Cha Đắc Lộ Từ Trần

AMÉ CHEZAUD, S.J.

NHÀ THỪA SAI

ALEXANDRE DE RHODES, S.J.

TỪ TRẦN 5.11.1660

Lễ giỗ thứ 339: 5.11.1999

ĐỖ QUANG CHÍNH, S.J. Phiên dịch và chú thích

LỜI MỞ ĐẦU

Từ nửa thế kỷ nay, rất nhiều sách báo viết về Alexandre de Rhodes: khen có chỉ trích cũng có. Họ tìm  hiểu, giải thích từ nguồn gốc gia tộc ông đến những hoạt động truyền giáo, những cách “hội nhập văn hoá” và công trình chữ Quốc ngữ của ông. Tuy nhiên, hình như chưa ai công bố trên sách báo về những giờ phút cuối cùng cuộc đời ông dựa theo các tư liệu lịch sử.

May mắn cho chúng tôi, vì cách đây 30 năm, chúng tôi đã vô cùng sung sướng nhận được một tư liệu viết tay ngày 11.11.1660 do Amé Chezaud tường thuật về cái chết của ông. Ame Chézaud, như bạn đọc sẽ thấy dưới đây, người sống cùng một nhà, cùng ăn một mâm, cùng hoạt động truyền giáo với Alexandre de Rhodes tại Ispahan, thủ đô Ba Tư thời đó; hơn nữa, Chezaud còn ở bên cạnh Rhodes trong suốt cơn bệnh cuối cùng, vào chính giờ phút Rhodes tắt thở và tổ chức lễ an táng cho ông.

Tư liệu này Chezaud viết đúng 6 ngày sau khi Rhodes nhắm mắt lìa đời, nên có thể tin vào những gì ông thuật lại là có thật. Bạn đọc sẽ thấy sau đây cách diễn tả của Chezaud, người bạn của kẻ qua đời, có thể dặt vào bản tường thuật những tình cảm và lối suy diễn của riêng ông.

Dù sao đi nữa, thiết tưởng đây cũng là một tư liệu đáng trân trọng đối với những người quan tâm nghiên cứu về Alexandre de Rhodes. Riêng chúng tôi, sau khi được đọc tư liệu này, chúng tôi có được cách nhìn rộng rãi hơn về nhà truyền giáo số 1 ở Việt Nam thế kỷ 17, về người đã đóng góp rất nhiều cho công trình sáng tạo chữ Quốc ngữ, hơn nữa là người cho xuất bản 3 sách chữ Quốc ngữ đầu tiên. Bởi những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn giới thiệu cùng bạn đọc.

Đỗ Quang Chính, S.J.

I- Alexandre de Rhodes, ông là ai?

Tuy bạn đọc đều biết Alexandre de Rhodes là ai, có liên hệ gì với Giáo hội và xã hội Việt Nam, nhưng thiết tưởng cũng nên nhắc lại cuộc đời của ông trên vài trang giấy, sau đó mới bàn đến những ngày cuối đời của ông trên dương thế. Cũng xin bạn đọc lưu ý: Trong tập này chúng tôi xin viết đúng tên Alexandre de Rhodes, hoặc viết ngắn gọn là Rhodes, nhưng không dùng tên Đắc Lộ .. là tên người ta mới “đặt” cho ông từ ngày 29.5.1941.

1. Thanh thiếu niên một nơi, thành nhân một chốn

Gốc gác Do Thái hay Pháp, Tây Ban Nha? Trước đây, người ta cho rằng Rhodes thuộc dòng dõi Do Thái, từ lâu đời có mặt tại Tây Ban Nha, xứ Aragon, miền Calatayud. Bốn năm gần đây, một linh mục Xuân Bích người Pháp, Michel Barnouin (tên Việt là Sơn) công bố một tài liệu về dòng họ Alexandre de Rhodes, nhận định rằng, không có dấu chỉ Rhodes thuộc dòng dõi Do Thái như người ta tưởng (de RHODES ne laisse percevoir aucun véritable indice dejudaïté) . Hãy cứ tạm nhận cho Rhodes có nguồn gốc Do Thái, vì vậy Cụ Tổ của ông ở Tây Ban Nha bị trục xuất cùng với 300.000 người Do Thái trong đợt 31.3.1492 vì Chính quyền nước này kỳ thị người Do Thái . Bỏ Calatayud đi đâu? Cụ Tổ củaAlexandre, Jean Chimenes de Roedes (ghi trong bản di chúc năm 1497 bằng tên này), tức Jean de Rhodes, phải khăn gói chạy về Avignon, nơi gặp gỡ, hội tụ cho nhiều dân tộc, ngôn ngữ; đó là thành phố đã được Toà thánh Roma mua lại trước đó 144 năm. Từ đấy Avignon là đất của Toà thánh; chỉ đến năm 1791, Avignon mới trở thành đất của Pháp hoàn toàn.

Sinh 15.3.1593, thuộc giáo xứ thánh Madalena tại Avignon (từ năm 1960, Torralba chứng minh năm sinh 1591 của A. de Rhodes là sai), A. de Rhodes cũng như những người trong gia đình sinh sống tại Avignon, là công dân dưới quyền Đức Thánh Cha, mang quốc tịch Tòa thánh, mặc dù ông nói tiếng Provençale và tiếng Pháp. Thân sinh của Alexandre là Bernardin II de Rhodes, một quan chức giàu có, mang tước vị Ecuyer d’Avigiion, kết hôn với Françoise de Raphaelis ngày 10.9.1590; anh của ông là Jean (1591-1621), Tiến sĩ Luật học; em trai là Georges (1597-1661) tu trong Dòng Tên, nhiều năm làm Giáo sư Thần học; ngoài ra còn 5 em ruột nữa: Gabrielle, Laure, Suzanne, François, và em út là Hélène sinh năm 1607 .

Bảy tuổi, Alexandre cắp sách đến trường TrungTiểu học Avignon dưới quyền điều khiển của các linh mục Dòng Tên (College d’Avignon), theo học trường này từ năm 1600-1612. Theo chương trình học (Ratio Studiorum) của Dòng Tên được chính thức thi hành từ 8.1.1599, gồm 3 Cấp:

Tiểu hoc tức Cấp 1 (Petit Collège) tính từ dưới di lên gồm các lớp 5, 4, 3, 2, 1, tuổi từ 7-13: Các lớp Tiểu học 5, 4, 3 học ngữ pháp La văn, Hi Lạp, tập nói và viết cho đúng; về La văn theo Cicero, còn Hi Lạp theo các tác giả Ovide, Catulle, Tibulle, Properce, Virgile. Lớp 2 (Humanités), tuổi 10 và 11, nhằm trau dồi văn chương, thi văn La ngữ, Hi Lạp; về La văn theo các tác giả César, Tite-Live, Quinte-Curce, Horace, còn về Hi Lạp theo Esope, thánh Chrysostome, các thư của Platon, Synésios, và Iliade của Aristophane. Lớp 1 (Rhétorique), tuổi 12 và 13, nhằm trau chuốt văn chương Hi-La trong khi nói cũng như viết, đồng thời học Sử Điạ, Luân lý tổng quát; về La văn theo Cicero (Partitiones, De orạtore V.V.); về Hi Lạp theo Quintilien, Tite-Live, Hésiode, Homère, Pindare -Démosthène. Bậc Tiểu học có khi thêm lớp 6, cũng vào lứa 7 tuổi.

Trung hoc: tức là cấp 2 (Moyen College, Cycle des Arts), tuổi từ 14-16; bắt đầu học Triết trong hai môn Siêu hình học và Luận lý học theo Aristote và Platon; về Khoa học gồm Vật lý, Vạn vật học, Thiên văn, Toán học theo các tác phẩm của Aristote, Euclide, Sacro Bosco, Oronce Fine, các lý thuyết về các hành tinh của Peurbach, lượng giác học của Regiomontanus (cũng gọi là Johann Muller). Trong bậc này, các tu sĩ Dòng Tên (nếukhấn tạm độ tuổi này) học 3 năm, học sinh giáo dân 2 năm.

Việc lên lớp ở Tiểu và Trung học không theo năm học, nhưng theo khả năng.

Cao đẳng, hay Cấp 3 (Grand Collège), đây là cấp Đại học, phải học đủ 4 năm chuyên về Thần học. Thường là do một Ban Giám đốc riêng biệt điều khiển, trường cũng được đặt xa hai trường Trung Tiểu học; còn Trung Tiểu học thường có một Ban Giám đốc chung .

Vậy, Rhodes học ở Collège d’Avignon được hiểu là Trung Tiểu học, từ năm 1600-1612, tức 12 năm, lúc đó Rhodes được 19 tuổi. Nhờ học với các cha Dòng Tên, nên ơn gọi tu Dòng Tên của Rhodes được định hình dễ dàng hơn. Nhưng Rhodes lại không xin gia nhập Dòng Tên tại Lyon, nơi có Nhà Tập, ngay phía Bắc Avignon; trái lại cậu thanh niên lại cất công đến Roma để xin vào Nhà Tập tại đây. Ngôi Nhà Tập mang thánh hiệu Anrê này, đã cung cấp cho Dòng Tên bao nhiêu nhân vật lỗi lạc về nhiều mặt.

Tại sao phải sang tận Roma? – Chẳng phải vì ham cái Roma cổ kính, nhưng chỉ vì khi gia nhập Tỉnh Dòng Tên Roma, sẽ dễ dàng được vua Bồ Đào Nha chấp thuận cho ông đi truyền giáo ởxứ Mặt trời hơn, là xứ cũng thuộc quyền vua Bồ Đào Nha theo chế dộ bảo trợ (padoado Portugués).

Chính thức vào Nhà Tập ngày 14.4.1612, tuổi 19;hai năm sau, theo Hiến pháp Dòng Tên, Rhodes được khấn lần đầu ngày 15.4.1614. Tuy mới chỉ là “con nít ” xét về thời gian tu trì, ấy vậy mà đã “cả gan” trong chính ngày khấn lần đầu, viết đơn chỉ gồm 20 dòng chữ bằng Ý văn, xin cha Bề trên Cả Claudius Aquaviva cho đi truyền giáo nơi xa xôi. Chưa được như ý thầy, thế là thầy Rhodes của chúng ta bắt đầu năm thứ nhất Thần học tại Collège Romain, chứ chẳng phải ở Áo Môn hay ởGoa (nếu đươc chấp thuận cho di truyền giáo ở Đông Á hay Nam Á). Thử “thời vận” một lần nữa xem thế nào: ngày 15.5.1617, cuối năm Thần học thứ ba, Rhiồdes viết một đơn khác bằng La văn chứ không bằng Ý văn như đơn viết năm 1614, nhưng vắn hơn hai dòng chữ, đệ lên Cha Bề trên Cả Mutio Vitelleschi. Lần này Rhodes ghi rõ: nhất là từ hai năm nay, con cảm thấy được lôi cuốn bởi lòng ao ước lớn lao vì phần rỗi người Nhật, Trung Hoa hay bất cứ người lương dân nào. vẫn bặt vô âm tín! Cha Bề trên Cả chẳng nói chẳng rằng. Đánh bạo một phen nữa: vào mùa thu 1617, tức là khoảng tháng 10, đầu năm Thần học thứ bốn của Rhodes, thầy phóng tay viết một hơi 67 dòng chữ bằng La văn trên hai trang giấy khổ lớn như khổ giấy A4 ngày nay. Lời lẽ rất tha thiết, ý tưởng vững chắc, thật mạnh mẽ hùng hồn! Mấy dòng cuối lá đơn, thầy càng như muốn “lên giọng” thuyết phục Cha Bề trên Cả hơn, khi đem ra những lý do có tính cách tôn giáo, học vấn, sức khỏe và xã hội chính trị: con chẳng nghĩ tưởng rằng sinh quán của con có thể gây trở ngại hơn cho việc con đến vùng Ấn Độ;vì con là người Avignon, nên con là công dân của Đức Thánh Cha, concũng có sức khoẻ, và con đang bắt đầu vào tuổi 25, con đang theo Thần học năm thứ bốn. Chờ đợi. Cứ đợi chờ và cầu nguyện!

Rhodes vừa thụ phong linh mục xong, thì, đùng một cái, chính trong ngày lễ Phục sinh năm 1618, Cha Bề trên Cả Vitelleschi gọi vị tân linh mục nhà ta sang Trụ sở của Ngài, nói cho biết Ngài chấp thuận cho đi Nhật Bản truyền bá Tin Mừng như ý nguyện. Vui quá là vui! Từ đây, Rhodes dành ra 6 tháng liền chăm chú học Toán học và Thiên văn như khi miệt mài theo khoa Thần học, hầu đi thu phục nhân tâm làm cho người ta nhận biết Thiên Chúa.

2. Đông – Tây xa cách mọi mặt

Các nhà truyền giáo thời ấy muốn đi từ châu Âu qua Đông Á, trừ Philippin, thường phải theo ngả Lisbõa, để từ đó tàu vua Bồ sẽ chở đi. Cuối tháng 1.1619 Rhodes tới thủ dô Lisbõa, sau khi rời bỏ Roma từ cuối nãm 1618, ghé qua Avignon thăm gia đình. Ngày 4.4.1619 nhà truyền giáo lên tàu từ thủ đô Bồ Đào Nha, tới hải cảng Goa 9.10.1619. Vì xứ Anh đào đang cấm đạo nghiêm ngặt, bề trên Dòng Tên ở Goa tạm giữ ông lại hơn 2 năm trời, mãi đến 22.4.1622 Rhodes mới lên tàu từ Goa, tới Malacca 28.7.1622, nhưng rồi phải đến ngày 29.5.1623 Rhodes mới có mặt tại Áo Môn, chờ đi Nhật Bản. Tại đây, cũng như ở Goa từ 1619-1622, dù Rhodes chưa chính thức hoạt động truyền giáo, nhưng đã tỏ ra là nhà thừa sai năng động, nhiệt tình, dám nói dám làm, đặc biệt trong phương diện hội nhập văn hoá.

3. Còn hơn cả những gì mong đợi

Cuộc cấm đạo ở Nhật do Tướng quân Phong Thần Tú Cát khởi đầu từ 1587, rồi đến Tướng quân Đức Xuyên Tú Trung năm 1614, làm cho Giáo hội non trẻ ở đây tàn lụi dần. Giữa lúc ấy thì ở Đàng Trong xem ra việc truyền bá Tin Mừng khá thành công; do đó bề trên Dòng Tên ở Áo Môn gửi Rhodes đến xứ Chúa Nguyễn Phước Nguyên thời ấy. Thế là cuối năm 1624 Rhodes có mặt tại Thành Chiêm (Thanh Chiêm, Kẻ Chăm) cách Hội An về phiá Tây chừng 4km, để học tiếng Việt với linh mục Francisco de Pina, một tu sĩ Dòng Tên đầu tiên thời điểm ấy thông thạo tiếng Việt nhất. Xem ra từ cuối năm 1624 đến tháng 6.1626, Rhodes được bề trên cho ở Đàng Trong với mục đích chính là học tiếng Việt và làm quen dần với con người và xã hội Việt, để rồi tung ông ra Đàng Ngoài. Vì vậy, theo các tài liệu của Rhodes, thì hơn một năm ở xứ Trầm hương Yến sào, Rhodes chỉ có một lần theo Francisco de Pina ra Huế, khi Pina làm bí tích rửa tội cho bà Minh Đức Vương thái phi vào năm 1625. Cũng chẳng thấy Rhodes nói đến các công việc khác.

Để chuẩn bị cho sứ vụ ở Đàng Ngoài, Rhodes phải về Áo Môn đã, không thể trực tiếp từ xứ Chúa Nguyễn vào xứ của Chúa Trịnh được, vì hai nhà cầm quyền đang thù nghịch nhau dữ dội.

Tháng 6.1626, Rhodes cùng với linh mục Pedro Marques bỏ Đàng Trong về Áo Môn chờ gió mùa sang năm sẽ vào đất Chúa Trịnh. Vâng, ngày 12.3.1627, Rhodes và Marques lên tàu từ Áo Môn, chỉ một tuần sau, ngày 19.3.1627, tàu tới bờ biển Cửa Bạng tại Thanh Hoá. Lắm sáng kiến, lại nói tiếng Việt ngon lành, Rhodes đã chinh phục lòng người ở vùng Cửa Bạng khá dễ dàng. Chẳng thế mà chỉ trong 2 tuần ở đây, ông đã làm cho 32 người tin vào Đức Kitô. Tại An Vực và Vân No, tức tỉnh lỵ Thanh Hoá ngày nay, dù chỉ ở tạm chừng 2 tháng, cũng có đến 200 người được rửa tội. Ngày 2.7.1627, hai nhà thừa sai đượctận mắt nhìn thấy Thăng Long, kinh thành ngàn năm văn vật. Lúc đầu các ông được Chúa Trịnh Tráng rất quý mến, ra lệnh dựng nhà cho hai ông ở (có lẽ sát với đền Bà Kiệu cạnh hồ Hoàn Kiếm). Nhờ đó, uy tín hai ông càng lớn. Chẳng những giới bình dân mà cả giới trí thức, quan lại và một số vị Sư ở Cầu Giấy cũng đến với Rhodes, người được gọi là Tiến sĩ Tây phương. Nhưng chỉ mấy tháng sau, người ta phao tin hai ông Tiến sĩ Tây phương là gián điệp của Chúa Nguyễn tung ra Đàng Ngoài, là kẻ làm. bùa phép (khi làm các bí tích), là kẻ phá hoại đất nước, thuần phong mỹ tục của xã hội, vì rao truyền đạo giáo mới lạ, kỳ cục, lại chỉ cho phép người ta được lấy có mỗi một vợ!

Thế là những chuỗi ngày “xui xẻo” ập đến: 28.5.1628 hai cha bị quản thúc tại chính ngôi nhà do Chúa Trịnh cung cấp; 10 tháng sau, 3.1629, hai vị bị Chúa Trịnh ra lệnh đưa xuống Bố Chính. Nhưng hai cha cứ từ từ lần mò lên tới Vinh, rồi cơ hội đến, hai cha theo tàu Bồ Đào Nha lại lên Thăng Long. Rốt cuộc, tháng 5.1630, hai cha bị Chúa Trịnh trục xuất hoàn toàn khỏi xứ.

Tuy ở Đàng Ngoài hơn 3 năm, nhưng tính ra chỉ hơn một năm đầu là được tự do. Vậy mà tổng cộng số người được rửa tội lên đến 5.602, chưa kể Rhodes đã lập được tu hội Thầy giảng, mà ba vị đầu tiên tuyên khấn đều là ba nhà Sư: Phanxicô Đức, Anrê Tri, Inhaxiô Nhuận.

Về Áo Môn, Rhodes “bị chỉ định” làm Giáo sư Thần học tại Học viện Madre de Deus, điều mà ông không cảm thấy thích thú, chỉ làm vì đức vâng phục. Trong 10 năm trời, 1630-1640, Rhodes ở Áo Môn làm “cái nghề” tay trái ấy, nhưng vẫn hoàn toàn đặt mình trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Đúng là ông giống như chiếc gậy trong tay cụ già.

4. Đùa với tử thần

Năm 1639 tất cả 6 Giêsu hữu bị chính quyền đuổi khỏi Đàng Trong. Với tình hình này, bề trên phải tìm một người trước dây dã quen thuộc với xã hội Đàng Trong để can đảm và mau lẹ ứng xử với mọi tình huống về mặt tôn giáo. Ai dây? Phải chọn Rhodes thôi, lúc này cha vừa dúng 47 tuổi.

Từ năm 1640-1645, Rhodes ở Đàng Trong, đôi khi có vài anh em đến trợ lực như cha Alberto và Mattos ở được vài tháng. Trong thực tế, Rhodes như “kẻ một mình một chợ” trong suốt thời gian trên, tha hồ mà sáng kiến, tha hồ mà chống chọi, tâm hồn thì rất an hòa thư thái, nhưng thân xác thì rong ruổi khắp Đàng Trong, khi trên bộ lúc dưới thuyền, sống chết lúc nào không hay. Hai lần bị bắt, một lần bị chính Chúa Nguyễn Phước Lan lên án tử hình, nhưng rồi nhờ có vị Thái sư can gián, nên đổi ra án trục xuất khỏi xứ sở, nếu còn đến Đàng Trong lần nữa sẽ bị tiền trảm hậu tấu.

Tổng cộng trong giai đoạn này, 4 lần đi về giữa Áo Môn – Đàng Trong thật là cực khổ; mỗi lần tạm rút lui khỏi Đàng Trong cũng có nghĩa như bị chính quyền hoàn toàn trục xuất khỏi đây. Thời gian những lần đi về:

tháng 2.1640 đến tháng 8.1640; tháng 12.1.640 đến tháng 7.1641; tháng 1.1642 đến tháng 7.1643; tháng 1.1644 đến tháng 7.1645.

5. Bao la mà vẫn chật chội

Rhodes phải rời bỏ Đàng Trong ngày 3.7.1645 (nơi khác Rhodes lại ghi là ngày 9.7.1645) , mang theo di tích thánh là sọ của thầy giảng Anrê Phú Yên tử đạo tại Gò Xử ở Thành Chiêm ngày 26.7.1644 chính Rhodes chứng nhân tận mắt. Từ đó trở đi không bao giờ Rhodes đến nước Đại Việt này nữa.

Theo lời yêu cầu của bề trên Dòng Tên ở Áo Môn, ngày 20.12.1645 Rhodes đáp tàu về Roma, dể trình bày với Bề trên Cả Dòng Tên về tình hình Tỉnh Dòng Nhật Bản, với Tòa thánh về thực trạng Giáo hội Việt Nam. Đường về Roma đốì với Rhodes còn nguy hiểm gian nan hơn cả những chuyến vượt biển trước đây, bởi vừa lâu dài, vừa bị người Hà Lan bắt giam gần 3 tháng ở Jakarta vì dám dâng Thánh Lễ ở đây là nơi do người Hà Lan theo đạo Tin Lành cai quản. Ngày 27.6.1649 mới “vác xác” về tới “Kinh thành muôn thuở” sau một cuộc hành trình 3 năm 6 tháng!

Bận việc quá! Tại Roma, nhà truyền giáo số 1 ở Việt Nam vừa phải lo xuất bản 5 cuốn sách để nói cho Giáo hội Âu châu biết về Giáo hội Việt, về thành quả chữ Quốc ngữ, lại phải vận động chạy ngược chạy xuôi, đến cả xứ Piémont, Thụy Sĩ để tìm mấy ứng viên Giám mục cho xứ Con Rồng Cháu Tiên theo ý Tòa thánh. In sách thì được rồi, nhưng chẳng ai muốn đi làm Giám mục ở nơi xa xôi hẻo lánh quá là khác lạ với châu Âu.

Được sự chấp thuận của Thánh Bộ Truyền giáo, Rhodes trở sang Pháp, đi tìm ứng viên Giám mục. Cuối năm 1652, Rhodes bỏ Roma về Lyon, lên Paris thực hiện cho được mục đích. May quá, trong nhóm Bạn Hiền (Bons Amis), ba linh mục trẻ có đủ khả năng, sẵn sàng đi làm Giám mục ở đất Việt. Nhưng, khôn thay, chính Đức Thánh Cha Innocens X lúc đó lại không muốn cho người Pháp giữ trọng trách này, còn vua Bồ Đào Nha thì cực lực phản đối, lại còn doạ, nếu Toà thánh cử người Pháp vào sứ vụ này, đế quốc rộng lớn Bồ Đào Nha sẽ không vâng phục Toà thánh nữa. Sợ! Đức Thánh Cha liền yêu cầu Cha Bề trên Cả Dòng Tên Goswinus Nickel chuyển Rhodes đi khỏi Pháp.

6. Mênh mông nước Ba Tư

Phải vâng lời Đức Thánh Cha ngay lập tức, không trì hoãn một giây. Cha Bề trên Cả thì đương nhiên rồi; còn Rhodes cũng thế, vì ông đã khấn trọng 4 lời Khấn trước năm 1635. Đức vâng phục của linh mục Dòng Tên này thật tuyệt vời,cha Amé Chezaud đã viết như thế trong bức thư đưa tin cha Rhodes qua đời. Cũng về đức vâng phục, Chezaud viết trong bức thư trên: Tôi không muốn nói đến đức vâng phục và khiêm tốn của cha, vì nếu có nói, tôi chi nói được cách mập mờ. Tuy nhiên, nếu ai muốn biết cảm nghĩ của tôi và của anh em chúng tôi về điểu đó thì chúng tôi đều đồng tâm nhất trí về điều này để nói rằng, cha thật tuyệt vời [… ]. Ai đã biếtcha nhờ sống với cha thì chẳng hồ nghi về điều này

[…]. Tôi chắc chắn rằng những ai trong anh em chúngtôi đã được cha cùng sống và cùng làm việc lầu dài, có thể còn nói nhiều chi tiết đặc biệt hơn về điều sau đây trong bản tường thuật này; điều đó lại chính là điềm cuối cùng cuộc đời cha, tỏ ra đâu là mấu chốt của mọi thứ dệt nên đời cha. Chưa bao giờ người ta thấy một tu sĩgiống như cây gậy của ông già như thấy cha trong tất cả cơn bệnh; cha nhẫn nhục, nhạy cảm hơn cả cây gậy, vì cha sẵn sàng ở tư thế như người ta muốn đến mức như cha còn có ý chí hơn cả cây gậy (Je ne veus pas parler de son obéissance, et humilité, aussi ne le scaurois ce faire qu’a ma confusion, si pourtant on en veut scauoir mon sentiment et celuy denoz freres nous nous accordons ence poinct de dire, quil a esté très excellent [… ]. Je masseure qz ceux des nostres parmi lesquels il a plus long temps demeure et trauaillé pourront bien dire de choses plus remarquables le subject de la pnte relaôn nest principalem que le dernier poinct de sa vie qui monstre bien quelle en a esté toute la tissure. Jamais on n’a veu un religieux plus semblable a vn baston d’un vieillard qz luy durant toute sa maladie patient coe sil neùst este plus sensible quun baston, prest a setenir en la posture quon vouloit coe sil neust eu plus de volonté quün baston).

Đưa cha Rhodes đi làm việc ở đâu bây giờ? Chẳng rõ cha G. Nickel có phải nát óc vì vụ này không. Chỉ biết, Bề trên Cả không trả Rhodes trở lại cho Tỉnh Dòng Tên Nhật Bản, lại cũng chẳng phái đi một nơi nào dễ dàng cho ông hơn, nhưng “tống ngay đi” một vùng chẳng mấy thuận tiện: BA TƯ! ôi, cái vương quốc huyền bí một ngàn một đêm lẻ!!! Toàn là Hồi giáo (Hiện nay nước Iran -trước đây gọi la Ba Tư- rộng 1.650.000 km2, dân số 56 triệu, nhưng chỉ có 13.000 người Công giáo, ngoài ra 93% theo Hồi giáo phái Si-it).

Đi Ba Tư, nhưng ở tại đâu? Thưa ở tại Ispahan (Asfahan), thủ đô của Ba Tư thời ấy, phía Nam Téhéranngày nay (Từ năm 1788, Ba Tư dời thủ đô từ Ispahan lên Téhéran).

Ngày 16.11.1654, Rhodes lên tàu từ cảng Marseille để tới Malte; lại lên tàu từ đảo Malte để đi Syria; ngày 11.12.1654 tới Seyde thuộc Syria; mừng lễ Chúa giáng sinh tại Thánh địa Palestine; mãi đến 1.11.1655, Rhodes mới đặt chân lên Ispahan. Thật ra, đối với con người xứ Avignon này, thì Ispahan cũng chẳng lạ lẫm gì, bởi vì trong chuyến đi từ Áo Môn về Roma, Rhodes đã ngừng tại Ispahan 2 tháng rưỡi kể từ ngày 13.4.1648 đến 28.6. Tại Ispahan có một cộng đoàn Dòng Tên, gồm Rhodes là bề trên và cha Chezaud cùng tu huynh Berthe.

Vương quốc Ba Tư rộng lớn mênh mông, nhưng đối với Rhodes cũng như các thừa sai khác (Augustinô, Capuxinô ) vẫn chật chội, bởi lẽ dân chúng toàn làHồi giáo, giảng đạo ai chịu nghe, làm sao cho người Hồi giáo chấp nhận Đức Giêsu Kitô chẳng những là ngôn sứ của Thiên Chúa mà còn là Thiên Chúa thât. Dù gì đi nữa nhà thừa sai của chúng ta cũng phải học tiếng Ba Tư đã.Sáu mươi hai tuổi rồi, dù Rhodes có tài về ngôn ngữ cũng chẳng phải như khi học tiếng Bồ, tiếng Việt, về vấn đề học ngôn ngữ Ba Tư, trong thư Rhodes gửi cho người em ruột là linh mục Dòng Tên Georges, ngày 20.5.1658: Từ khi anh đến ở xứ này, Chúa đã ban ơn cho anh học được tiếng Ba Tư, anh biết tạm đủ để giảng thuyết (Depuis que je suis en ce pays, Dieu m’a fait la grace d’apprendre la langue persienne).

Đọc bức thư của Amé Chezaud, chúng ta thấy cuộctruyền giảng Tin Mừng của Rhodes ở Ba Tư chẳng thu lượm được mấy kết quả:

Tính dịu dàng của cha [Rhod.es] đã làm cha luôn ứng xử như con chiên giữa bày sói, chịu đựng vui vẻ những lời lăng nhục, khinh bỉ và cả gạch đá, mà bây giờ tại đây người ta quen tiếp đón chúng tôi như thế, đáp lại phần thưởng đó là những lời như Sữa tốt lành ngọt ngào cùng lời chúc lành (Quant a ?a douceur, certes au milieu des Loups il sest bien icy tousiours comporté en brebis, supportant auec ioye, les maledictions, paroles de mespris et mesmes les coups de pierres, dont on prend maintenant icy coustume de nous accueìllir, donnant en recõpense du Laict de bonnes et douces paroles et de benedictions).

Để tỏ lòng nhiệt thành, cha di khắp các làng chung quanh tìm kiếm trẻ em bệnh hoạn, hy vọng rửa các em bằng Nước thanh tẩy khi các em gần sinh thì. Cha không sốt ruột dù thấy mình bị người Lương dân chế nhạo, cũng chẳng nản lòng bỏ cuộc kể cả đôi khi cảm thấy bị dội vì đã không thể diễn tả cho đúng trong tiếng Ba Tư; cha cũng chẳng bao giờ nản chí trong những dịp ích lợi cho phần rỗi người Lương dân, không sợ sệt, không e ngại chút nào, hơn nữa còn được thúc đẩy ước ao chịu chết bằng con đường đó. Đôi lúc xem ra cha nhiệt tình quá mức (nếu cha có thể vượt qua khỏi) đến nỗi cha nghĩ là mình đã chẳng mang lại kết quả ở đây như cha đã làm được ở các nước khác. Thật ra không hẳn là không có kết quả, cũng chẳng phải là cha nhụt nhuệ khí, nhưng chỉ do thiếu mầm mống vì không đượcchuẩn bị và kém sâu Lắng (Coe [Comme] pour contenter son zele il alloit chercher par les villages d’alentour des enfans malades dans lesperance de les lauer de Leau Lustrale, sil les trouuoit moribonds, il ne s’impatientoit pas de se voir mocque des infldelles, et lassé du chemin, et rebuté quelques fois pour ne pouuoir si bien sexpliquer en persien aux discours qu’il ne se lassoit iamais de faire dans les occasions aux Infîdelles pour leur salut, sans crainte ou appréhension aucune, voire poussé du désir de mourir par cette voye, par zele qui sembloit quelques fois aller à l’excez (sil y peut passer) tellement q [que] si bien il na pas icy apporté et faict du fruict coe [comme] il auoit fai et ailleurs, ce nest pas quil se soit épargné, ou q [que] son zele se soit rallenti, mais faute de matiere préparée et desposée).

Sánh với cuộc thành công của Rhodes ỗ Việt Nam trước đó, thì tại Ba Tư chẳng có là bao, nếu không nói là thất bại. Chẳng riêng gì Rhodes, mà các nhà thừa sai khác ở xứ này cũng thế thôi. Chính Rhodes chẳng ghi lại gì đáng kể trong 5 năm 4 ngày ông sống ở Ba Tư. Quá là chênh lệch giữa xứ một ngàn một đêm lẻ với xứ Con Rồng Cháu Tiên!

Ngày 5 tháng 11 năm 1660, Alexandre de Rhodes, nhà thừa sai của chúng ta qua đời tại Ispahan, thọ 67 tuổi.

Liền đây, chúng tôi xin trình bày bức thư của cha Amé Chezaud, thuật lại lúc cha Rhodes bệnh nặng rồi qua đời. Đó là mục đích của tập này.

THƯ BÁO TIN CHA ALEXANDRE DE RHODES QUA ĐỜI

Trong phần này, chúng tôi xin chia làm bốn mục:

• Vài điều cần lưu ý.

• Tờ thứ nhất của bức thư.

• Bức thư dịch sang tiếng Việt, từ nguyên bản Pháp ngữ.

• Nguyên bản Pháp ngữ (xin không đăng tải trong khuôn khổ bài này)

1. Vài diều cần lưu ý

Chính bức thư do cha Amé Chezaud viết trong 3 trang giấy khổ 20cm60 X 29cm50, chữ viết nhỏ li ti, văn dài lê thê, nhiều chỗ chấm câu không rõ ràng, lại là thứ tiếng Pháp thế kỷ 17. Chính vì vậy, khi phiên dịch sang tiếng Việt, chúng tôi không thể dịch theo nghĩa từng chữ; đàng khác cũng không thể chấm câu hoàn toàn như nguyên bản. Chắc chắn trong bản dịch này có nhiều khiếm khuyết, mong bạn đọc chỉ giáo.

2. Tờ thứ nhất của bức thư

Tờ thứ nhất của bức thư là tờ giấy trên đó viết mấy dòng chữ, đề tên, địa chỉ người nhận và tên cùng địa chỉ của người mà tác giả muốn nhờ ông chuyển cho người nhận thư. Chúng tôi tạm coi tờ giấy này như một bao thư, dù không mang hình thức bao thư, không dán kín. Sau đó sang tờ thứ hai trở đi mới chính thức là bức thư. Vậy chúng tôi xin mô tả chi tiết hơn mấy dòng chữ

tờ thứ nhất của của bức thư này.

Trên cùng trang giấy của tờ thứ nhất, có ba loại nét chữ khác nhau, chứng tỏ do ba người viết: Amé Chezaud và hai người khác.

a- Trước hết là nét chữ của chính tác giả bức thư, cha Amé Chezaud:

Gửi cha đáng kính Jacques Renault/Giám Tình Dòng Tên Pháp/ tại Parys.

(AMon Reuer. Pere/ Le p. Jacques Renault Pro=/ uincial de france de la Compagnie/ de JESUS/ a Parys).

Nhờ cha đáng kính Georges I de Rhodes cũng thuộc Dòng Tên/ tại Lyon

(Recomandee au R p. Georges/ de Rhodes de la mesme Compi/ a Lyon).

b- Tiếp đến là chữ của một người khác viêt bằng La ngữ, nhưng chúng tôi không biết của ai; chỉ phỏng đoán của người làm việc nhà Kho lưu trữ:

Cha Alessander de/ Rodes/ qua đời/ tại Aspan tháng 11 ! 1660

(Obiit/ p Alessander de/ Rodes Aspani nouẽ/ 1660).

c- Sau cùng nét chữ của người thứ ba, trên cùng trang giấy; chúng tôi cũng không biết do ai viết:

Thư này được viết do chính tay Cha Aymé Chezaud.

(Cette lettre esùescrite/ de la propre main/ du p. Aymé Chezaud).

Để bạn đọc hiểu biết rộng hơn, chúng tôi xin ghi lại tiểu sử hai nhân vật mà chúng tôi có tư liệu: AméChezaud và Georges de Rhodes:

Amé CHEZAUD (1604-1664); chính cha Chezaud ký tên Amé Chezaud trên bức thư cha viết tại Ispahan ngày 11.11.1660, đưa tin cha A. de Rhodes qua đời; có người lại viết tên cha là Aymé Chezaud: còn cha Joseph Déhergne viết là Aimé Chézaud. Cha Chezaud sinh năm 1604 tại Lyon; gia nhập Dòng Tên tại Avignon 22.9.1627; khấn trọng tại nhà thờ thánh Giacôbê của Dòng Tên tại Marseiile ngày 7,6.1637. Năm 1639 Chezaud đi truyền giáo tại Syria; năm 1652 cha lập cư sở (residentia) Dòng Tên tại Julfa gần Ispahan; khi cha Alexandre de Rhodes đến Ispahan làm bề trên cộng đoàn Dòng Tên ở đây, thì (có lẽ) chuyển cộng doàn ở Julfa vào Ispahan. Từ khi A. de Rhodes có mặt tại Ispahan, 1655, cho đến khi qua đời, 1660, Chezaud luôn ở với cha, trừ khoảng 11 tháng, 1658-1659, Chezaud theo lời yêu cầu của A. de Rhodes, đi đường bộ theo ngả Khorassan đến vùng Tartarie truyền giáo. Không thành công, Chezaud lại trở về Ispahan khoảng cuối năm 1659 đầu 1660. Chezaud qua đời tại Ispahan ngày 14.9.1664 (Joseph DÉHERGNE, Répertoire des Jésuites de Chine de 1552 à 1800, Roma – Paris, 1973, tr. 54).

Georges de RHODES (1597-1661), sinh tại Avignon 28.12.1597; là em ruột của cha Alexandre de Rhodes; gia nhập Dòng Tên tại Avignon 16.10.1613; qua đời tại Lyon 17.5.1661. Khác với anh mình là Alexandre, quãng đời của Georges quanh quẩn trong vùng Avignonvà Lyon. Có lẽ chưa bao giờ Georges ra khỏi nước Pháp, chứ đừng nói đến việc đi tới những miền đất xa lạ ở châu Á như Alexandre. Xem ra hoạt động của Georges tập trung vào việc dạy học nhiều hơn; vì trong gần 25 năm trời cha dạy học ở trường Trinité và Notre-Dame-du-Bon- Secours là hai trường của Dòng Tên tại Lyon. Các môn Georges giảng dạy: Nhân văn (Humanités): 3 năm; Văn chương (Rhétorique): 2 năm; Triết học: 6 năm; Tín lý: 11 năm; Luân lý: 2 năm. Những năm cuối cùng cuộc đời, Georges làm Viện trưởng Notre-Dame-du-Bon-Secours. Georges viết những bộ sách lớn bằng La ngữ, được ấn hành vào các năm 1661, 1664 và 1671:

DLsputationum Theologìae scholasticae in quibus Deus, angelus, homo, sex Tractatibus explicantur. Tomus prior, Lyon, 1661, in-fol., 692 tr.

Disputationum Theoỉogiae scỉioỉasticae in quibus Christus, Deipara, Sacramenta, sex Tractatibus explicantur. Tomus posterior, Lyon, 1664, in-fol., 680 tr.

Philosophia peripatetica, ad veram Aristotelis mentem. Libris quatuor digesta & disputata, pharus ad Theologiam scholasticam, Lyon, 1671, in-fol., 704 tr.

3. Bức thư phiên dịch sang tiếng Việt từ nguyên bản Pháp ngữ, kèm theo chú thích

Thư Luân lưu về Cha. A. de Rhodes qua đời

Thưa Cha dáng kính. Bình an của Đức Kitô . Xin báo tin cha-hay, cha Alexandre de Rhodes đã qua đời tại đây vào ngày 5 tháng mười một, sau một cơn bệnh lâu dài và lên xuống thất thường. Bởi vì bệnh sưng bụng làm cha yếu mệt hầu như trọn tháng chín, tiếp đến là bệnh nhức buốt tai hại làm cha đôi khi không dâng Thánh Lễ được (điều này còn gây đau đớn cho cha hơn là cơn bệnh). Tình trạng trên kéo dài đến giữa tháng mười, mà chẳng có phương thuốc nào giúp cha dễ chịu hơn. Từ đó cha phải nằm liệt giường, không còn dâng Thánh Lễ được, vì cha còn bị rơi vào một thứ bệnh rỉ máu mà như người ta xét đoán do ung nhọt trong ruột. Chứng rỉ máu hay xảy ra, đã chẳng cho cha nghỉ yên chút nào ngày cũng như đêm. Những cơn khó chịu ấy kèm theo sự chán ngấy, đúng hơn là ăn chẳng biết ngon, rồi đến đau lá lách. Người ta đã chữa cha bằng mọi thứ thuốc mà người ta đoán phải có lợi cho cha, nhưng tất cả những thứ bệnhấy chẳng chịu một loại thuốc nào. Rõ ràng là sức khỏe của cha rất tàn tạ, suy nhược. Tuy nhiên, nhờ tim cha còn tốt, nên ngay những ngày cuối cùng của cơn bệnh, chúng tôi thấy cha ít khỉ lên cơn sốt. Hy vọng những thứ bệnh đang –tấn công cha, sẽ không thể làm cha chết vào chiều thứ sáu 5 giờ trước khi cha tắt thở. Vì lúc đó dường như sức khỏe tốt hơn, nên cha dùng bữa theo thường lệ. Đến bốn hoặc 5 giờ sau, nhờ ơn Chúa, cha chịu các phép Bí tích, rồi linh hồn về với Chúa cách nhẹ nhàng và thánh thiện. Tôi muốn nói mà không thêm bớt chút nào, đó là cha đã kết thúc cuộc đời như ngọn nến tàn dần.

Theo tôi, đã từ lâu chẳng những cha ước ao, mà còn dự đoán và biết trước thời điểm định mệnh đó, Vì từ khi tu huynh George Berthe và tôi trở lại đây, đến nay được một năm, thì cha đã nói với chúng tôi, cha tin tưởng rằng Chúa đã cho phép chúng tôi trở về để giúp cha trong giờ chết, kẻ giúp về phần thiêng liêng, người về phần xác. Từ đó cha chuẩn bị chết bằng cuộc linh thao thường niên với một tâm hồn sốt sáng mới mẻ, đặc biệt cha xưng tội chung về cả cuộc sống cũng vì ý ấy. Do đó, cha dọn mình kỹ lưỡng và lâu dài; cha xét mình và viết ra cả những chi tiết cùng hoàn cảnh lầm lỗi bé nhỏ nhất. Bởi đấy cha chỉ có thể hoàn thành trong nhiều ngày, luôn luôn với sự xúc động bề trong cũng như bề ngoài khi ăn năn tội, một sự xúc động lâu dài như cuộc đời của cha; mỗi lần xưng tội là mỗi lần cha xúc động. Cha xưng tội hàng ngày theo thói quen bao nhiêu có thể, ít nhất từ khi cha có mặt ở đây [1655], Trong việc xưng tội, cha tìm ra chất liệu [tội] để xưng với một lương tâm kính sợ Chúa tới mức bối rối, coi là tội những thứ không phải là tội và cha dọn mình rất kỹ lưỡngnhư tôi được biết, vì trong 5 năm 4 ngày tôi đượchân hạnh làm người giải tội cho cha (trừ khoảng 11 tháng tôi vắng mặt).

Hầu hết và có thể nói là tất cả thư từ cha viết trong năm nay [1660] chứng tỏ khá rõ cha đã dự đoán cái chết gần kề; những ai nhận được thư cha viết trước khi phát cơn bệnh, đều có thể thấy điều đó.

Cha đã xin tôi cho cha biết khi cơn bệnh trở nên nguy kịch, nếu người ta doán được thực là nguy. Nhưng khi chúng tôi biết được thì chẳng còn thuốc nào chữa nổi.

Vào lúc hai giờ chiều, cha ngủ thiếp đi mà chúng tôi lại nghĩ là tốt, vì xem ra giấc ngủ khá êm đềm vàmạch của cha lại không giống với người chữa trị đã nhận định là mạch người sắp chết. Tuy thế tình trạng này kéo dài tới khi cha tắt thở tức là khoảng tám giờ sau .

Cha dâng Thánh Lễ cuối cùng ngày 24 tháng mười, sau đó phải liệt giường hoàn toàn và xưng tội cùng rước Mình Thánh Chúa nhiều lần. Chính cha ước ao được năng rước Mình Thánh, nhưng vì lòng cung kính lại không dám, bởi nghĩ mình chẳng xứng.

Bệnh rỉ máu hành hạ cha hầu như đêm ngày bất kể giờ giấc. Trạng thái yếu liệt cuối cùng này gây bất lợi cho chúng tôi và làm cho chúng tôi mất an ủi, vì chúng tôi hy vọng qua lời chúng tôi hứa với nhau, cha sẽ được đóng ấn cuộc đời bằng việc chịu phép Xức dầu bệnh nhân; nhưng cơn yếu liệt ấy đã cất khỏi cha không còn dịp tỏ lòng sốt sáng bằng việc lãnh nhận phép Xức dầu, diều mà cha đã xin từ trước.

Đó, cái chết đã xảy ra với cha vào tuổi ngoài lục tuần bắt đầu kể từ ngày tháng năm là lúc cha sinh tại Avignon; như thế người ta có thể nói cha là người của thế kỷ khác, do đời sống của cha gần với đời sống các Tông đồ hơn là vì số những năm cha sống.

Cha qua đời để lại cho chúng tôi nhiều nuối tiếc vàan ủi: Nuối tiếc vì mất cha, không những đối với chúng tôi, mà còn đối với biết bao vị thừa sai rải rác trong khắp vùng Trung Đông này (Leuaủt) là những nơi cha đã lay chuyển họ cách hữu hiệu và cha còn làm nhiều việc để chỉ đường dẫn lối cho họ, tỏ ra săn sóc họ bằng tâm tình người cha, cho họ lời khuyên và khuyến khích họ bằng lòng nhiệt tình của người cha; an ủi, vì người ta sẽ còn tưởng nhớ đến cha lâu dài, chẳng những nhờ một số thư từ rất xây dựng mà cha đã viết và soạn thảo do kiến thức của cha, mà còn nhờ các bản tường thuật và các tác phẩm cha đã biên soạn để xây dựng cho mọi người . Cho nên chẳng cần tôi phải viết lại cuộc đời của cha, vì chính cha đã làm khá nhiều cho người ta biết công trình của mình.

Nước Ý và nước Pháp là những nơi cha dã từ đó đến đây, tỏ ra tôn kính cũng như ngưỡng mộ cha và nhiều vị cao cấp ủng hộ cha . Danh giá mà tất cả mọi người dành cho cha nói chung cũng là vì người ta cho rằng cha có một đời sống thánh thiện. Quả thật tôi chưa thấy một ai rất đúng mực như cha trong tất cả mọi việc cha làm. Nếu viết về các nhân đức của cha, không biết phải bắt đầu từ nhân đức nào.

Xem ra nhân đức thứ nhất phải kể ra đây là cha luôn hãm mình phạt xác, vì mọi ngày cha đều đánh tội trừ ngày Chúa nhật và Lễ trọng; đó là thói quen cha hằng giữ cho đến cơn bệnh cuối cùng này. Trong tuần lễ, có mấy ngày cha cũng mang một dây ngang thắt lưng, bện bằng sợi arrhal có nhiều mũi nhọn, mà khi người ta tắm xác cha đã nhận ra nhiều dấu vết trên mình. Cha kiêng thịt mọi ngày, thường chỉ ăn rau hay thứ gì giống như vậy thay cho bữa tối.

Cùng với những hãm mình thể xác, cha còn nhiều hãm mình nội tâm; vì khi còn khỏe mạnh, ngày nào cha cũng thức dậy một giờ trước những người khác để cầu nguyện (ngoài thói quen cầu nguyện theo luật Dòng Tên).

Việc cha liên tục học hỏi đường thiêng liêng vẫn không ngăn trở cha học tiếng Ba Tư. Để tiếp tục học được ngôn ngữ này, cha vận dụng nhiều công sức như một chàng trai trẻ khỏe mạnh phải làm hết mình cho công việc đó. Muốn được tiến bộ, cha tập viết không biết mệt mỏi.

Lòng nhiệt tình của cha không phải chỉ đóng khung trong nước Ba Tư bao lâu cha còn có mặt tại đó, mà còn mở rộng ra khắp phương Đông. Vì vậy, dù cha chẳng đi tới vùng rộng lớn Tartarie được, nơi Dòng Tênchưa mở cuộc truyền giáo, cha lại cổ võ tôi đi tới đó, rồi phái một tu huynh [Georges Berthe] đi cùng với tôi, mà không giữ chúng tôi ở lại cùng cha. Việc truyền giáo ở đó không thành công (cũng do những bất toàn của tôi). Cha còn muốn mở cuộc truyền giáo cho người xứ Géorgie, nhưng đâu có người để gửi đi.

Tính dịu dàng của cha đã làm cha luôn luôn ứng xử như con chiên giữa đàn Sói, chịu đựng vui vẻ những lời lăng nhục, khinh bỉ và cả gạch đá, mà bây giờ tại đây người ta quen tiếp đón chúng tôi như thế; đáp lại phần thưởng đó là những lời như Sữa tốt lành ngọt ngào cùng lời chúc lành.

Để tỏ lòng nhiệt thành, cha đi khắp các làng chung quanh hầu tìm kiếm trẻ em bệnh hoạn, hy vọng rửa các em bằng Nước Thanh tẩy khi các em gần sinh thì. Cha không sốt ruột dù thấy mình bị người Lương dân chế nhạo, cũng chẳng nản lòng bỏ cuộc kể cả đôi khi cảm thấy bị dội vì đã không thể diễn tả cho đúng trong tiếng Ba Tư . Cha cũng chẳng bao giờ nản chí trongnhững dịp ích lợi cho phần rỗi người Lương dân; khồng sợ sệt, không e ngại chút nào, hơn nữa còn được thúc đẩy ước ao chịu chết bằng con đường đó. Đôi lúc xem ra cha nhiệt tình quá mức (nếu cha có thể vượt qua khỏi) đến nỗi cha nghĩ là mình đã chẳng mang lại kết quả ở đây như cha đã làm được ở các nước khác. Thật ra không hẳn là không có kết quả, cũng chẳng phải là cha nhụt nhuệ khí, nhưng chỉ do thiếu mầm mống vì không được chuẩn bị và kém sâu lắng.

Tất cả các Kitô hữu và nhiều Lương dân tỏ lòng rất kính phục cha, ngay cả những người không quen biết cha cũng thế, dù chỉ thấy cha khi đi ngang qua. Nhiều người coi cha như một vị Giám chức vì cha nghiêm trang, đĩnh đạc mà khiêm tốn. Những người khác lại gọi cha là nouroni, nghĩa là sáng rực hay đầy ánh sáng; có những kẻ gọi cha là thánh, vì ngưỡng mộ cha có tư cách thánh.

Tôi không muốn nói đến đức vâng phục và khiêm tốn của cha, vì nếu có nói tôi chỉ nói được cách mơ hồ. Tuy nhiên, nếu ai muốn biết cảm nghĩ của tôi và của anh em chúng tôi về diều đó thì chúng tôi đều đồng tâm nhất trí về diều này, để nói rằng cha thật tuyệt vời. Ai đã biết cha nhờ sống với cha thì chẳng hồ nghi về điều ấy.

Lòng bác ái của cha đối với người nghèo, ngườibệnh, dù là người trong nhà hay người ngoài cũng được cha đối xử như nhau. Đối với kẻ này cha như là người cha, với kẻ khác cha như là người mẹ. Bằng chứng là, trong khi cha bệnh, cũng có một người phục vụ trong nhà cùng nằm bệnh với cha, đã được-cha săn sóc còn hơn là săn sóc cho chính cha, vì cha không chịu để cho anh ta thiếu thốn gì. Cha hạ mình làm những công việc thấp hèn nhất, những việc càng khó thì cha càng tin tưởng vào Chúa. Cha theo ý Chúa coi như ý mình, dù bất cứ sự gì xảy đến. Tính dịu dàng của cha trong khi chuyện trò và sự hiện diện của Chúa, là hai yếu tố làm nên đức tính trên.

Đức trong sạch của cha lại không thể nào không bằng các đức tính khác. Tôi không thấy người nào thận trọng hơn cha trong việc gìn giữ giác quan nhất là sự nhìn xem; đối với các cuộc thăm viếng của phụ nữ, cha tiếp đãi họ chỉ vì lòng bác ái.

Trong khi trò chuyện với người Hồi giáo, cha tìm cách cho họ biết bao nhiêu có thể về hai mầu nhiệm chính của đức Tin chúng ta, đó là Thiền Chúa ba ngôi và Ngôi Lời nhập thể. Trong các lời chào hỏi của người Hồi giáo, họ thường nói Kristus nigah darad. (Thiên Chúa gìn giữ anh chị), nhưng cha lại chào họ Hhazaret eissé hay Christus nigah darad (Đức Giêsu Kitô gìn giữ anh chị) để họ hiểu rằng Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa .

Dù định viết vắn tắt, tôi cũng không được phép không nói gì về lòng sùng kính của cha đối với phép Thánh Thể, với Đức Thánh Trinh nữ, các Thiên thần và một số vị Thánh, cách riêng các Thánh trong Dòng chúng ta, nhất là các đấng tử đạo mà cha biết mặt và cha còn ghi nhớ như mới tinh. Khi nhớ tới các vị tử đạo trên dây, trong lòng cha pha lẫn một nỗi ưu phiền thánh thiện, vì đã không có được giờ phút giống như các ngài, đổ máu mình ra hay phải uống nước hoặc bị treo trên hố ở Nhật Bản như nhiều bạn bè của cha, mà cha còn mang di tích thánh của các ngài trên mình cách rất tôn kính và ước mong được kết thúc đời sống bằng cuộc tử đạo nếu Chúa ban ơn này cho cha mà cha hằng khẩn thiết cầu xin. Vì tôn kính các đấng tử đạo, cha còn lưu ý đến việc hằng ngày trong bữa ăn đọc truyện vài vị tử đạo, hoặc anh em trong Dòng qua đời nhờ tin tức do các anh em gửi đến.

Lòng sùng kính của cha đối với Đức Mẹ Thiên Chúa được nhận thấy mỗi khi cha nói với người tín hữu hay người Lương dân. Để tỏ lòng tôn kính Đức Mẹ Thiên Chúa, hằng ngày cha còn lần hạt ngoài các việc sùng kính khác.

Đàng khác, ngay từ khi còn nhỏ tuổi cha đã khấn hứa cách riêng giữ đức khiết tịnh, cho nên cha không thể chịu đựng được khi người đời nói chuyện với cha hay trước mặt cha mà nói tục. Những khi ấy cha cảnh cáo họ cách nhẹ nhàng dể họ đừng nói như thế nữa, và thường là có hiệu quả. Cha cũng hành xử như vậy đối với những ai vì bất cẩn hay vì lý do nào khác mà buông lời gièm pha hay làm hại danh giá người thân cận.

Tôi chắc chắn rằng những ai trong anh em chúng tôi đã được cha cùng sống và cùng làm việc lâu dài, có thể còn nói nhiều chi tiết đặc biệt hơn về điều sau đây trong bản tường thuật này; đó lại chính là điểm cuối cùng cuộc đời cha, tỏ ra đâu là mấu chốt của mọi thứ dệt nên đời cha. Chưa bao giờ người ta thấy một tu sĩ giống như cây gậy của ông già như thấy cha trong toàn cơn bệnh; cha nhẫn nhục, nhạy cảm hơn cả cây gậy, vì cha sẵn sàng ở tư thế như người ta muốn, đến mức như cha còn có ý chí hơn cả cây gậy, chẳng tỏ ra một dấu hiệu nào là đau đớn, cũng chẳng tỏ ra khó chịu khi phải dùng thuốc hay đồ ăn người ta trao cho. về điều này chúng tôi phải ngưỡng mộ cha trong bữa ăn cuối cùng, khoảng ba hoặc 4 giờ trước khi cha trút linh hồn, vì cha tỏ ra vâng phục y tá của cha cách lạ lùng . Dù khi đó giác quan củacha bị suy nhược, song cha chẳng quên chút nào việc làm phép và tạ ơn, hơn nữa còn làm dấu Thánh giá theo thói quen của cha trên ly thuốc người ta trao cho cha uống.

Liền sau đó là cơn hấp hối nhẹ nhàng, rồi cha tắt thở.

Đó là cái chết mà trước mặt Chúa còn cao quý hơn việc chúng tôi xúc động vì mất cha. Nếu chúng tôi thường coi sự ra đi của cha là mất mát, thì công phúc của cha làm cho chúng tôi, đúng hơn phải coi đó là lợi ích. Chúng tôi hy vọng nói như thế mới phải, dù cha không còn hiện diện để gầy dựng xứ truyền giáo này; chúng tôi vẫn tin một cách đạo đức như là cha đang còn ở đây, nơi cha đã làm được nhiều việc, và cha còn hiện diện hơn nữa tại chính nơi chúng tôi đang ở.

Vì nhiều lý do, chúng tôi không an táng cha trong nhà chúng tôi, nhưng trong nghĩa trang chung cho các Kitô hữu, khu vực dành cho những người Công giáo. Thứ nhất, chúng tôi chỉ có một nhà nguyện ở tầng hai nên chẳng thể an táng cha ở đó, ngoài ra cũng chẳng còn nơi nào trong nhà chúng tôi ở dành cho việc này được. Thứ hai, chúng tôi cũng chẳng dám chắc mình ở nhà này lâu, vì có điều khá chắc, như chúng tôi phỏng đoán theo lờiThủ tướng Etemad Dautet đã có lần nói với tôi là, người ta sẽ di đời tất cả các Tu sĩ ra ngoại thành ; đó cũng là nơi người ta sẽ đưa mọi Kitô hữu xứ này ra ở đó, kể cả giáo dân người Pháp. Thứ ba, chính cha cũng tỏ ra thích nếu được an táng nơi đó hơn là trong nhà chúng ta.

Có lẽ vì lý do thứ hai trên đây mà chúng tôi cử hành tang lễ cha vào ngày hôm sau. Tất cả Tu sĩ các Dòng có thể tham dự lễ an táng được, đều có mặt, gồm các Tu sĩ Augutinh, Cát Minh, Capuxinô, cùng giáo dân Pháp, Bồ Đào Nha, Anh, Hà Lan và mấy người Arméniens. Chưa bao giờ thấy tại đây một đoàn người như thế dự lễ an táng. Họ tiễn biệt cha tới nghĩa trang xa nhà chúng tôi khoảng một dặm rưỡi. Cha Tu viện trưởng Dòng Augutinh, Đại diện Tông Toà, cử hành nghi lễ(Le RP Prieur des Augustins,Vicaire Aptq [Apostolique] fit l’office); rồi 7 ngày sau cha còn cử hành Lễ hát trọng thể trong nhà nguyện chúng tôi, cũng có mặt Tu sĩ các Dòng trên đây.

Phần đông người Arméniens đều cảm thấy vui mừng và vinh dự vì đã an táng cha gần với các ngôi mộ của thân nhân họ, bởi vi họ nghĩ rằng cha là đấng thánh và có lẽ (họ nói thế) còn là thánh duy nhất nằm tại đó. Đàng khác, cũng là ngôi mộ duy nhất của các Tu sĩ Pháp, vì Tu sĩ các Dòng khác qua đời tại đây, đã được an tángtrong nhà thờ của họ. Từ ngày an táng cha, nhiều Kitô hữu của chính xứ này, các linh mục và Giám mục đã đến cầu nguyện bên phần mộ cha, xin cha bầu cử cùng Chúa cho mình. Họ cũng đã nói với tôi và khuyên tôi sau một năm thử mở mộ cha xem thế nào, vì nghĩ rằng xác cha sẽ còn nguyên vẹn không bị hư nát.

Sinh thời ít khi ra ngoài mà cha không mang trong mình cuốn Tin Mừng bằng tiếng Ba Tư để sử dụng khi có dịp; đến lúc chết cha lại mang cách vẻ vang từ nội thành ra ngoại thành, điều mà chưa ai làm bao giờ. Quan tài cha được phủ bằng tấm nhung đen trên có hình Thánh giá bằng nhung trắng nhìn thấy khá rõ. Làm như thế rất xứng đáng với đời sống của cha. Vậy là ngay cả khi chết, cha còn rao giảng Thánh giá như thế cho những người Lương dân này.

Nếu tiếng dân là tiếng Chúa, người ta không còn hồ nghi cha không phải là một vĩ nhân (nếu không nói là ông thánh). Cảm nghĩ đó vì công trạng của cha, là cảm nghĩ chung của cả những người ở nước Ý và Pháp, khi cha đi qua đấy để tới đây [Rhodes ở Ý và Pháp từ 1649-1654]; ngay những người láng giềng với chúng tôi, dù là Hồi giáo cũng tỏ ra có cùng cảm nghĩ ấy.

Về phần chúng tôi còn ở lại đây, chúng tôi có thể nói chắc rằng: chiếc cột nâng đỡ nhà chúng tôi đã dổ, ngọn đuốc soi sáng cho chúng tôi đã tắt, người khởi sự và phát triển công việc truyền giáo xứ này được an táng như vậy sẽ là viên đá tảng cho chúng tôi, người trung gian của chúng tôi đã rời bỏ chức vụ ở đời này để thihành việc đó trên trời bằng cách bầu cử cho biết bao xứ truyền giáo đã coi cha như người cha, cách riêng xứ truyền giáo này tự coi mình như con út của cha, nên đã làm những bổn phận bình thường cuối cùng đối với cha.

Xin cha đáng kính hãy dâng niệm kỳ kinh (suffrages) cho cha theo thói quen, hy vọng nhờ cha trợ giúp một ngày kia chúng ta sẽ được dự phần triều thiên với cha, dù chúng ta chẳng có công trạng xứng đáng và còn thuộc hạng rất thấp. Cũng vì mục đích ấy, chúng tôi và riêng tôi còn khẩn nài cha và tất cả anh em chúng ta [Giêsu hữu] ở bên ấy [Tỉnh Dòng Tên Paris] cầu nguyện cho cha trong các Thánh Lễ.

Tại Ispahan ngày 11 tháng mười một năm 1660

Người tôi tớ rất hèn mọn và người con vâng phục của cha đáng kính trong Chúa chúng ta.

 

(dongten.net) 24/10/2013

 


Mục Lục Thoáng Suy Tư