TIẾNG GỌI THÂN
THƯƠNG
(Mt 9:9-13)
Cách đây đúng một năm, ngày 03.06.2007, cha xứ Ragheed Gani bị giết
ở Mosul, Iraq. Ðáng lý, cha đã có thể chạy thoát. Nhưng không một chút sợ hãi,
cha đã can đảm trung thành với nhiệm sở. Tới phút chót, cha vẫn xác tín với các
Kitô hữu không nên sợ hãi. Mặc dù quân khủng bố đã ra lệnh đóng cửa nhà thờ, nhưng
cha vẫn cương quyết làm việc mục vụ giúp đoàn chiên. Khi bị bắt, cha đã dõng dạc
tuyên bố lời cuối cùng : “Không thể đóng cửa Nhà Chúa !”[1] Cha đã chết thê thảm dưới lằn
đạn kẻ thù ! Tiếng gọi nào đã thôi thúc cha dấn thân bảo vệ đoàn chiên tới cùng
? Phải chăng từ một ơn gọi lớn lao, cha đã hy sinh để làm chứng về lòng nhân từ
của Thiên Chúa ? Lòng nhân từ đã trở thành sức mạnh giúp cha vượt qua nỗi sợ lớn
lao nhất. Tình thương có thắng hận thù
không ? Phải chăng ngày xưa, tiếng gọi đó cũng đã giúp Mathêu vượt qua nỗi sợ cơ
chế bất công để bước theo Chúa Kitô ? LỆNH LÊN ÐƯỜNG Thời nào cũng thế, kẻ có
quyền vẫn cố biện minh cho những hành vi lộng hành của mình. Quá đam mê quyền lực
khiến họ không còn nhận ra sự thật. Phải chăng không còn ranh giới giữa thiện ác
hay trật tự luân lý đã đảo ngược trong tâm thức họ ? Thời Chúa Giêsu, tội phúc
có một ranh giới rõ rệt trong xã hội. Những người công chính không bao giờ có
thể gần gũi tội nhân, nhất là những người mang tiếng công khai như Mathêu, người
thu thuế. Không những phá tan ước lệ và truyền thống đó, Chúa còn lên tiếng kêu
gọi và chung bàn người tội lỗi, bất chấp những lời xầm xì. Tại sao Chúa có thể
làm được chuyện đó ? Khác hẳn mọi người, Chúa
Giêsu không tìm cách xa lánh tội nhân. Không những Người chia sẻ, kêu gọi, cảm
thông mà còn đồng hóa với họ. Quả thế, “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên
Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta
nên công chính trong Người.” (2 Cr 5:21) Chính vì thế, Người đã phải chấp nhận
cái chết tang thương trên thập giá. Người chấp nhận bị liệt vào số các tội nhân,
để gần gũi họ. Ðến gần tội nhân, Người không sợ cảnh “gần mực thì đen.” Trái lại,
không những “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn,” Chúa còn thông truyền cho họ sự
thánh thiện của mình. Nói khác, theo thánh Augustinô “Thiên Chúa làm người để con
người trở thành Thiên Chúa.” Chúa kêu gọi Mathêu
chia sẻ sự thánh thiện và hiệp thông với ngôi vị của Người. Ðó là lời kêu gọi sám
hối. Mathêu phải từ bỏ tài sản cho đời sống phù hợp với lời gọi quyết liệt này.
Sứ mệnh đầu tiên của người tông đồ là “ở với Chúa Giêsu.” (Lc 3:14) Phải trở nên
bạn đồng hành với Chúa Kitô, để “sống cho Chúa,” trước khi “hành động cho Chúa.”
Có sống cho Chúa, mới có khả năng hành động cho Nước Thiên Chúa trị đến. Nói khác,
cần phải được Chúa thánh hóa, trước đi cùng Chúa thánh hóa hay công chính hóa
trần gian. Ngày xưa Abraham rời bỏ
quê cha đất tổ là Canđê theo tiêng Chúa gọi lên đường tới miền Ðất Hứa. Hôm
nay, nghe theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, chính người thu thuế Mathêu đã bỏ mọi
sự vì Nước Trời. Thiết tưởng nếu khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu chỉ nhắm làm
cho con người hạnh phúc trên đời, đáng lý Chúa phải để Mathêu làm việc và khuyên
ông nên cư xử tử tế với mọi người đến nộp thuế. Trái lại, Chúa Giêsu lại nói với
ông : “Hãy theo tôi !” Thế nghĩa là, “hãy bỏ mọi sự mà gắn bó với một mình tôi
!” Ông sẽ phải bỏ cái gì trước tiên, nếu không phải là sự bất chính và tội lỗi
? Sống trong guồng máy bất công lâu năm, hẳn ông đã thấy được tất cả những sự bất
chính của xã hội và con người. Nhờ thế, một khi gắn bó với Chúa, ông có đủ kinh
nghiệm để đưa mọi người vào con đường công chính. Chính vì những người bất
chính, Chúa đã đến trần gian. Mặc dù vô tội, Chúa đã chấp nhận đứng vào hàng ngũ
các tội nhân, để gánh chịu hình phạt kinh hoàng nhất. Người không muốn ai phải
chết, nhưng muốn chúng ta thống hối và sống trong sự công chính chân thật. Nếu
Mathêu đứng dậy và từ bỏ nghề thu thuế, chính vì sau khi sống một cuộc sống quá
vô nghĩa và vô cảm, ông cần đến tình yêu
của Chúa Giêsu, một tình yêu chỉ biết quên mình để phục vụ ! Thà theo Chúa làm
người tôi tớ để cứu mọi người hơn làm đầu ngành thu thuế để áp bức và bóc lột
thiên hạ. Nhờ noi thương gương khiêm tốn của Chúa, các tông đồ đã chinh phục được
cả thế giới. LÒNG NHÂN TỪ Theo gương các tông đồ,
Giáo Hội đi «làm cho xã hội phong phú và thấm nhiễm Tin Mừng. Chính vì lý do
đó, Giáo hội chú tâm tới phẩm chất đạo đức của đời sống xã hội. Cùng với chính
trị, kinh tế, lao động, luật pháp, văn hóa , xã hội không phải thuần túy chỉ là
một thực tại trần tục, và do đó nằm ngoài hay xa lạ với sứ điệp và nhiệm cục cứu
độ. Thực vậy, cùng với tất cả những gì đã hoàn thành, xã hội liên hệ tới con
người. Xã hội được tạo lập nhờ những con người, tức là những ‘con đường đầu tiên
và nền tảng của Giáo hội’.»[2] Ði vào con đường đầu tiên ấy, Giáo hội mới khám
phá ra những nét kỳ diệu Thần Khí thực hiện nơi các dân tộc, chuẩn bị đón nhận
Tin Mừng cứu độ. Chân lý đã gieo mầm từ lâu trong cuộc sống và tâm hồn con người. Từ đó, công lý đã vươn
lên. Môn đệ đích thực của Chúa
Kitô phải khám phá và đáp trả lại khát vọng lớn lao đó. Không có công lý, cũng
chẳng có tự do và hòa bình. Quả thật, Chúa đã uỷ thác cho Giáo hội “làm xuất hiện
trong lịch sử nhân loại sứ điệp tự do và ơn cứu độ của Chúa Kitô, đó là Tin Mừng
về Nước Thiên Chúa. Khi công bố Tin Mừng, Giáo hội ‘làm chứng cho con người,
trong danh Chúa Kitô, cho phẩm giá và ơn gọi, tạo sự hiệp thông giữa con người.
Giáo hội dạy cho họ biết những đòi hỏi của công lý và hòa bình, phù hợp với sự
khôn ngoan Thiên Chúa.’”[3]
Như Ðức Kitô đã kéo
Mathêu ra khỏi cơ chế bất công, người môn đệ cũng phải đem ơn giải thoát và nâng
tội nhân lên địa vị con Thiên Chúa. Khi thực hiện công cuộc cứu độ đó, họ không
đơn độc. Trái lại, “Thiên Chúa hằng ngự giữa loài người” (x. Kh 21:3) và “Thày ở
cùng anh em mọi ngày”(Mt 28:20) để giúp họ “làm cho thế giới ngày càng nhân bản
hơn. Bởi đó, dù là nam hay nữ, họ đều tìm được ơn hỗ trợ từ tình yêu cứu độ của
Chúa Kitô.”[4] Hơn lúc nào, trước một
nhân loại quá đông đúc và phức tạp hôm nay, người môn đệ cần nhiều ơn hỗ trợ đó
mới có thể rao giảng Tin Mừng và hoàn thành sứ mệnh cứu độ. “Chính Thần Khí Thiên
Chúa sẽ đem đến chân lý và ân sủng cũng như thấu nhập tận con tim để làm cho họ
có khả năng tư tưởng và ước muốn thực hiện những kế hoạch về tình yêu, công lý,
tự do và hòa bình. Như thế, Phúc âm hóa lãnh vực xã hội là truyền vào con tim
nhân loại ý lực và tự do của Tin Mừng, để thăng tiến xã hội cho xứng đáng với
con người và xã hội phù hợp với Ðức Kitô. Nghĩa là, xây dựng một thành trì nhân
loại ngày càng nhân bản hơn, vì ngày càng phù hợp với Nước Thiên Chúa hơn.”[5] |
Làm sao có thể thực hiện
một công việc vĩ đại đó ? Thưa, cần dồn mọi nỗ lực “bước theo Chúa Kitô,” để
loan truyền Tin Mừng với bất cứ giá nào. Quả thế, Chúa nói : “Trước tiên, Tin
Mừng phải được rao giảng cho mọi dân tộc.” (Mc 13:10) Công cuộc rao giảng Tin Mừng
phải là ưu tiên số một. Ðược Chúa gọi vào làm việc trên cánh đồng của Chúa, người
môn đệ có sứ mệnh “Phúc âm hóa nhân loại.” (x. Mt 9:37-38)[6]
Nhưng đâu là điều quan
trọng nhất trong Tin Mừng cần được rao giảng ? Chúa dứt khoát trả lời : "Ta
muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế.” (Mt 9:13) Hơn ai hết, Mathêu cảm thấu lòng
nhân của Chúa lớn lao tới mức nào trong con người và cuộc đời mình. Bởi đó, sau
khi được kêu gọi, ông sẽ hiến cả cuộc đời rao giảng về lòng nhân của Chúa. Cộng
đoàn Mathêu chắc chắn thấy rõ chứng từ đó nơi ông và cùng ông làm chứng cho mọi
người biết Thiên Chúa đầy lòng nhân từ. Quả thế, từ Cựu ước,
Thiên Chúa đã quả quyết : “Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được
các ngươi nhận biết hơn là được của
lễ toàn thiêu.” (Hs 6:6) Thực tế, có lẽ chúng ta làm ngược lại. Chúng ta còn
quá tin tưởng vào các nghi lễ, đến nỗi tưởng lễ nghi có thể làm được một cái gì
đặc biệt cho Chúa và thánh hóa thế gian. Không thể phủ nhận vai
trò quan trọng của nghi lễ. Nhưng nghi lễ chỉ thực sự hữu ích và có ý nghĩa khi
người ta đã hiểu biết về Ðấng họ tôn thờ. Nếu không, chỉ là những lời lẩm bẩm
vô nghĩa và là việc thờ phượng ngoài môi mép. Nếu có sự hiểu biết, việc thờ
phượng sẽ là nguồn lực nâng tâm hồn lên tới nơi cực thánh và đem lại niềm hy
vọng lớn lao cho cuộc đời. Nguồn lực đó sẽ chữa lành, cải biến và đem lại sự
sống cho muôn loài. Trong khi đó, nghi thức
có thể dễ dàng đóng khung và làm cho con người xa lạ với đồng loại. Từ đó khó có
liên đới với thế giới chung quanh. Ðó là lý do tại sao Chúa nói : “Mọi người sẽ
nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương
nhau.” (Ga 13:35) Chỉ có tình yêu mới là ngôn ngữ ai cũng hiểu được. Sở dĩ Tin
Mừng có thể đến với muôn dân, vì Tin Mừng là ngôn ngữ tình yêu. Ngôn ngữ tình yêu
này lên tiếng khi “các Kitô hữu làm chứng bằng một tinh thần phục vụ Tin Mừng
trong lãnh vực hoạt động xã hội”[7]
Chính trong môi trường xã hội, nếu sống và hành động như một người tôi tớ, họ sẽ
có đủ tư cách, năng lực và phương tiện để làm chứng cho Chúa. Nhờ Tin Mừng, họ
sẽ làm cho mọi người liên đới với nhau và do đó có trách nhiệm với nhau. Lòng nhân từ luôn mời gọi
và quy tụ con người. Trái lại, nghi thức có thể dễ dàng đóng khung và làm cho
con người xa lạ với đồng loại. Từ đó khó có liên đới với thế giới chung quanh. Ðó
là lý do tại sao Chúa nói : “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở
điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13:35) Tình yêu là ngôn ngữ quốc
tế. Sở dĩ Tin Mừng có thể đến với muôn dân, vì Tin Mừng là ngôn ngữ tình yêu.
Ngôn ngữ tình yêu này lên tiếng khi “các Kitô hữu làm chứng bằng một tinh thần
phục vụ Tin Mừng trong lãnh vực hoạt động xã hội”[8]
Chính trong môi trường xã hội, nếu sống và hành động như một người tôi tớ, họ sẽ
có đủ tư cách, năng lực và phương tiện để làm chứng cho Chúa. Nhờ Tin Mừng, họ
sẽ làm cho mọi người liên đới với nhau và do đó có trách nhiệm với người nghèo
khổ. KHẨN TRƯƠNG Trước tình trạng kinh tế
khủng hoảng hôm nay, Giáo hội có thể làm gì ? Trong thông điệp gởi Tổ Chức Lương
Nông Quốc Tế (FAO), ÐGH Bênêđictô XVI nhìn nhận vai trò của những tiến bộ trong ngành canh nông làm gia tăng lương
thực. ÐGH nhấn mạnh ”nghèo đói và suy dinh dưỡng không phải là một định mệnh
không thể tránh được do nghịch cảnh và thiên tai gây ra. Đàng khác, những khía
cạnh thuần túy kỹ thuật hoặc kinh tế không được trổi vượt hơn nghĩa vụ công
bằng đối với những người đang chịu đói. Quyền có lương thực tương ứng với một
động lực luân lý đạo đức, đó là ‘hãy cho kẻ đói ăn’ (Mt 25,35), động lực này
thúc đẩy chia sẻ những của cải vất chất, như một dấu chỉ tình thương mà tất cả chúng
ta đều cần đến. Quyền có lương thực là một quyền chủ yếu, gắn liền với việc bảo
vệ và bênh đỡ sự sống con người, và là đá tảng vững chắc không thể vi phạm, làm
nền móng cho toàn thể tòa nhà nhân quyền.” ĐTC cũng nhắc nhở rằng sự gia tăng
sản xuất nông nghiệp trên thế giới chỉ hữu hiệu nếu có kèm theo sự phân phối
thực sự các sản phẩm ấy, và nhắm thỏa mãn trước tiên các nhu cầu thiết yếu của
con người.”[9] Nhưng làm sao có thể bắt người ta liên đới với
người nghèo trong việc phân phối lương thực, nếu không có động lực tinh thần thúc
đẩy ? Ðộng lực đó chính là lòng
nhân của Thiên Chúa. Nếu ai cũng có “lòng nhân” như Thiên Chúa, chắc chắn không
ai chết đói. Chỉ Thần Khí mới có thể gợi lên “lòng nhân” đó qua Tin Mừng. Bởi
thế, theo ÐGH Bênêđictô XVI, Phúc Âm hóa là nhiệm vụ khẩn thiết, vì sẽ giúp bảo
vệ nhân quyền. Công cuộc Phúc Âm hóa rất
quan trọng vì sẽ phục hồi nhân phẩm như được dựng nên theo hình ảnh Thiên
Chúa.[10]
Chính nơi hình ảnh này, con người mới thấy được mối giây liên đới với tha nhân.
Muốn phát triển, không
thể coi thường mối liên đới đó. Quả thực, ÐGH Bênêđictô XVI nói “có thể phát
triển nhịp nhàng, nếu trong những quyết định về kinh tế và chính trị, người ta
quan tâm tới những nguyên tắc căn bản liên quan tới mọi người, đặc biệt, nguyên
tắc bổ sung và liên đới.”[11]
Những nguyên tắc này sẽ giúp chúng ta đạt tới công ích và mưu ích cho những người
nghèo khổ nhất. Tóm lại, khi được Chúa
kêu gọi, Mathêu đã dứt khoát từ bỏ tất cả. Tiếng gọi đầy sức quyến rũ vì đã đụng
tới miền sâu kín nhất của con tim. Ông cảm thấu lòng nhân từ của Chúa. Ông hy
sinh tất cả để loan báo và làm chứng cho mọi người biết Thiên Chúa là Ðấng nhân
từ. Có cảm nhận và kinh nghiệm về lòng nhân từ của Chúa, con người mới thấy mình
liên đới với anh chị em. Từ đó, mới có thể chia sẻ và hỗ trợ nhau. Ðó là lý do
tại sao hôm nay khi nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi, chúng ta cần phải lên đường để
cùng với Chúa cứu giúp mọi người đang mắc kẹt trong những cơ chế bất công và ích
kỷ. Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã kêu gọi chúng con làm Kitô hữu. Xin
cho chúng con nhận biết lòng Chúa nhân từ để chúng con có thể sống liên đới với anh em và phục vụ mọi
người, nhất là những người đau khổ nhất. Amen. đỗ lực, 08.06.2008 |
[2] Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội, 62.
[3] ibid., 63.
[4] ibid., 60.
[5] Ibid., 63.
[6] Ibid., 259.
[7] Ibid., 525.
[8] Ibid., 525.