Có thể nói, chứng lý mạnh
nhất mà những người chủ trương vô thần dựa vào đó để phủ nhận hiện hữu của
Thiên Chúa, là đau khổ và sự dữ. Họ dựa
vào hai phẩm tính của Thiên Chúa: Toàn năng và yêu thương, mà “lên án tử” cho Ngài.
Thật vậy, một Thiên Chúa toàn năng không thể để cho đau khổ và sự dữ tồn tại
trên trần gian. Lại nữa, một Thiên Chúa yêu thương không thể dửng dưng với số
phận nghiệt ngã của con người…Những luận chứng như thế càng làm con người xa rời
Đạo giáo và không giúp con người lớn lên và được giải thoát. Chúng ta không đi
sâu vào những cuộc tranh luận về mặt trí thức vì như thế không dẫn đến đức tin.
Nhưng chính khi chấp nhận đảm nhiệm cuộc sống mình cách tích cực và tinh thần đức
tin, chúng ta dễ dàng khám phá ra trong từng khoảnh khắc sướng khổ của phận người
có sự hiện diện sống động và tràn đầy của Thiên Chúa.
Toàn năng
Có nhiều người cho rằng:
Thiên Chúa toàn năng có thể làm được mọi sự. Nếu hiểu như thế, Thiên Chúa không
toàn năng. Vì Ngài chỉ có thể hành động phù hợp theo bản tính Thiện của mình.
Như thế, Ngài không thể là nguyên nhân của sự dữ. Và sự dữ đến từ một nguồn
khác, mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta câu trả lời: kẻ chủ mưu chính là Satan.
Vấn đề đặt ra: Một Thiên
Chúa toàn năng sao không ngăn chặn mưu đồ làm điều ác ? Có chứ ! Tùy trường hợp.
Chúng ta có thể nhận ra sự can thiệp của Ngài trong cú ngã ngựa của thánh
Phaolô. Chúng ta thử tưởng tượng khi được chứng thư của các nhà lãnh đạo Do
thái, ông hầm hầm sát khí, lên đường tìm các Kitô hữu để bách hại, bắt tù…tắt một
lời, ông gây đau khổ, bấn loạn cho các kitô hữu. Mưu ác không thành. Ông bị
Chúa quật ngã xuống đất… và sau đó, ông nhận được một sứ vụ mới.
Một điều hết sức kỳ diệu
là: qua cú ngã ngựa ấy, Chúa không cướp đi sự tự do của ông. Nhưng đây chỉ là
“cú phanh” kịp thời giúp ông phản tỉnh lại về những mưu tính của mình không đẹp
ý Thiên Chúa (mà sau này trong một lá thư, ông thú nhận là lúc đó bản thân hành
động vì thiếu hiểu biết). Nếu trước kia, ông nhiệt tình bảo vệ Đạo Giáo đến nỗi
bách hại những ai đi ngược với truyền thống cha ông thì bây giờ, ông lại nhiệt
thành gấp bội để loán báo Tin Mừng về Đức Kitô chịu chết và phục sinh đem lại
ơn cứu độ cho mọi người. Phân tích cụ thể và minh bạch như thế không ngoài mục
đích giúp chúng ta nhận ra vai trò của Thiên Chúa trong lịch sử loài người, đó
là Ngài tác động trực tiếp và gián tiếp đến đời sống con người, nhất là bảo vệ
con người khỏi tai họa, khổ đau. Đây chỉ là một trong những minh chứng được
Kinh Thánh tường thuật; còn biết bao điều lạ lùng kỳ diệu mà Thiên Chúa đã thi
thố trong cuộc đời của các chứng nhân hy vọng. Sau những đau thương của cuộc đời,
chúng ta phải xác tín chân lý này, Thiên Chúa làm chủ lịch sử; Ngài quan phòng
cho mọi sự đạt đến cứu cánh tốt đẹp nhất. Chúng ta dễ bị cám dỗ mà nghĩ rằng:
sao Thiên Chúa không can thiệp vào những đau thương của cuộc đời tôi ? Ngẫm
nghĩ trong từng khoảnh khắc cuộc sống, chúng ta có thể nhận ra “ánh sáng” ở cuối
con đường. Rằng: Thiên Chúa vẫn có đó khi tôi tưởng chừng mình đang cô đơn.
Tôi cũng nghĩ đến các
thánh cũng như những người đạo đức được diễm phúc in 5 dấu thánh. Đọc nhật ký của
họ viết, họ phải trải qua những cơn đau đớn khủng khiếp, đồng thời, những khổ
tâm do những hiểu lầm của người đời…họ là một người “đau khổ”. Bạn thử hỏi 5 dấu
thánh ấy đến từ đâu ? Khoa học không thể lý giải những trường hợp ngoại thường
này. Do đức tin và lòng đạo đức, chúng ta bảo rằng Thiên Chúa thưởng công và
ghi dấu ấn tình yêu trên những người thánh thiện. Như thế, đau khổ hay phần thưởng
chỉ là do cái nhìn chủ quan của con người. Vấn đề là chúng ta cần khám phá ra sự
hiện diện yêu thương của Ngài trong từng biến cố của cuộc đời. Và luôn xác tín
như thánh Augustinô: Thiên Chúa rút từ sự dữ ra sự lành. Thiết tưởng, đó mới là
dấu chứng của Thiên Chúa toàn năng.
Tình yêu
Có thể nói, ý chí tự do
là một trong những nét đẹp được nhiều người dùng để giải thích về chân lý này: con người dựng nên giống hình ảnh Thiên
Chúa. Thật vậy, nhờ tự do, con người có thể chọn Thiên Chúa để sống thân mật
với Ngài như một mối liên hệ quan trọng nhất trong đời; cũng nhờ tự do, con người
có thể sống dấn thân với tất cả tình yêu hầu đi đến với Thiên Chúa là tình yêu.
Thiết tưởng, đó là ý định tốt lành của Thiên Chúa; đó là cứu cánh của tự do con
người. Nhưng thực tế cho thấy, phần lớn con người đã lạm dụng tự do để sống
buông thả, hưởng thụ quá độ, chà đạp nhân phẩm, xúc phạm nhân quyền…tắt một lời,
con người tự do làm khổ nhau. Với sự toàn năng của Thiên Chúa, chắc hẳn, Người
biết và lường trước những hệ lụy con người gây ra cho nhau. Như thế, Ngài có chịu
trách nhiệm phần nào trong những việc này chăng ?
Nếu xét về mặt luân lý,
Ngài chẳng làm điều gì ác nên tội để phải chịu trách nhiệm về nó. Hơn nữa,
Thiên Chúa không chịu chi phối bởi luật luân lý dưới bất cứ hình thức nào. Bởi
đó, Ngài hoàn toàn không chịu trách nhiệm trong tội ác của con người tạo nên.
Còn nếu xét trong tương quan giữa Đấng Tạo Hóa và các tạo vật, Thiên Chúa chịu
“trách nhiệm” gián tiếp trong khi ban cho con người tự do và biết trước rằng con người có thể lạm dụng
tự do và làm điều xấu. Trong khi Thiên Chúa ban tự do cho con người như việc
Ngài cho con người thông chia tính toàn năng của Thiên Chúa thì họ lại làm dụng
đi ngược với ý định của Ngài. Thế rồi, Thiên Chúa đã chịu trách nhiệm trong tình liên đới với tội lỗi con người. Điều
này đã được thánh Phaolô diễn tả tuyệt vời qua câu nói: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện
thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2
Cr 5,21). Chính khi Đức Giêsu chết vì tội lỗi chúng ta mà Người đã chịu trách
nhiệm và chữa lành những vết thương do con người lạm dụng tự do gây nên. Như thế,
việc một số người cho rằng Thiên Chúa đã dửng dưng trước đau khổ của con người
là một sai lầm. Thiên Chúa không can thiệp vào lịch sử nhân loại theo ý muốn của
con người. Đức Giêsu chẳng xuống thập giá vì một lời thách thức của con người.
Dần dà, chúng ta sẽ nhận ra cách hành động của Thiên Chúa: thay vì Ngài rút lại
hay ngăn chặn hành động tự do của con người, thì Ngài lại hóa giải từ sự dữ ra
sự lành. Thiết tưởng, đó là cách tốt nhất để Thiên Chúa mặc khải Ngài là Đấng
toàn năng đầy yêu thương.
Người đồng hành
Chúng ta đã từng nghe câu
chuyện về giấc mơ của một chàng thanh niên. Mỗi ngày chàng đi dạo bộ với Chúa
Giêsu trên bãi biển rất êm ả và bình yên. Chàng thích thú vì những dấu chân
song hành như hai người bạn. Đến một ngày sóng to gió lớn, chàng lại chỉ thấy
có một dấu chân. Trong hoảng hốt và sợ hãi, chàng hỏi Chúa đi đâu lúc cuộc đời
đầy biến động. Chúa trả lời: “Chính những
lúc ấy Ta đang bồng bế con trên tay”. Kinh nghiệm của chàng thanh niên này
là một bài học khích lệ chúng ta tin tưởng và phó thác vào tình thương Chúa. Quả
thật, Người vẫn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường cuộc sống.
Trong những lúc chúng ta bị
hiểu lầm, chối từ, cô lập…thiết tưởng, việc đồng hóa mình vào những nhân vật
trong các sách Tin Mừng sẽ là một lợi khí giúp ta dễ dàng vượt qua những đêm tối.
Một Madalena bị xã hội lên án, ruồng bỏ…lại được tiếp chuyện với Chúa. Một
Giakêu bị xếp vào hàng người bất chính, lại được Chúa đồng bàn ăn uống…Những mảnh
đời đau khổ luôn tìm được nguồn nâng đỡ nơi Chúa Giêsu. Đôi khi, chúng ta chỉ cần
một câu lời Chúa như lời hứa về một tương lai bất định, làm ánh sáng hướng dẫn
bước ta đi. Những lúc chúng ta bị hiểu lầm, đặt điều, bôi nhọ, thì lời hứa: sự thật sẽ giải phóng các con, sẽ là một
cái neo bám chặt vào lòng Chúa yêu thương. Điều quan trọng là tránh nổi giận,
la lối thóa mạ, vì theo lời thánh Gioan Vianney: “Đau khổ trong an bình, sẽ chẳng còn đau khổ nữa”. Có thể nói, sự
bình an trong tâm hồn là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa giữa cơn biến động. Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến là
thế !
Xét cho cùng, chỉ trong
cơn khốn khó, người ta mới nhận ra đâu là “vàng thật”; chỉ những người xác tín
sự hiện diện của Chúa trong đời và chọn Chúa làm ý nghĩa của cuộc sống, mới khả
dĩ vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc đời.
Nạn nhân
Một người phụ nữ kia đang
đau lòng vì vừa mất đứa con 8 tuổi duy nhất của bà. Cái chết bất ngờ của người
con này đã làm tăng nỗi cô đơn trong bà. Trong nỗi tức giận, mê sảng, bà tìm đến
Cha xứ, bà hỏi: “Tại sao tôi có một đứa con duy nhất mà Chúa cũng cướp đi ?” Thấy
người đàn bà này quá bị kích động, vị linh mục liền nghĩ ra một cách giúp bà giải
tỏa, ngài đề nghị: “Đây, tôi gởi bà một cuốn tập, bà hãy tưởng tượng ra Chúa
đang có mặt ở đây trước mặt bà và hãy viết những gì bà cần nói”. Và rồi, như một
cơ hội bà trút hết sự tức giận lên một vị Thiên Chúa tưởng tượng. Nỗi đau quá lớn
khiến bà trở thành một kẻ khát máu; bà không chỉ phỉ nhổ, chưởi rủa Ngài mà còn
muốn treo Ngài lên cao giữa trời và đất…Lát sau, bà đã thấm mệt và thiếp đi lúc
nào không biết. Vị linh mục vào, bà liền tỉnh dậy và trao lại cuốn tập đã viết
với những dòng chữ đầy “máu và lửa”. Đọc xong, vị linh mục nói: “Thế là bà đã
giết Thiên Chúa một lần nữa. Phần Ngài, Ngài nói với bà điều gì, bà biết không
?” Bà đáp: “Thưa, không”. Vị linh mục nói: “Chúa bảo rằng xin Cha tha cho bà vì
bà không biết việc bà làm”.
Tha cho kẻ muốn giết mình
đó là cách thể hiện tình yêu của Thiên Chúa. Chết thay và cứu chuộc cho kẻ giết
mình là cách thể hiện tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Chúng ta có thể hỏi
Ngài ở đâu trong lúc tôi gặp đau khổ. Ngài là nạn nhân trong kẻ xấu số là bạn. Ngài trở nên bất
lực với người bất lực nhưng không tuyệt vọng. Ngài đã chấp nhận để bạn treo
Ngài lên thập giá vì tôn trọng tự do của bạn. Chúa muốn bạn dùng tự do để yêu mến
Ngài nhưng bạn đã dùng tự do để giết Chúa. Ngài toàn năng nhưng không rút lại tự
do của bạn. Ngài không hối hận khi ban tự do cho bạn. Ngài đợi chờ bạn chính
nơi bạn đã giết Ngài. Núi Sọ phải trở thành điểm hẹn thường xuyên của bạn khi
đang đối diện với những đau khổ hay bất công đời này. Không ai đau khổ hơn Ngài
vì bị người yêu phản bội. Không ai chịu bất công như Ngài dù vốn là người vô tội.
Bạn có sẵn sàng chấp nhận khổ giá cùng với Đức Kitô để được phục sinh với Người
không ? Đó là thách đố và đồng thời là một hồng ân trong cuộc biến đổi. Chúng
ta chỉ thực sự biến đổi và trưởng thành trong đau thương. Chúng ta chỉ trở nên
vững mạnh sau những lần gục ngã thảm thương. Sau những lần như thế, bạn sẽ ngộ
ra thân phận bất lực của con người khi đứng trước đau khổ. Đồng thời, sống phó
thác vào Đấng rút từ sự dữ ra sự lành cho những ai yêu mến Ngài.
Tóm
lại, chúng ta đã trình bày Thiên Chúa toàn năng và Tình Yêu như một minh giải
cho vấn đề đau khổ mà những người vô thần đã dùng để khước từ và phủ nhận sự hiện
hữu của Thiên Chúa. Bởi đó, việc suy tư và đào sâu trong lãnh vực này sẽ giúp
chúng ta có một hướng nhìn đúng đắn và thích hợp theo nhãn quan Kitô giáo.
Chúng ta cần tái khẳng định rằng đau khổ là một huyền nhiệm, nó gắn liền với cuộc
hiện sinh của con người. Thế nên, chúng ta sẽ không có một câu trả lời thỏa
đáng mà chỉ là những kinh nghiệm bản thân hết sức chủ quan. Xét cho cùng, chỉ
có đau khổ của Đức Kitô mới đích thực là mô phạm của mọi người. Vì khi chiêm ngắm
Người trên Thánh Giá, chúng ta nhận ra hình ảnh bản thân. Dần dà, chúng ta nhận
ra Người là Đấng rất gần gũi, đang đồng hành và là nạn nhân cùng chịu đau khổ với
ta; và nói như thi sĩ Paul Claudel: “Đức
Kitô đến không phải để hủy bỏ cũng không phải để giải thích đau khổ, nhưng làm
cho đau khổ đầy tràn hiện hữu của Người”.
Cuối
cùng, Đức Giêsu đã là ý nghĩa cuộc đời tôi khi Người hiện diện với tôi trong mọi
khoảnh khắc cuộc đời, nhất là trong lúc đau khổ, tưởng chừng như bế tắt và
buông xuôi. Người là hy vọng duy nhất cuộc đời tôi.
Tác giả EYMARD An Mai Đỗ, O.Cist.