng ân sủng vô hình. Như thế, vương quốc
Thiên Chúa không xâm lấn nhưng thăng hoa những thực tại trần gian. Khi sinh ra,
Hài Nhi không ngừng đem lại cho nhân loại ân sủng để mọi người có thể sống hiệp
thông và phục vụ lẫn nhau mà sống trong bình an và hạnh phúc. Những ai có lòng
tin, đều phải lên đường như các nhà chiêm tinh, theo ánh sao là lương tâm hằng
chiếu sáng trong tâm hồn. Như thế, tôn giáo là một nhu cầu xuất phát từ bản
chất và tận thâm tâm con người, chứ không do xã hội hay truyền thống sắp đặt. |
TỰ DO TÔN GIÁO Tôn giáo là một nhu cầu
bức thiết của con người. Chỉ có con vật mới không có nhu cầu tôn giáo. Ðúng
hơn, thay vì quả quyết “Sơn La không có nhu cầu tôn giáo,” nhà nước phải nói :
“Sơn La không có quyền tự do tôn giáo.” Không phải Sơn La mà thôi, nhưng toàn thể
dân tộc đang bị tước đoạt quyền tự do tôn giáo. Tự do tôn giáo là quyền
tối thượng của con người. Khi quyền làm người không được tôn trọng, làm gì còn
quyền theo tôn giáo? Thật vậy, “tự do sống theo lương tâm và theo tôn giáo liên
quan tới con người về phương diện cá nhân cũng như xã hội. Quyền tự do tôn giáo
phải được nhìn nhận theo pháp lý và phê chuẩn như một quyền dân sự. Tuy nhiên,
tự bản chất đó không phải là một quyền vô giới hạn. Những giới hạn chính đáng
cho việc thi hành quyền tự do tôn giáo phải được quy định một cách thận trọng
trong mỗi hoàn cảnh xã hội chính trị, theo những đòi hỏi công ích và được chính
quyền phê chuẩn qua các luật pháp phù hợp với trật tự luân lý khách quan. Cần
có những luật lệ đó vì nhu cầu bảo vệ hữu hiệu quyền của mọi công dân và giải
quyết những tranh chấp quyền lợi một cách ôn hòa, đồng thời vì nhu cầu thích
đáng trong việc gìn giữ hòa bình nơi công cộng, để con người sống chung với
nhau trong một trật tự tốt đẹp và một nền công lý thực sự. Sau cùng, cần phải
có luật lệ ấy vì phải đặc biệt gìn giữ nếp sống đạo đức của quần chúng.”[2]
Nhà nước không thể tùy tiện đặt những giới hạn quyền tự do tôn giáo, bất chấp
những tiêu chuẩn công lý và đạo đức khách quan. Sở dĩ, chính quyền Sơn
La có thể ăn nói trơ trẽn như thế, vì quyền tự do tôn giáo chỉ được phê chuẩn
trên bản văn hiến pháp mà thôi. Thực tế, tùy địa phương, quyền đó sẽ được ban
ra như một ân huệ nhỏ giọt. Nơi nào có tai mắt quốc tế như Sài Gòn và Hà Nội,
dĩ nhiên cần phải trình diễn màn tự do tôn giáo tối đa. Còn những nơi cao
nguyên như Sơn La, nhà nước xử theo luật rừng. Không có một định chế pháp lý về
tôn giáo, không thể buộc chính quyền tôn trọng công ích và trật tự luân lý
khách quan. Càng không thể đòi hỏi nhà nước xử sự theo công lý, khi chẳng có
một cơ quan độc lập với nhà nước để xét xử những vi phạm nhân quyền. Bao giờ nhà nước mới
nhìn nhận “Giáo hội có quyền đòi hỏi phải được pháp luật thừa nhận có bản sắc
đặc thù”[3]?
Nhà nước quy định mọi sự để bảo vệ đảng qua họng súng, chứ không nhằm tôn trọng
nhân quyền và công ích. Theo công tâm, nhà cầm quyền phải hiểu rằng “hiển nhiên
vì có sứ mệnh đối với toàn thể nhân
loại, đồng thời biết mình thực sự liên
kết với loài người và lịch sử nhân loại một cách sâu xa, nên Giáo hội có quyền
đòi hỏi quyền tự do phán quyết về mặt đạo đức các thực tại nhân loại, bất cứ
khi nào cần bảo vệ những quyền căn bản của con người hay công cuộc cứu rỗi các
linh hồn.”[4]
Không cần phải có niềm
tin mới thấy được quyền tự do tôn giáo. Nếu anh đòi người khác tôn trọng quyền
tự do không theo một tôn giáo nào, tại sao anh lại ngăn cản và phủ nhận quyền
tự do tôn giáo của tôi? Chỉ những ai khăng khăng bảo vệ ý kiến và quyền lợi
riêng, mới “cả vú lấp miệng em” hay “lấy thịt đè người” mà thôi. Những người
nắm quyền sợ rằng khi được nhìn nhận như một thực thể có quyền riêng, Giáo hội
sẽ lấn sang những lãnh vực dân sự và đòi hỏi nhân quyền cho dân chúng nữa. Dù bị ngăn cản tới đâu
“Giáo hội vẫn kiếm tìm : tự do ngôn luận, giảng dạy và truyền giáo ; tự do thờ
phượng công khai ; tự do tổ chức và
điều hành nội bộ riêng; tự do tuyển chọn, giáo dục, bổ nhiệm và chuyển đổi các
thừa tác viên ; tự do xây dựng các cơ sở tôn giáo ; tự do sở hữu và thu tích
các của cải đầy đủ cho các hoạt động ; và tự do thiết lập các hội đoàn không
phải chỉ cho các mục đích tôn giáo, nhưng cho các mục đích giáo dục, văn hóa, y
tế và bác ái nữa.”[5]
Tất cả những thứ tự do đó đều nằm trong quyền làm người. Một nhà nước biết điều
phải tôn trọng những quyền cơ bản đó, mới mong nở mày nở mặt với thiên hạ. Khi không tôn trọng
quyền tự do của người khác, chính mình cũng mất tự do luôn. Cả người bị tù và
kẻ canh tù cũng đều ở trong tù. Hãy mở khóa cho tù nhân ra ngoài, để mình khỏi
phải chôn thân nơi chốn ngục tù nữa! ÁNH SÁNG BỪNG LÊN Khi bị tước đoạt nhân
quyền, tự do tôn giáo biến mất. Nếu bạo chúa Hêrôđê giết được Hài Nhi Giêsu, dù
các nhà chiêm tinh có loan tin và cổ động dân chúng, họ cũng chẳng còn gì để
thờ lạy nữa. Như thế, Hêrôđê trù dập tự do tôn giáo tận nguồn cội. Nhưng người
tính không bằng Trời tính. Những con người theo lẽ phải bao giờ cũng tìm được
lối thoát. Các nhà chiêm tinh không ngờ đã gặp một con cáo già. Nhờ được báo
mộng, họ mới thấy tất cả bộ mặt thật của nó. Họ đã không trở lại gặp và làm
theo lòng dạ nham hiểm của con người tàn ác đó. Nhờ thế, Hài Nhi Giêsu vẫn còn sống.
Cuối cùng, kẻ sát nhân phải chết, mặc dù đã tìm mọi cách để giết Hài Nhi. Những
kẻ muốn tước đoạt mạng sống con người, cuối cùng cũng chẳng giữ đươc gì cho
mình. Nhìn vào quê hương hôm
nay, chúng ta cũng thấy một cảnh tương
tự. Hêrôđê vẫn còn đó. Những chiêm tinh gia có lẽ không biết đến mưu thâm chước
độc của Hêrôđê! Tất cả âm mưu chỉ nhằm củng cố ngai vàng. Nếu họ theo đường cũ trở
lại gặp Hêrôđê, việc gì sẽ xảy ra? Biết bao nhà chiêm tinh thời đại đã theo
đường mòn để giúp Hêrôđê thực hiện mưu đồ bán Chúa và giết Chúa. Bởi đó, mới có
cảnh ngăn cấm con người thờ phượng Thiên Chúa nơi các miền cao nguyên. Ngay giữa lòng thủ đô
Hà Nội, chính quyền ngang nhiên chiếm dụng Tòa Khâm Sứ, biểu tượng của Tòa
Thánh Vatican tại Việt Nam. Khu Tòa Khâm Sứ là tài sản của Giáo hội Công giáo
Việt Nam đã bị chiếm dụng một cách bất công gần nửa thế kỉ. Đức TGM Ngô Quang
Kiệt vạch trần sự thật : “Từ nhiều năm nay, Tòa Tổng Giám mục và Hội đồng Giám
mục đã nhiều lần đệ đơn lên Chính quyền các cấp xin giao lại Tòa Khâm sứ để
Giáo hội có đủ phương tiện cần thiết cho những họat động tôn giáo tối thiểu. Đề
nghị chính đáng của tôn giáo chưa được đáp ứng, trong khi đó Quận Hòan Kiếm lại
dùng Tòa Khâm sứ để kinh doanh buôn bán. Trước đây đã bán phở, nay lại mở ngân
hàng. Và ngày 13-12-2007 vừa qua thêm kinh doanh giữ xe với quang cảnh thật hỗn
độn.”[6]
Rõ ràng biểu tượng Tòa
Thánh đã bị những kẻ vô thần biến thành nơi dung tục. Thử hỏi công lý ở đâu?
Niềm tin có được tôn trọng trong một chế độ vẫn rêu rao về tự do tôn giáo? Tức nước vỡ bờ. Thời
gian không thể kéo dài lâu hơn. “Ngày 20.12.2007, khoảng 5,000 người vừa đi vừa
hát lời Kinh Hòa Bình tiến ra khu đất Tòa Khâm Sứ cạnh Tòa giám mục. Hôm nay
thì tượng Đức Mẹ Sầu Bi đã được rước ra đặt trước Tòa Khâm Sứ.”[7]
Ðó là điểm son của GHVN cuối năm 2007. Hà Nội đúng là thủ đô của lòng tin Việt
Nam. Tại sao giáo dân Giáo
phận Hà Nội dám biểu dương sức mạnh lớn như thế? Đức TGM Ngô Quang Kiệt giải
thích : “Sự trưởng thành đích thực của người giáo dân Hà Nội nói riêng, qua đó,
hàng giáo dân Công giáo VN nói chung, là ở chỗ đó là những con nguời giáo dân
có ý thức và trách nhiệm cao. Ý thức về lòng yêu chuộng công lý và bênh vực
công lý; ý thức về quyền lợi chung, quan tâm đến ích chung của Giáo Hội…Tập thể
giáo dân Hà Nội như thế còn là một tập thể của ý thức công lý và dân chủ, nhân
quyền. Những năm tháng im lìm và chịu đựng của người dân VN đã qua rồi, đã đến
lúc ánh sáng văn minh dân chủ, đến lúc ý thức tự do và trách nhiệm của một chủ
thể đã đạt đến sự trưởng thành. Đối với người Kitô hữu, tất cả đó là bởi vì họ
ý thức về phẩm giá của nhân vị con người, đựoc tạo dựng theo hình ảnh của Thiên
Chúa. Chính nơi cùng lòng của Ba Ngôi Thiên Chúa mà « tiến trình dân chủ » đã
hình thành: Sự duy nhất trong khác biệt.”[8]
Tóm lại, nhu cầu tôn
giáo nằm sâu trong bản tính con người. Chỉ cần một ánh sao, các nhà chiêm tinh
đã hiên ngang lên đường tìm đến thờ lạy Hài Nhi, bất chấp mọi gian nguy trên
đường và sự nham hiểm của lòng người. Nhưng nếu không có lòng tin, dù sống ngay
tại miền đất Chúa sinh ra, con người vẫn không thể hưởng được hồng ân do tình
yêu Thiên Chúa. Lạy Chúa, xin cho ánh sáng bừng lên trong tâm hồn và cuộc
đời chúng con. Xin cho dân tộc con sớm
hưởng quyền tự do tôn giáo để Nước Chúa ngày càng tốt đẹp hơn. Amen. đỗ lực 06.01.2008 |