Những Văn Kiện Đời Tu (Tập 1) – Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội

(catechesis.net)

PHẦN I: CÔNG ĐỒNG VA-TI-CA-NÔ II

HIẾN CHẾ TÍN LÝ VỀ GIÁO HỘI

(Lumen gentium, 21-10-1964)

Sau khi đã trình bày mầu nhiệm và cơ chế phẩm trật của Giáo Hội trong bốn chương đầu, sang đến chương Năm, Công Đồng bàn đến ơn gọi nên thánh của hết mọi Ki-tô hữu. Tất cả các tín hữu đều được gọi nên thánh, mỗi người tuỳ theo địa vị, bậc sống của mình (số 41). Việc nên thánh bao hàm sự thực hành đức ái, và cách riêng là thi hành các lời khuyên Phúc Âm dưới một hình thức nào đó (số 42).

Chính trong bối cảnh đó mà Công Đồng bàn về các tu sĩ trong chương Sáu. Các tu sĩ không thuộc về cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội song gắn liền với sự thánh hiến của Giáo Hội.

Tuy tựa đề của chương Sáu là Các tu sĩ” (De Religiosis), nhưng cần phải hiểu danh từ này theo một nghĩa thần học hơn là pháp lý, bao gồm tất cả những ai tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm với lời khấn hay dây ràng buộc thánh khác” (per vota aut alia sacra ligamina: số 44). Bố cục của chương Sáu như sau:

– Số 43. Hàng ngũ những người tuyên giữ ba lời khuyên Phúc Âm trong Giáo Hội.

– Số 44. Bản chất thần học của đời tu trì: dâng mình cho Thiên Chúa để phụng sự Người và đồng thời phục vụ sứ mạng của Giáo Hội. Vai trò dấu chỉ và chứng tá” của đời tu trong Giáo Hội: họ nhắc nhở chiều kích cánh chung, họ làm sống lại lối sống tại thế của Đức Ki-tô, họ nêu cao giá trị siêu việt của Nước Thiên Chúa, họ bày tỏ quyền năng của Thánh Thần tác động trong Giáo Hội.

– Số 45. Mối liên hệ giữa hàng giáo phẩm và hàng ngũ tu trì. Giáo Hội nhìn nhận và phê chuẩn các bản Lề Luật của các Dòng. Giáo Hội đứng ra nhận lời khấn của các tu sĩ và dâng hiến họ cho Thiên Chúa.

– Số 46. Giá trị cao quý của bậc tu trì. Họ kéo dài sự hiện diện của Đức Ki-tô giữa lòng nhân loại ; họ thăng tiến các giá trị nhân bản và góp tay vào việc kiến thiết một xã hội nhân đạo hơn.

– Số 47. Khuyến khích các tu sĩ hãy bền đỗ trong ơn gọi.

Chương V:

Mọi người đều được ơn gọi nên thánh trong Giáo Hội

Số 39 đã giới thiệu chủ đề đời tu rồi. Ở phần cuối lại nêu lên con đường ưu việt để tiến đến sự thánh thiện Ki-tô giáo, đó là thực hành “các lời khuyên Phúc Âm”, “với tư cách cá nhân hoặc trong những lối sống hay bậc sống đã được Giáo Hội công nhận”. Số 42 trình bày chi tiết cái nhìn trên, bằng cách lần lượt làm nổi bật “những đường lối hoặc phương thế” đặc biệt để hướng tới sự thánh thiện: chứng tá tử đạo, trinh khiết hoặc độc thân tự nguyện hoặc “tuân phục người khác vì Thiên Chúa”, “các lời khuyên” được nhìn từ bên trong cũng như bên ngoài của bậc sống chính thức được công nhận.

(Sự thánh thiện của Giáo Hội. Các phần tử của Giáo Hội đều được mời gọi nên thánh).

Chúng tôi tin Giáo Hội, một mầu nhiệm được Thánh Công Đồng trình bày, là thánh thiện cách bất khả khuyết. Thực vậy, Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, được ca tụng là Đấng thánh duy nhất” (11), đã yêu thương Giáo Hội như hiền thê mình và đã hiến thân để thánh hoá Giáo Hội (x. Ep 5,25-26). Người kết hợp với Giáo Hội như thân thể Người và ban cho dư đầy ơn Thánh Thần để làm vinh danh Thiên Chúa. Vì thế, tất cả mọi người trong Giáo Hội – hoặc thuộc hàng giáo phẩm hoặc được hàng giáo phẩm dìu dắt – đều được kêu gọi nên thánh, như lời thánh Tông Đồ dạy: Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh” (1 Tx 4,3 ; x. Ep 1,4). Sự thánh thiện này của Giáo Hội luôn được biểu lộ và phải được biểu lộ qua những hoa trái ân sủng mà Thánh Thần đã kết sinh nơi các tín hữu. Sự thánh thiện ấy được diễn tả dưới nhiều hình thức nơi tất cả những ai đang cố đạt tới đức ái trọn hảo trong bậc sống của mình trong khi xây dựng kẻ khác. Đặc biệt hơn, sự thánh thiện đó tỏ lộ trong việc thực hành các lời khuyên, quen gọi là lời khuyên Phúc Âm. Nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy, nhiều Ki-tô hữu thực hành các lời khuyên ấy với tư cách cá nhân hoặc trong những lối sống hay bậc sống đã được Giáo Hội công nhận ; việc thực hành đó mang lại và phải mang lại cho thế giới bằng chứng và một mẫu gương rạng ngời về sự thánh thiện của Giáo Hội.

(Mọi người được kêu gọi nên thánh).

(Nhiều hình thức thực hành sự thánh thiện duy nhất: giáo sĩ, hôn nhân, những người chịu vất vả và khổ đau).

(Đường lối và phương tiện nên thánh: chứng tá tử đạo, trinh khiết, các lời khuyên).

(a. Lòng mến, hồng ân Thiên Chúa ban, cần được tăng trưởng). Thiên Chúa là tình yêu, ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa sống trong người ấy” (1 Ga 4,16). Thiên Chúa đã đổ tràn đức ái Người trong tâm hồn chúng ta, nhờ Chúa Thánh Thần Người đã ban cho chúng ta (x. Rm 5,5) ; cho nên ơn huệ thứ nhất và cần thiết nhất là đức ái. Đức ái làm cho chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân vì Người. Nhưng để đức ái, tựa hạt giống tốt, lớn lên trong tâm hồn và sinh hoa trái, mỗi tín hữu phải sẵn lòng lắng nghe lời Chúa và, với ơn Người, thực hành thánh ý Người ; phải năng lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, năng tham dự các nghi lễ phụng vụ, chuyên cần luyện tập các nhân đức. Thực vậy, đức ái là mối dây liên kết của sự trọn lành, là sự viên mãn của lề luật (x. Cl 3,14 ; Rm 13,10), nên đức ái chi phối mọi phương tiện nên thánh, làm cho chúng hình thành và đạt được cùng đích (12). Vì thế, đức ái đối với Thiên Chúa và tha nhân là dấu chỉ người môn đệ chân chính của Chúa Ki-tô.

(b. Chứng tá tử đạo). Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, đã tỏ tình yêu của Người bằng cách hy sinh mạng sống vì chúng ta, nên không ai có tình yêu nào cao cả hơn người hy sinh mạng sống vì Chúa và vì anh em (x. 1 Ga 3,16 ; Ga 15,13). Một số Ki-tô hữu ngay từ thời sơ khai đã được gọi và sẽ còn được gọi mãi để làm chứng tình yêu ấy cách hùng hồn trước mặt mọi người, nhất là trước mặt những kẻ bách hại mình. Qua việc tử đạo, người môn đệ đồng hoá với Thầy mình, Đấng đã tình nguyện chấp nhận cái chết để cứu độ thế giới và người môn đệ nên giống Người trong việc đổ máu; Giáo Hội coi việc tử đạo đó như một ân huệ lớn lao và một bằng chứng cao cả về đức ái. Mặc dầu chỉ một số ít được phúc tử đạo, nhưng tất cả mọi người phải sẵn sàng tuyên xưng Chúa Ki-tô trước mặt mọi người và bước theo Người trên con đường thập giá giữa những cuộc bách hại không hề thiếu vắng trong Giáo Hội.

(c. Trinh khiết). Sự thánh thiện của Giáo Hội cũng được đặc biệt khích lệ bởi nhiều lời khuyên Chúa đã đề ra trong Phúc Âm cho môn đệ noi theo (13). Trong những lời khuyên ấy, nổi bật (eminet) ân huệ cao quý được Chúa Cha ban cho một số người (x. Mt 19,11 ; 1 Cr 7,7) để họ hiến trọn tình yêu không chia sẻ cho một mình Chúa cách dễ dàng hơn, trong bậc đồng trinh hay độc thân (x. 1 Cr 7,32-34) (14). Sự tiết dục hoàn toàn vì Nước Trời luôn được Giáo Hội đặc biệt quý trọng và coi như dấu chỉ và động lực của đức ái, và như nguồn mạch đặc biệt sinh nhiều ơn ích thiêng liêng trong thế giới.

(d. Thanh bần và tuân phục tự nguyện). Giáo Hội cũng nhớ lời khuyên nhủ của thánh Tông Đồ thúc giục các tín hữu sống bác ái và khuyên họ phải có tâm tình như Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã tự huỷ mình, nhận lấy thân phận tôi tớ…, và vâng lời cho đến chết” (Pl 2,7-8), và vì chúng ta, Người đã trở nên nghèo nàn, tuy Người vốn giàu sang” (2 Cr 8,9). Việc noi theo và làm chứng đức ái cùng sự khiêm nhượng của Chúa Ki-tô cần được các môn đệ thực hiện không ngừng. Thế nên Giáo Hội Mẹ vui mừng khi thấy trong lòng mình có nhiều con cái nam nữ muốn theo sát gương Đấng Cứu Thế và biểu lộ rõ ràng hơn sự tự huỷ của Người khi họ biết chấp nhận nghèo khó trong sự tự do của con cái Thiên Chúa và từ bỏ ý riêng: vì Chúa, họ tự nguyện phục tùng một con người, hơn cả mức đòi buộc của giới luật, trong những gì liên hệ tới sự trọn lành hầu nên giống Chúa Ki-tô vâng lời cách hoàn toàn hơn (15).

(đ. Đòi hỏi của Tin Mừng đối với mọi người). Vì thế, mọi Ki-tô hữu đều được kêu mời và có bổn phận nên thánh và nên trọn lành theo bậc sống mình. Bởi vậy, tất cả hãy lưu ý điều khiển tâm tình mình cho đúng đắn đừng để việc sử dụng của cải trần gian và lòng quyền luyến sự giàu sang nghịch với tinh thần khó nghèo của Phúc Âm cản trở họ theo đuổi đức ái trọn hảo, vì thánh Tông Đồ đã cảnh giác: ai sử dụng thế gian này, xin chớ dừng lại đó, vì cục diện đời này sẽ qua đi (x. 1 Cr 7,31 ; bản Hy-lạp) (16).

Chương VI: Các tu sĩ (số 43-47)

(Việc tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm trong một bậc sống được Giáo Hội nhìn nhận)

(a. Một đoàn sủng được định chế hoá). Những lời khuyên Phúc Âm về đức khiết tịnh tận hiến cho Thiên Chúa, về đức nghèo khó và vâng lời, đều đặt nền tảng trên lời nói cùng gương lành của Chúa, đã được các Tông Đồ và các giáo phụ, các tiến sĩ và các chủ chăn Giáo Hội khuyên giữ. Các lời khuyên ấy là ân huệ thần linh mà Giáo Hội đã nhận lãnh bởi Chúa mình và trung thành gìn giữ nhờ ơn Người. Theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, hướng dẫn cách thực hành, cùng thiết lập những lối sống cố định dựa trên những lời khuyên ấy. Do đó, tựa như một cây đâm chồi nảy lộc um tùm và kỳ diệu từ hạt giống Chúa gieo vãi trong cánh đồng của Người, thì cũng có nhiều lối sống khác nhau, đơn độc hay cộng đồng, và dòng tu khác nhau mà phần sản nghiệp dồi dào đem lại lợi ích cho các chi thể của Dòng cũng như cho toàn Thân Thể Chúa Ki-tô (1). Thực vậy, các Dòng ấy mang lại cho các chi thể những trợ lực bền bỉ trong một đời sống vững vàng hơn, một học thuyết vững chắc giúp đạt đến trọn lành, một mối hiệp thông huynh đệ trong đạo binh Chúa Ki-tô và một sự tự do được đức vâng lời củng cố ; thế nên, họ có thể an tâm chu toàn và trung thành gìn giữ lời khấn cùng hoan hỷ tiến bước trên đường đức ái (2).

(b. Đoàn sủng mở cho cả giáo sĩ lẫn giáo dân). Xét theo thể chế của Giáo Hội do Chúa thiết lập và có phẩm trật, bậc sống tu trì không ở giữa bậc giáo sĩ và giáo dân ; thực vậy, Thiên Chúa kêu gọi một số tín hữu ở cả hai bậc giáo sĩ và giáo dân đến hưởng lấy ân huệ đặc biệt trong đời sống Giáo Hội, và mỗi người một cách góp phần vào sứ mệnh cứu độ của Giáo Hội (3).

(Bản tính và tầm quan trọng của bậc tu trì)

(a. Bản chất thần học: tận hiến cho Thiên Chúa, được Thiên Chúa thánh hiến). Người tín hữu tự buộc mình tuân giữ ba lời khuyên Phúc Âm qua lời khấn hay qua những ràng buộc thánh khác tương tự như lời khấn dòng ; như thế là họ hiến thân hoàn toàn (mancipatur) cho Thiên Chúa chí ái để phụng sự và làm vinh danh Người với một danh hiệu mới mẻ và đặc biệt. Nhờ phép Rửa Tội, họ đã chết cho tội lỗi và được cung hiến (sacratus) cho Thiên Chúa. Nhưng để có thể thâu lượm dồi dào ơn ích của bí tích ấy, người Ki-tô hữu muốn nhờ việc tuyên giữ ba lời khuyên Phúc Âm trong Giáo Hội, thoát ly khỏi những ngăn trở có thể trì hoãn nhiệt tâm đức ái và tôn thờ Thiên Chúa cách hoàn hảo và họ tận hiến (consecratur) để phụng sự Thiên Chúa cách thân tình hơn (4). Việc cung hiến đó càng trở nên hoàn hảo hơn khi việc Chúa Ki-tô hiệp nhất với Giáo Hội, hiền thê của Người, bằng mối dây bất khả phân ly, càng được phản ánh trong những mối dây ràng buộc chắc chắn và vững bền hơn.

(b. Dâng hiến cho Giáo Hội và cho sứ mạng của Giáo Hội). Bởi vì những lời khuyên Phúc Âm đưa đến đức ái (5), và nhờ đức ái, chúng kết hợp các tu sĩ cách đặc biệt với Giáo Hội và với mầu nhiệm Giáo Hội, thế nên đời sống thiêng liêng của họ cũng phải mưu cầu lợi ích cho toàn thể Giáo Hội. Do đó, mỗi người tuỳ sức và ơn gọi của mình, bằng kinh nguyện hay bằng hành động tích cực, có bổn phận làm cho Nước Chúa Ki-tô ăn rễ sâu và bành trướng trên khắp vũ trụ. Cũng vì lý do ấy Giáo Hội duy trì và nâng đỡ đặc tính riêng biệt của các tu hội.

(c. Giá trị tứ diện của dấu chỉ và chứng tá). Việc khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm thực là một dấu chỉ có thể và phải lôi cuốn hữu hiệu tất cả mọi chi thể của Giáo Hội đến việc can đảm chu toàn ơn gọi làm Ki-tô hữu. Thực vậy, Dân Thiên Chúa không đặt thành trì vĩnh viễn ở đời này nhưng đi tìm một thành trì mai sau, nên bậc tu trì giải thoát người tu sĩ bớt đi những lo lắng trần tục, tỏ lộ cách hoàn hảo hơn cho mọi tín hữu thấy của cải trên trời đã có ngay dưới trần gian này, và làm chứng rằng ơn cứu chuộc của Chúa Ki-tô đã đem lại một đời sống mới và vĩnh cửu, đồng thời tiên báo sự phục sinh tương lai và vinh quang của Nước Trời. Hơn nữa, bậc sống tu trì bắt chước cách chính xác hơn và thực hiện liên tục trong Giáo Hội nếp sống Con Thiên Chúa đã nhận khi Người xuống thể để thi hành thánh ý Chúa Cha và cũng là nếp sống Người đã đề ra cho các môn đệ theo Người. Sau cùng bậc sống ấy đặc biệt cho ta thấy Nước Thiên Chúa vượt trên mọi sự trần thế và những đòi hỏi của nước ấy cao cả biết bao ; nó cũng cho mọi người thấy quyền lực cao trọng tuyệt vời của Chúa Ki-tô Vua và quyền năng vô cùng của Chúa Thánh Thần đang hoạt động cách kỳ diệu trong Giáo Hội.

(d. Nhu cầu sống còn đối với Giáo Hội). Vì thế, bậc sống được thiết lập do việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm tuy không liên quan đến cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội, nhưng dĩ nhiên gắn chặt với đời sống và sự thánh thiện của Giáo Hội.

(Tương quan giữa giáo phẩm và bậc tu trì).

(a. Thực hành các lời khuyên. Tu luật. Các Hội Dòng). Vì trong Giáo Hội, giáo phẩm có nhiệm vụ chăn dắt và dẫn đưa Dân Thiên Chúa đến những đồng cỏ phì nhiêu (x. Ed 34,14), nên có nhiệm vụ dùng các luật lệ mà hướng dẫn cách khôn ngoan việc thực hành những lời khuyên Phúc Âm, vì đó là phương thế đặc biệt để cổ võ đức ái trọn hảo đối với Thiên Chúa và tha nhân (6). Ngoan ngoãn vâng theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, giáo phẩm đón nhận những luật dòng do những nam nữ sáng lập viên lỗi lạc đề nghị và chính thức phê chuẩn sau khi tu chính. Rồi với quyền hành của mình, giáo phẩm luôn có mặt để săn sóc và bảo trợ những dòng tu được thiết lập khắp nơi nhằm xây dựng Nhiệm Thể Chúa Ki-tô để các dòng tu ấy phát triển và sinh hoa kết quả theo tinh thần các đấng sáng lập.

(b. Sự miễn trừ. Sự tuân phục của các tu sĩ đối với các giám mục). Đàng khác, để đáp ứng cách hữu hiệu hơn nhu cầu của toàn thể đoàn chiên Chúa. Đức giáo hoàng, vì có quyền tối thượng trong toàn thế Giáo Hội và để phục vụ lợi ích chung, có thể tách bất kỳ dòng tu hay tu sĩ nào khỏi quyền tài thẩm của các đấng bản quyền và chỉ đặt dưới quyền duy nhất của người (7). Cũng thế, có thể có những dòng tu và những tu sĩ được để lại hoặc giao phó cho thẩm quyền riêng của các thượng phụ. Khi chu toàn phận vụ đối với Giáo Hội qua cách sống đặc biệt của mình, các tu sĩ phải kính trọng và vâng lời các Giám mục theo giáo luật vì phải tôn trọng quyền mục vụ của các ngài trong Giáo Hội địa phương và vì cần phải có sự đồng tâm nhất trí trong việc tông đồ (8).

(c. Giáo Hội can thiệp qua phụng vụ). Giáo Hội không chỉ phê chuẩn việc khấn dòng để đưa đời tu lên địa vị bậc sống theo giáo luật, nhưng qua việc cử hành phụng vụ, Giáo Hội còn trình bày việc khấn dòng ấy như một bậc sống tận hiến cho Thiên Chúa. Với quyền hành Chúa ban, chính Giáo Hội nhận lời tuyên khấn của các tu sĩ ; qua lời kinh công cộng, Giáo Hội xin Chúa ban ân sủng và trợ giúp họ, phó thác họ cho Thiên Chúa, chúc lành thiêng liêng cho họ và kết hợp sự dâng hiến của họ vào hy lễ tạ ơn.

(Cần phải trân trọng việc tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm).

(a. Các tu sĩ nối dài mầu nhiệm Chúa Ki-tô). Các tu sĩ phải đem hết tâm lực làm cho Giáo Hội, qua con người của họ, thực sự biểu dương Chúa Ki-tô ngày một hoàn hảo hơn cho các tín hữu cũng như các lương dân: biểu dương Chúa Ki-tô đang cầu nguyện trên núi, hoặc đang loan báo Nước Thiên Chúa cho dân chúng, hoặc chữa lành những kẻ đau yếu tàn tật, hay hoán cải các tội nhân trở lại đời sống phong phú, hoặc đang chúc phúc cho trẻ em, ban ơn lành cho mọi người, và trong mọi sự luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Người đến (9).

(b. Phục vụ con người và thế giới). Sau cùng, mọi tu sĩ nên biết rằng việc khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, tuy bao gồm việc khước từ những của cải mà dĩ nhiên phải được quý trọng, nhưng sẽ không làm ngăn trở việc phát triển đích thực nhân vị, trái lại do bản chất của nó còn có lợi cho con người. Thực vậy, các lời khuyên Phúc Âm, đã được các tu sĩ tình nguyện chấp nhận theo ơn gọi riêng của mình, góp phần không ít vào việc thanh luyện tâm hồn và phát huy tự do thiêng liêng, và không ngừng khích lệ sống bác ái nhiệt thành, nhất là có sức làm cho người Ki-tô hữu ngày càng nên giống đời sống trinh khiết và khó nghèo mà Chúa Ki-tô đã chọn và Đức Trinh Nữ Mẹ Người đã sống, như gương lành của bao đấng sáng lập dòng chứng tỏ. Không ai được nghĩ rằng, vì tận hiến như thế, các tu sĩ trở nên xa lạ với mọi người và vô dụng đối với xã hội trần thế. Vì dù đôi khi không trực tiếp phụ giúp người đồng thời với mình nhưng tu sĩ lại hiện diện cùng họ cách sâu xa hơn trong lòng Chúa Ki-tô và cộng tác một cách thiêng liêng với họ, để việc xây dựng xã hội trần thế luôn đặt nền móng nơi Chúa và luôn hướng về Người, ngõ hầu những người xây dựng xã hội trần thế sẽ không luống công (10).

(c. Khen ngợi các tu sĩ về công lao đóng góp tốt đẹp). Vì thế, Thánh Công Đồng công nhận và khen ngợi nam nữ tu sĩ sống trong tu viện, trường học, bệnh viện hoặc trong các xứ truyền giáo, đang trang điểm Hiền Thê Chúa Ki-tô bằng tấm lòng khiêm tốn và kiên trung trong sự tận hiến và quảng đại phục vụ mọi người dưới muôn vàn hình thức.

(Khuyên nhủ kiên trì)

Mỗi người đã được gọi tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm, hãy chuyên tâm sống bền đỗ trong ơn thiên triệu Chúa đã gọi mình và hãy mãi mãi tiến bộ, để Giáo Hội được thánh thiện hơn và Thiên Chúa Ba Ngôi duy nhất và bất phân được vinh hiển hơn ; trong và nhờ Đức Ki-tô, Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch và nguyên uỷ cho mọi sự thánh thiện.

(11) Sách Lễ Rô-ma, Kinh Vinh Danh, x. Lc 1,35 ; Mc 1,24 ; Lc 4,34 ; Ga 6,69 ; Cv 3,14 ; 4,27.30 ; Hr 7,26 ; 1 Ga 2,20 ; Kh 3,7.

(12) Xem thánh Âu-tinh, Enchir. 121,32: PL 40,288. – Th. Tô-ma, Summa Theol. II-II, q.184 a.1. – Pi-ô XII, Huấn từ Menti nostrae, 23-9-1950.

(13) Về các lời khuyên nói chung, xem Ô-ri-giê-nê, Comm.Rom. x.14: PG 14,1275B. – Thánh Âu-tinh, De S. Virginitate, 15,15: PL 40,403. – Thánh Tô-ma, Summa Theol., I-II, q.100, a.2,c đoạn cuối ; II-II, q.44, a.4,3.

(14) Về sự cao vời của đức khiết tịnh thánh hiến, xem Tê-tu-li-a-nô, Exhort. Cast. 10: PL 2,925c. – Thánh Sýp-ri-a-nô. Hab.Virg. 3 và 22: PL 4,443. 13 và 461 St. – Thánh A-ta-na-xi-ô (?), De Virg.: PG 28,252tt. – Thánh Gio-an Kim Khẩu, De Virg.: PG 48,533 tt.

(15) Về sự khó nghèo, x. Mt 5,3 và 19,21 ; Mc 10,21 ; Lc 18,22 ; gương vâng phục của Chúa Ki-tô trong Ga 4,34 và 6,38 ; Pl 2,8-10 ; Dt 10,5-7. Các Giáo Phụ và các vị sáng lập Dòng thường đề cập rất nhiều đến các nhân đức này.

(16) Về việc thực hành công hiệu những lời khuyên mà không bắt buộc tất cả mọi người, xem thánh Gio-an Kim Khẩu, In Mt, bài giảng 7,7: PG 57,8tt – Thánh Am-rô-xi-ô, De Viduis, 4,23: PL 16,24tt.

(1) X. Rosweyđô, Vitae Patrum, Antwerpire, 1628. – Apophtegmata Patrum: PG 55. – Pallađiô, Hist. Lausiaca: PG 34, 995tt. – Đức Pi-ô VI, Tông hiến Imbratilem, 8-7-1924. – Đức Pi-ô XII, diễn vãn Nous sommes heureux, 11-4-1958.

(2) X. Đức Phao-lo VI, diễn văn Magno gaudio, 23-5-1964.

(3) X. GL đ. 487 và 488,4. – Đức Pi-ô XII, diễn văn Annus sacer, 8-12-1950. – Đức Pi-ô XII, Tông hiến Provida Mater, 2-2-1947.

(4) X. Đức Phao-lô VI, xem diễn từ nói ở chú thích (2).

(5) X. Th. Tô-ma, Summa Theol., II-II q.184, a.3 và q.188, a.2. – Th. Bonaventura, Opusc. XI. Apologia Pauperum, ch. 3,3.

(6) X. Vaticanô I, lược đồ De Ecclesia Christi, ch. XV và chú giải 48: Mansi 51, 549 tt và 619 tt. – Đức Lê-ô XIII, thư Au milieu des consolations, 23-12-1990. – Đức Pi-ô XII, Tông hiến Provida Mater như trên.

(7) X. Đức Lê-ô XIII, Hiến chế Romanos Pontifices, 8-5-1881. – Đức Pi-ô XII, diễn văn Annus sacer, 8-12-1950.

(8) X. Đức Pi-ô XII, như trên ; Đức Pi-ô XII, Tông hiến Sedes Sapientiae, 31-4-1956. – Đức Phao-lô VI, diễn văn Magno gaudio, 3-5-1964.

(9) X. Đức Pi-ô XII, Thông điệp Mystici Corporis, 29-6-1943.

(10) X. Đức Pi-ô XII, diễn văn Annus sacer, như trên ; diễn văn Sous la maternelle protection, 9-12-1957.


Tu Đức