TRÊN ÐỈNH NON CAO
(Mt 17:1-9)
Cách
đây bốn chục năm, Mục sư Martin Luther King Jr. đã đọc bài diễn văn cuối cùng
trước khi bị ám sát (4.4.1968). Ông nói hùng hồn về cuộc tranh đấu bất bạo động
để giành công lý cho người Mỹ gốc Phi Châu, nhất là cho những người lao động bị
bóc lột tại Memphis, Hoa Kỳ. Cuối bài diễn văn, ông nói mình đang đi “tới đỉnh
núi” và nói tiên tri : “Tôi đã thấy đất hứa. Có lẽ tôi sẽ không tới đó với các
bạn,” nhưng dầu sao “mắt tôi đã thấy vinh quang ngày Chúa đến.”[1] Chúng ta có thể thấy gương mặt của Môsê nơi Martin Luther King Jr.
không ? Tại sao ông có thể lên tới đỉnh núi để quả quyết về tương lai của
đồng bào mình như vậy ? Chắc
chắn lời nói và thái độ khẳng quyết ấy phải phát xuất từ một tấm lòng. Chính
Martin Luther King Jr. quả quyết : « Tôi biết rằng sau cùng tình yêu
là câu trả lời duy nhất cho những vấn đề của nhân loại. Tôi sẽ đi nói về tình
yêu khắp nơi. Tôi đã quyết định yêu. Nếu đang tìm kiếm điều tối ưu, thiết tưởng
bạn có thể tìm thấy qua tình yêu. Ai có tình yêu là nắm được điểm then chốt
thấu hiểu ý nghĩa của thực tại cuối cùng. »[2]
Từ trên đỉnh núi, đúng hơn, đỉnh cao của tâm hồn, «ông bắt đầu suy nghĩ về thực
tại Gandhi cho là sức mạnh tinh thần, sức mạnh tình yêu và chân lý như một
phương tiện biến đổi xã hội. » Ông nói rõ : « Khi cuộc phản
kháng bắt đầu, trong ý thức hay vô thức, tâm trí tôi hướng về Bài Giảng Trên
Núi và phương pháp phản kháng bất bạo động của Gandhi. »[3] Từ
đầu kỷ nguyên thứ nhất, Chúa Giêsu đã thấy trước sức mạnh tình yêu. Nhưng nếu
nói trong một khung cảnh bình thường, có lẽ con người sẽ không thể nhận ra tất
cả sức mạnh đó. Bằng chứng khi Chúa Giêsu nói về đau khổ và cái chết sắp tới ở
Giêrusalem như một đòi hỏi của tình yêu cứu độ, ông Phêrô đã cực lực phản đối
(x. Mt 16:22). Bởi đó, Chúa Giêsu đã đưa ông cùng với hai ông khác lên núi biến
hình, không phải để các ông lóa mắt, nhưng để trải qua một kinh nghiệm tuyệt
vời về tình yêu giữa Chúa Giêsu và Chúa
Cha, đồng thời biết tại sao phải chấp nhận vác khổ giá theo Người. ÐƯỜNG LÊN NÚI CHÚA Càng
gần ngày khổ nạn, các môn đệ càng được Chúa loan báo những tin không vui về số
phận Thày trò. Cơn thất vọng càng lộ rõ trên nét mặt các môn đệ. Trong điều
kiện bình thường, có lẽ Chúa đã không thuyết phục được các môn đệ chấp nhận
đường lối Thiên Chúa. Bởi đó, Chúa muốn cho các ông một cơ hội và hoàn cảnh
khác để thấy những đòi hỏi của Thiên Chúa trong sứ mệnh cứu độ trần gian. Ðể
thực hiện mục đích đó, Chúa dẫn các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn
núi cao, xa cuộc sống tầm thường hàng ngày. Trên vị trí cao xa đó, nếu cứ nhìn
xuống, các ông cũng chẳng thấy gì hơn và cũng chẳng có gì thay đổi. Ngay cả khi
nhìn vào Chúa trong bộ dạng bình thường, chưa chắc các ông đã đổi được tâm
trạng. Bởi vậy, Chúa mới biến hình hay hiển dung. Khung cảnh đã góp phần rất lớn
trong việc thay đổi này. Quả thế, nếu không có hai ông Môsê và Êlia đứng cạnh
Chúa, chắc chắn cơn hỏa mù chưa biến tan khỏi tâm trí các ông. Từ nay, các ông
sẽ thay đổi hẳn cái nhìn về con người và sứ mệnh của Chúa. Chúa
biến hình để các tông đồ biến tính mới có thể lắng nghe và thấu hiểu những gì
Chúa Cha nói về Chúa Con. Một khi tâm hồn đã nhìn đúng sự thật, con người phải
biến đổi. Cũng như Chúa Giêsu đã “mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân,”
(Pl 2:7) để chia sẻ và thông cảm hoàn toàn với thân phận con người, các môn đệ
cũng phải “cải biến con người bằng cách đổi mới tâm thần,”(Rm 12:2) và “mặc lấy
Chúa Giê-su Ki-tô,”(Rm 13:14) mới có thể hiểu thấu ý định Thiên Chúa. Chúa Cha
muốn “Đức Giêsu bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và được Thiên Chúa làm cho sống
lại để chúng ta được nên công chính.”(Rm 4:25) Nói khác, Thiên Chúa muốn công
lý phải được thiết lập trên trái đất khi Chúa Giêsu đến công bố Nước Trời. Khi
đã được biến cải hoàn toàn, các môn đệ mới có thể lắng nghe sự thật do Chúa Cha
khẳng định : "Đây là Con yêu dấu
của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 17:5) Bản chất và địa vị Thày đã được xác
định. Hơn nữa, mối tương quan thâm sâu và bền chặt giữa Chúa Cha và Chúa Con đã
hiển lộ. Chúa Giêsu là Con yêu dấu không những khi mạc khải Thiên Chúa từ bi và
đầy lòng yêu thương trong Bài Giảng Trên Núi và lúc chữa lành để loan báo Thiên
Chúa chiến thắng ác thần, nhưng cả khi Người bước vào mầu nhiệm đau khổ nữa.
Khi vào trong mầu nhiệm này, Người đã tạo được sức mạnh công chính hóa toàn thể
nhân loại. Quả thực, “bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Đức Ki-tô
đổ ra.”(Rm 5:9) Ðó
là lý do tại sao Chúa Cha tuyên bố với các môn đệ Chúa Giêsu : “Các ngươi hãy
vâng nghe lời Người!" (Mt 17:5) Nếu thực sự vâng nghe lời Người, các môn
đệ cũng phải chuẩn bị nên giống Chúa Kitô trong sứ mạng giải thoát và công
chính hóa nhân loại. Sứ mạng cao cả đó chỉ được thực hiện nơi cây khổ giá đang
đón chờ Thày tại Giêrusalem và các môn đệ khắp nơi trên mặt đất. Có
thể nào, sau khi đã chứng kiến tất cả khung cảnh thần hiển, với cuộc biến hình
của Chúa Giêsu giữa hai nhân vật Cựu ước, các môn đệ không nghe lời Chúa Giêsu
được chăng ? Từ trên núi xuống, Chúa sẽ nói với các ông điều gì, nêu không phải
là : “Hãy theo Thày !”(Lc 5:27) Theo Thày đi đâu ? Thày lên Giêrusalem để chết
thê thảm trên thập giá. Chúa đã mạc khải cho các ông biết đó là cái giá phải
trả cho Nước Trời, cho công lý trên trần gian. Suốt cuộc đời truyền giáo sau
này, các môn đệ đã chứng tỏ cho Thày biết họ đã lắng nghe tiếng Chúa Cha và
theo Thày tới mức nào. Chính
vì biết lắng nghe Lời Chúa như thế, các ông đã thấu hiểu ý nghĩa của việc Chúa
biến hình : “Khi ánh sáng Thiên Chúa chiếu soi vào đêm trường thất vọng, tâm
hồn con người tìm thấy sức mạnh nơi Thiên Chúa, sức mạnh biến đổi cái chết thành
chiến thắng và đem lại ơn cứu chuộc cho thế gian.”[4] Ánh sáng tượng trưng cho sự công chính hay công lý Chúa đem đến trái đất.
Nếu không có ánh sáng chiếu soi, thế gian vẫn chìm đắm mãi trong bóng đêm tội
lỗi bất công. Bởi đó, khi được chan hòa ánh sáng, người môn đệ không thể ngồi
yên nhìn bóng tối hoành hành trên mặt đất. NHẬP CUỘC Khi
Chúa biến hình, “dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên
trắng tinh như ánh sáng.” (Mt 17:2) Sau đó, “chợt có đám mây sáng ngời bao phủ
các ông.” (Mt 17:5) Cả Thày Trò đều chan hòa trong ánh sáng tình yêu Thiên
Chúa. Trong ánh sáng, các ông mới cảm nghiệm được tình yêu nồng nàn và sâu đậm
giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Ðồng thời, họ mới thấu hiểu nguyên tắc liên kết giữa
Ba Ngôi. Nguyên tắc đó cũng làm cho con người có thể sống trong nguồn ánh sáng
tình yêu. Sở dĩ Chúa Giêsu có thể sống mãi trong tình yêu Chúa Cha, vì như Chúa
quả quyết:“Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy.”
(Ga 14:31) Môn
đệ không thể hơn Thày. Phải “vâng nghe lời Người,” họ mới có thể hiệp nhất với
Thày trong nguồn sáng tình yêu. Quả vậy, “Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong
Thầy, và Thầy ở trong anh em. Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới
là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy
sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy." (Ga 14:20-21) Chính
trong nguồn sáng tình yêu, môn đệ Chúa Kitô khám phá “những nguyên tắc và giá
trị có thể duy trì một xã hội xứng đáng với nhân vị. Trong số các nguyên tắc ấy,
tính liên đới bao gồm mọi nguyên tắc khác một cách nào đó. Liên đới là ‘một
trong những nguyên tắc nền tảng theo quan điểm Kitô giáo về tổ chức xã hội và
chính trị.’ Tình
yêu ưu việt tỏa sáng trên nguyên tắc này. Tình yêu là dấu hiệu trổi vượt của
các môn đệ Chúa Kitô (x. Ga 13:35) Chúa Giêsu dạy rằng ‘luật căn bản hoàn thiện
con người và biến cải thế giới là giới răn mới về tình yêu.’ (x. Mt 22:40; Ga
15:12; Cl 3:14; Gc 2:8) Hành vi nhân linh hoàn toàn là của con người khi phát
sinh từ tình yêu, biểu lộ tình yêu và hướng về tình yêu. Chân lý này cũng áp
dụng trong lãnh vực xã hội. Các Kitô hữu phải là những chứng nhân xác tín sâu
xa về điều này, và trong đời sống, họ phải cho mọi người thấy tình yêu là sức
mạnh độc nhất (x. 1 Cr 12:31-14:1) có thể đưa tới sự hoàn thiện cá nhân và xã
hội, cho xã hội tiến tới điều thiện hảo. ”[5] |
Khi
đi vào tương quan tình yêu cực độ của Chúa Cha, Chúa Giêsu biến hình. Chính trong tình yêu, các ông hiểu được cái
giá phải trả cho vinh quang Thiên Chúa và hạnh phúc nhân loại. Bởi thế, ông
Phêrô không còn lên tiếng phản đối và can ngăn Thày nữa, mặc dù có nghe hai ông
Môsê và Êlia “nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem.”
(Lc 9:31) Sức mạnh tình yêu không những biến đổi con người, mà cả vũ trụ, vì
“Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:8) “Tóm
lại, chính mầu nhiệm Thiên Chúa, Tình Yêu Ba Ngôi, là nền tảng cho ý nghĩa và
giá trị nhân vị, tương quan xã hội, hoạt động của con người trên thế giới, vì
nhân loại đã đón nhận mạc khải tình yêu và chia sẻ mầu nhiệm đó nhờ Chúa Kitô
trong Thần Khí của Người.”[6] Chỉ con mắt đức tin mới có thể
nhìn ra được thực tại sâu xa đó. Nếu không có đức tin, không thể cảm nghiệm và
vận dụng được sức mạnh tình yêu. Hơn
bao giờ, thế giới đang đói khát tình yêu, vì “việc biến cải thế giới cũng là
một đòi hỏi cơ bản của thời đại ngày nay. Ðể đáp ứng nhu cầu này, Quyền Giáo
huấn của Giáo Hội muốn cống hiến những giải đáp, rút ra từ những dấu chỉ thời
đại. Trước hết, Giáo hội cho thấy, dưới cái nhìn Thiên Chúa, tình yêu giữa con
người với nhau là dụng cụ giúp thay đổi mãnh liệt nhất trên bình diện cá nhân
cũng như xã hội.”[7] Nếu không có tình yêu Chúa Cha, Chúa Giêsu cũng không thể biến hình,
các môn đệ cũng không thể thay đổi, và thế gian vẫn mãi chìm trong đêm tối.
Nhưng trong ánh sáng hiển dung, ông Môsê đứng cạnh như chứng minh “Chúa Giêsu
là Môsê mới, đưa dân Thiên Chúa vươt qua thế giới nô lệ này mà đi vào đất hứa.”[8] Ông Êlia như nói với các môn đệ rằng Chúa Giêsu là vị Ngôn sứ vĩ đại sẽ
tranh đấu cho công lý để xây dựng Nước Thiên Chúa trên trần gian. Người đã chết
vì sứ mệnh cao cả đó. Bước
theo Chúa Kitô, người môn đệ không có lựa chọn nào khác ngoài sứ mệnh đó. Muốn
cải biến xã hội, họ phải làm cho “tình yêu hiện diện và thấm nhuần vào mọi
tương quan xã hội. Ðiều này đúng đối với những ai đang chịu trách nhiệm mưu ích
cho các dân tộc. Họ phải nhiệt thành ấp ủ trong lòng và khơi dậy nơi tha nhân
tình bác ái là bà chủ và nữ hoàng các nhân đức.”[9] Không có lòng bác ái, con người không biết quan tâm tới tha nhân và sống
như một hòn đảo đơn độc ngoài biển cả mênh mông. Giữa cuộc đời đầy sóng bão hôm
nay, làm sao hòn đảo đó có thể tồn tại ? Bởi vậy, chỉ khi nào biết liên kết với
nhau trong tình bác ái, nhân loại mới đủ sức tồn tại và phát triển. TẤM GƯƠNG VĨ ÐẠI Tới
nay, không ai có thể quên được Mẹ Têrêsa Calcutta, một con người nhỏ bé nhưng
đầy lòng bác ái. Khi phục vụ những người bị xã hội bỏ rơi, Mẹ đã cho mọi người
thấy “một chứng từ sống động về tình yêu nồng cháy của Thiên Chúa.”[10] Tháng 9 năm 1946, trên đường đi tĩnh tâm, Mẹ đã được Thiên Chúa kêu gọi
“phục vụ Chúa giữa những người nghèo khổ nhất trong các người nghèo.”[11] Trước cảnh người nghèo bị đọa đầy trong kiếp sống lầm than, “Mẹ đã đáp
lại tiếng Chúa Giêsu kêu gọi : ‘Hãy đến làm ánh sáng của Thày.’ Mẹ Têrêsa đã để
lại một để lại một chứng từ về niềm tin không suy suyển, niềm hy vọng vượt mức
và lòng bác ái phi thường.”[12] Tinh thần Mẹ đã lôi
cuốn nhiều người bước theo. Ngày nay có trên 5,000 tu
sĩ nam nữ và các thiện nguyện viên đang điều khiển khoảng 500 trung tâm trên
khắp thế giới, nuôi ăn 500,000 gia đình và giúp 90,000 người cùi mỗi năm.[13]
Năm Mẹ qua
đời 1997, Dòng Truyền Giáo Bác Ái của Mẹ thực hiện 610 sứ vụ tại 123 quốc gia,
bao gồm các nhà tế bần và chỗ ở cho các bệnh nhân HIV/AIDS,
các người bệnh phong cùi và ho lao, nhà bếp nấu cháo cho người nghèo, các
chương trình cố vấn cho gia đình và trẻ em, các cô nhi viện, và trường học.[14]
Chỉ
cần một tâm hồn tràn ngập tình yêu Chúa, biết bao cuộc đời sẽ được biến đổi.
Tình yêu có sức vạn năng. Ðứng trước đại dương nghèo đói, Mẹ Têrêsa quả quyết :
“Người nghèo không cần sự đồng cảm và lòng thương hại của chúng ta. Người nghèo
cần tình yêu và lòng trắc ẩn của chúng ta.”[15]
Chỉ có tình yêu mới có thể đem lại giá trị lớn lao nhất cho người nghèo. Ai đã
hiệp nhất với Chúa trong tình yêu, không thể không thấy Thiên Chúa nơi người
nghèo. Ðó là lý do tại sao chúng ta phải tôn trọng nhân phẩm của người nghèo.
Có nhìn nhận như thế, mới có đủ khả năng
phục vụ người nghèo. Sở
dĩ Mẹ Têrêsa có thể làm được những việc vĩ đại, vì Mẹ ý thức “Thiên Chúa đã tạo
dựng chúng ta để yêu và được yêu. Bắt đầu cầu nguyện là biết Người yêu tôi, tôi
được tạo dựng để làm những việc vĩ đại”[16]
trong tình yêu. Ðúng hơn, “chúng ta không thể làm những việc vĩ đại, nhưng có
thể làm những việc nhỏ mọn với một tình yêu vĩ đại.”[17]
Khi được thực hiện trong tình yêu, dù việc nhỏ mọn nhất cũng thành vĩ đại. Thế
nhưng thế giới mấy ai làm được những điều vĩ đại như thế ? Sở dĩ nhiều vấn đề
không bao giờ đượcgiải quyết, vì theo Mẹ, “ngày nay thế giới không có bệnh nào
trầm trọng hơn bệnh thiếu tình yêu.”[18]
Tình yêu là khởi điểm và tận điểm của mọi vấn đề. Con
đường tình yêu là con đường hiệp nhất với Thiên Chúa ngay trong cuộc sống. Thật
vậy, “khi biến cải tình yêu đó sang hành vi tình yêu sống động, chúng ta giao
tiếp với chính Thiên Chúa, với Chúa Giêsu.”[19]
Với những ai có niềm tin, tình yêu từ muôn ngả dẫn về Thiên Chúa.Từ Thiên Chúa,
Mẹ Têrêsa đã đến với người nghèo. Từ người nghèo, Mẹ cũng tìm thấy nẻo đường về
với Thiên Chúa. Thật tuyệt vời ! Có
thể tóm tắt về con người và cuộc đời Mẹ Têrêsa theo lời tự thuật sau đây : “Về
huyết thống, tôi là người Anbani. Về quốc tịch, tôi là người Ấn độ. Về đức tin,
tôi là nữ tu Công giáo. Về ơn gọi, tôi thuộc về thế giới. Về trái tim, tôi hoàn toàn thuộc về Thánh Tâm Chúa
Giêsu.” Dù thân hình nhỏ nhắn, nhưng niềm tin sắt đá, Mẹ Têrêsa Calcutta đã
được Chúa ủy thác loan báo tình yêu nồng cháy Thiên Chúa dành cho nhân loại,
nhất là cho những người nghèo nhất trong các người nghèo. “Thiên Chúa vẫn còn
yêu thế gian và Người gởi bạn và tôi làm cho mọi người thấy Người yêu thương và
cảm thông với người nghèo.” Mẹ là một linh hồn đầy ánh sáng Chúa Kitô, cháy lửa
yêu mến Chúa và nhiệt tình muốn “làm cho Chúa nguôi cơn khát tình yêu và các
linh hồn.”[20]
Tóm
lại, từ trên núi biến hình, các môn đệ Chúa Kitô đã lao thẳng vào cuộc đời và
đã hy sinh tất cả cho công cuộc cứu độ nhân thế. Cũng thế, Mẹ Têrêsa và Martin
Luther King Jr. đã lên tới đỉnh cao tâm hồn để nghe thấy tiếng gọi và chìm ngập
trong ánh sáng tình yêu của Chúa. Họ đã tìm được niềm vui khi dâng hiến cả cuộc
đời cho những người cùng khổ trong xã hội. Tất cả những nạn nhân của những cơ
chế bất công đều phấn khởi trước sức mạnh giải thoát của tình yêu phát ra từ
những tâm hồn quả cảm đó. Lạy Chúa, xin dẫn chúng
con lên núi để thấu hiểu tất cả bản chất và sức mạnh tình yêu. Nhờ đó, chúng
con có thể tìm lý do mọi đau khổ và kiên
trì tranh đấu cho công lý trên quê hương và khắp nơi trên thế giới. Amen. đỗ
lực 17.02.2008 |
[4] Raher, K., The Great Church Year.
[5] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 580.
[6] Ibid., 54.
[7] ibid., 55.
[8] Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Kinh Thánh Tân
Ước, Lời Chúa Cho Mọi Người,
2005:325.
[9] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 581.
[16] Ibid.
[17] Ibid.
[18] Ibid.
[19] Ibid.