HIỆP NHẤT DÂN CHÚA
(Mt 16:13-19)
Ðể mở đầu Năm Thánh
Phaolô, ÐGH Bênêđictô XVI cho phép mừng trọng thể Lễ thánh Phêrô và Phaolô vào
Chúa Nhật 29.06.2008. Ðó là một ngoại lệ. Cuộc đời phi thường của hai vị đã làm
cho Giáo Hội thành dấu chỉ hiệp nhất nhân loại. Nhờ niềm tin vào Chúa Giêsu
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, các ngài đã liều thân truyền giáo và làm chứng
cho Chúa. Sự nghiệp lẫy lừng đó
vẫn còn ảnh hưởng đến toàn thể Kitô giáo tới nay. Ðâu là bài học các ngài để
lại cho chúng ta ? Phải chăng các ngài đã góp phần xây dựng một khuôn mẫu Nước
Trời cho trần gian ? SAO SÁNG GIỮA ÐÊM ÐEN Tại địa danh Xêdarê
Philipphê năm xưa, ông Phêrô đã tuyên xưng Ðức Kitô là Con Thiên Chúa hằng
sống. Lời tuyên tín này nằm ngay trung tâm Tin Mừng Mathêu. Lời mạc khải của
Chúa Cha là nền tảng tất cả niềm tin của Giáo Hội sơ khai nơi Chúa Giêsu Kitô.
Mạc khải đó cho thấy tình phụ tử giữa Chúa Cha và Chúa Giêsu (x. Mt 11:25;
14:33). Từ trong mối tương quan sâu xa này, Chúa Giêsu đem tất cả sức mạnh tình
yêu giải thoát toàn thể nhân loại. Chúa Kitô muốn Hội
thánh là mầu nhiệm tình yêu suốt dòng lịch sử, một lịch sử hoàn thành trong mầu
nhiệm Vượt qua. Chúa Giêsu không truyền Phêrô xây dựng một Hội Thánh đồng nhất,
nhưng hiệp nhất trong đức tin duy nhất vào Chúa Kitô là đá tảng, Các tông đồ
chỉ là những viên đá. Hội Thánh không được xây dựng từ một viên đá, nhưng từ
nhiều viên đá hợp lại bằng một chất xi măng là đức ái. Giáo hội không phải là
một thứ tổ hợp các phần tử giống nhau hoàn toàn. Giáo hội hiệp nhất bằng tình yêu
trao đổi và đối thoại. Do đó, dù cùng hiệp thông trong một đức tin duy nhất, họ
có nhiều cách làm môn đệ và tông đồ của Chúa Kitô. Hiệp nhất trong tình
yêu là sống với mạc khải về Chúa Kitô trong thân phận con người. Mạc khải duy
nhất về Chúa Kitô cho chúng ta biết Người là “Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt
16:16) Chúa Cha muốn Người đến thiết lập Nước Thiên Chúa trên trần gian, một
trần gian quá nhiều khác biệt và đầy dẫy bất công. Sống giữa một trần gian như
thế, Chúa Giêsu đã lớn tiếng kêu gọi mọi người thức tỉnh : “Trước hết, hãy tìm
Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người !” Ðó là chiều hướng hoạt động của
Chúa và những ai theo Người. Theo chiều hướng đó,
mỗi người còn có thể thấy những khía cạnh khác nhau, và bởi đấy có những cách
đáp ứng không giống nhau, miễn là vẫn trung thành và trung kiên theo ơn gọi.
Bởi vậy, không nên đòi những người rao truyền lời Chúa một sự toàn hảo mà chính
chúng ta cũng không thể làm được. Cần sống với sự đa dạng của ân sủng. Sự đa
dạng này là nguồn phong phú trong một bản hợp tấu, theo lối nói của Giáo Hội
Ðông Phương. Không chấp nhận sự đa
dạng đó, người ta không thể đối thoại với nhau và có thể tạo ra những bất công
cho anh em. Hậu quả, Giáo Hội bị suy yếu hay mất khả năng làm chứng cho Chúa
Kitô. Nên nhớ Giáo hội được khai sinh và hiện thực trong việc tuyên xưng đức
tin duy nhất vào Chúa Kitô. Hai thánh Phêrô và
Phaolô Giáo hội kính nhớ hôm nay nêu gương gì cho chúng ta về phương diện này
? Là chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô,
thánh Phêrô cũng là một con người “cụ thể,” ít học, đôi khi nóng nảy, dễ chao
đảo, đến nỗi đã chối Thày. Nhưng ông có thể nói thật về tình yêu của mình :
“Thày biết mọi sự. Thày biết rõ con yêu mến Thày.” Bởi vậy, ông đã được trao
chìa khóa Nước Trời và đã được Chúa đích thân chọn để dẫn đưa rất nhiều người
Do thái vào Giao ước ân sủng mới. Còn thánh Phaolô là một
người đã được giáo dục theo Lề Luật, luôn tỉnh thức và năng động. Trên đường
Damas, ông đã say mê khám phá ra Chúa Kitô. Trên đường truyền giáo, ông không
thể chấp nhận người thanh niên Mátcô và đã tách lìa Banabê, dù đã được ông này
tìm kiếm ở Tarsô để giới thiệu với cộng đoàn tông đồ (Cv 11:25 và 15:39). Dù khác nhau nhiều mặt,
nhưng thánh Phêrô và Phaolô đều được Chúa Kitô kêu gọi làm môn đệ và tông đồ
rao giảng Tin Mừng cũng như thiết lập Nước Chúa. Thiên Chúa chọn những người
yếu đuối để làm cho những người khỏe mạnh phải bẽ mặt. Rất nhiều lần Chúa bất
ngờ can thiệp vào cuộc đời của một số người, hầu thực hiện một cuộc sám hối. Nhờ
thay đổi hoàn toàn, họ đã đề cao hành động của Thiên Chúa trong trần gian. Cả hai vị đại thánh đã
đón nhận những hồng ân bổ túc cho nhau. Nhờ
Thủ Lãnh các Tông đồ là thánh Phêrô, Giáo hội hiệp nhất tới ngày nay.
Thánh Phaolô, vị Tông Ðồ Dân Ngoại, là Thừa sai đầu tiên và vĩ đại nhất trong Giáo
Hội. Cả hai đã chứng tỏ quyền năng cứu độ của Chúa lớn lao tới mức nào khi
thiết lập và hiệp nhất Giáo Hội. CỘNG ÐỒNG TÌNH YÊU Chia sẻ chung một niềm
xác tín, hai thánh Phêrô và Phaolô đã xây dựng thành công những cộng đoàn chứng
nhân. Cả hai đều đón nhận được một mạc khải lớn lao về Chúa Giêsu Kitô. Chúa đã
trực tiếp xác nhận lời tuyên xưng của
Phêrô về bản tính Người do Chúa Cha mạc khải "Này anh Si-môn con ông
Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh
điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.”(x. Mt 16:17) Riêng thánh
Phaolô quả quyết : “Người (Thiên Chúa) đã đoái thương mạc khải Con của Người
cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại.” (Gl
1:15-16) Ai cũng rõ thánh Phêrô
và Phaolô là những con người yếu đuối. Tại sao Chúa lại mạc khải chân lý tuyệt
vời đó cho những phàm nhân như thế ? Thực ra, phải nhờ Ðức Giêsu Kitô, các ngài
mới có thể làm cho Giáo Hội hiệp nhất và phát triển khắp hoàn cầu. Tuy cá tính và đường
lối khác biệt, nhưng các ngài hoạt động rất nhịp nhàng với nhau. Khi các phần
tử càng gắn bó với nhau, Giáo Hội càng trở nên dấu chỉ và bí tích hiệp nhất
nhân loại trong Chúa Kitô. Ngày nay, Giáo hội chỉ có thể là dấu chỉ hữu hiệu
nếu vẫn còn xây dựng vững chắc trên đức tin vào “Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên
Chúa hằng sống.” Nhờ niềm tin đó, Giáo
Hội có thể đem lại niềm hy vọng cho nhân loại. Thực vậy, “chia sẻ niềm vui và
hy vọng, ưu sầu và lo lắng của nhân loại, Giáo Hội có mặt với mọi người mọi
thời mọi nơi, để đem đến cho họ Tin Mừng Nước Thiên Chúa trong Ðức Giêsu Kitô,
Ðấng đã đến và đang tiếp tục hiện diện giữa họ. Giữa nhân loại và thế giới,
Giáo Hội là bí tích của tình yêu Thiên Chúa và, bởi đó, của niềm hy vọng tuyệt
vời. Nhờ đó, cuộc giải phóng và tiến bộ của nhân loại mới có thể thực sự được
bảo đảm và cam kết thực hiện trọn vẹn. Giáo hội hiện diện giữa nhân loại như
nơi gặp gỡ Thiên Chúa, ‘nơi Thiên Chúa cư ngụ giữa loài người,’ (x. Kh 21:3)
đến nỗi con người không còn cô đơn, lạc loài hay sợ hãi khi nỗ lực làm cho thế
giới ngày càng nhân bản hơn. Bởi đó dù là nam hay nữ, con người đều tìm được sự
hỗ trợ trong tình yêu cứu độ của Chúa Kitô. Với tư cách là người phục vụ ơn cứu
độ, Giáo hội không nằm trong chiều kích trừu tượng hay thuần túy thiêng liêng,
nhưng trong bối cảnh lịch sử và thế giới con người đang sống. Nơi đây, nhân
loại gặp gỡ tình yêu Thiên Chúa và được kêu gọi cộng tác vào chương trình Thiên
Chúa.”[1] |
Ý thức sâu xa về ơn gọi
của mình, hai thánh Phêrô và Phaolô đã cống hiến cho nhân loại một niềm hy vọng
đích thực là Chúa Kitô. Hai cột trụ đã làm cho tòa nhà Giáo Hội thành nơi Thiên
Chúa cư ngụ và gặp gỡ nhân loại. Mỗi người một cách, nhưng hai vị đã nỗ lực làm
cho Giáo Hội thành một dấu chỉ hữu hiệu cho tương lai. Ðàm đạo với Phêrô tại
miền quê Galilê đầy thù nghịch, và hiện ra với Phaolô trên nẻo đường cát bụi
Syria, Chúa Giêsu đã khiến hai ông nắm được sự thật Tin Mừng và làm cho thế
giới dân ngoại im tiếng. Các ngài đã nhanh chóng, say mê và can đảm rao giảng
Chúa Phục sinh đến nỗi đã đổ máu tại Roma. Các ngài đã cống hiến cho Giáo Hội
một sức sống vô biên, đó là Chúa Kitô Phục sinh. Làm thế, các ngài
“không chỉ mong đạt tới con người trong xã hội, nhưng còn đem Tin Mừng phong
phú hóa và thẩm nhập vào chính xã hội. Giáo Hội chú ý tới phẩm chất đạo đức của
đời sống xã hội, tức những phương diện nhân bản và nhân bản hóa đích thực. Cùng
với sinh hoạt chính trị, kinh tế, lao động, luật pháp, văn hóa, xã hội không
chỉ là thực tại trần tục và thế gian, bởi đó, đứng ngoài hay xa lạ với sứ điệp
và nhiệm cục cứu độ. Thực vậy, với tất cả những thành tựu đạt được, xã hội có
liên quan tới con người. Xã hội do con người tạo thành. Con người là ‘con đường
quan trọng và cơ bản mở ra cho Giáo Hội’”[2]
gặp gỡ Chúa Kitô để xây dựng Nước Chúa trên trần gian. Nhưng con người không
phải là phương tiện cho Giáo Hội thao túng theo mục tiêu riêng. Trái lại, trên
trần gian con người luôn là đối tượng Giáo Hội phải phục vụ. Có thế, Giáo Hội
mới có thể trở thành nơi con người gặp gỡ nhau trong Thiên Chúa. ÐẠI ÐOÀN KẾT HAY HIỆP NHẤT Nhờ các cuộc gặp gỡ ấy,
hai thánh Phêrô và Phaolô đã quy tụ được nhân loại thành một gia đình nhờ niềm
tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Chân lý và tình yêu là những phương tiện chính yếu
giúp các ngài hiệp nhất được lòng người. Ngày nay, cũng nhắm mục
đích hiệp nhất hay đại đoàn kết dân tộc, nhưng người cộng sản đã dùng phương
tiện nào ? Nhìn vào xã hội Việt Nam và lắng nghe giọng điệu của người lãnh đạo
chính phủ Việt Nam, người ta mới thấy họ đã dùng những phương tiện trái ngược với
chân lý và tình yêu để mong hiệp nhất hay đại đoàn kết dân tộc. Có thể đạt được
mục đích không ? Tự bản chất, những lời nói dối và hành vi tàn bạo chỉ gây chia
rẽ và hận thù, chứ không thể hiệp nhất hay đại đoàn kết dân tộc. Trong cuộc thăm viếng
và vận động các doanh gia tại Houston, Texas tuần qua, Thủ tướng Chính phủ
Nguyễn Tấn Dũng đã đưa ra những nhận định và hoài vọng. Ông nói : "Đất
nước đã trải qua nhiều đau thương. Nếu không có ngoại bang, làm sao lại có sự
chia cắt bên này, bên kia? Làm sao 3,2 triệu người Việt Nam phải sống li hương
ở nước ngoài? Nguyên nhân ra đi có nhiều, nhưng lớn nhất chính là chiến tranh
loạn lạc."[3]
Thực tế, lúc chiến
tranh, có ai chạy ra nước ngoài đâu ? Chỉ lúc ngưng tiếng súng, vì quá sợ “dép
râu dẵm nát đời tuổi trẻ,” nên bà con mới bồng bế nhau vượt biên mà thôi. Tại
sao không nhìn vào chính mình để thấy rõ bản chất man rợ, tàn ác là nguyên nhân
làm cho bà con phải xa rời quê hương ? Sự thật rành rành như
thế mà không nhìn ra, hy vọng gì ông nhìn ra những điều khác ?! Ðã thế, ông còn
lên giọng khuyên : “Chúng ta hãy cùng gác lại quá khứ, nhìn vào mục tiêu
chung này để chung sức xây dựng đất nước."[4]
Quá khứ nào ? Những vụ
dân oan, tham nhũng, buôn bán phụ nữ, bắt bớ, đàn áp tôn giáo, báo chí, đối lập
v.v. là những vấn đề quá khứ hay hiện tại ? Ông Thủ tướng nhai đi nhai lại
những luận điệu cũ rích, chẳng thuyết phục nổi ai. Ông và phe đảng ông chỉ muốn
nghe chính mình, phớt lờ ước vọng dân tộc và thực tế phũ phàng. Ông muốn “đại đoàn kết
dân tộc với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.”[5]
Nhưng cái cần nhất là tự do và nhân quyền, sao không dám nhắc tới ? Tự bản chất
những lời nói của ông chỉ chỉ có một chiều, không mở ra được. Vậy làm sao gọi
là “đại đoàn kết dân tộc” ? Ông còn nói : "Khi vào Nhà Trắng hội đàm với
Tổng thống Bush, tôi nghe một nhóm, dù nhỏ, kiều bào hô đả đảo Thủ tướng mà
thấy buồn. Tôi nghĩ chưa hẳn họ thù ghét gì cá nhân Thủ tướng, mà chỉ là sự mặc
cảm với quá khứ và sự thiếu thông tin về tình hình Việt Nam."[6] Ông buồn vì không quen
nghe những tiếng “đả đảo” tại Việt Nam. Ai dám hô như thế trước một cơ chế đàn
áp sắt máu của ông ? Bao giờ dám nghe tiếng phản đối trên quê hương, ông sẽ
không phải nghe những tiếng chói tai đó ở hải ngoại nữa. Ðồng bào hải ngoại đã nói thay cho những
người bị áp bức ở quê nhà. Ðó là những đòi hỏi cho quyền lợi hiện tại của những người ruột thịt
đang bị chế độ ông cướp quyền làm người. Ông cố giải thích thái
độ chống đối của đồng bào hải ngoại vì thiếu thông tin. Làm sao ông biết họ thiếu thông tin ? Những
cảnh đàn áp luật sư, sinh viên, dân oan, công nhân, đối lập diễn ra hằng ngày
ai chẳng biết ? Nếu có thiếu thông tin, chỉ vì chế độ ông bắt các nhà báo phải
đi lề bên phải. Mới đây ông còn bỏ tù hai nhà báo Tuổi Trẻ và Thanh Niên vì đã
tố cáo những gộc tham nhũng trong hàng ngũ đảng cộng sản của ông. Thông tin như
vậy đã đủ để đánh giá về chế độ của ông chưa ? Ðó là chưa kể một nền kinh tế
thị trường do ông điều hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa nát như tương đang
đe dọa giật sập chế độ của ông … Cộng thêm với những
tiếng hô đả đảo, cả một rừng cờ vàng ba sọc đỏ đã khiến ông cảm thấy buồn. Bao
lâu còn phủ nhận thực tế và giải thích một chiều theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, người ta sẽ không thể nhìn ra sự thật.
Không có sự thật, không thể được giải thoát. Muốn tìm thấy sự thật, cần
phải đối thoại và tôn trọng tha nhân. Nếu chỉ nghe mình mà thôi, không thể hiệp
nhất hay đại đoàn kết dân tộc như ông Thủ tướng mơ ước đâu ! Ngày xưa, nếu không
nhìn nhận quyền dân ngoại gia nhập Hội Thánh và không sớm dứt bỏ phép cắt bì,
làm sao các tông đồ có thể cứu vãn và hiệp nhất Giáo Hội sơ khai ? Nhưng sở dĩ
Giáo hội có thể bền vững vì đã xây trên niềm tin duy nhất vào Ðức Giêsu Kitô,
Con Thiên Chúa hằng sống. Ðó là mạc khải lớn lao nhất giúp các ông Phêrô và
Phaolô can đảm dấn thân rao giảng Tin Mừng cho muôn dân và làm chứng cho Chúa
tới mức hy sinh mạng sống. Dù khác biệt nhau về đường hướng hoạt động và đối
tượng phục vụ, hai ông đã thành công vẻ vang, vì đã xây Giáo Hội trên nền tảng
duy nhất là Chúa Giêsu Kitô. Ðó là mầu nhiệm hiệp nhất Giáo Hội và muôn dân. Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã thương quan phòng cho hai thánh
Phêrô và Phaolô xuất hiện đồng thời để xây dựng Giáo Hội và làm chứng cho Chúa.
Xin Chúa ban cho chúng con thấm nhuần chân lý và tình yêu như các ngài, hầu có thể hiệp nhất muôn dân
trong Nước Chúa. Amen. đỗ lực 29.06.2008 |
[1] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội Của Giáo Hội, 60.
[2] ibid., 62.
[4] ibid.
[5] Ibid.
[6] Ibid.