ĐỨC GIOAN 23 VÀ GIOAN PHAOLÔ 2 – HAI VỊ THÁNH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA.

Có lẽ tất cả chúng ta đang trông chờ một biến cố trọng đại của Giáo hội Công giáo, là ngày tuyên phong hiển thánh của hai vị Đại Giáo Hoàng sống đồng thời với chúng ta: Đức Gioan 23 và Gioan Phaolô 2. Thánh lễ phong thánh sẽ diễn ra vào ngày 27/04/2014, tính theo lịch Hội thánh Công giáo nhằm ngày Chúa Nhật Kính Lòng Chúa Thương Xót do chính Đức Gioan Phaolô 2 thiết lập. Ngoài ra, phải kể đến lý do khác cũng liên quan đến vị Giáo Hoàng này, đó là việc ngài mất vào đúng vọng ngày Kính Lòng Chúa Thương Xót năm 2005. Theo Đức Thánh Cha Phanxicô, như thế đủ lý do để chọn ngày đặc biệt này để tổ chức một biến cố quan trọng, đánh dấu các nhân đức anh hùng của vị Tông Đồ Lòng Chúa Thương Xót. Nói như thế, không có nghĩa việc Đức Gioan 23 cũng được tuyên phong trong ngày này chỉ là “ăn theo”. Thật vậy, việc quyết định tuyên phong hai vị cùng một ngày, được Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích: Đức Gioan 23 là vị có công triệu tập Công Đồng Vatican 2, còn Đức Gioan Phaolô 2 lại là người áp dụng và quảng diễn, hơn thế nữa, chính ngài đã đi bước trước trong việc thực hành những hướng dẫn của Công Đồng trong đời sống mình. Nhưng đây không phải là điểm chung duy nhất mà chúng ta có thể nhận ra nơi hai vị Giáo hoàng. Thật vậy, cách nào đó khi chọn ngày này, Đức Thánh Cha đương kim muốn công bố với thế giới hai mẫu gương như hai chứng nhân của Lòng Thương Xót Chúa.

ĐỨC GIOAN 23

Các tín hữu thời bấy giờ đặt cho ngài một danh hiệu rất thân thương: Đức Giáo Hoàng Gioan nhân hậu. Điều này không chỉ giúp chúng ta phân biệt ngài với 22 vị Giáo Hoàng Gioan trước đó mà còn nhằm nêu bật nét đặc sắc của vị Giáo hoàng thứ 261 kế vị Thánh Phêrô cai quản Hội thánh Công giáo. Thật vậy, ngài nhân hậu trong cách tiếp xúc thân tình với mọi người. Ngài sống giản dị trong sinh hoạt hằng ngày và đơn sơ như con trẻ trước mặt Chúa. Thật vậy, ngài vẫn thường nhất quyết với lập trường: “Luôn luôn và với hết mọi cố gắng, tôi sống đơn sơ”, và “Càng thêm tuổi đời, càng thêm kinh nghiệm thì tôi càng nhận thấy rằng, con đường an toàn nhất để tôi nên thánh là cố gắng canh phòng để đơn giản tất cả, sao cho được thật sự đơn sơ tối đa và thật bình thản” (trích Nhật ký tâm hồn). Và mọi sự đều đơn giản với ngài như nhận định của Đức Phanxicô khi gọi ngài là “vị Giáo Hoàng miền quê”. Chắc hẳn, lòng nhân hậu hay thương xót của vị Giáo Hoàng miền quê đối với mọi người, phần nào diễn tả thái độ nội tâm của ngài trước Vị Thiên Chúa giàu lòng nhân hậu và hay thương xót.

Thật vậy, tư chất này một lần nữa đã được Cha Juan Arias diễn tả trong tác phẩm Thiên Chúa mà tôi không tin.

Hồi ấy, ngài đang làm Giáo chủ Venise. Ngài được báo cáo về tình trạng của một vị linh mục mà ngài coi sóc có đời sống trụy lạc gây gương mù gương xấu cho mọi người. Ông này thường lui tới một nơi không mấy xứng đáng với hàng Giáo sĩ. Một hôm, ngài quyết định đến tận nơi ông thường lui tới. Ông tái mặt đi khi giáp mặt ngài. Nhưng ông càng ngạc nhiên vì không thấy phản ứng tiêu cực nào nơi vị Giáo chủ. Ngài cầm lấy tay ông và một cách nhẹ nhàng xin ông tháp tùng ngài về Tòa Thượng Phụ. Vào tới văn phòng, ngài quỳ xuống trước mặt vị linh mục và nói: “Xin cha vui lòng cho con xưng tội”. Vị linh mục hết sức ngạc nhiên và ngỡ ngàng trước sự khiêm tốn của vị Giáo Chủ. Ông xúc động và xấu hổ, muốn khước từ lời thỉnh cầu này nhưng cuối cùng, cũng đồng ý nghe vị Giáo chủ thú tội. Sau khi đã nhận phép lành của bí tích giao hòa, vị Giáo chủ ôm hôn ông và nói: “Cha mong muốn con nên nghĩ đến hồng ân kỳ diệu Chúa ban cho con là được tha tội cho người ta, kể cả Đức Giáo Chủ của con. Ước gì ơn huệ này cổ võ con hết sức tránh xa tội lỗi trong đời sống con…”.

Qua một ví dụ điển hình kể trên đây chúng ta thấy được đức khiêm tốn và lòng nhân hậu hay thương xót của Đức giáo hoàng Gioan 23. Lòng bao dung ấy không dừng lại ở cảm xúc nhất thời nông nổi mà đối xử với vị linh mục như một người cha từ tâm. Nếu Đức Giáo Chủ tức giận và trục xuất vị linh mục bất xứng – điều này nằm trong quyền hạn của ngài, thì ngài đã nhẫn tâm dập tắt tim đèn đang le lói. Hay nếu ngài thiếu bình tĩnh mà thốt ra những lời thóa mạ thì chắc hẳn vị linh mục ấy có trở về thì cũng khó có thể tiếp tục sống đúng trách nhiệm vì những mặc cảm và những tổn thương. Trái lại, với tất cả sự nhẫn nại và từ tâm của một người cha, ngài đã thu phục nhân tâm để ông quay về mà không bị mặc cảm với những quá khứ lỗi lầm. Nếu như Người Cha nhân hậu không chờ nghe một lời tạ tội của con mình thì ở đây, vị Giáo chủ lại trông chờ một lời xá giải từ tội nhân. Qua nghĩa cử đó, chúng ta nhận ra rõ ràng rằng ngài rất ý thức tình trạng yếu đuối, mỏng giòn của bản thân mà không dám lên án người khác. Việc thú tội của ngài không phải là một hình thức qua loa nhưng phát xuất từ một trái tim chân thành trước Chúa. Có lẽ, chính khi ngài dám thú tội với vị linh mục ấy lại là cách giúp tội nhân can đảm đối diện với thực tại bản thân. Ở đây, chúng ta cảm nhận một phép lạ đến từ bí tích của Lòng Thương Xót Chúa. Qua bí tích này, ngài đã giới thiệu cho các tội nhân và giúp họ cảm nhận một Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót. Tắt một lời, ngài xứng đáng mệnh danh là vị thánh, tông đồ của Lòng Thương Xót Chúa.

Thiết tưởng cũng cần nhắc lại giáo huấn của Đức Phanxicô khi bàn đến vấn đề này: “Chúng ta phải đồng hành với lòng thương xót và kiên nhẫn…tòa giải tội không phải là phòng tra tấn nhưng là nơi dành cho lòng thương xót của Chúa là điều khích lệ chúng ta làm điều lành càng nhiều càng tốt” (Evangelii Gaudium số 44). Những lời này đã được Đức Gioan 23 thực hiện cách đây hơn 50 năm nhưng nó vẫn còn mang tính thời sự trong một xã hội mất dần cảm thức tội lỗi như ngày nay.

ĐỨC GIOAN PHAOLÔ 2

Ngoài những lý do đã nêu trước đây, chúng ta sẽ có khá nhiều giai thoại nói về Đức Gioan Phaolô II trong hơn 27 năm triều đại Giáo Hoàng của ngài; tuy nhiên trong bài viết ngắn này, chúng ta chỉ chọn những giai thoại và sự kiện liên quan đến Lòng Thương Xót.

Trước tiên, chúng ta phải kể đến thông điệp thứ 2 trong triều đại Giáo Hoàng của ngài, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Có thể nói, thông điệp là bức tranh tổng thể diễn tả hình ảnh về Vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Thông điệp đã tạo một tiếng vang lớn trong một thế giới loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống mình và giới thiệu một Thần dược chữa lành căn bệnh mất dần cảm thức tội lỗi nơi con người thời đại, là Lòng thương xót. Ngoài ra, từ thông điệp này, chúng ta có thể cảm nhận về trực giác của một vị chủ chăn liên quan đến Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót và sẵn sàng tha thứ cho các tội nhân.

Điều này được diễn tả từ sự kiện vị đại diện thánh Phêrô bị ám sát vào năm 1981 trong một chuyến hành hương Mẹ Fatima tại Bồ Đào Nha. Sau khi bình phục, điều đầu tiên là ngài muốn đến thăm Ali Agca – người đã ám sát ngài và đã nói với anh rằng ngài đã tha thứ cho anh trong giây phút đầu tiên gặp gỡ. Có thể nói, đây là cách diễn tả công khai về cảm nghiệm của một người được Chúa tha thứ và khát mong cũng được nói lời tha thứ người khác.

Ngoài ra, với ý thức bản thân đầy yếu đuối và tội lỗi, cũng như nhận ra những lỗi lầm trong quá khứ của Giáo hội, nên vào năm thánh 2000, ngài đã thay mặt Giáo hội để nói lời xin lỗi cộng đồng nhân loại về những cuộc Thập Tự Chinh, Tòa Án xử dị giáo, sự phân biệt đối xử dành cho phụ nữ và các nhóm sắc tộc. Cũng trong tinh thần khiêm tốn và phó thác ấy, vào tháng tám năm 2002, tại Lagiewniki, nơi Chị Faustina đã sống và qua đời, Đức Gioan Phaolô 2 phó thác cả thế giới cho Lòng Thương Xót Chúa, tin tưởng vào lòng bao dung không bờ bến của Thiên Chúa. "Thế giới ngày nay cần thật nhiều Lòng Thương Xót của Thiên Chúa! Nơi đâu có ghen ghét và hận thù, có chiến tranh và đau khổ gây nên chết chóc cho người vô tội, nơi đó cần Lòng Thương Xót của Chúa để bình tâm đón nhận hòa bình. Nơi nào không có sự tôn trọng phẩm giá con người, nơi đó cũng cần Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, để mang ánh sáng và phẩm giá cao quý cho con người. Bởi vì điều này, và ở nơi tôn nghiêm này, tôi muốn trân trọng dâng hiến cả thế giới cho Lòng Thương Xót Chúa".

Có thể nói, ý thức dâng hiến cả thế giới cho lòng thương xót Chúa, nơi vị giáo hoàng người Balan đã cắm rễ sâu trong bí tích giao hòa, bí tích của lòng thương xót. Thật vậy, có giai thoại kể rằng:

Scott Hahn, học giả vĩ đại về Kinh Thánh và là một mục sư Tin Lành đã cải đạo theo Công Giáo. Trong khi đi tiếp kiến Đức Giáo Hoàng, ông đi dọc theo các giáo xứ ở Roma, ông thấy một người hành khất với vẻ mặt quen thuộc, hỏi ra mới biết người này chính là bạn của ông từ thời chủng viện và được thụ phong linh mục cùng ngày với mình. Sau một hồi trao đổi, ông được biết người này đã mất niềm tin và ơn gọi của mình ra sao. Khi chia tay, người hành khất xin ông và Giáo Hoàng cầu nguyện cho mình.

Sau đó, linh mục đi gặp vị Giáo Hoàng với một thổn thức sâu sắc không thể giấu được. Ông bộc lộ hết sự kiện liên quan đến người bạn hành khất cho ngài nghe. Nghe xong, Đức Gioan Phaolô 2 cho ông một cuộc hẹn ngày mai cùng người bạn ấy đến gặp ngài.

 Vị linh mục trở lại giáo xứ này và nói cho người bạn của mình về mong muốn của Đức Giáo Hoàng. Ban đầu, ông từ chối thẳng mặt và coi đó như một điều không tưởng. Nhưng sau khi được thuyết phục, người hành khất theo linh mục về nơi lưu trú để thay quần áo và một cơ hội thanh tẩy đang đến.

Hai người đã có mặt để sẵn sàng dùng bữa với Đức Thánh Cha, sau khi ăn xong, ngài nói với linh mục ấy hãy ra ngoài để hai người có chuyện riêng. Ngài nói người hành khất hãy lắng nghe ngài xưng tội. Nhưng người đàn ông này ngạc nhiên và trả lời rằng con không còn là một linh mục nữa, con chỉ là tên ăn mày trên đường hành hương. Đức Giáo Hoàng đã trả lời, "Tất cả chúng ta đều là những kẻ ăn mày lòng thương xót của Thiên Chúa. Người hành khất nói tiếp, "nhưng con không còn quyền nào trên sứ vụ mục tử nữa". Đức Giáo Hoàng nói, "Cha là Giám Mục Rôma, Cha có thể giải quyết điều đó".

Thế rồi, người đàn ông lắng nghe lời xưng tội của Đức Giáo Hoàng nhưng lời xá giải vị linh mục này bỏ lâu quá không còn nhớ. Một lần nữa, ngài lại nhắc công thức cho vị linh mục này để ngài nhận phép lành của bí tích. Chứng kiến và cảm nghiệm lòng khiêm tốn của vị mục tử đứng đầu Giáo hội, ông cũng quỳ xuống xin ngài giải tội cho ông sau bao ngày khước từ tình Chúa và ông đã khóc lóc thảm thiết trong vòng tay của ngài. Sau một hồi lắng đọng, ngài ra lệnh truyền cho ông hãy quay về nơi ông hành khất mà mục vụ cho họ. Thế là lòng thương xót lại một lần nữa được lan tỏa và loan truyền đến những người bất hạnh.

Qua đó, chúng ta thấy được sự bao dung của vị mục tử, người đã hơn một lần cảm nghiệm tình yêu lòng thương xót và sự tha thứ đến từ Thiên Chúa. Cũng một thể thức như Đức Gioan 23, ngài thực sự là vị thánh vĩ đại, tông đồ của lòng thương xót Chúa.

*  *  *

Thiết tưởng, mỗi lần tham dự trực tiếp hay gián tiếp các Thánh Lễ tuyên phong các thánh là mỗi lần chúng ta xác tín lại lời tuyên xưng về một trong bốn đặc tính của Giáo hội là Thánh Thiện. Mà gương của hai vị thánh Giáo Hoàng cho chúng ta một kinh nghiệm: Thánh thiện trước tiên là ý thức bản thân như một tội nhân (thánh Gioan Thánh Giá). Thật vậy, chính khi ý thức mình là tội nhân, đó là bước đầu cho việc thay đổi và chấp nhận biến đổi bản thân nhờ lòng thương xót của Chúa. Điều này, cũng được chính ĐTC Phanxicô làm gương cho chúng ta khi bộc bạch: “Tôi là một kẻ tội lỗi mà Chúa đã đoái nhìn”, “Tôi là kẻ có tội, nhưng tôi tin tưởng vào lòng thương xót và nhẫn nại vô hạn của Thiên Chúa”. Đó là kinh nghiệm của những người đã cảm nghiệm, trải nghiệm, đồng thời, chứng nghiệm lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa. Để kết thúc xin gợi lại tâm tình của Đức Phanxicô, như một lời nhắn nhủ chân tình gởi đến những người thiện chí đang khao khát một cuộc biến đổi nội tâm: “Người luôn luôn nhìn chúng ta với lòng thương xót, Người chờ đợi chúng ta với lòng thương xót. Chúng ta đừng sợ đến gần Người! Người có một con tim thương xót! Nếu chúng ta cho Người thấy các vết thương nội tâm của chúng ta, tội lỗi của chúng ta, Người luôn luôn tha thứ cho chúng ta. Người là lòng thương xót tinh tuyền”.

An Mai Đỗ. O.Cist.

 

 

 


Mục Lục Thoáng Suy Tư